Top 10 Bài thơ hay nhất của nhà thơ Tú Xương
Trần Tế Xương (1870-1907) tên khai sinh là Trần Duy Uyên , tử Tử Thịnh , hiệu Vị Thành , người làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, xuất thân từ một gia...xem thêm ...
Thương vợ
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên, hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa, dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
Có chồng hờ hững cũng như không!
Bài thơ này được sử dụng trong các chương trình SGK Văn học 11 giai đoạn 1990-2006, Ngữ văn 11 từ 2007.
Nguồn: 1. Thơ văn Trần Tế Xương, NXB Giáo dục, 1984
2. Thơ Trần Tế Xương, NXB Văn hoá - Thông tin, 1998
3. Dương Quảng Hàm, Việt Nam thi văn hợp tuyển, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Hà Nội, 1951
Năm mới chúc nhau
Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau:
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.
Phen này ông quyết đi buôn cối,
Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu.
Lẳng lặng mà nghe nó chúc giàu:
Trăm, nghìn, vạn mớ để vào đâu?
Phen này, ắt hẳn gà ăn bạc,
Đồng rụng, đồng rơi, lọ phải cầu.
Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang:
Đứa thì mua tước, đứa mua quan.
Phen này ông quyết đi buôn lọng,
Vừa bán vừa la cũng đắt hàng.
Lẳng lặng mà nghe nó chúc con:
Sinh năm đẻ bảy được vuông tròn.
Phố phường chật hẹp, người đông đúc,
Bồng bế nhau lên nó ở non.
Bắt chước ai ta chúc mấy lời:
Chúc cho khắp hết ở trong đời.
Vua, quan, sĩ, thứ, người muôn nước,
Sao được cho ra cái giống người.
Khổ thơ cuối cùng có người nói là của Trần Tế Xương, có người cho rằng do người khác bắt chước giọng thơ Tế Xương mà thêm vào.
Nguồn: Thơ Tú Xương, NXB Văn học, 1992
Văn tế sống vợ
Con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ
Tiếng có miếng không, gặp chăng hay chớ
Mặt nhẵn nhụi, chân tay trắng trẻo, ai dám chê rằng béo rằng lùn?
Người ung dung, tính hạnh khoan hoà, chỉ một nỗi hay gàn hay dở!
Đầu sông bãi bến, đua tài buôn chín bán mười
Trong họ ngoài làng, vụng lẽ chào dơi nói thợ
Gần xa nô nức, lắm gái nhiều trai
Sớm tối khuyên răn, kẻ thầy người tớ
Ông tu tác cửa cao nhà rộng, toan để cho dâu
Anh lăm le bia đá bảng vàng, cho vang mặt vợ
Thế mà:
Mình bỏ mình đi, mình không chịu ở
Chẳng nói chẳng rằng, không than không thở.
Hay mình thấy tớ: nay Hàng Thao, mai phố Giấy mà bụng mình ghen?
Hay mình thấy tớ: sáng Tràng Lạc, tối Viễn Lai, mà lòng mình sợ?
Thôi thôi
Chết quách yên mồ
Sống càng nặng nợ
Chữ nhất phẩm ơn vua vinh tứ, ngày khác sẽ hay
Duyên trăm năm ông Nguyệt xe tơ, kiếp này đã lỡ
Mình đi tu cho thành tiên thành phật, để rong chơi Lãng Uyển, Bồng Hồ
Tớ nuôi con cho có rể có dâu, để trọn vẹn đạo chồng nghĩa vợ
Nhà thơ chơi bời phòng túng, tốn tiền, bà Tú giận doạ tự tử. Nhà thơ nhân đó làm bài văn tế này đùa nịnh, làm lành khéo với vợ.
Nguồn: Thơ Trần Tế Xương, NXB Văn hóa - Thông tin, 1998
Sông Lấp
Sông kia rày đã nên đồng,
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai.
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai,
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.
Bài thơ tả về đoạn sông Vị Hoàng bị lấp. Sông Vị Hoàng chảy qua thành phố Nam Định, quê hương của tác giả. Sông bị phù sa bồi lấp, nhân dân trồng trọt và làm nhà cửa ở đó. Sự việc này khiến Tú Xương liên tưởng đến cảnh thay đổi thời thế, nhân tâm.
Nguồn: Thơ Trần Tế Xương, NXB Văn hoá - Thông tin, 1998
Áo bông che bạn
Hỡi ai, ai có thương không?
Đêm mưa, một mảnh áo bông che đầu
Vì ai, ai có biết đâu?
Áo bông ai ướt khăn đầu ai khô?
Người đi Tam Đảo, Ngũ Hồ
Kẻ về khóc trúc Thương Ngô một mình
Non non nước nước tình tình
Vì ai ngơ ngẩn cho mình ngẩn ngơ!
Bài thơ này từng được sử dụng trong phần đọc thêm SGK Văn học 11 giai đoạn 1990-2006, nhưng đã được lược bỏ trong SGK Ngữ văn 11 từ 2007.
Nguồn: 1. Thơ văn Trần Tế Xương, NXB Giáo dục, 1984
2. Thơ Trần Tế Xương, NXB Văn hoá - Thông tin, 1998
Ba cái lăng nhăng
Một trà, một rượu, một đàn bà,
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta.
Chừa được cái gì hay cái nấy,
Có chăng chừa rượu với chừa trà!
Nguồn: Thơ Trần Tế Xương, NXB Văn hoá - Thông tin, 1998
Gửi Phan Bội Châu
Mấy năm vượt biển lại trèo non.
Em hỏi thăm qua bác vẫn còn.
Mái tóc Giáp Thìn đã nhuộm tuyết,
Điểm đầu Canh Tý chửa phai son.
Phướn trời gặp hội mây năm vẻ,
Lấp bể ra công đất một hòn.
Có phải như ai mà chẳng biết,
Giang tay chống vững cột kiền khôn.
Nguồn: Phan Khôi, Chương Dân thi thoại, Nhà in Đắc Lập, Huế, 1936, tr. 52
Khuyên học trò đi thi
Nhà nước còn thi hãy cứ thi,
Việc gì mà chẳng rủ nhau đi?
Sử đề theo sách quan Ngô Giáp;
Toán pháp thêm bài hội Trí Tri,
Muốn sống phải chăm mài bút sắt,
Cho mau chớ chậm đổ hòn chì
Đỗ đâu hết cả nhà thông ký,
Phận của nhà nho có một ly.
Nguồn: Phan Khôi, Chương Dân thi thoại, Nhà in Đắc Lập, Huế, 1936, tr. 55
Dại khôn
Thế sự đua nhau nói dại khôn,
Biết ai là dại, biết ai khôn.
Khôn nghề cờ bạc là khôn dại,
Dại chốn vẵn chương, ấy dại khôn.
Này kẻ nên khôn đều có dại,
Làm người có dại mới nên khôn.
Cái khôn ai cũng khôn là thế,
Mới biết trần gian kẻ dại khôn.
Bài này hoạ nguyên vận bài Dại khôn của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Nguồn: Nam thi hợp tuyển, Nguyễn Văn Ngọc, NXB Bốn Phương, Hà Nội, 1951
Đề ảnh
Cử Thăng, huấn Mỹ, tú Tây Hồ,
Ba bác chung nhau một cái đồ.
Mới biết trời cho sum họp mặt,
Thôi đừng chê nhỏ với cười to!
Nguồn: 1. Tú Xương, tác phẩm và giai thoại, NXB Văn học, 1986
2. Thơ văn Trần Tế Xương, tr. 60, NXB Văn học, 2010
Hãy đăng nhập để bình luận
Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .