Top 10 Bài kể chuyện trong chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 hay nhất

10825

Kể chuyện góp phần rất lớn vào việc phát triển trí tuệ, tình cảm, đạo đức; hình thành phẩm chất, nhân cách cho thế hệ trẻ. Có thể nói, Kể chuyện là một phân môn...xem thêm ...

Top 0
(có 5 lượt vote)

Kể chuyện lớp 5 tuần 1: Lý Tự Trọng

1. Dựa theo lời kể của cô giáo (thầy giáo), em hãy thuyết minh cho nội dung mỗi tranh dưới đây bằng 1 hoặc 2 câu:
Trả lời:
Tham khảo cách thuyết minh dưới đây :
Tranh 1: Lý Tự Trọng là một thiếu niên rất sáng dạ. Anh được tổ chức cách mạng giác ngộ và gửi ra nước ngoài học tập.
Tranh 2: Về nước, anh được cấp trên giao nhiệm vụ chuyển nhận thư từ, tài liệu, trao đổi với các tổ chức Đảng bạn bè qua đường tàu biển.

Tranh 3: Lý Tự Trọng rất nhanh trí, gan dạ và bình tĩnh trong công việc. Nhiều lần, anh thoát khỏi sự vây bủa của lũ mật thám Pháp.
Tranh 4: Trong một buổi mít-tinh, anh đã bắn chết tên mật thám để cứu đồng đội nên bị giặc bắt.
Tranh 5: Trước toà án thực dân, anh vẫn hiên ngang khẳng định lí tưởng cách mạng của mình.
Tranh 6: Ra pháp trường, Lý Tự Trọng vẫn hát vang bài Quốc tế ca.


Kể lại toàn bộ câu chuyện.
Trả lời:
Tham khảo cách kể dưới đây:
Anh Lý Tự Trọng sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở Hà Tĩnh. Anh giác ngộ cách mạng rất sớm và được tổ chức đưa ra nước ngoài học tập. Vốn thông minh, anh học rất giỏi, nói thạo tiếng Trung Quốc và tiếng Anh.


Mùa thu năm 1929, Lý Tự Trọng về nước. Các đồng chí lãnh đạo giao cho anh nhiệm vụ liên lạc, chuyển nhận thư từ, tài liệu tới các tổ chức Đảng ở nước bạn qua đường tàu biển. Để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác, anh đã đóng vai người nhặt than ở bến cảng Sài Gòn.


Có lần, anh buộc chặt gói tài liệu giấu trong một chiếc màn đằng sau xe đạp rồi thong thả đạp xe trên đường. Bất ngờ, tên đội sếp Tây gọi lại đòi khám. Lý Tự Trọng xuống xe, vờ lúi húi cởi dây nhưng thực ra là buộc chặt hơn. Chờ lâu sốt ruột, tên đội Tây quăng xe bên vệ đường, tự tay mở bọc. Lý Tự Trọng liền nhảy lên xe đạp của hắn, phóng rất nhanh, mất hút. Lần khác, anh chuyển tài liệu từ tàu biển lên, bị bọn lính giữ lại định khám. Anh nhảy ùm xuống nước, lặn qua gầm tàu, trốn thoát.


Đầu năm 1931, một cán bộ ta đang tuyên truyền trước đông đảo công nhân và dân chúng trong một cuộc mít-tinh thì tên thanh tra mật thám Pháp tên là Lơ-grăng ập tới, định bắt. Lý Tự Trọng nhanh tay rút súng bắn chết hắn, cứu thoát đồng chí của mình. Riêng anh, vì chạy không kịp nên đã bị giặc bắt.


Trong tù, anh bị chúng tra tấn dã man, chết đi sống lại nhưng chúng không moi được từ anh bất cứ bí mật nào của phong trào cách mạng. Đám cai ngục người Việt khâm phục gọi anh là “ông Nhỏ”.


Chính quyền thực dân Pháp đưa Lý Tự Trọng ra xử trước toà. Anh không hề run sợ mà lớn tiếng vạch trần bản chất xâm lược của chúng và biến vành móng ngựa thành nơi tuyên truyền cách mạng. Luật sư bào chữa nói rằng vì anh còn nhỏ nên hành động thiếu suy nghĩ. Anh khẳng định là mọi việc của mình đều xuất phát từ suy nghĩ, cân nhắc chín chắn: ‘'Tôi chưa đến tuổi thành niên thật nhưng tôi đủ trí khôn để hiểu rằng thanh niên Việt Nam chỉ có một con đường duy nhất là làm cách mạng giải phóng dân tộc ra khỏi ách áp bức, nô lệ của thực dân, phong kiến. Không thể có con đường nào khác".


Bất chấp sự phản đối của dư luận và báo chí, thực dân Pháp đã xử bắn Lý Tự Trọng vào một ngày cuối năm 1931. Trước khi chết, người anh hùng thiếu niên ấy vẫn hát vang bài Quốc Tế Ca. Lý Tự Trọng ngã xuống vì quê hương, đất nước lúc anh mới 17 tuổi.


Trao đổi với các bạn về ý nghĩa của câu chuyện.
Trả lời:
a) Gợi ý trao đổi:
+ Vì sao những người coi ngục gọi anh Trọng là “Ông Nhỏ”?
(Vì họ khâm phục anh Trọng tuy tuổi nhỏ nhưng chí lớn, có khí phách bất khuất của một người anh hùng.)
+ Anh Trọng đã gạt phắt lời luật sư bào chữa nói rằng anh chưa đến tuổi thành niên. Bạn hãy nhắc tại lời nói của anh.
(''Tôi hành động có suy nghĩ. Mọi việc tôi làm đều có mục đích cách mạng. Tôi chưa đến tuổi thành niên thật, nhưng tôi đủ trí khôn để hiểu rằng thanh niên Việt Nam chỉ có một con đường duy nhất là làm cách mạng, không thể có con đường nào khác...”)
+ Vì sao thực dân Pháp bất chấp dư luận và luật pháp đã xử bắn Lý Tự Trọng dù anh chưa đến tuổi thành niên?
(Vì chúng sợ khí phách anh hùng của anh và muốn khủng bố tinh thần dân chúng.)
+ Câu chuyện giúp bạn hiểu điều gì?
(Người anh hùng nhỏ tuổi Lý Tự Trọng dám quên mình vì đồng đội.
Người thiếu niên anh hùng hiên ngang, bất khuất trước kẻ thù.
Là thanh niên, phải sống có lí tưởng vì dân, vì nước.
Làm người, phải biết yêu đất nước, dám hi sinh vì Tổ quốc.)


b) Ý nghĩa của câu chuyện:
Ca ngợi anh Lý Tự Trọng tuổi nhỏ mà chí lớn, yêu nước, có lí tưởng cách mạng cao đẹp, dũng cảm bảo vệ đồng đội, hiên ngang bất khuất trước kẻ thù.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 1
(có 3 lượt vote)

Kể chuyện lớp 5 tuần 4: Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai

Câu 1 trang 40 Tiếng Việt lớp 5 Tập 1

Dựa vào lời kể của cô giáo (thầy giáo) và lời thuyết minh cho mỗi hình ảnh dưới đây, hãy kể lại câu chuyện "Tiếng Vĩ cầm ở Mỹ Lai".

Trả lời:

Hình ảnh 1. Bên dòng sông Trà Khúc thuộc tỉnh Quảng Ngãi, Mai-cơ một cựu lính Mĩ  mang theo chiếc đàn vĩ cầm với mong muốn đánh một bản đàn cầu nguyện cho linh hồn của những người đã khuất ở Mỹ Lai - mảnh đất mà cách đây 30 năm đã chịu nỗi đau thảm sát, hủy diệt...


Hình ảnh 2. Mỹ Lai là một vùng quê thuộc huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Chỉ trong vòng bốn tiếng đồng hồ ngày 16 tháng 3 năm 1968, quân Mĩ đã hủy diệt hoàn toàn mảnh đất này: thiêu cháy nhà cửa, ruộng vườn; giết hại gia súc; bắn chết 504 người, phần lớn là cụ già, trẻ em và phụ nữ mang thai. Có gia đình mười một người bị lính Mĩ ập tới, xả súng đồng loạt. Có những em bé bị bắn chết khi miệng vẫn còn ngậm vú trên xác mẹ…


Hình ảnh 3. Trong cuộc thảm sát tàn khốc ấy, chỉ có một người may mắn sống sót nhờ ba viên phi công có lương tâm. Ba người đó là Tôm-xơ, Côn-tơn và An-đrê-ốt-ta. Sáng hôm đó, đang bay trên cánh đồng Mỹ Lai, ngồi trên máy bay nhìn xuống họ kinh hoàng thấy quân đội của họ đang dồn phụ nữ và trẻ em vào một con mương cạn rồi xả súng bắn. Tôm-xơ bèn ra lệnh hạ trực thăng xuống ngay trước mặt bạn lính, ra lệnh cho xạ thủ máy chĩa súng về phía chúng. Anh nói với chúng rằng, anh sẵn sàng cho nhả đạn nếu chúng tiếp tục tiến lên. Sau đó, anh đưa người dân về nơi an toàn.

Trên đường đi, anh còn cứu được một đứa bé vẫn còn sống trong đống xác chết nơi một con mương cạn.


Hình ảnh 4. Trong cuộc thảm sát đó, ngoài ba người lính Mĩ có lương tâm còn có anh lính da đen Hơ-bớt tự bắn vào chân mình để khỏi nhúng tay vào tội ác. Ngoài ra còn có Rô-man bền bỉ sưu tầm tài liệu, kiên quyết đưa vụ thảm sát dã man này ra ánh sáng. Những bức ảnh anh chụp và công bố là bằng chứng quan trọng buộc tội tòa án Mĩ phải đem vụ Mỹ Lai ra xét xử.


Hình ảnh 5. Mai-cơ đã thực hiện ý nguyện của mình. Tiếng đàn của anh vang lên ở Mỹ Lai nói lên lời giã từ quá khứ, ước vọng hòa bình và cầu nguyện cho linh hồn những người đã khuất.


Câu 2 trang 40 Tiếng Việt lớp 5 Tập 1

Trao đổi với các bạn trong lớp về ý nghĩa của câu chuyện.

Phương pháp giải

Em hãy thảo luận, trao đổi với bạn bè về ý nghĩa của câu chuyện: Hành động của những người lính Mĩ có lương tâm giúp bạn hiểu điều gì? Cho bạn suy nghĩ gì?

Trả lời:

Câu chuyện ca ngợi hành động dũng cảm của những người lính Mĩ có lương tâm đã ngăn chặn và tố cáo tội ác man rợ của quân đội Mĩ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Hoặc có thể trả lời

  • Tố cáo tội ác chiến tranh, ca ngợi hòa bình.
  • Ca ngợi những người Mỹ có lương tâm, dũng cảm đã ngăn chặn tội ác và tố cáo những việc làm phi nghĩa của quân đội Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
  • Câu chuyện đã kể về vùng đất Mỹ Lai (Quảng Ngãi) trong cuộc thảm sát tàn khóc của lính Mỹ trong 30 năm trước. Tiếng đàn của người lính Mỹ nói lên lời giã từ quá khứ, ước vọng hòa bình và cầu nguyện cho những linh hồn đã khuất.
Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 2
(có 1 lượt vote)

Kể chuyện lớp 5 tuần 7: Cây cỏ nước Nam

Câu 1 trang 68 Tiếng Việt lớp 5 Tập 1

Dựa vào lời kể của cô giáo (thầy giáo) và các tranh vẽ dưới đây kể từng đoạn câu chuyện.

Trả lời:

- Kể lại từng đoạn theo tranh ngắn gọn:

  • Tranh 1: Tuệ Tĩnh cùng học trò lên núi Nam Tào, Bắc Đẩu. Ông nói với học trò về điều ông đang suy nghĩ đã mấy chục năm qua, đó là giá trị to lớn của cây cỏ nước Nam.
  • Tranh 2: Tuệ Tĩnh kể lại việc vua Trần đã cho luyện tập võ nghệ, chuẩn bị vũ khí cùng đánh giặc Nguyên xâm lược.
  • Tranh 3: Nhà Nguyên cấm chở thuốc men, vật dụng xuống bán cho người Nam.
  • Tranh 4: Các thái y tỏa đi học cách chữa bệnh trong dân gian bằng cây cỏ bình thường.
  • Tranh 5: Cây cỏ nước Nam góp phần làm tăng sức khỏe cho các đạo binh trong cuộc chiến đấu chống giặc xâm lược.
  • Tranh 6: Các học trò của Tuệ Tĩnh một lòng theo thầy dùng thuốc Nam chữa bệnh cho người Nam.

- Kể lại từng đoạn theo tranh chi tiết:

  • Tranh 1: Tuệ Tĩnh có học vấn cao nhưng không ra làm quan. Một hôm, cùng với các học trò, ông đã đi núi Nam Tào, Bắc Đẩu. Dọc đường đi lên núi có những bụi sâm nam lá xòe như bàn tay, rồi có cả các loại như đinh lăng, cam thảo nam mọc rất nhiều. Dừng lại ở sườn núi, Tuệ Tĩnh nói với các học trò về điều nung nấu mấy chục năm nay: "Phải, ta muốn nói về ngọn cây và sợi cỏ mà hàng ngày các con vẫn giẫm lên…"
  • Tranh 2: Rồi ông từ tốn kể cho họ nghe về việc dã qua trong lịch sử nước nhà. Việc tập luyện dân binh được tăng cường. Lương thực và thuốc men cũng được phòng bị chu đáo.
  • Tranh 3: Nhưng ngặt nỗi, bấy lâu nhà Nguyên cấm chở vật dụng, thuốc men xuống bán cho người Nam. Vậy khi có người giáp trận bị thương thì lấy gì để chữa trị?
  • Tranh 4: Không chậm trễ, các thái y được cử tỏa đi mọi miền quê học cách chữa bệnh bằng cây cỏ bình thường. Vườn thuốc được lập ở khắp nơi. Núi Nam Tào, Bắc Đẩu chính là hai ngọn dược sơn của các vua Trần xưa.
  • Tranh 5: Các đạo binh của ta thêm hùng mạnh nhờ có cây cỏ nước Nam chữa bệnh. Nhờ đó mà sĩ khí tăng cao, càng thêm dũng mãnh chiến đấu chống giặc ngoại xâm.
  • Tranh 6: Tuệ Tĩnh nói chậm rãi cho học trò nghe về ý định nối gót người xưa: dùng thuốc Nam chữa cho người Nam. Tất cả các học trò của ông đều một lòng theo thầy học. Từ đó đến nay đã có hàng trăm vị thuốc được lấy từ cây cỏ nước Nam dùng để chữa bệnh cứu người rất hữu hiệu.

Câu 2 trang 68 Tiếng Việt lớp 5 Tập 1

Kể lại toàn bộ câu chuyện.

Trả lời:

Tuệ Tĩnh có học vấn cao nhưng không ra làm quan. Một hôm, cùng với các học trò, ông đã đi núi Nam Tào, Bắc Đẩu. Dọc đường đi lên núi có những bụi sâm nam lá xòe như bàn tay, rồi có cả các loại như đinh lăng, cam thảo nam mọc rất nhiều.

Dừng lại ở sườn núi, Tuệ Tĩnh nói với các học trò về điều nung nấu mấy chục năm nay:

- "Phải, ta muốn nói về ngọn cây và sợi cỏ mà hàng ngày các con vẫn giẫm lên…"

Rồi ông từ tốn kể cho họ nghe về việc dã qua trong lịch sử nước nhà. Việc tập luyện dân binh được tăng cường. Lương thực và thuốc men cũng được phòng bị chu đáo. Nhưng ngặt nỗi, bấy lâu nhà Nguyên cấm chở vật dụng, thuốc men xuống bán cho người Nam. Vậy khi có người giáp trận bị thương thì lấy gì để chữa trị? Không chậm trễ, các thái y được cử tỏa đi mọi miền quê học cách chữa bệnh bằng cây cỏ bình thường. Vườn thuốc được lập ở khắp nơi. Núi Nam Tào, Bắc Đẩu chính là hai ngọn dược sơn của các vua Trần xưa. Các đạo binh của ta thêm hùng mạnh nhờ có cây cỏ nước Nam chữa bệnh.

Kể xong, Tuệ Tĩnh nói chậm rãi cho học trò nghe về ý định nối gót người xưa: dùng thuốc Nam chữa cho người Nam. Tất cả các học trò của ông đều một lòng theo thầy học. Từ đó đến nay đã có hàng trăm vị thuốc được lấy từ cây cỏ nước Nam dùng để chữa bệnh cứu người rất hữu hiệu.


Câu 3 trang 68 Tiếng Việt lớp 5 Tập 1

Trao đổi với các bạn trong lớp về ý nghĩa câu chuyện.

Trả lời:

Đánh giá tài, đức to lớn của danh y Tuệ Tĩnh trong việc tìm ra những vị thuốc chữa bệnh hữu hiệu cho nhân dân từ cây cỏ nước Nam. Việc làm cao đẹp của Tuệ Tĩnh đã nhắc nhở chúng ta hãy yêu quỹ, bảo vệ thiên nhiên.

Nội dung câu chuyện Cây cỏ nước Nam

Các thầy cô dựa vào câu chuyện dưới đây, kể lại toàn bộ cho học sinh nghe để tìm ý, kể theo ý hiểu của mình.


CÂY CỎ NƯỚC NAM

Nguyễn Bá Tĩnh, tức Tuệ Tĩnh, là một danh y đời Trần. Một lần, ông dẫn các học trò đi ngược vùng Phả Lại để lên núi Nam Tào, Bắc Đẩu, hai ngọn núi cao uy nghi sừng sững đối mặt với một vùng sông nước hiểm trở. Dọc hai bên đường lên núi là những bụi sâm nam lá xòe như những bàn tay, những bụi cây đinh lăng lá xanh mướt, những bụi cam thảo nam leo vướng vít cả mặt đường.

Dừng chân bên sườn núi, ông trầm ngâm nói với học trò:

- Ta đưa các con đến đây để nói cho các con biết rõ điều mà ta suy nghĩ nung nấu từ mấy chục năm nay.

Vài học trò xì xào:

- Chắc hẳn là điều gì cao siêu lắm nên thầy mới phải nung nấu lâu như thế. Nguyễn Bá Tĩnh lắc đầu:

- Điều ta sắp nói với các con không cao như núi Thái Sơn, cũng chẳng xa như biển Bắc Hải mà ở gần trong tầm tay, ở ngay dưới chân các con đó.

Tất cả học trò đều im lặng, duy có người trưởng tràng kính cẩn hỏi:

- Thưa thầy, điều thầy định nói với chúng con có phải là cây cỏ dưới chân…

- Phải, ta muốn nói về ngọn cây và sợi cỏ mà hằng ngày các con vẫn giẫm lên… Chúng chính là một đội quân hùng mạnh góp vào với các đạo hùng binh của các bậc thánh nhân như Hưng Đạo Vương đánh tan giặc Nguyên xâm lược.

Rồi ông từ tốn kể:

- Ngày ấy, giặc nguyên nhòm ngó nước ta. Vua quan nhà Trần lo việc phòng giữ bờ cõi rất cẩn thận. Bên cạnh việc luyện tập dân bình, triều đình còn cắt cử người đôn đốc rèn vũ khí, chuẩn bị voi ngựa, lương thực, thuốc men,…

Song, từ lâu nhà Nguyên đã cấm chở thuốc men, vật dụng xuống bán cho người Nam. Khi giáp trận tất có người bị thương và đau ốm lấy gì cứu chữa? Không chậm trễ, các thái y đã tỏa đi khắp mọi miền quê học cách chữa bệnh của dân gian bằng cây cỏ bình thường.Từ đó, vườn thuốc được lập ở khắp nơi. Núi Nam Tào và Bắc Đẩu chính là hai ngọn dược sơn của các vua Trần xưa. Cây cỏ nước Nam đã góp phần làm cho những đạo binh thêm hùng hậu, bền bỉ, khỏe mạnh, can trường trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù mạnh hơn mình hàng chục lần, đông hơn mình hàng trăm lần…

Kể đến đây, Nguyễn Bá Tĩnh chậm rãi nói thêm:

- Ta càng nghĩ càng thêm quý từng ngọn cây, từng sợi cỏ của non sông gấm vóc tổ tiên để lại. Ta định nối gót người xưa để từ nay về sau dân ta có thể dùng thuốc nam chữa cho người Nam. Ta nói để các con biết ý nguyện của ta.

Theo con đường của danh y Tuệ Tĩnh, cho đến bây giờ, hàng trăm vị thuốc đã được lấy từ cây cỏ nước Nam, hàng nghìn phương thuốc đã được tổng hợp từ phương thuốc dân gian để trị bệnh cứu người.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 3
(có 1 lượt vote)

Kể chuyện lớp 5 tuần 11: Người đi săn và con nai

Câu 1 trang 107 Tiếng Việt lớp 5 Tập 1

Dựa vào lời kể của thầy giáo (cô giáo), kể lại từng đoạn theo tranh minh họa và lời gợi ý dưới mỗi tranh.

Trả lời:

- Tranh 1: Từ chập tối người đi săn đã chuẩn bị đồ nghề để vào rừng săn nai.

- Tranh 2: Người đi săn bước xuống con suối:

  1. Đi đâu tối thế?
  2. Đi săn nai.
  3. Con nai hay đến soi gương xuống mặt suối. Đừng bắn con nai.

- Tranh 3: Người đi săn tiếp tục đi, tới gốc cây trám. Cây trám hỏi:

  • Đến chơi với tôi à?
  • Không phải.
  • Thế đi đâu?
  • Đi săn nai.
  • Ác quá, cút đi!

- Tranh 4: Người đi săn tiếp tục đi, thế rồi trên lưng đồi sẫm đen, dưới ánh trăng, bóng nai hiện ra. Con nai đẹp quá, người đi săn quên mất thịt nai ngon, chỉ còn nhớ lời suối, lời cây: Muông thú và cỏ cây trong rừng là bạn ta, sao ta lại thèm ăn thịt bạn.


Câu 2 trang 107 Tiếng Việt lớp 5 Tập 1

Hãy đoán xem câu chuyện kết thúc như thế nào. Kể tiếp câu chuyện theo phỏng đoán của em.

Trả lời:

Kết thúc câu chuyện, con nai sẽ không bị giết:

- Khi người đi săn nhìn thấy con nai trong sáng, tinh khôi dưới ánh trăng, anh ta say mê nhìn ngắm con nai tới ngẩn ngơ. Bỗng con nai biến mất, người đi săn chẳng kịp trở tay.

- Người đi săn quyết định dừng cuộc đi săn và xuống núi. Ánh trăng cùng cây cối, muông thú trong rừng như đang reo vui. Đêm ấy trong giấc ngủ dường như người đi săn đã gặp con nai xinh đẹp trong giấc mơ.


Câu 3 trang 107 Tiếng Việt lớp 5 Tập 1

Kể lại toàn bộ câu chuyện Người đi săn và con nai.

Trả lời:

Từ chập tối, người đi săn đã lôi cái súng kíp trên gác bếp xuống, xếp đạn vào chiếc túi vải chàm, rồi đeo cái đèn ló trước trán, vào rừng. Mùi trám chín, chắc nai về nhiều rồi, đi săn thôi!

Người đi săn bước đến con suối.

Suối róc rách hỏi:

- Đi đâu tối thế?

- Đi săn con nai.

Suối bảo:

- Con nai hay đến soi gương xuống mặt suối. Đừng bắn con nai!

Người đi săn lùi lũi bước đi.

Tới gốc cây trám, anh ngồi xuống, hạ chiếc đèn ló. Cây trám hỏi:

- Đến chơi với tôi à?

- Không phải.

- Thế đi đâu? Ở đây vắng quá! Chẳng có ai đến chơi. Đến mùa quả mới được nhìn thấy con nai về. Sắp đến lúc nai về đây!

- Tớ chỉ đợi lúc ấy. Cho nó một phát!

- Sao?

- Cái đèn ló này... để rọi cho nai chói mắt, không biết đường chạy, cái súng này... để bắn.

- Ác thế!

- Thịt nai ngon lắm.

Cây trám rưng rưng:

- Thế thì cút đi!

Người đi săn không để ý đến những tiếng rì rào tức tười trên cây trám. Anh đợi.

Thế rồi, trên lưng đồi sẩm đen dưới ánh trăng, bóng con nai hiện rõ dần. Ánh đèn ló trên trán người đi săn vụt rực lên. Hai con mắt nai đỏ như hổ phách bối rối trong làn sáng đèn. Con nai ngây ra đẹp quá. Người đi săn quên mất thịt nai ngon. Người đi săn quên hai tay dã giơ súng. Người đi săn lại nhớ ra lời suối, lời đồi, lời cây: Muông thú và cây cỏ trong rừng là bạn ta, sao ta lại thèm ăn thịt bạn!

Con nai lặng im, trắng muốt trong ánh sáng.

Người đi săn mải ngắm con nai, mồ hôi đẫm trên trán. Cái dây da tụt xuống, ánh đèn ló lệch vào bóng tôi, mất bóng con nai. Con nai chạy biến. Người đi săn luống cuống giơ tay đẩy chiếc dây da lên. Nhưng trong làn sáng đèn không thấy con nai đâu.

Người đi săn ngơ ngẩn xuống đồi.

Vầng trăng đã nhìn thấy tất cả, mỉm cười.

- Ngủ ngon được đấy! Chúc ngủ ngon!

Lát sau, người đi săn đã ngồi trước bếp lửa. Khẩu súng, bao đạn lại treo lên hốc cột gác bếp. Đêm ấy, trong giấc ngủ dịu dịu, anh chiêm bao thấy con nai. Chưa bao giờ anh thây một con nai đáng yêu đến thế!

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 4
(có 1 lượt vote)

Kể chuyện lớp 5 tuần 14: Pa-xtơ và em bé

Câu 1 trang 138 Tiếng Việt lớp 5 Tập 1

Dựa vào lời kể của cô giáo (thầy giáo) và các tranh minh họa, kể lại từng đoạn câu chuyện.

Trả lời:

Tranh 1: Chú bé Giô-dép bị chó dại cắn được đưa từ cùng quê xa xôi đến Pa-ri nhờ Lu-i Pa-xtơ cứu chữa. Nhìn vẻ đau đớn của em bé và đôi mắt đỏ đọc của người mẹ, lòng Pa-xtơ se lại.

Tranh 2: Đêm đã khuya, Pa-xtơ vẫn ngồi trước bàn làm việc, nét mặt đầy ưu tư. Vắc xin chữa bệnh dại ông chế ra có tác dụng ở loài vật, nhưng ông chưa thử nghiệm lên người bao giờ. Ông muốn cứu cậu bé nhưng còn lo lắng.

Tranh 3: Ngày hôm sau Pa-xtơ quyết định tiêm vắc-xin cho cậu bé, đây là loại vắc-xin có độc tính cao. Ông hồi hộp theo dõi.

Tranh 4: Pa-xtơ tiêm mũi tiêm cuối cùng. Ông lo lắng vô cùng, phải mất bảy ngày chờ đợi.

Tranh 5: Qua ngày thứ bảy, em bé đã khỏe mạnh, bình yên.

Tranh 6: Sau thành công vang dội ấy, rất nhiều bệnh nhân nhờ ông cứu chữa. Phòng thí nghiệm của ông trở thành viện Pa-xtơ – viện chống bệnh dại đầu tiên trên thế giới.


Câu 2 trang 138 Tiếng Việt lớp 5 Tập 1

Kể lại toàn bộ câu chuyện.

Trả lời:

  1. Ngày 6-7-1885 chú bé Giô-dép chín tuổi bị chó dại cắn đã hai ngày. Mẹ của Giô-dép đã đưa cậu từ vùng quê xa xôi lên thủ đô Pa-ri nhờ Pa-xtơ cứu chữa. Cậu bé bị mười bốn vết cắn ở tay vì che mặt khi chó xông đến. Tính mạng của cậu chỉ được tính bằng từng ngày. Nhìn vẻ mặt đau đớn của cậu bé và nỗi lòng của người mẹ, Pa- xtơ vô cùng đau khố khi nghĩ đến một ngày kia cậu bé phát bệnh rồi đau đớn ra đi...
  2. Đêm đã khuya, vậy mà Pa-xtơ không tài nào chợp mắt được. Vắc-xin chữa bệnh dại ông đả tìm ra nhưng chỉ mới thí nghiệm có kết quả trên loài vật. Còn trên cơ thể người thì chưa. Ông rất muốn cứu cho cậu bé nhưng không thể lấy em làm vật thí nghiệm. Bởi, nếu có tai biên gì thì sao?
  3. Sáng hôm sau, ông thảo luận với đồng nghiệp và quyết định tiêm cho Giô-dép, hi vọng có thể cứu được em. Và thế rồi, ngay chiều hôm ấy 7-7-1885, ông đã tiêm vắc-xin cho Giô-dép. Những ngày sau, ông tiếp tục tiêm vắc-xin có độc tố tăng dần. Chín ngày trôi qua, đối với ông dằng dặc như chín tháng. Phát tiêm thứ mười với thứ vắc-xin có độc tính rất cao. Đây là phát tiêm quyết định tính mạng của Giô-dép. Bởi vậy mà suốt cả đêm Pa-xtơ đã thức trắng. Sáng ra, ông quyết định tiêm phát thứ mười.
  4. Sau khi tiêm xong, Pa-xtơ tự tay dắt Giô-dép lên giường, an ủi em. Thêm bảy ngày nữa chờ đợi làm cho Pa-xtơ tóc càng bạc trắng hơn. Dù chân trái bị bại liệt, Pa-xtơ vẫn thường xuyên chống gậy đến thăm Giô-dép.
  5. Qua được ngày thứ bảy, cậu bé vần mạnh khỏe, bình yên. Lúc này, ông mới thở phào nhẹ nhõm. Như vậy ông đã thành công trong việc chữa bệnh dại.
  6. Sau thành công vang dội ấy, người ta liên tiếp gửi đến phòng thí nghiệm của ông những người bị chó dại cắn. Phòng thí nghiệm của ông trở thành Viện Pa-xtơ - viện chống dại đầu tiên trên thế giới.

Câu 3 trang 138 Tiếng Việt lớp 5 Tập 1

Trao đổi với các bạn về ý nghĩa của câu chuyện.

Trả lời:

Câu chuyện muốn ca ngợi tài năng và tấm lòng nhân hậu, yêu thương con người hết mực của bác sĩ Pa-xtơ. Tài năng và tấm lòng nhân hậu đã giúp ông cống hiến cho loài người một phát minh khoa học lớn lao.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 5
(có 0 lượt vote)

Kể chuyện lớp 5 tuần 19: Chiếc đồng hồ

Câu 1

Dựa theo lời kể của cô giáo (thầy giáo) và các tranh vẽ dưới đây, hãy kể lại từng đoạn câu chuyện.

Phương pháp giải:

- Quan sát tranh thật kĩ để tìm hiểu xem trong tranh có sự xuất hiện của những nhân vật nào? Họ đang làm gì?

- Từ đó suy ra nội dung của bức tranh ứng với phần nào trong câu chuyện và kể lại.

Lời giải chi tiết:

- Tranh 1: Được tin Trung ương rút bớt một số người đi học lớp tiếp quản Thủ đô, các cán bộ danh dự hội nghị bàn tán sôi nổi. Ai nấy đều háo hức muốn đi.

- Tranh 2: Giữa lúc đó, Bác Hồ đến thăm hội nghị. Các đại biểu ùa ra đón Bác.

- Tranh 3: Khi nói đến nhiệm vụ của toàn Đảng trong lúc này, Bác bỗng rút trong túi áo ra một chiếc đồng hồ quả quýt. Bác mượn câu chuyện về chiếc đồng hồ để đả thông tư tưởng cán bộ một cách hóm hỉnh.

- Tranh 4: Câu chuyện về chiếc đồng hồ của Bác khiến cho ai nấy đều thấm thía.


Câu 2

Kể lại toàn bộ câu chuyện.

Phương pháp giải:

Con dựa vào phần tóm tắt tranh ở câu 1 để kể lại truyện.

Lời giải chi tiết:

       Năm 1954, các cán bộ đang dự hội nghị tổng kết ở Bắc Giang thì có lệnh Trung ương rút bớt một số người đi học lớp tiếp quản Thủ đô. Ai nấy đều háo hức muốn đi. Nhất là những người quê Hà Nội. Bao năm xa nhà, nhớ Thủ đô, nay được dịp trở về công tác, anh em bàn tán sôi nổi. Nhiều người đề nghị cấp trên chiếu cố nỗi niềm riêng đó và cho được toại nguyện. Tư tưởng cán bộ dự hội nghị có chiều phân tán...

      Giữa lúc đó, Bác Hồ đến thăm hội nghị. Bác bước lên diễn đàn, mồ hôi ướt đẫm hai bên vai áo nâu... Khi tiếng vỗ tay đã ngớt, Bác hiền từ nhìn khắp hội trường và nói chuyện về tình hình thời sự. Nói đến nhiệm vụ của toàn Đảng trong lúc này, Bác bỗng rút trong túi ra một chiếc đồng hồ quả quýt và hỏi:

-  Các cô chú có trông thấy cái gì đây không?

Mọi người đồng thanh:

-  Cái đồng hồ ạ.

-  Thế trên mặt đồng hồ có những chữ gì?

-  Có những con số ạ.

-  Cái kim ngắn, kim dài để làm gì?

-  Để chỉ giờ chỉ phút ạ.

-  Cái máy bên trong dùng để làm gi?

-  Để điều khiển cái kim chạy ạ.

Bác mỉm cười, hỏi tiếp:

-  Thế trong cái đồng hồ, bộ phận nào là quan trọng?

Mọi người còn đang suy nghĩ thì Bác lại hỏi:

-  Trong cái đồng hồ, bỏ đi một bộ phận có được không?

-  Thưa không được ạ.

Nghe mọi người trả lời, Bác bèn giơ chiếc đồng hồ lên cao và kết luận:

-  Các bộ phận của một chiếc đồng hồ cũng ví như các cơ quan của một Nhà Nước, như các nhiệm vụ cách mạng. Đã là nhiệm vụ của cách mạng thì đều là quan trọng, đều cần phải làm. Các cô chú thử nghĩ xem: trong một chiếc đồng hồ mà anh kim đòi làm anh chữ số, anh máy lại đòi ra ngoài làm cái mặt đồng hồ... cứ tranh nhau chỗ đứng như thế thì còn là cái đồng hồ được không?

           Chỉ trong ít phút ngắn ngủi, câu chuyện Chiếc đồng hồ của Bác đã khiến cho ai nấy đều thấm thía, tự đánh tan được những thắc mắc riêng tư.

(Theo sách Bác Hồ kính yêu)


Câu 3

Câu chuyện khuyên ta điều gì ?

Phương pháp giải:

Con chú ý đọc kĩ lại lời Bác Hồ kết luận cuối câu chuyện.

Lời giải chi tiết:

Mỗi công việc đều quan trọng và đáng quý, cần làm việc theo đúng phân công, không nên so bì hoặc ích kỉ chỉ nghĩ đến việc riêng của mình.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 6
(có 0 lượt vote)

Kể chuyện lớp 5 tuần 22: Ông Nguyễn Khoa Đăng

Câu 1

Dựa theo lời kể của cô giáo (thầy giáo) và các tranh vẽ dưới đây, kể lại từng đoạn câu chuyện.

Phương pháp giải:

Con quát sát kĩ cac bức tranh, dựa vào dòng chữ gợi ý để đoán nội dung chính rồi kể lại.

Lời giải chi tiết:

- Tranh số 1: Anh hàng dầu mất tiền. Bởi vì trước đó có người mù cứ lảng vảng hàng của anh đuổi thế nào cũng không đi nên anh đâm ra nghi ngờ. Tìm người mù đòi tiền. Nhưng người mù lại nhất mực từ chối.

- Tranh số 2: Quan sai người đem một chậu nước, rồi đem túi tiền mà người mù tự nhận là của mình vào chậu nước. Trên mặt nước nổi lên váng dầu từ đó biết được đó là tiền của anh bán dầu. Quan vừa vạch trần người mù là kẻ ăn cắp, vừa vạch trần hắn là kẻ giả mù đi ăn xin.

- Tranh số 3: Để bắt được bọn cướp ở truông nhà Hồ quan sai chế một chiếc hòm đặc biệt để người bên trong có thể ngồi ở đó và bật nắp ra dễ dàng. Đồng thời phao tin có vị quan lớn sắp đi qua truông mang theo nhiều vàng bạc của cải để thu hút bọn cướp. Đồng thời sai quân mặc quần áo dân thường khênh những hòm có các võ sĩ ở trong đi qua truông. Bọn giặc quả nhiên sập bẫy.

- Tranh số 4: Về tới hang ổ của bọn cướp các võ sĩ bật nắp xông ra tiêu diệt hết bọn địch.


Câu 2

Kể lại toàn bộ câu chuyện về ông Nguyễn Khoa Đăng.

Phương pháp giải:

Con dựa vào phầm tóm tắt nội dung chính của mỗi bức tranh ở câu 1 để kể lại câu chuyện.

Lời giải chi tiết:

        Nguyễn Khoa Đăng là một vị quan án có tài xét xử, được dân mến phục.

       Một lần, có anh hàng dầu gánh hàng ra chợ bán. Lợi dụng lúc anh bận đong dầu, có kẻ thò tay vào bị lấy trộm tiền. Khi biết mất tiền, anh hàng dầu nhớ hồi nãy có một người mù quanh quẩn bên gánh hàng, đuổi mấy cũng không đi. Anh đoán hắn là kẻ cắp, bèn gửi gánh hàng cho người quen rồi đi tìm người mù. Người này ra sức chối, nói rằng mình mù biết tiền để đâu mà lấy. Hai bên xô xát, lính bắt họ giải lên quan án Nguyễn Khoa Đăng.

       Thấy người mù khăng khăng chối không ăn cắp tiền, quan hỏi:

-  Anh có mang tiền theo không?

Người mù đáp:

-  Có, nhưng đấy là tiền của tôi.

-  Cứ đưa đây. Của ai rồi sẽ rõ.

         Khi người mù móc tiền ra, quan sai người múc ra một chậu nước, bỏ số tiền vào chậu. Một lát thấy trên mặt  nước có váng dầu nổi lên. Người mù hết đường chối cãi, đành nhận tội.

           Vụ án tưởng đã xong, không ngờ quan lại phán:

- Tên ăn cắp này là kẻ giả mù vì nếu mù thật thì làm sao hắn biết người bán dầu để tiền ở đâu mà lấy.

          Ông sai lính nọc tên mù ra đánh, kì đến khi hắn mở mắt mới thôi. Lúc đầu, người mù còn chối, chỉ sau 3 roi hắn đành mở cả hai mắt.

           Trong thời kì ông Nguyễn Khoa Đăng làm quan án, ở Quảng Trị có truông nhà Hồ là nơi bọn gian phi dùng làm sào huyệt đón đường cướp của.

           Để bắt bọn cướp, quan sai chế một loại hòm gỗ kín có lỗ thông hơi, vừa một người ngồi, có khóa bên trong để người ở trong có thể mở tung ra dễ dàng. Ông kén một số võ sĩ, đem theo vũ khí, ngồi vào hòm. Rồi sai quân sĩ ăn mặc như dân thường, khiêng những hòm ấy qua truông, ra vẻ như khiêng những hòm của cải nặng. Lại cho người đánh tiếng có một vị quan to ở ngoài Bắc sắp sửa về quê sẽ đi qua truông cùng những hòm của cải quý. Bọn cướp đánh hơi, nghĩ đây là cơ hội làm ăn hiếm có, rình lúc đoàn người đi qua cửa truông thì cướp, rồi hí hửng khiêng những hòm nặng ấy về tận sào huyệt.

             Về đến nơi, vừa đặt hòm xuống thì những cái hòm bật mở toang, các võ sĩ ngồi trong tay lăm lăm vũ khí bất ngờ xông ra đánh giết bọn cướp. Đang lúc hoảng hốt chưa kịp đối phó thì phục binh của triều đình từ ngoài ùn ùn kéo vào đông như kiến cỏ, bọn cướp đành chắp tay xin tha mạng.

              Bọn cướp ấy, Nguyễn Khoa Đăng đưa đi khai khẩn đất hoang ở biên giới, lập thành những đồn điền rộng lớn. Sau đó, ông cho đưa dân đến lập làng xóm ở dọc hai bên truông khiến một vùng núi rừng xưa vắng vẻ trở thành những xóm làng dân cư đông đúc bình yên.

(Theo Nguyễn Đổng Chi)


Câu 3

Theo em, những biện pháp mà ông Nguyễn Khoa Đăng dùng để tìm kẻ ăn cắp và trừng trị bọn cướp đường tài tình ở chỗ nào ?

Phương pháp giải:

Con nhớ lại hai vụ án ông Nguyễn Khoa Đăng đã phá rồi trả lời.

Lời giải chi tiết:

Để tìm ra kẻ ăn cắp, ông Nguyễn Khoa Đăng đã đem bọc tiền mà người mù tự nhận là của mình thả vào chậu nước, thấy có váng dầu nổi lên thì biết được đó là bọc tiền của anh hàng dầu và người mù kia chính là kẻ ăn trộm.

Để tiêu diệt bọn cướp, ông Nguyễn Khoa Đăng đã dùng biện pháp:

- Công tác chuẩn bị được tiến hành chu đáo: Một bên sai người chế ra chiếc hòm gỗ để các võ sĩ có thể chui vào và tự bật mở ra khi cần. Một bên sai người tung tin có vị quan lớn mang rất nhiều của cải sắp đi quan nơi này để đánh vào lòng tham của bọn cướp.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 7
(có 1 lượt vote)

Kể chuyện lớp 5 tuần 25: Vì muôn dân

Câu 1

Dựa vào lời kể của cô giáo (thầy giáo) và các tranh vẽ dưới đây, hãy kể lại từng đoạn câu chuyện.

Phương pháp giải:

Con quan sát tranh, xác định các nhân vật xuất hiện trong tranh, phán đoán xem họ đang làm gì để đối chiếu với nội dung tương ứng trong truyện và kể lại sao cho hợp lí.

Lời giải chi tiết:

Tranh 1: Cha của Trần Quốc Tuấn trước khi qua đời dặn con phải giành lại ngôi vua Trần Quốc Tuấn không cho điều đó là phải nhưng thương cha nên gật đầu

Tranh 2: Năm 1284, giặc Nguyên lại sang xâm lược nước ta. Thế giặc mạnh như chẻ tre.

Tranh 3: Trần Quốc Tuấn mời Trần Quang Khải xuống thuyền của mình ở bến Đông để cùng bàn kế đánh giặc

Tranh 4: Trần Quốc Tuấn tự tay dội nước tắm cho Trần Quang Khải, khéo léo cởi bỏ mâu thuẫn gia tộc.

Tranh 5: Theo lời Trần Quốc Tuấn, vua mở hội nghị Diên Hồng triệu tập các bô lão từ mọi miền đất nước. Vua tôi đồng lòng quyết tâm diệt giặc

Tranh 6: Cả nước đoàn kết một lòng nên giặc Nguyên đã bị đánh bại.   

 

Câu 2

Kể lại toàn bộ câu chuyện.

Phương pháp giải:

Con dựa vào phần tóm tắt tranh đã làm ở câu trước để kể lại.

Lời giải chi tiết:

Năm 1235, khi Trần Quốc Tuấn mới 5, 6 tuổi, cha ông là Trần Liễu có chuyện tị hiềm với vua Trần Thái Tông. Năm 1251, Trần Liễu lâm bệnh nặng, trước khi mất có trăng trối dặn Trần Quốc Tuấn phải vì cha mà giành lại ngôi vua. Biết cha không quên hận cũ, thương cha, Quốc Tuấn đành gật đầu để cha yên lòng, nhưng ông không cho đó là điều phải và luôn tìm cách hoà giải mối hiềm khích trong gia tộc.

Cuối năm 1284, nhà Nguyên lại kéo hàng chục vạn quân sang xâm chiếm nước ta. Thế giặc mạnh như chẻ tre. Vua Trần Nhân Tông (cháu Trần Thái Tông) cho mời Trần Hưng Đạo về kinh. Vừa từ Vạn Kiếp về tới Thăng Long đậu thuyền ở bến Đông, ông sai mời Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải (con vua Trần Thái Tông) đến cùng bàn kế đánh giặc. Biết Quang Khải ngại tắm, ông sai nấu sẵn nước thơm và xin được tắm giùm. Ông tự tay cởi áo cho Quang Khải, dội nước thơm cho Quang Khải và thân mật đùa:

-  Hôm nay, thật may mắn, tôi được tắm hầu Thái sư.

Quang Khải cũng không kìm nổi xúc động, đùa lại:

-  Tôi mới thật có may mắn vì được Quốc công Tiết chế tắm cho.

Trước tấm lòng chân tình của cả hai người, mối hiềm khích của cả hai bên dược cởi bỏ.

Hôm sau, hai người vào cung. Vua đã chờ sẵn để bàn việc nước.

Nhà vua băn khoăn:

-  Lần trước, giặc Nguyên đá bị ta đánh bại. Nhưng lần này chúng đông và mạnh hơn trước bội phần. Các khanh xem có kế gì để giữ yên xã tắc?

Trần Hưng Đạo trình bày kĩ mọi việc, từ trấn giữ biên thuỳ, cắt cử các tướng..., đoạn ông nhấn mạnh:

Nên triệu gấp bô lão cả nước về kinh để cùng bàn luận. Có sức mạnh nào mạnh bằng sức mạnh trăm họ! Anh em hoà thuận, trên dưới một lòng thì giặc kia dẫu mạnh mấy cũng phải tan!

Vua y lời.

Một sáng đầu xuân năm 1285, bô lão từ mọi miền đất nước tụ hội về điện Diên Hồng. Vua quan nhà trần tề tựu đông đủ. Vua ướm hỏi:

-   Nhà Nguyên sai sứ giả mang thư sang, xin mượn đường để đánh Chăm-pa. Ý các khanh thế nào?

Hưng Đạo tâu:

-  Cho giặc mượn đường là mất nước!

Cả điện đồng thanh:

-   Không cho giặc mượn đường!

Vua hỏi tiếp:

-  Ta nên hoà hay nên đánh?

Điện Diên Hồng như rung lên bởi những tiếng hô của muôn người:

-  Nên đánh!

-  Sát Thát!

Nhờ trên dưới đồng lòng, vua tôi hoà thuận... quân dân ta đã đánh tan giặc Nguyên, giữ vững độc lập dân tộc.

(Theo Đại Việt sử kí toàn thư)


Câu 3

Trao đổi với các bạn về ý nghĩa câu chuyện.

Phương pháp giải:

Theo con truyện nhằm ca ngợi ai và ca ngợi truyền thống tốt đẹp nào của dân tộc.

Lời giải chi tiết:

Ý nghĩa câu chuyện Vì muôn dân

Ca ngợi Trần Hưng Đạo đã vì đại nghĩa mà xóa bỏ hiềm khích cá nhân với Trần Quang Khải để tạo nên khối đoàn kết chống giặc. Đồng thời ca ngợi một truyền thống tốt đẹp của dân tộc là truyền thống đoàn kết, muôn người như một

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 8
(có 0 lượt vote)

Kể chuyện lớp 5 tuần 29: Lớp trưởng lớp tôi

Câu 1 (trang 112 sgk Tiếng Việt 5)

Trả lời:

* Đoạn 1 (Bức tranh 1)

Ngay từ ngày đầu tựu trường, các lớp học đều họp để bầu lớp trưởng, lớp phó và phân tổ. Vân được cả lớp bầu làm lớp trưởng. Ấy vậy mà một số bạn trai vẫn xì xào bàn tán, cho rằng Van không đủ uy tín để làm lớp trưởng.

* Đoạn 2 (Bức tranh 2)

Đến giờ trả bài kiểm tra môn Địa lí, cô giáo khen Vân bài làm sạch sẽ trình bày rõ ràng, trả lời đúng các câu hỏi nên được điểm Mười duy nhất của lớp. Người bạn trai chê bạn Vân học không giỏi, cảm thấy lúng túng khi biết được kết quả bài làm của Vân.

* Đoạn 3 (Bức tranh 3)

Đến lượt trực nhật lớp, Quốc đến muộn. Trống đã đánh báo hiệu đến giờ vào lớp. Quốc chạy nhanh lao vào lớp, thấy lớp đã sạch sẽ, bàn ghế thẳng hàng, bảng đen đã được lau chùi... Quốc có phần ngạc nhiên và thầm cảm ơn bạn nào đã giúp mình. Sau đó, Quốc biết người giúp minh trực nhật chính là Vân.

* Đoạn 4 (Bức tranh 4)

Vào buổi chiều ngày thứ Năm, lớp lao động làm sạch cho vườn hoa nhà trường. Cả lớp ai cũng hăng hái, tích cực hoàn thành xuất sắc phần việc của nhà trường giao. Để động viên các bạn, Vân mua kem mời các bạn cùng ăn. Quốc cảm mến cách ứng xử của Vân.

* Đoạn 5 (Bức tranh 5)

Vân thực sự học giỏi, nhiệt tình với mọi phong trào của lớp, tỏ ra là người "chị cả" của lớp. Vì vậy, các bạn trai cũng như các bạn đều phục Vân và cho rằng Vân thực sự xứng đáng là lớp trưởng.


Câu 2 (trang 112 sgk Tiếng Việt 5)

Kể lại câu chuyện theo lời một nhân vật (Quốc, Lâm hoặc Vân).

Trả lời:

Tôi sẽ kể về bạn lớp trưởng lớp tôi - Quốc mở đầu như thế với một nhóm bạn lớp khác.

Quốc nói chậm rãi, giọng vừa đủ nghe: Đầu năm học, lớp mình cũng như các lớp khác là tiến hành bầu lớp trưởng. Nhỏ Vân được số đông trong lớp mình bầu làm lớp trưởng. Một nhóm bạn trai tỏ ra hoài nghi về khả năng quán xuyến công việc lớp của Vân, nên dè bỉu, chê bai, bàn ra bàn vào. Mình thì cho là Vân học không giỏi nên là khó lòng mà thuyết phục được cả lớp, khó lòng mà làm gương cho mọi người.

Thế rồi, một hôm trong giờ kiểm tra môn Địa lí, cô giáo khen Vân nhiều lắm vì Vân là người duy nhất đạt điểm Mười. Mình cảm thấy ngượng ngùng lắm, vì mình đã hiểu không đúng khả năng học tập của Vân.

Vân là người thường giúp đỡ bạn và hăng hái với mọi phong trào của lớp.

Hôm đó, đến phiên mình trực nhật lớp, mình đến muộn. Mình lo lắng lắm. Giờ học đã đến mà lớp chưa quét dọn, bảng chưa lau chùi... Mình hớt hải chạy thẳng vào lớp, thì thấy lớp học đã sạch sẽ, bàn ghế được kê ngay ngắn, bảng đen đã được lau chùi, bàn cô giáo đã có khăn trải và một bình hoa. Mình thầm cảm ơn bạn nào đã giúp mình trực nhật. Sau đó mình biết được người đó là Vân lớp trưởng.

Vào những buổi lao động lớp, Vân thực sự hăng hái, tích cực và thường động viên các bạn khác làm tốt phần việc được nhà trường phân công. Buổi lao động kết thưc, Vân còn mua kem mời các bạn cùng ăn cho vui. Những lúc như thế, trong Vân như "chị cả" của lớp vậy. Từ đó, ai trong lớp mình đều nể phục Vân, và cho rằng Vân thực sự xứng đáng là lớp trưởng học giỏi, gương mẫu.


Câu 3 (trang 112 sgk Tiếng Việt 5)

Thảo luận về ý nghĩa của câu chuyện và bài học mà mỗi em tự rút ra sau khi nghe câu chuyện.

Trả lời:

- Câu chuyện ca ngợi tinh thần gương mẫu của bạn trưởng lớp.

- Bài học cần rút ra là không nên có nhận xét hồ đồ, vội vàng về ai đó khi mình chưa biết, hiểu về họ.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 9
(có 0 lượt vote)

Kể chuyện lớp 5 tuần 32: Nhà vô địch

Câu 1 (trang 139 sgk Tiếng Việt 5)

Dựa vào lời kể của cô giáo (thầy giáo) và tranh vẽ dưới đây, kể lại từng đoạn câu chuyện.

Trả lời:

* Tranh số 1: Cuộc thi nhảy xa bên hố cát cạnh con mương của bọn trẻ trong làng do chị Hà làm trọng tài, mấy cô cậu tí hon làm khán giả. Hưng Tồ nhảy đầu tiên, nhảy đúng vào miệng hố bên kia, đất lún xuống. Tiếp theo là Dũng Béo đã nhảy qua hố, nhưng chân bị nún sâu vào đất mềm, được các bạn "nhổ" lên. Người thứ ba là Tuấn Sứt từng thi nhảy xa cấp huyện, cậu ta nhảy qua hố như con mèo, rồi ngồi vắt chân chữ ngũ chờ nhận giải.

* Tranh số 2: Tôm Chíp bé nhất, nhảy sau cùng. Mặt cậu đỏ lên ái ngại. Các bạn cười và nói khích. Tôm Chíp tự ái lao lên nhưng đến gần hố cậu ta lại đứng sựng lại. Cả bọn cười, nhao nhao khích bác. Tôm Chíp vừa giận mình, vừa tức bạn, toan khóc. Chị Hà lại an ủi động viên.

* Tranh số 3: Tôm Chíp xin nhảy lại. Sắp đến hố nhảy, nghe thấy tiếng kêu thất thanh bên bờ mương, Tôm Chíp vội chạy vòng qua hố nhảy, lao như bay tới bờ mương kịp cứu được một em bé ở sát mép nước bờ bên kia. Mọi người thở phào.

* Tranh số 4: Chị Hà và một số bạn nhỏ lội qua con mương. Cả bọn đều lè lưỡi không hiểu sao Tôm Chíp làm sao mà "bay" qua được con mương rộng nhường kia. Dũng Béo tuyên bố: "Tôm Chíp vô địch. Nhưng phải khám xem cậu ta có lắp chiếc cánh quạt nào không đã. Cả bọn cười ồ và phục Tôm Chíp ra mặt."


Câu 2 (trang 139 sgk Tiếng Việt 5)

Kể lại toàn bộ câu chuyện bằng lời của nhân vật Tôm Chíp.

Trả lời:

Hôm ấy, bọn trẻ trong làng chọn hố cát cạnh con mương đào làm nơi tổ chức cuộc thi nhảy xa. Chị Hà được mời làm trọng tài. Khán giả là mấy cô cậu tí hon ngồi ở bên kia bờ mương mắt hau háu chờ xem.

Chị Hà dõng dạc hô:

- Các thí sinh chuẩn bị! Người số một: Hưng!

Hưng Tồ bậm bạch như một chú vịt chạy vào vị trí. Nghe tiếng hô: “Bắt đầu!”, nó lấy đà chạy nhanh đến bất ngờ. Gần đến nơi, miệng nó bặm lại. “Phốc”, nó nhảy đúng vào miệng hố bên kia, đất lún xuống. Nó đứng dậy, hãnh diện nhìn mọi người.

Người tiếp theo là Dũng Béo. Vừa nghe gọi tên, cậu đã vỗ đùi đen đét để thị uy. Rồi cậu cũng nhảy qua hố có phần dễ dàng hơn Hưng Tồ. Chỉ phải cái chân cậu lún sâu xuống lớp đất mềm khiến cả bọn phải xúm vào “nhổ” cậu lên. Cậu ta cười toe toét:

- Tớ sẽ nhảy lại để tự phá kỉ lục.

Người thứ ba vượt qua chiếc hố nhẹ như mèo là Tuấn Sứt, cậu ta đã từng thi nhảy xa cấp huyện. Xong việc, cậu nằm vắt chân chữ ngũ trên cỏ để chờ nhận giải.

Chị Hà gọi đến Tôm Chip. Tôm Chip bé nhất bọn, tính tình lại rụt rè, mới nghe gọi tên mặt đã đỏ lên. Chị Hà ái ngại, bảo:

- Nếu em không nhảy thì làm khán giả vậy.

Tôm Chip càng bối rối. Dũng Béo thấy vậy, cười, bảo:

- Làm khán giả thì sang bờ mương bên kia.

Có thể vì tự ái, Tôm Chip quyết định vào vị trí.

- Hai...ba!

Tôm Chip giật bắn người lao lên. Đến gần điểm đệm nhảy thì cậu đột nhiên đứng sựng lại, chân miết xuống đất.

- Không nhảy được thì chạy qua.

- Hay là để tớ cắp vào nách rồi nhảy qua.

- Tớ cho cậu thành tích lúc nãy đây. - Dũng, Hưng và mấy bạn nhao nhao khích bác.

Tôm Chíp suýt khóc vì giận mình và các bạn. Chị Hà nhẹ nhàng an ủi:

- Hay em để Dũng nhảy lại trước đã.

Nhưng Tôm Chip quyết định nhảy lần thứ hai. Lần này cậu lấy đà đúng kiểu hơn. Đúng lúc cậu đạp chân vào mô đất lao lên thì có tiếng kêu thất thanh phía bên kia bờ mương. Mọi người đang tập trung theo dõi cuộc thi nên chỉ có cậu mới trông thấy một bé trai, do xô đẩy, đang lăn theo bờ mương xuống dòng nước. Cậu lao nhanh như tên bắn. Đến gần hố nhảy, cậu quặt sang bên, tiếp tục lao lên khiến mọi người cười ồ. Khi đứa bé đã ờ sát mép nước. Tôm Chíp cũng đã tới bờ mương. Có tiếng hét tuyệt vọng. Lúc tất cả cùng nhận ra mối nguy hiểm thì họ cũng thấy Tôm Chíp đã nhảy như bay qua con mương kịp giữ đứa bé lại. Ai nấy thở phào.

Chị Hà lội sang bờ mương bên kia. Mấy đứa lần lượt lội sang theo. Cả bọn đều lè lưỡi, lắc đầu không hiểu Tôm Chip làm thế nào để nhảy qua con mương rộng nhường kia. Dũng Béo tuyên bố:

- Chức vô địch thuộc về Tôm Chíp. Nhưng phải khám xem nó có lắp chiếc cánh quạt nào không đã.

Cả bọn cười ồ lên và phục Tôm Chíp ra mặt. Còn Tôm Chíp thì nhớ lại lúc đó cậu không nghĩ đến cuộc thi mà chỉ nghĩ đến việc cứu em bé khỏi rơi xuống nước.


Câu 3 (trang 139 sgk Tiếng Việt 5)

Trao đổi với các bạn:

a) Về một chi tiết trong truyện mà em thích nhất.

b) Về nguyên nhân dẫn đến thành tích bất ngờ của Tôm Chíp.

c) Về ý nghĩa của câu chuyện.

Trả lời:

a) Học sinh tự thảo luận

b) Nguyên nhân dẫn đến thành tích bất ngờ của Tôm Chíp là nhờ có sự tốt bụng, tinh thần dũng cảm đã khiến em có thêm đông lực để cứu em bé đang bị ngã kia

Ý nghĩa câu chuyện

Khen ngợi Tôm Chíp dũng cảm, quên mình cứu người bị nạn, trong tình huống nguy hiểm đã bộc lộ nhiều phẩm chất đáng quý.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Hi vọng bài viết trên mang lại nhiều giá trị cho bạn. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài văn hay trên Alltop.vn

Hãy đăng nhập để bình luận

Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .

0/
Top 9
Kể chuyện lớp 5 tuần 32: Nhà vô địch