Top 15 Bài văn cảm nhận bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử (lớp 12) hay nhất
"Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử là một bức tranh đẹp về cảnh người và người của miền đất nước qua tâm hồn giàu tưởng tượng và đầy yêu thương của nhà thơ...xem thêm ...
Bài văn cảm nhận bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" - mẫu 1
Hàn Mặc Tử là nhà thơ tiêu biểu trong phong trào thơ mới. Ông là một nhà thơ tài hoa nhưng lại mang trong mình căn bệnh phong hiểm nghèo, chính vì vậy, thơ của ông luôn có hai thế giới, một là tươi mới trong trẻo, một là ma quái, kinh dị. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ nổi tiếng trong tập Thơ Điên của ông, được viết vào năm 1938. Bài thơ là bức tranh thôn quê Vĩ Dạ vừa yên bình vừa tươi đẹp, lồng ghép vào đó là một tình yêu tha thiết và niềm khao khát được giao cảm với cuộc đời của Hàn Mặc Tử.
Đây thôn Vĩ Dạ được khơi cảm hứng từ một tấm bưu ảnh vẽ cảnh vườn tược sông nước được cho là của Hoàng Cúc gửi ra cho ông. Bức ảnh đó đã làm sống dậy những kỉ niệm của Hàn Mặc Tử về Vĩ Dạ - một xóm nhỏ ven sông Hương, nơi lưu giữ tuổi học trò của thi nhân cũng là nơi có bóng hình người con gái ông thương nhớ. Và hơn thế, nó đã làm sống dậy khao khát được giao cảm với cuộc đời của ông, bởi khi đó, ông đang ở Phú Yên và đang bị bệnh tật dày vò. Có lẽ vì được sáng tác trong hoàn cảnh đặc biệt như thế nên ngay đầu bài thơ, Hàn Mặc Tử đã mở lời bằng một câu hỏi:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Nghe câu thơ mà người ta như nghe được tiếng người thôn Vĩ đang hờn trách thi nhân, đang mời gọi thi nhân về với Vĩ Dạ. Thế nhưng, đây lại chỉ là một câu hỏi lòng tự hỏi lòng của nhà thơ, bởi ông đang sống trong nỗi nhung nhớ và niềm khao khát được trở về Vĩ Dạ. Hàn Mặc Tử không phải đến thăm Vĩ Dạ mà là “về chơi”, bởi Vĩ Dạ là chốn thân thương, là nơi mà nhà thơ gắn bó bằng cả tâm hồn. Ông đã làm một cuộc hành trình bằng tâm tưởng để quay trở lại Vĩ Dạ, để ngắm:
“Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Nhà thơ say sưa trong cảnh vườn Vĩ Dạ, trong những khoảnh khắc yên bình, êm dịu của tâm hồn. Bức tranh Vĩ Dạ được miêu tả từ xa tới gần, từ cao xuống thấp, mỗi góc độ một vẻ đẹp nhưng đểu rất thơ mộng và tràn trề sức sống. Điểm nhìn đầu tiên của nhà thơ bắt gặp là hình ảnh của nắng sớm trên những hàng cau.
“Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên”
Điệp từ “nắng” gợi lên một không gian tràn ngập sắc vàng rực rỡ của nắng mãi. Đó là thứ ánh nắng trong trẻo, tinh khôi của buổi sớm, đẹp đẽ và thật dịu dàng! Nắng trên hàng cau cũng là thứ ánh nắng rất đặc trưng của Vĩ Dạ bởi Vĩ Dạ vốn nổi tiếng với những vườn cau xanh mướt. Những hàng cau cao vút, thẳng tắp luôn vươn mình đón ánh mặt trời, là loài cây đầu tiên đón ánh nắng mặt trời của Vĩ Dạ. Tả nắng hàng cau nhưng Hàn Mặc Tử dường như đã làm sống dậy cả một buổi ban mai tinh khôi và mát lành của xứ Huế mộng mơ. Trong ánh nắng sớm tinh khôi ấy là hình ảnh của khu vườn xanh mát:
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Chỉ là khu vườn của “ai” phiếm chỉ bởi đó là khu vườn sống trong tâm tưởng của nhà thơ. Cùng với tính từ “mướt” và lối so sánh “xanh như ngọc” đã khiến người đọc có thể cảm nhận được sự sống động, lung linh của khu vườn Vĩ Dạ. Tính từ “mướt” được đặt trong câu thơ vô cùng tinh tế, nó đã gợi lên hình ảnh một vườn cây trái mỡ màng, tươi tốt, mơn mởn. Những cành cây, nhành lá còn đang vương những giọt sương đêm lóng lánh. Có lẽ vì thế mà Hàn Mặc Tử đã so sánh “xanh như ngọc”. Khu vườn đẫm sương đêm lại được mặt trời chiếu rọi lung linh như một khối ngọc khổng lồ. Lời thơ bay bổng không chỉ gợi lên hình ảnh của khu vườn mà còn gửi vào trong đó lời trầm trồ, ca ngợi của nhà thơ với cảnh vườn Vĩ Dạ. Say sưa với cảnh vườn, nhưng càng say hơn là hình ảnh của:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Câu thơ không phải lời tả thực mà là một nét vẽ cách điệu của thi nhân. Khuôn mặt người thấp thoáng sau lớp lá trúc, hòa cùng thiên nhiên, khiến cả khu vườn của Vĩ Dạ bỗng chốc trở nên ấm áp, có sinh khí đến lạ thường. Nhà thơ để khuôn mặt người thấp thoáng sau lớp lá trúc che ngang gợi ra nét thẹn thùng, e ấp, nét kín đáo rất riêng của con người xứ Huế. “Mặt chữ điền” là khuôn mặt phúc hậu, được thi nhân lấy ý từ trong câu ca dao quen thuộc của người dân Huế:
“Mặt em vuông tựa chữ điền
Da em thì trắng, áo đen mặc ngoài
Lòng em có đất có trời
Có câu nhân nghĩa có lời thuỷ chung”
Câu thơ mang đậm phong vị dân gian và hơn thế, nó còn gợi ra cả vẻ đẹp tâm hồn của con người xứ Huế. Bốn câu thơ đầu là bức tranh phong cảnh vườn tược xứ Huế thơ mộng, ấm áp và giàu sức sống. Đằng sau bức tranh đó là tâm hồn gắn bó tha thiết với miền quê Vĩ Dạ của nhà thơ đồng thời là khát khao được giao cảm với cuộc đời. Sâu thẳm bên trong lời thơ là nỗi buồn khi nuối tiếc khi vẻ đẹp kia chỉ còn trong hoài niệm còn thi nhân thì đang phải cách biệt với cuộc đời. Đoạn thơ cũng thể hiện nỗ lực cách tân thơ Việt của Hàn Mặc Tử khi ông mang vào thơ những hình ảnh và ngôn từ rất đỗi mộc mạc, giản dị, gần gũi. Cảnh thôn Vĩ Dạ không hề tĩnh tại mà có sự chuyển động, từ cảnh vườn tược Vĩ Dạ chuyển sang cảnh sông nước mây trời:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Bức tranh mây trời nước phóng khoáng mở ra, khung cảnh đẹp đẽ, thơ mộng đúng như cái chất thơ của xứ Huế. Nhịp thơ chậm đều gợi lên sự yên bình, êm ả. Một dòng Hương giang đẹp đến tĩnh lặng dưới trăng trong đêm tịch mịch. Hoà vào khung cảnh đó là tâm trạng của người thi nhân được gửi gắm kín đáo qua nghệ thuật tả cảnh ngụ tình.
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
Nhà thơ đã dùng biện pháp nhân hoá gió và mây thành hai con người. Thế nhưng hai con người ấy lại chẳng cùng đường như vẫn thường thấy mà lại đang trong cảnh chia ly đôi ngả “gió theo lối gió, mây đường mây”. Đây phải chăng là ẩn dụ cho mối tình đơn phương của nhà thơ trong sự xa cách vời vợi và cả sự ngăn cách bởi bệnh tật với cuộc đời đã khiến cho ông cảm thấy thật cô đơn, lẻ loi. Nỗi xót xa, nỗi buồn ấy đã thấm sang cả cảnh vật khiến cho mây và gió cũng mang đậm một nỗi buồn sâu thẳm.
Nỗi buồn ấy còn được gửi cả vào dòng sông, dòng Hương giang lững lờ. Nhìn dòng nước chảy xuôi trong tĩnh lặng mà nhà thơ như cảm thấy cả “dòng nước” cũng “buồn thiu”. Nhân hoá dòng sông cũng là cách để Hàn Mặc Tử hé lộ tâm trạng của mình, đó là một cái tôi đang cô đơn, lẻ loi giữa rợn ngợp đất trời, xung quanh chỉ có nước, có hoa bắp lay động, đìu hiu, cô quạng đến thấm thía lòng.
Nỗi buồn cô đơn còn thấm thía hơn bao giờ hết khi nhà thơ tự đặt mình giữa trời, trăng, sông, nước. Màn đêm tịch mịch, ánh trăng bạc lạnh lẽo, sông nước mênh mang, khung cảnh ấy khiến cho người ta cảm thấy có chút gì thật ma quái, nhưng đó lại là nơi nhà thơ đang giam mình trong sự cô đơn tột độ, Sống giữa cõi người mà vẫn cảm thấy cô đơn, trống trải, đó là cảm xúc của nhà thơ khi ông bị bệnh tật ngăn trở được giao cảm với cuộc đời. Sống trong cô đơn nên khao khát lớn nhất của Hàn Mặc Tử là được giao cảm với cuộc đời, mong chờ tình người sẽ hoá giải đau thương. Vậy nên mới thấp thoáng một bóng “thuyền ai” của sự sống con người, nhà thơ đã cuống quýt cất tiếng gọi:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Những nỗi mong chờ ấy cũng nhanh chóng rơi vào hụt hẫng, chẳng có ai đáp lại lời của thi nhân. Vì thế mà nhà thơ mới mong “chở trăng về kịp tối nay”. Tối nay nhà thơ đang cô đơn, đang lạnh lẽo, và trăng có lẽ là thứ duy nhất có thể giúp ông hoá giải được nỗi cô đơn ấy. Bởi trăng xưa nay luôn là tri kỉ, tri âm của thi nhân, là nguồn cảm hứng vô tận cho các nhà thơ và Hàn Mặc Tử cũng không ngoại lệ. Ông yêu trăng tha thiết! Đoạn thơ thứ hai là sự kế thừa và phát huy của thơ ca truyền thống, vẫn là thể thơ thất ngôn nhưng trong đó thể hiện nỗ lực cách tân thơ mới của nhà thơ khi đưa vào trong thơ những hình ảnh rất bình dị, sử dụng ngôn từ giản dị như lời buột miệng thốt ra. Khổ thơ cuối cùng cũng thể hiện nỗ lực cách tân thơ Việt của Hàn Mặc Tử:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa”
Câu thơ khuyết chủ ngữ và không hề tuân theo ngữ pháp thông thường bởi nhà thơ muốn nhập hoà giữa chủ thể và khách thể. Khao khát được trở về Vĩ Dạ nên nhà thơ đã mơ mình được làm khách đường xa trở về. Nhịp thơ 1/3/3 nhanh dồn dập cũng điệp từ “khách đường xa”, người đọc như cảm thấy được tiếng reo vui náo nức của nhà thơ. Bởi vậy mới biết Hàn Mặc Tử yêu Vĩ Dạ đến nhường nào! Trở về Vĩ Dạ để được đắm mình trong tình người, trong cảnh sắc của Vĩ Dạ:
“Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”
Một Vĩ Dạ với sương khói bảng lảng, với những bóng áo dài thấp thoáng duyên dáng, thướt tha của những nữ sinh trường Đồng Khánh đã in dấu vào tâm hồn thi nhân, để mỗi khi nhớ về Vĩ Dạ, những hình ảnh ấy lại hiện lên thật rõ ràng. Nhà thơ trở về Vĩ Dạ là mong được sống trong tình người ấm áp, sống trong cảnh vườn quê yên bình, thế nhưng ông chỉ thấy bóng áo “trắng quá” đến mức “nhìn không ra”. Sương khói đã làm mờ đi hình người, mờ đi nhân dạng, vì thế mà:
“Ai biết tình ai có đậm đà?”
Sương khói đã làm mờ đi nhân ảnh vậy thì làm sao có thể hiểu thấu được lòng người nữa chẳng, làm sao có thể biết “tình ai có đậm đà” như trước nữa chăng? Hàn Mặc Tử lại một lần nữa rơi vào trong hụt hẫng, chơi vơi. Ông bất lực trước cuộc đời, đau đớn trước cuộc đời bởi ông bị xa cách thế gian, không thể giao cảm được cùng ai. Bài thơ mở ra bằng câu hỏi và kết lại cũng bằng câu hỏi. Nếu như câu hỏi mở ra bài thơ là một câu hỏi thấm đượm tình người thì câu hỏi cuối cùng lại mang một nỗi hoài nghi lớn. Chứa trong câu thơ là sự chua xót, đau đớn bởi nhà thơ không biết rằng liệu người Vĩ Dạ với ông có còn “đậm đà” như trước?
Bài thơ là bức tranh thôn Vĩ Dạ với con người và thiên nhiên mang những nét đẹp đặc trưng của xứ Huế. Dù được vẽ lên chỉ bằng những hồi ức và tâm tưởng của nhà thơ, những bức tranh ấy thấm đượm linh hồn của miền quê Vĩ Dạ trong tình yêu tha thiết của nhà thơ. Sau bức tranh ấy là tâm trạng của thi nhân trong nỗi nhớ nhung da diết, niềm khao khát được về Vĩ Dạ, khao khát được giao cảm với cuộc đời và cũng chứa một nỗi buồn, cô đơn sâu thẳm khi ông bị ngăn trở bởi bệnh tật. Dù vậy, chúng ta vẫn cảm nhận được một hồn thơ rất đỗi tài hoa, một tình yêu đời da diết, một nguồn cảm hứng và đam mê cái đẹp bất tận của nhà thơ Hàn Mặc Tử.
Bài văn cảm nhận bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" - mẫu 2
Hàn Mặc Tử - một nhà thơ có cá tính sáng tạo đầy mạnh mẽ, bên cạnh những vần thơ sáng trong, thanh khiết ông còn có những vần thơ đầy kì dị, bí ẩn. Một trong những bài thơ tiêu biểu nhất cho phong cách sáng tác của ông là bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ. Bài thơ được ra đời trong những ngày tháng thi nhân lâm vào cơn bạo bệnh, thần Chết chực chờ cướp đi mạng sống người thi sĩ tài hoa.
Trong Đây thôn Vĩ Dạ, ta cảm nhận được cảnh thiên nhiên tươi đẹp, thấy được tình người thắm thiết nhưng cũng man mác nỗi buồn thương, nhớ tiếc của thi nhân. Cảnh và tình như hoà quyện trong cõi thực, cõi mộng.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Câu thơ mở đầu của nhân vật trữ tình “Sao anh không về chơi thôn Vĩ đượm lời trách móc nhẹ nhàng. Lời hỏi tha thiết cất lên chứa chan cả một niềm mong cầu được gặp người nơi xứ Huế. Để cùng tận hưởng vẻ đẹp của thôn Vĩ- vùng ngoại ô xinh xắn, ấm áp tình người, tình quê. Nếu câu thơ đầu vừa như lời mời gọi, vừa như lời trách móc đầy yêu thương thì những câu thơ tiếp theo mở ra một không gian thôn Vĩ đầy xanh tươi, trong trẻo, khoáng đạt. Bắt gặp đầu tiên là hình ảnh “nắng hàng cau”, động từ “nhìn” được đặt đầu câu càng tô đậm sức cuốn hút của ánh nắng buổi bình minh. Đó là một màu nắng trong trẻo, tinh khôi của những tia nắng đầu tiên vươn mình lên hàng cau xinh đẹp trong vườn nhà. Ánh nắng long lanh, hòa trong những hạt sương đêm còn đọng trên mình lá càng tô thêm vẻ kiều diễm, kiêu hãnh của hàng cau trong vườn. Câu thơ gợi tả một sắc nắng rất riêng, tuy quen thuộc nhưng lại vô cùng độc đáo. Nắng thiên nhiên tưới tắm lên vườn nhà, cỏ cây được thưởng thức nắng mới lại càng sinh sôi, căng tràn nhựa sống.
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Hoà trong màu nắng vàng của buổi bình mình là sắc xanh ngọc của cây cỏ vườn nhà. Câu thơ cất lên chứa đựng cả sự ngạc nhiên đến thẫn thơ của thi nhân trước thiên nhiên tươi đẹp, dạt dào sức sống. Cỏ cây xanh mướt, mỡ màng và bóng bẩy trong nắng, một cảnh vườn xinh xắn như hiện ra trước mắt người đọc. Sự tươi đẹp của khu vườn mà khu vườn có được là nhờ tạo hoá ưu ái hay bởi chính bàn tay vun vén, chăm sóc của con người. Hòa trong cảnh thiên nhiên mơn man nhựa sống là bóng dáng người con gái yêu kiều, kín đáo thắp thoáng hiện ra sau nhành lá trúc mảnh mai:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
“Mặt chữ điền” là hình ảnh hoán dụ để chỉ người con gái xứ Huế. Ở họ mang vẻ đẹp đầy dịu dàng, e ấp, kín đáo. Giữa vườn thiên nhiên tươi đẹp, hình ảnh con người càng thêm nổi bật, tô đậm sự hài hoà giữa cảnh. Sau cảnh vườn Vĩ Dạ xanh tươi là cảnh sông Hương êm đềm trong chiều hoàng hôn xuống, ánh đêm dần buông. Cảnh sông nước mang cả nỗi niềm bâng khuâng, thương nhớ, hoài vọng của thi nhân chốn xa xôi. Trở về trong nhận thức, tác giả thấp thỏm, âu lo trong nỗi sầu tâm cảnh:
“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?”
Thơ xưa viết về gió, mây để gợi buồn, gợi nhớ. Hàn Mặc Tử cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Sự lang thang, trôi nổi của gió mây như chính cuộc đời nhà thơ cũng đang vô định, không biết bấu víu nơi chốn nào. Gió, mây vốn song hành, nhưng giờ lại theo lối riêng, đường riêng lại càng gợi sự chia lìa, dứt bỏ. Phải chăng lúc này đây nhà thơ cũng đã dự cảm về một cuộc đời ngắn ngủi của bản thân mình, rồi cũng như gió, mây kia mà thôi, chia lìa, xa cách chốn trần gian về với cõi vĩnh hằng. Ta không còn được thấy vẻ kiều diễm, tươi mát của khu vườn đầy sức sống như khổ thơ trước mà là nỗi u uất, buồn thương của một tâm hồn mang nỗi niềm chia lìa, tiễn biệt. Cũng bởi thế mà cảnh đượm buồn, đượm thương, dòng nước “buồn thiu” chảy trôi trên sông vắng, hoa bắp lay trong gió cũng mệt nhoài, chán nản. Tình ý đượm buồn thấm trong từng thức cảnh, đúng như thơ xưa từng nói:
“Cảnh buồn người thiết tha lòng
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Hai câu sau của khổ thơ chất chứa một nỗi mong cầu có kẻ tri âm về kịp, để cùng người tâm sự, sẻ chia:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Đêm sông Hương tràn ngập ánh trăng, ánh vàng chiếu xuống càng làm dòng sông thêm thơ mộng, hữu tình. Cảnh tuy đẹp nhưng lòng người lại nhuốm sầu nhân thế. Câu hỏi tu từ “Có chở trăng về kịp tối nay?” đã gửi gắm một nỗi khát khao, hoài vọng, mong cầu của thi nhân về một người bạn đời tới sẻ chia trước khi cái chết tìm tới mình. Nhưng liệu rồi, người ấy có về kịp hay không? Với ông, cuộc đời ngày thêm một ngắn, nỗi nhớ thương thì ngày lại dài thêm. Tiếng thơ tuy nhẹ nhàng mà đượm tình sâu nặng, vừa xót xa, vừa khắc khoải đợi chờ. Thực tại không được như mong cầu, tác giả kiếm tìm đến giấc mơ, một giấc mơ tuy không hoàn mỹ nhưng chí ít cũng khuây khoả được lòng người:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra;
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Một trái tim luôn chực chờ và khát khao yêu thương nên đến cả giấc mơ cũng mang màu nhung nhớ. Điệp ngữ “khách đường xa” kết hợp với động từ “mơ” và hình ảnh “áo em trắng quá” cho thấy được ảo ảnh đầy tươi đẹp về người con gái mà tác giả từng thương mến. Màu áo trắng tinh khôi, sáng trong, thanh khiết như chính tâm hồn của giai nhân xứ Huế.
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Là một giấc mơ, nên dù nó có đẹp đến đâu nó cũng chỉ là giấc mơ, mà giấc mơ thì chẳng bao giờ có thực cả. Đối mặt với thực tại phũ phàng, sương khói khiến bóng hình người con gái như nhoà đi hay khoảng cách khiến tình người phai nhòa thêm. Câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” cuối bài thơ càng tô đậm nỗi phân vân, mặc cảm, lo sợ của tác giả về một tình cảm đơn phương, không biết rằng liệu tình cảm họ dành cho mình như thế nào? Có đậm đà hay chăng?
“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ đẹp. Đẹp bởi bức tranh thiên nhiên xanh tươi nơi xứ Huế, đẹp bởi tình người bước ra từ trang thơ. Có thể nói, bằng một tâm hồn đầy yêu thương và tài năng trong ngòi bút, Hàn Mặc Tử đã viết nên một tuyệt tác bất hủ với thời gian.
Bài văn cảm nhận bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" - mẫu 3
Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ Mới. Ông là một nhà thơ tài hoa nhưng lại có cuộc đời đau thương bởi căn bệnh phong ngăn cách ông với cuộc đời. Những tác phẩm thơ của ông luôn chứa đựng hai con người khác nhau, bên cạnh cái tôi yêu đời tha thiết là một cái tôi đầy cô độc và mặc cảm chia lìa. Bài thơ Đây thơ Vĩ Dạ được ra đời năm 1938, in trong tập Thơ Điên. Đây là một trong những bài thơ kết tinh tài năng và thể hiện được thế giới tâm hồn đầy phức tạp của Hàn Mặc Tử.
Bài thơ viết về thôn Vĩ Dạ ở ven sông Hương, thành phố Huế. Đó là nơi cất giữ những kỉ niệm về thời học trò của Hàn Mặc Tử cũng là nơi ghi dấu ấn về hình bóng tình yêu đơn phương của ông. Đây thôn Vĩ Dạ được lấy cảm hứng từ bức bưu ảnh vẽ cảnh vườn tược sông nước của Hoàng Thị Kim Cúc, nó đã khơi dậy trong Hàn Mặc tử nỗi nhớ Vĩ Dạ cũng như ước mong được giao cảm với cuộc đời. Đây thôn Vĩ Dạ mở ra bằng một câu hỏi mang âm điệu da diết:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Câu thơ nghe như một lời hờn trách của người Vĩ Dạ với thi nhân nhưng thực chất chỉ là câu hỏi lòng tự hỏi lòng của nhà thơ. Nỗi nhớ Vĩ Dạ cũng niềm khao khát muốn được về lại thôn Vĩ đã khiến nhà thơ tưởng tượng ra hình ảnh mời gọi của những con người Vĩ Dạ. Hai từ “về chơi” cũng gợi lên sự thân thương, về Vĩ Dạ tức là về với nơi mà nhà thơ gắn bó bằng cả tâm hồn, một nơi chốn thiêng thiêng. Về với Vĩ Dạ, chẳng cần gì cao sang, nhà thơ chỉ muốn được ngắm nhìn những khung cảnh quen thuộc:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Bức tranh thôn Vĩ được chuyển từ xa tới gần, từ cao tới thấp, mỗi góc độ lại mang những nét thơ mộng rất riêng. Trong cuộc hành trình bằng tâm tưởng ấy, ánh nhìn đầu tiên của thi nhân dừng lại trên ánh “nắng”, nắng của hàng cau cao vút giữa bầu trời. Điệp từ “nắng” lặp lại hai lần trong cùng một câu thơ, vẽ lên một không gian ngập tràn sắc nắng, tươi tắn, tinh khôi, dịu nhé. “Nắng hàng cau” là thứ nắng đặc trưng của Vĩ Dạ, bởi lẽ nơi đây trồng rất nhiều cau. Những hàng cau cao vút, thẳng đứng, vươn mình đón những tia nắng mai đầu tiên khi cả xứ Huế cựa mình trong không khí mát lành của ban mai. Và lại gần thêm là hình ảnh của khu vườn nhà “ai” hiện lên rõ nét:
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Không phải một khu vườn xác định mà chỉ là một khu vườn phiếm chỉ của “ai” đó, bởi khu vườn đó là khu vườn xuất hiện trong tâm tưởng của nhà thơ. Thế nhưng, khu vườn lại hiện lên thật sống động, thật lung linh. Tính từ “mướt” giàu sức gợi, đã diễn tả hình ảnh của một vườn cây trái tươi tốt, mỡ màng, mơn mởn, những cành cây, tán lá còn đọng lại những giọt sương đêm long lanh. Cùng với đó là lối so sánh “xanh như ngọc” gợi lên hình ảnh của khu vườn đẫm sương đêm được mặt trời chiếu rọi. Những chiếc lá như những phiến ngọc bích khổng lồ đang khoe mình dưới ánh nắng vàng rực rỡ. Câu thơ là lời trầm trồ ngợi khen của thi nhân với phong cảnh Vĩ Dạ trong tình yêu tha thiết. Say sưa ngắm phong cảnh Vĩ Dạ, thế nhưng, càng say hơn nữa là hình ảnh của “khuôn mặt chữ điền” thấp thoáng trong vòm lá:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Đây là một nét cách điệu tài hoa của Hàn Mặc Tử. Khuôn mặt thấp thoáng sau vòm lá trúc, thiên nhiên hoà lẫn với con người, khiến cho khung cảnh càng trở nên ấm áp, sinh động hơn rất nhiều. Khuôn mặt người ẩn hiện sau vòm lá trúc che ngang gợi liên tưởng về nét dịu dàng, e ấp đầy kín đáo của con người xứ Huế. Hình ảnh khuôn “mặt chữ điền” hẳn được Hàn Mặc Tử lấy ý từ câu ca dao quen thuộc của người dân Huế:
“Mặt em vuông tựa chữ điền
Da em thì trắng, áo đen mặc ngoài
Lòng em có đất có trời
Có câu nhân nghĩa có lời thuỷ chung”
Chỉ với một nét vẽ cách điệu mà Hàn Mặc Tử đã thâu tóm được hết cái hồn của cảnh vật và con người Vĩ Dạ. Cảnh đẹp thơ mộng, ấm áp còn con người thì kín đáo, dịu dàng, chân phương. Bốn câu thơ đầu là bức tranh phong cảnh Vĩ Dạ vừa đẹp tươi lại thơ mộng, ấm áp. Đằng sau đó là tâm hồn của một con người gắn bó tha thiết với miền quê Vĩ Dạ và một khát khao muốn được giao cảm với cuộc đời. Khổ thơ cũng cho thấy những nỗ lực cách tân thơ mới của Hàn Mặc Tử khi ông đưa vào thơ những hình ảnh bình dị, giàu xúc cảm, tạo nên nét đẹp hiện đại cho khổ thơ. Bước sang khổ thơ thứ hai, cảnh thôn Vĩ Dạ không còn tĩnh tại mà có những sự vận động.
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Bức tranh phong cảnh mở ra phóng khoáng với trời mây, sông nước, vừa đẹp hùng vĩ lại thơ mộng, nên thơ. Nhịp thơ chậm rãi tạo nên âm điệu mênh mang, gợi ra nét yên bình đặc trưng của xứ Huế. Hàn Mặc Tử cũng đặc tả dòng Hương giang dưới ánh trăng khuya, đó là dòng sông lấp lánh đẹp lộng lẫy với con thuyền trăng neo đậu trên bến sông giữa không khí tịch mịch của màn đêm thăm thẳm.
Thế nhưng, ẩn sau bức tranh phong cảnh đẹp đẽ đó là tâm trạng của thi nhân kín đáo gửi gắm qua từng câu thơ tả cảnh ngụ tình. Hàn Mặc Tử nhân hóa mây và gió, trở thành hai con người riêng biệt, nhưng hai con người ấy lại đang trong cảnh chia ly, gió một đường, mây một nẻo. Hình ảnh đó gợi lên hoàn cảnh hiện tại của nhà thơ khi ông cũng đang phải cách biệt với cuộc đời trong một tình yêu đơn phương. Nỗi buồn của thi nhân đã ngấm sang cảnh vật khiến cho mây gió cũng mang nặng nỗi sầu muộn.
Và dòng sông Hương đang lững lờ trôi kia cũng đang trĩu nặng nỗi buồn thương của thi nhân mà “buồn thiu”. Dòng sông đã được nhân hoá để giúp nhà thơ bày tỏ nỗi lòng mình, đó là một nỗi cô đơn rợn ngợp, nhìn quanh chỉ thấy hoa bắp lay động, sự vắng lặng, quạnh quẽ đìu hiu khiến cho nỗi cô đơn càng thêm thấm thía. Càng thấm thía hơn khi nhà thơ đặt mình giữa trời, trăng, sông nước, Sông nước mênh mang, ánh trăng lạnh lẽo còn màn đêm thì tĩnh mịch, tất cả gợi lên nỗi cô đơn đến tận cùng. Bởi nhà thơ đang bị ngăn trở với cuộc đời vì bệnh tật. Tuy nhiên, dù có bị ngăn trở bởi bệnh tật, nhà thơ vẫn có một niềm khao khát mãnh liệt là được yêu thương hoá giải nỗi đau. Vậy nên ta mới thấy thấp thoáng một bóng “thuyền ai” mang sự sống của con người trên bến sông vắng:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Bóng con “thuyền ai” thấp thoáng, nhà thơ đã vội vàng gọi hỏi, cuống quýt, bồi hồi, thế nhưng niềm hi vọng hoá giải nỗi đau thương đã nhanh chóng rơi vào hụt hẫng. Chính vì vậy, nhà thơ mới mong “chở trăng về kịp tối nay”, tối mà thi nhân đang cô đơn nhất, chỉ mong vầng trăng sẽ hoá giải nỗi cô đơn sâu thẳm trong tâm hồn. Trăng vốn là nguồn cảm hứng vô tận của nhà thơ, là đẹp muôn đời mà dù có bệnh tật ngăn trở thì nhà thơ vẫn một lòng khao khát chạm đến. Vậy nên, đọc thơ Hàn Mặc Tử, người ta không chỉ cảm phục một hồn thơ tài hoa mà còn khâm phục cả nghị lực sống của một con người luôn vươn lên trong hoàn cảnh để cống hiến cái hay cái đẹp cho đời.
Bốn câu thơ là bức tranh sông nước mây trời mang đặc trưng của Vĩ Dạ nhưng thấm thía trong đó là nỗi lòng buồn, cô đơn của thi nhân và cả niềm khát khao được giao cảm với trần thế. Đoạn thơ vẫn kế thừa những nét truyền thống của thơ ca cổ nhưng vẫn thể hiện được nỗ lực cách tân thơ mới của Hàn Mặc Tử khi ông sử dụng ngôn từ thơ rất bình dị, hình ảnh thơ rất đời thường. Khổ cuối cùng được Hàn Mặc Tử viết nên trong nỗi khao khát cháy bỏng được trở về với Vĩ Dạ:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Câu thơ đầu tiên của khổ thơ khuyết thiếu chủ ngữ, không tuân theo ngữ pháp thông thường nhưng lại là dụng ý của Hàn Mặc Tử khi ông muốn nhập hào chủ thể và khách để, để người mơ và “khách đường xa” chỉ là một người. Mơ ước, khát khao được trở lại Vĩ Dạ nên Hàn Mặc Tử đã tự biến mình trở thành một người lữ hành từ xa trở về. Nhịp thơ 1/3/3 kết hợp cùng điệp ngữ “khách đường xa” trong âm sắc cao vút, khiến cho ta như cảm nhận được tiếng reo vui, náo nức. Điều đó đã chứng tỏ Hàn Mặc Tử yêu Vĩ Dạ đến nhường nào! Mơ về Vĩ Dạ để được đắm mình trong cảnh trong tình người của Vĩ Dạ:
“Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”
Một Vĩ Dạ bảng lảng khói sương với thấp thoáng những dáng hình thiếu nữ cùng tà áo dài trắng duyên dáng. Phải chăng đó là hình ảnh của những nữ sinh Đồng Khánh đã in dấu sâu đậm trong tâm hồn thi nhân. Hai nét vẽ chấm phá mà Hàn Mặc Tử dường như đã thâu tóm toàn bộ tâm hồn của Vĩ Dạ. Trở về Vĩ Dạ là muốn đắm mình trong tình người, trong cảnh đẹp của Vĩ Dạ, thế nhưng, chỉ nhìn thấy “áo em trắng quá”, trắng đến mức “nhìn không ra” bởi sương khói đã làm hình người nhập nhoà, mở tờ. Vậy nên:
“Ai biết tình ai có đậm đà?”
Làn sương khói mở ảo ấy không chỉ khiến người ta khó nhận ra nhân dạng mà còn làm mờ cả nhân ảnh. Hiện thực phũ phàng ấy đã khiến Hàn Mặc Tử một lần nữa rơi vào hụt hẫng. Bài thơ mở ra bằng câu hỏi “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” nồng đượm tình người thì kết lại cũng bằng câu hỏi nhưng lại là sự hoài nghi về tình người:
“Ai biết tình ai có đậm đà?”
Câu thơ chứa đựng nỗi chua xót vô cùng, nỗi hoài nghi rằng liệu tình người Vĩ Dạ có còn “đậm đà” như trước hay chăng? Điệp từ “ai” lặp lại hai lần trong cùng một câu thơ vừa làm thơ Hàn Mặc Tử mang đậm chất ca dao vừa giúp câu thơ trở thành điển hình cho tâm trạng của những người trong tình yêu đơn phương.
Bài thơ khép lại nhưng để lại trong ta ấn tượng về bức tranh thôn Vĩ Dạ bới những hình ảnh thiên nhiên và con người mang đậm nét đẹp xứ Huế. Tất cả những hình ảnh đẹp đẽ trong bài thơ từ cảnh vườn sớm mai, cảnh sông nước, bóng dáng áo dài trắng thướt tha đều thấm đượm linh hồn của Vĩ Dạ và tình yêu tha thiết của nhà thơ. Đằng sau đó là tâm trạng của thi nhân, nỗi nhớ nhung da diết Vĩ Dạ và khát khao được giao cảm với cuộc đời. Đồng thời, nhà thơ cũng bày tỏ nỗi lòng cô đơn khi bị bệnh tật dày vò phải chia lìa với cuộc đời. Đây thôn Vĩ Dạ là kết tinh của một tình yêu cuộc sống tha thiết và niềm đam mê cái đẹp bất diệt.
Bài văn cảm nhận bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" - mẫu 4
Hàn Mặc Tử sinh năm 1912, mất năm 1940, tên thật là Nguyễn Trọng Trí. Ông là một nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam nói chung và phong trào thơ Mới nói riêng. Thơ Hàn Mặc Tử là một hồn thơ độc đáo với sức sáng tạo mãnh liệt, nhà thơ Chế Lan Viên từng nhận xét “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình". Ông đã đóng góp vào thơ Mới nhiều tập thơ có giá trị, trong đó phải kể đến Gái Quê, Duyên kỳ ngộ hay Thơ Điên. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ in trong tập thơ Điên là thi phẩm hay tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của ông.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” xuất hiện đầu khổ thơ mang nhiều sắc thái. Đó phải chăng chính là lời mời gọi của người thôn Vĩ dành cho những ai chưa từng đến với vùng quê yên bình mà đẹp đẽ này. Hay đó là câu hỏi đượm chút trách móc nhẹ nhàng của cô gái thôn Vĩ rằng sao đã bấy lâu rồi anh không về thăm Vĩ Dạ, nếu là lời trách móc ấy thì chắc hẳn người bị trách cũng hẳn thấy thật hạnh phúc khi biết có người còn thương, còn nhớ đến mình? Đó cũng có thể là lời tự vấn của nhân vật trữ tình, tác giả đã phân thân để hỏi chính mình sao không trở về với Vĩ Dạ thân yêu, mảnh đất của tuổi hoa niên đầy kỉ niệm.Và có lẽ, đằng sau câu thơ ấy chính là nỗi u uất lớn trong lòng thi sĩ khi không thể trở về được mảnh đất quê hương mà bản thân đã từng gắn bó. Thể xác không về được, mượn tâm hồn mình để trở về với Huế, một bức tranh Vĩ Dạ tươi đẹp, trong trẻo dần hiện ra trong tâm tưởng nhà thơ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Động từ “nhìn” được đặt đầu câu diễn tả được khát khao muốn được trực tiếp cảm nhận tất thảy những vẻ đẹp của thiên nhiên thôn Vĩ. Hình ảnh “nắng hàng cau” được tác giả gợi ra thật đặc biệt, đó là một màu nắng rất mới trong văn chương. Người ta thường hay gọi nắng vàng, nắng chiều, nắng bình minh còn ở đây, thi nhân là cảm nhận về “nắng hàng cau”. Đó là thứ ánh nắng tinh khôi, long lanh, đẹp đẽ và huyền diệu. Cau là loài cây cao nhất trong vườn nhà, bởi vậy mà nó được đón những tia nắng đầu tiên của ngày mới. Trong buổi sớm ban mai trong lành ấy, nắng trải những vệt dài trên hàng cau, những tàu cau còn ước đẫm sương đêm được tưới tắm bởi ánh nắng tươi mới và rực rỡ tạo nên vẻ đẹp thanh tân, tinh khiết. “Nắng hàng cau” cũng là ánh nắng của tuổi trẻ, của tuổi hoa niên ngập tràn những ước mơ và hy vọng.
Tính từ “mướt” kết hợp với biện pháp nghệ thuật so sánh “xanh như ngọc” gợi nên vẻ đẹp xanh tươi, mơn mởn, tươi non và mượt mà, vừa tự nhiên lại vừa quý phái của khu vườn. Màu “xanh như ngọc” ấy dường như không chỉ được cảm nhận bằng thị giác mà còn được toát ra từ bên trong tâm hồn thi nhân. Vườn thôn Vĩ tựa một viên ngọc thanh tú, kiều diễm. Đại từ phiếm chỉ “ai” cùng với phó từ chỉ mức độ “quá”diễn tả sự ngạc nhiên đến ngỡ ngàng lại vừa như một tiếng reo vui, trầm trồ của nhân vật trữ tình trước vẻ đẹp thiên nhiên.
“Lá trúc chen ngang mặt chữ điền”
Cảnh thôn Vĩ trong sáng, hữu tình, người thôn Vĩ thật thà, nhân hậu. Hình ảnh “mặt chữ điền” gợi ra nét đẹp dịu dàng, ngay thẳng và phúc hậu của người con gái xứ Huế thấp thoáng sau “lá trúc” xinh xắn, mảnh mai. Một vẻ đẹp e ấp, duyên dáng rất riêng của con người xứ Huế hài hòa với cảnh thiên nhiên tươi đẹp. Có thể nói, bốn câu thơ đầu đã làm sống lại một thuở tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống, một trái tim hồn nhiên thuở hoa niên tươi đẹp, khi bản thân tác giả chưa hề có mặc cảm về hoạn nạn đau thương trong cuộc đời mình. Sau những hình ảnh đẹp về cảnh và người, nhân vật trữ tình trở về với thực tại đau thương, một nỗi đau và dự cảm chia lìa trong tâm hồn. Vẻ đẹp tươi tắn, giàu sức sống nhòa đi với một không gian đượm buồn:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Nhịp thơ 4/3 như bẻ đôi câu thơ, đứt gãy gợi sự chia cắt, chia lìa. Tất cả dường như đều bỏ đi, ngược lối. Quy luật tạo hóa, mây và gió vốn là hai sự vật luôn song hành cùng nhau nhưng qua tứ thơ Hàn Mặc Tử, gió- mây ngược chiều, xa cách “Gió theo lối gió, mây đường mây”. Với quy luật tự nhiên, nó là điều phi lý nhưng theo dòng tâm trạng của thi nhân thì nó lại rất hợp lý, bởi gió-mây lúc này được cảm nhận qua tâm trạng cô đơn, trống văn, chia ly, cách biệt, dường như nó là một dự cảm về nỗi đau, về hiện thực li tán khi thi sĩ đã nhận rõ bệnh tật- hoàn cảnh đau thương của mình.
Nỗi buồn dường như không dừng lại, nó bao trùm cả không gian cao- rộng của đất trời, của cảnh vật. Hình ảnh nhân hóa “dòng nước buồn thiu”, chảy trôi chầm chậm, lặng lẽ biến dòng sông trở thành một sinh thể có hồn, mang trong mình nỗi niềm man mác, sầu bi. Cánh hoa bắp cũng vật vờ, khẽ khàng buông lơi, mang theo cả một nỗi buồn trong gió. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh được tác giả vận dụng rất khéo léo gợi ra một không gian nhuốm màu tâm trạng, bởi:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Trong nỗi buồn thê lương như thế, ánh trăng chợt hiện về trong tiềm thức kẻ tri âm:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Dòng sông Hương vốn thơ mộng, hữu tình nay được dát lên ánh trăng vàng lại càng thêm lung linh, huyền ảo. Thuyền trăng, sông trăng, bến trăng, cả không gian mênh mang ánh trăng huyền diệu. Trong nỗi buồn tuyệt vọng, nhân vật trữ tình tìm đến trăng, trăng giờ đây là ‘người tri kỷ’, cùng khóc cười, chia sẻ bao nỗi buồn với thi nhân. Câu hỏi tư từ thốt lên: “Có chở trăng về kịp tối nay?” mang cả một nỗi niềm khắc khoải, thiết tha, mang cả một niềm hy vọng mãnh liệt của một tâm hồn khát khao được sẻ chia, ủi an, được giao cảm để xoa dịu những đớn đau, tuyệt vọng trong tâm hồn. Làm sao để chở trăng về cho “kịp tối nay” Là “tối nay” chứ không phải là một tối nào khác bởi với thi nhân dòng cuộc đời đang cạn dần, sự chia lìa cõi trần có thể đến bất cứ lúc nào không hay.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Trong thế giới mộng tưởng, tác giả “mơ” mình là một vị “khách” trên để được trở về thăm thôn Vĩ. Đó là một giấc mơ đẹp trong mộng tưởng, một vị “khách đường xa” trong chính giấc mộng của mình. Điệp ngữ “khách đường xa” kết hợp với từ “mơ’ diễn tả nỗi khắc khoải, khát khao được giao cảm, sẻ chia, được trở về gặp lại cảnh cũ người xưa, sống lại cuộc đời chính mình của nhà thơ.
Màu áo “trắng” mang vẻ đẹp tinh khiết, gợi lên vẻ đẹp tinh khôi của người con gái Vĩ Dạ “em”, trước vẻ đẹp trong trẻo, tinh khôi ấy thi nhân càng tuyệt vọng khi biết mình chẳng thể nào với tới được “nhìn không ra”, bởi “ta” chỉ là một kẻ ốm đau, bệnh tật giữa chốn địa ngục trần gian mà thôi. Một nỗi đau vô bờ ẩn sau câu thơ, với tác giả tất cả những gì thuộc về cuộc đời, thuộc về tình yêu lúc này đây đều xa tầm với.
Không gian mờ ảo hiện ra với “sương khói” làm nhòa thêm bóng dáng con người “nhân ảnh”, nhòa đi cả tình người, tình đời. Câu hỏi tu từ một lần nữa được sử dụng: “Ai biết tình ai có đậm đà” kết hợp với đại từ phiếm chỉ “ai” xuyên suốt trong cả bài thơ càng khẳng định trái tim chân thành, yêu cuộc sống, thiết tha với cuộc đời của tác giả. Vì yêu cuộc đời mà tác giả hoài nghi, lo sợ rằng liệu người thôn Vĩ có thấu hiểu được lòng mình đang rất thiết tha với cảnh, với người, với xứ Huế thân yêu hay không? Liệu người có hiểu được trái tim trong từng nhịp thở vẫn luôn hướng về cuộc đời vốn đáng yêu, đáng sống, vẫn luôn khát khao có người san sẻ nỗi lòng hay không? Câu thơ cuối bài như một nốt lặng để lại dư âm về lẽ sống, về nỗi tuyệt vọng đến tột cùng khi niềm khát khao giao cảm mãnh liệt lại chẳng thể nào tìm được một tâm hồn đồng điệu.
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ không chỉ giàu giá trị nội dung mà còn mang những giá trị nghệ thuật độc đáo. Các hình ảnh thơ vừa gần gũi, trong sáng, vừa siêu thực, tượng trưng, lại vừa thi vị, giàu sức gợi. Các câu hỏi tu từ, biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa điệp ngữ và các tính từ chỉ mức độ được sắp xếp linh hoạt, khéo léo. Tất cả đã tạo nên một thi phẩm độc đáo, bài thơ là hành trang tinh thần không thể thiếu cho bao thế hệ khi nhắc đến thơ Mới nói chung và thơ Hàn Mặc Tử nói riêng.
Bài văn cảm nhận bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" - mẫu 5
“Vườn thơ Hàn rộng không bờ bến nhưng càng đi xa càng thấy lạnh”. Đó là nhận định của nhà phê bình văn học Hoài Thanh về Hàn Mặc Tử - một trong những gương mặt thơ tiêu biểu trong phong trào Thơ mới. Thông qua bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, chúng ta có thể thấy được thế giới lạnh lẽo, sâu xa đến ám ảnh trong hồn thơ của chàng thi sĩ họ Hàn với hệ thống ngôn từ, thi liệu, hình ảnh độc đáo. Và ở mỗi một khổ thơ, tác giả đã tái hiện những không gian, khung cảnh thiên nhiên khác nhau và có sự vận động, biến chuyển để xoáy sâu vào nỗi khát khao giao cảm với tình người, tình đời.
Câu thơ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ mang nhiều ý nghĩa về sắc thái cảm xúc. Đó có thể là một lời trách móc nhẹ nhàng, có thể là một lời giới thiệu, mời gọi khách thể đến với vườn thôn Vĩ, có thể là lời tự vấn của chủ thể trữ tình. Và từ câu hỏi này, tác giả đã tập trung miêu tả về vẻ đẹp thiên nhiên xứ Huế. Trước hết, đó là ánh nắng buổi bình minh đang len lỏi trên cành cây kẽ lá, quyện hòa làm nên thi ảnh độc đáo “nắng hàng cau”. Chiều kích không gian bỗng thay đổi và hạ xuống thấp với vẻ đẹp của khu vườn thôn Vĩ trong gam màu “mướt quá xanh như ngọc”, gợi lên sự xanh non, tươi mới và trong trẻo.
Trong những gam màu tươi sáng đó, hình ảnh con người xuất hiện trong mối quan hệ giao hòa: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Bóng dáng con người thấp thoáng cùng sự bí ẩn và gợi ra nhiều cách giải mã trong lòng độc giả. Phải chăng đó là khuôn mặt của người thiếu nữ ẩn hiện sau khóm trúc, lá trúc cắt ngang tạo nên khuôn mặt chữ điền, hay đó là khuôn mặt tượng trưng cho vẻ đẹp phúc hậu của con người xứ Huế? Với tài năng trong việc sử dụng ngôn từ, tác giả Hàn Mặc Từ đã kiến tạo nên những hình ảnh, thi liệu đa nghĩa và giàu sắc thái biểu đạt để phác họa bức tranh về thiên nhiên, cảnh vật và con người xứ Huế. Khổ thơ thứ hai gợi lên không gian của sự chia lìa, xa cách đượm buồn hiu hắt và lung linh, huyền ảo:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Nếu như ở khổ thơ thứ nhất, bức tranh thiên nhiên được miêu tả với những gam màu tươi tắn của buổi sớm mai thì ở khổ thơ này, dòng thời gian đã vận động, chuyển mình qua khung cảnh gió mây, trăng nước. Theo quy luật thông thường của thiên nhiên, gió và mây luôn là hai hình ảnh sóng đôi “gió thổi, mây bay”, nhưng qua những câu thơ của chàng thi sĩ họ Hàn, gió – mây lại hiện lên trong mối quan hệ đối lập của sự chia lìa, xa cách, trôi nổi và tượng trưng cho nỗi trống vắng, cô đơn trong tâm trạng của nhân vật trữ tình. Không chỉ dừng lại ở đó, khung cảnh còn được bao phủ bởi bức màn của nỗi buồn qua những hình ảnh giàu sức gợi như “dòng nước buồn thiu”.
Với tính từ “buồn thiu” kết hợp biện pháp nhân hóa, dường như nỗi buồn mang sắc thái chia phôi của gió và mây đã thấm vào sông nước, khiến dòng thủy lưu mang nặng nỗi buồn của thiên nhiên tạo vật. Và trong khung cảnh đó, ánh trăng xuất hiện và bao trùm không gian, làm nên một liên tưởng độc đáo về sông trăng, thuyền trăng. Trong mặc cảm chia lìa, ánh trăng hiện lên trong nỗi lo âu, khắc khoải “Có chở trăng về kịp tối nay?” đã làm nổi bật hơn nữa nỗi bồn chồn cùng tâm trạng xót xa, đau đớn cùng nỗi ám ảnh về khát khao giao cảm với đời của nhân vật trữ tình. Dòng tâm trạng của nhân vật trữ tình tiếp tục được làm nổi bật qua không gian vừa thực vừa ảo mộng:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Những hình ảnh, con chữ trong câu thơ được kiến tạo theo dòng cảm xúc mang tính tượng trưng, siêu thực. Nhà nghiên cứu phê bình văn học Phan Cự Đệ cũng từng có những nhận định sâu sắc về khuynh hướng này trong thơ Hàn Mặc Tử: “...người ta không phân biệt được hư và thực, sắc và không, thế gian và xuất thế gian, cái hữu hình và cái vô hình, nội tâm và ngoại giới, chủ thể và khách thể, thế giới cảm xúc và phi cảm xúc”. Khung cảnh thiên nhiên với vườn thôn Vĩ, nắng sớm mai, hàng cau, lá trúc, gió mây, dòng nước, thuyền trăng, sông trăng biến mất và nhường chỗ cho hình bóng “khách đường xa” trong ảo mộng. “Áo em trắng quá” phải chăng là ẩn dụ cho bóng dáng của người con gái từng xuất hiện trong thi ảnh “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”.
Khung cảnh cũng vận động từ thực đến ảo, từ vườn thôn Vĩ đến sông trăng và cuối cùng chìm vào tâm thức mờ ảo của sương khói “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”. Dường như “sương khói” là tác nhân làm mờ đi, nhòa đi bóng dáng con người và tình người. Thi nhân đã cố gắng níu kéo trong khát khao giao cảm với hồn người, tình người nhưng tất cả chỉ là sương khói mờ ảo. Bài thơ được kết thúc bởi câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” xoáy sâu hơn nữa bị kịch của nhân vật trữ tình. Đại từ phiếm chỉ “Ai” được điệp lại hai lần khiến câu thơ ngân dài và vang xa, làm nhòe mờ hình tượng của khách thể và chủ thể trữ tình, tạo nên một nỗi ám ảnh về nỗi đau trong cõi mênh mông tận cùng. Đó là nỗi tuyệt vọng của một tâm hồn khát khao giao cảm với đời nhưng mãi mãi không được cộng hưởng và hồi đáp.
Như vậy, qua sự biến chuyển của mạch cảm xúc, có thể khẳng định mỗi một khổ thơ của “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bức tranh riêng biệt và độc lập; nhưng vẫn liên kết với nhau qua sự biến chuyển, vận động trong tâm trạng nhân vật trữ tình. Đó là tâm hồn của một người thi sĩ khát khao giao cảm với tình đời, tình người trong nỗi ám ảnh, khắc khoải và xót xa.
Bài văn cảm nhận bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" - mẫu 6
Nếu như Xuân Diệu được mệnh danh là nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới thì Hàn Mạc Tử được mệnh danh là nhà thơ lạ nhất trong các nhà thơ mới. Thơ của ông nổi bật với những đường nét và màu sắc riêng khi thì táo bạo ấn tượng, khi thì thanh trong thoát tục. Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của ông là một bài thơ rất hay và để lại nhiều tình cảm trong trẻo trong lòng người đọc.
Mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ gợi nhiều suy tưởng trong lòng người đọc:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Đây liệu có phải là câu hỏi có đượm một chút trách khéo của cô gái về việc chàng trai đã lâu không về thăm thôn Vĩ Dạ. Bởi, khi làm bài thơ này, Hàn Mạc Tử đang ở trại phong Tuy Hòa và nhận được bức ảnh của Hoàng Cúc về miền quê xứ Huế, ông theo đó mà miêu tả những đường nét của xứ Huế qua trí nhớ mà bức ảnh gợi lại. Nhưng với câu hỏi này, ta cũng có thể hiểu đó là một lời mời chàng trai về thăm thôn Vĩ của cô gái xứ Huế. Rồi từ câu hỏi đó, thi sĩ đã nhìn thấy bao nhiêu cảnh sắc, con người xứ Huế:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Từ trong tưởng tượng của người đọc, một bức tranh tươi đẹp về thiên nhiên, con người xứ Huế được hiện lên nên thơ, yên bình. Cả bức tranh nổi bật lên màu nắng tươi mới trên bầu trời cao xanh, màu nắng ấy đã làm tỏa rạng cả một vườn xanh tươi. Từ "mướt" trong câu thơ gợi cho người đọc cảm giác xanh tươi lạ thường, có liên tưởng mảnh vườn nhỏ y như một viên ngọc thnah thoát mà đồng nội giữa cảnh sắc xứ Huế. Đặc biệt, nổi bật trong những sắc màu tốt tươi tuyệt vời mang lại cảm giác thanh bình yên ả ấy, hình ảnh con người xứ Huế hiện lên hiền lành, đôn hậu với "khuôn mặt chữ điền" ấn lấp sau lá trúc, một biểu tượng cho sự thanh tao của người quân tử. Có thể đó là khuôn mặt dễ mến, đôn hậu của con người xứ Huế trong tâm thức nhà thơ cũng có thể là hình ảnh người con gái Huế thân thương dịu dàng. Ở khổ một này, tất thẩy cả màu sắc đến đường nét đều tạo cho bức tranh một sự tươi sáng lạ thường, khiến lòng người yên ổn, nhưng ở đạn thơ thứ hai, giống như những cảm xúc vui tươi nhất thời khi đsn nhận được món quà đã qua, xúc cảm bám viú bao nhiêu ngày nay trở lại, ta nhận ra giọng đượm màu chia cách trong giọng thơ;
Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
"Gió" và "mây" vốn là hai hiện tượng thân thiết nhưng ở câu thơ của Hàn Mạc Tử thì lại mỗi thứ một đường, tạo một sự chia xa khó tả. Không chỉ có vậy, sự êm đềm của dòng sông xứ Huế lại tạt vào lòng người cảm giác "buồn thiu", những cánh hoa bắt "lay" cũng gợi sự mỏng manh yếu ớt khiến cho cả không giam nhuốm màu thê lương. Trong khung cảnh không nhiều vui tươi như thế, một câu hỏi tu từ chợt bật ra:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?
Câu này là hỏi cho thuyền cho trăng hay là hỏi cho chính con người? Câu hỏi bật lên nhẹ nhàng nhưng nặng trĩu sự lo lắng, sự thấp thỏm, không biết liệu rằng có còn kịp hay không? Kịp để nhìn thấy sự tươi đẹp của cuộc đời, của con người, có kịp làm điều mong ước, tất cả đều là sự khát khoa giao cảm đến tột cùng khi con người ta phải xa với đời trong chốn cô đơn và ngày ngày chờ đến lời phán quyết cuối cùng của cuộc đời mình. Ở đoạn thơ thứ ba, khát khoa này càng bộc lộ rõ hơn bao giờ hết:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra...
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Điệp từ "khách đường xa" được lập lại như thể nhấn mạnh sự ước ao, sự lưu ý bao nhiêu ngày tháng. "Khách đường xa" ở đây là ai? Có lẽ là cô gái chăng? Hay chỉ là một người nào đó vu vơ, mơ là để vơi đi nỗi cô đơn bao nhiêu ngày tháng, mơ là để ước ao có một ai đó đến với nhân vật trữ tình trong những ngày đau khổ này. Chỉ có điều: "Áo em trắng quá nhìn không ra". Màu trắng là màu sắc rất hay xuất hiện trong thơ của Hàn Mạc Tử, luôn là biểu hiện của sự tinh khôi thanh khiết, giống y như nàng trinh nữ, lúc nào cũng trắng trong tuyệt vời. Nhưng có lẽ do màu trắng tinh khôi của áo mà trong giấc mơ của mình, Hàn Mạc Tử đã không thể nhìn rõ cô gái, bởi sương khói mông lung đã làm mờ nhạt cả trí nhớ, chỉ còn lại sự thanh khiết không gì nhạt phai. Kết thúc bài thơ, một câu hỏi tu từ lại được thốt lên hết sức thiết tha:
Ai biết tình ai có đậm đà?
Ai ở đây là ai? Là cô gái? Chàng trai đang băn khoăn về tình cảm của cô gái, hay chính là chàng trai đang có ý trách cô gái không nhận ra tình ảm đậm đà bấy lâu của mình. Hay có lẽ đây là nghi vấn về tình cảm của con người với con người, của người đời dành cho nhau. Thật khiến người ta phải suy ngẫm!
Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" là một trong số ít những bài thơ không mang những nét u buồn thất vọng về cuộc đời nhưng cũng không hẳn là mang âm hưởng vui tươi. Tuy nhiên ta vẫn nhận ra những tình cảm hết sức sâu sắc, yêu đời, yêu đời và khát khao giao cảm hơn hết. Đọc bài thơ ta không khỏi nhận thấy sự âm vang trong tâm trí bởi cảm tình thiêng liêng và chân thành.
Bài văn cảm nhận bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" - mẫu 7
Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chói lọi diệu kì trong vòm trời rực rỡ lấp lánh nhiều tinh tú lạ. Thơ Hàn vừa thể hiện tình yêu khôn cùng với cuộc sống trần tục, vừa hướng về Chúa Trời với những niềm thanh khí thần tiên. Đã có nhiều hướng tiếp nhận kiệt tác Đây thôn Vĩ Dụ. Song, ai cũng thấy rằng bài thơ nói về tình ỹêu - một tình yêu đơn phương, thơ mộng, trong sáng, hồn huyền ảo. Tuy nhiên, khó phủ nhận được là Hàn Mặc Tứ đã nói khá hay về xứ Huế mộng và thơ. Đây thôn Vĩ Dạ chi vẻn vẹn có 3 khổ, tổng cộng 12 câu thất ngôn.
Bài thơ có lẽ là lời trách thầm, và cũng là lời nhắn nhủ nhẹ nhàng gửi gắm của nhân vật trữ tình, trong một tâm trạng vời vợi nhớ mong:
Sao anh không về chơi thôn Vi?
Nhìn nắng làng can nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền?
Nếu như mỗi tình yêu đều gắn với một không gian và thời gian cụ thể, thì mỗi hình ảnh của nhân vật trử tình trong bài thơ này gắn với vườn tược và con người Vĩ Dạ, đều những kỉ niệm thật khó quên. Có dịp, xin mời bạn hãy về thăm thôn Vĩ vào một buổi sớm mai Vĩ Dạ nằm ngay bên bờ sông Hương êm đềm thơ mộng, chỉ cách trung tâm cố đô Huế khoảng không đầy một giờ tản bộ. Từ xưa, thôn Vĩ Dạ đã nổi tiếng bởi cây cối xanh tươi, và những biệt thự nhỏ nhắn duyên dáng, thấp thoáng, tưới màu xanh của cây lá. Thôn Vĩ Dạ cũng nổi tiếng như sông Hương, núi Ngự, chùa Thiên Mụ... của xứ này. Bởi vậy, ta không lấy làm ngạc nhiên khi thấy nhiều nghệ sĩ tên tuổi như Nguyễn Bính, Bích Khuê, Nguyễn Tuân... đều có những cảm giác mà cảm hứng được nảy sinh từ thốn Vĩ Dạ nên thơ.
Sớm mai, nắng mới long lanh trên những tàu cau còn ướt sương đêm. Khách từ xa tới sẽ thấy hàng cau trước nhất, vì nó thường cao hơn hẳn những cây cối xum xuê ở dưới. Đất đai Vĩ Dạ phì nhiêu, được con người cần cù chăm bón; quả thật, cây cối ở đây xanh tốt mơn mởn và sạch sẽ như được lau chùi, mài giũa thành như những cành vàng lá ngọc...
Câu thơ: Lá trúc che ngang mặt chữ điền?
Thật là một sáng tạo độc đáo. "Mặt chữ điền" gợi cho người đọc nhớ tới hình ảnh ngươi dân có khuôn mặt vuông vức, thân hình cường tráng, đầy nam tính. Nhưng, khi hình tượng này đặt trong chính thể đoạn thơ và câu thơ: "Lá trúc che ngang mặt chữ điền" thì ấn tượng nổi bật lại là sự hài hòa, gắn bó mật thiết giữa con người với vườn tược quê hương. Như vậy, câu thơ còn khắc họa thành công một nét đáng nhớ; đáng yêu của thôn Vĩ: Cảnh đẹp đẽ, tốt tươi; con người đôn hậu giàu sức sống.
Tiếp nối mạch cảm xúc của khổ đầu, dường như khổ thứ hai, nhà thơ có phần (lành để đặc tà cảnh sóng nước, mây trời xứ Huế và cũng bộc lộ niềm hoài vọng bâng khuâng:
Gió theo lối gió mây đường mây,
Dòng nước buồn thỉu hoa bấp bay;
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Nhịp diệu dịu dàng, khoan thai của xứ Huế được khắc họa thành công: Gió và mây nhè nhẹ trôi đi; sông Hương nước chảy lặng lờ. Hoa ngô (hoa bắp) chi khẽ đung đưa theo chiều gió. Khác với khố một, đến khổ thứ hai này, không gian được miêu tả như trong mộng ảo, tràn ngập ánh trăng. Nhá thơ không những chỉ ta, không những chỉ nhìn bằng mắt mà điều quan trọng hơn là còn "nhìn" bằng thế giới tâm linh của mình: Do đó, không có biên giới giữa thực và mộng và dường như càng về cuối thế giới tâm linh, thế giới mộng ao càng lấn át thế giới hiện thực. Vì là mộng ảo, nên có nỗi băn khoăn rất mộng mơ: "Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó - Cỏ chở trăng về kịp tối nay?". Thuyên trăng thì có nhiều thi nhân nhắc đến. nhưng "sông Trăng" thì có lẽ Hàn Mặc Tử là người sáng tạo đầu tiên. Dường như trong những câu thơ trên, có sự mong chờ, niềm hi vọng, lẫn nỗi buồn man mác của nhà thơ, ở đây rõ ràng, không có sự đặc sắc của một bút pháp phác họa đúng linh hồn của một xứ sớ, mà điều quan trọng nữa là: Những nét phác họa ấy gợi lên ở người đọc một tình yêu thật dịu dàng, kín láo, mà sâu xa rộng mở đến khôn cùng. Ấn tượng của người đọc về những điều nói trên sẽ được nhà thơ tô đậm qua khổ kết:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Đúng là xứ Huế vốn mưa nhiều, lắm sương khói. Do đó, phải chăng khổ thơ trên có nét tả thực, cũng giống như "hàng cau", "lá trúc" "hoa bắp"... ở những khổ thơ trước? Sương khói trắng, và áo em cũng trắng: Bởi vậy, nếu nhà thơ chỉ nhìn thấy bóng người thôi (nhân ảnh), thì cũng là điều dễ hiểu. Tuy vậy, như đã nêu, Hàn Mặc Tử vốn là nhà thơ lãng mạn đích thực, cái chính là thi sĩ đã nói bằng tâm tưởng, gieo vào lòng người đọc một thoáng bâng khuâng: Người thiếu nữ Huế tươi đẹp quá, kín đáo và huyền ảo quá; nào ai có biết tình yêu của họ bền chặt, hay cũng chỉ mờ ảo như khói sương xứ Huế?
Ở đây, dường như tác giả cảm thấy mình chơi vơi hụt hẫng, trước một mối tình đơn phương lung linh, huyền ảo. Nếu nhận ra rằng. Hàn Mặc Tử vốn là người rất mực tài hoa, luôn khao khát yêu thương; nhưng căn bệnh phong hiểm nghèo đã làm ông không có được một tình yêu trọn vẹn. Nhà thơ đã từng phải sống có độc, lúc thì trong một con thuyền nhỏ lênh đênh chẩng có bến bờ, lúc thì khắc khoải bên dãy núi ven thành phố, và cuối cùng phải nằm vô vọng ở nhà thương Tuy Hòa chờ cái chết... Ta càng thông cảm cho một thoáng hờn dồi, trách móc tưởng như vô cớ của cây bút đa tài, mà bất hạnh này.
Phải yêu người Vĩ Dạ, nói rộng ra là phải yêu người xứ Huế; hiểu xứ Huế, gắn bó với xứ Huế sâu sắc đến độ nào, thì thi sĩ mới nói về tình yêu, về xứ Huế đứng và hay như thế!
Bài văn cảm nhận bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" - mẫu 8
Thời gian vừa qua, bài thơ lãng mạn gây ra nhiều nhận định bất đồng, thậm chí đối lập nhất là khi phân tích, bình giảng, 12 câu Đây thôn Vĩ Dạ. Nguyên nhân sự hạn chế của một số bài viết có nhiều. Thứ nhất, là thói quen xã hội học dung tục; như tác giả bài "Tiếng thở dài" - Chia sẻ với Hàn Mặc Tử đã nhận xét: "Tác phẩm nào, người phân tích cũng cố quy về giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo (...). Cái hay của văn chương nhiều hình nhiều vẻ, đâu phải chỉ có vài ba giá trị được khuôn sẵn rồi cứ thể ép tác phẩm cổ kim đông tây rào những gia trị ấy'"'. Thứ hai là do người nghiên cứu không thuộc phong cách nghệ thuật của đối tượng mà mình tìm hiểu; Ví dụ: ai cũng rõ một trong mấy nét cơ bản của tiếng thơ Hàn Mặc Tử là hưởng nội: "Hàn Mặc Tử luôn luôn có khuynh hướng quay vào nội tâm, ông rất ít tả, ít kể theo cái nhìn của con mắt" nói như Trần Đăng Thao: Hàn Mặc Tử thường "nhìn thấy bằng tâm tưởng", nhưng bởi không thông thuộc phong cách thi pháp bao trùm này trong thơ Hàn Mạc Tứ, người viết những dòng phân tích Đây thôn Vĩ Dạ, trong Soạn văn (tập I) chỉ hoàn toàn tập trung phân tích khách thể được tái hiện trong tác phẩm qua ba đề mục: Thôn Vĩ Dạ, Dòng sông Hương và Những cô gái Huế - Lê Bảo đã nhận xét đúng rằng: Giảng văn như vậy thì mới chỉ chủ đến "cái ý ở trong lời, ở tầng thứ nhất của ý nghĩa", mà thật ra: "Di mạch trữ tình vừa thấm đậm hồn người vừa thể hiện bằng một thiên bẩm tài hoa; chính đầy mai là điều cần nói"' - Thứ ba là sự cảm thụ nghệ thuật thiếu nhạy bén.
Mai Văn Hoan (Sông Hương, số 2; tháng 2,3 - 1990). Vẻ đẹp độc đáo trong thơ Hàn Mặc Tử - Vũ Quần Phương (Giáo viên nhân dân, số đặc biệt; tháng 7-1989). Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử (GVND, số đặc biệt; tháng 3-1990. Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội và NXB Giáo dục (1989) (5) về bài thơ Dây thôn Vĩ Giạ của Hàn Mặc Tử (Giáo viên nhân dân, số đặc biệĩ tháng 11-1989 kết hợp với nguyên nhân thứ tư: Thái độ tùy tiện thiếu nghiêm túc trong đã dẫn những ý kiến phân tích hoàn toàn sai như trường hợp Lê Đình Mai'". Bài viết của tác giả Lê Đình Mai khiến không gian nhất là những ai gắn bó với Huế đẹp và thơ không thể im tiếng: "Lẽ ra tôi nên viết bài này...Nhưng sao tôi thấy không đành! Không đành với Hàn Mặc Từ, đành với bà Hoàng Cúc, không đành với bạn đồng nghiệp, với bạn đọc xa "hồn mộ Hàn Mặc Tứ" Mai Văn Hoan; tác giả bài Nói thêm về bài thơ Thôn Vĩ Hàn Mặc Tử cũng có phản ứng tương tự...
Để định hướng tiếp cận đúng đắn và có điều kiện cảm nhận chính xác những lơ vừa xa cách nhau vữa mờ ảo của Đây thôn Vĩ Dạ thì một khi biết rằng nội bài thơ liên quan đến Hoàng Cúc (một thiếu nữ trong trắng, con nhà gia giáo lúc ấy giờ đang cư ngụ ở thôn Vĩ Dạ nên thơ nên họa, chứ không phải liên quan đến các cô gái "giang hồ" ở cái xóm bình khang Vĩ Dạ "dâm ô" theo một suy diễn tưởng tượng nào đó), ta không thể không nhắc lại đôi điều về mối quan hệ tình cảm tình Hàn Mặc Tử với Hoàng Cúc - căn cứ vào những tài liệu đáng tin cậy của Quách Tín người bạn thơ gần gũi nhất của Hàn Mặc Tứ) Đào Quốc Toản (cán bộ giảng văn Đại học ở Huế, trước đây khi hướng dẫn sinh viên làm khóa luận về thơ Hàn Mặc Từ đã tìm và gặp gỡ bà Hoàng Cúc) và thầy giáo Mai Văn Hoan, người hiện học ở đất núi Ngự sông Hương đã "có mặt trong đám tang" bà Hoàng Cúc: "Có thể nói là một trong những đám tang lớn nhất ở Huế gần đây mà tôi được biết"
Hoàng Cúc khi là một thiếu nữ mới lớn, sống ở Quy Nhơn. Cô con nhà quan, cô không đẹp nhưng có duyên và thùy mị nết na. Nhà cô đi chung một lối với nhà hàn Mặc Tử (lúc ấy đang làm việc ở Sở đạc điền). Giữa hai người hẳn có một mối thân thiết rất đơn giản nhẹ nhàng kiểu những ai gần ngõ.
Nhà thơ đã viết những vần Hoàng Cúc (trong tập Gái quê) với tình cảm đơn phương vô vọng; vì không những Hoàng Cúc là một thiêu nữ mới lớn, con nhà nề nếp, tính tình kín đáo, mà hoàn cảnh hai gia đình có một hố sâu ngăn cách: thán phụ Hoàng Cúc là viên chức cao áp, nhà theo đạo Phật... còn Hàn Mặc Từ mồ côi cha từ thuờ thiếu thời, gia đình theo đạo Thiên Chúa, đời sống khó khăn, thêm nữa lúc ấy Hàn Mặc Tử chỉ là viên chức nhỏ Sở đạc điền, lại đang có nguy cơ thất nghiệp... Khoảng 1935, sau khi Hàn Mặc Từ từ giã Quy Nhơn vào Sài Gòn làm báo, thì gia đình Hoàng Cúc cũng chuyển từ Quy Nhơn ra Huế (ở thôn Vĩ Dạ). Cuối năm 1936, lúc chớm có hiện tượng sức khỏe không bình thường, tuy chưa khẳng định là bệnh phong, Hàn Mặc Tử từ Sài Gòn trở lại Quy Nhơn thì: "Trước sau nào thấy bóng người..."; nhà thơ coi như Hoàng Cúc đã bước lên xe hoa chung thân vĩnh biệt, (mặc dầu, không rõ đích xác vì li do gi, từ đó về sau, Hoàng Cúc khước từ mọi đám cầu hôn, sống độc thân ở Vĩ Dạ và hoạt động ở Hội Phật tử miền Nam cho đến lúc mất). Khoảng năm 1937, nghe tin Hàn Mạc Tử mắc bệnh nan y, Hoàng Cúc đã gửi về Quy Nhơn cho Hàn Mặc Tử một tấm hình chụp hồi còn mặc áo dài trắng trường Đông Khánh có kèm lời thăm hỏi sức khoẻ và "trách" Hàn Mặc Tứ sao lâu nay không ra thăm Vĩ Dạ? Không thăm lại đất cù người xưa? (Hàn Mặc Tử đã từng học Trung học Pellerin ở Huế)".
Nhận được những dòng tình cảm chân thành quý giá của người thiếu nữ vốn có nếp sống kín đáo ấy, Hàn Mặc Tử xúc động mạnh, và Đây thôn Vĩ Dạ đã ra đời (hẳn ngay trong năm 1937). Bài thơ được gửi ra Huế cho Hoàng Cúc. Thời gian lặng lẽ trôi, rồi bà Hoàng Cúc đã giữ gìn bài thơ kỉ vật này cho đến lúc từ trần. Biết rõ nguồn gốc, hoàn cảnh ra đời của Đây thôn Vĩ Dạ là như vậy, chúng ta có thể lướt qua vùng giải về chữ nghĩa mờ ảo mơ màng, đang xâm nhập được hậu ý tứ sâu xa của tác phẩm.
Tứ thơ cơ bản đích thực của Đây thôn Vĩ Dạ phải chăng là nỗi niềm âu lo cho hạnh phúc, trong khát vọng cái đẹp hóa giải trạng huống đau thương. Tứ thơ bao trùm này thể hiện tập trung trong hai câu thoáng ý vị nghi vấn: "Có chở trăng về kịp tối nay" (Có diễm phúc được hưởng nhận chăng, cái Đẹp của đất trời?), "Ai biết tình ai có đậm đà" (Có diễm phúc được hưởng nhận chăng, cái (Đẹp của tình người?).
Mở đầu bài thơ là câu: "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?" Lời thơ khơi dòng thi tứ tương tự sự biến tấu tình cảm trong lời thơ cua người thôn Vĩ, như muốn khẳng định việc thăm hỏi ân cần ấy không phải trong mơ mà có thật; và như thế, đồng thời cũng để bản thân dược nhấm nháp thứ "tiên được" không những đối với thời bệnh mà còn cả cho tâm bệnh nan y. Tiếp đó, lời thơ đã từ từ gợi thức những hình bóng thôn Vĩ ngày xưa - thời người thơ còn là cậu học trò Trung học Pellerin Huế:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc chê ngang mặt chữ điền.
Tờ thơ "tiên cược" của tấm lòng son thôn Vĩ quả đã có tác dụng nhiệm màu đối với người bệnh: Sinh lực hồi sinh; do đó dất trời đã mờ ra trán đầy sức sống: "nhìn nắng hàng cau nắng mới lên và cảnh tri xuất hiện đẹp tươi như trước mát trẻ thơ "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc" về từ pháp mà nói, chữ "mướt" thật rất Hàn Mặc Tử; và khi so sánh "xanh như ngọc" thì rõ ràng thi trung hữu họa", mà đây la bút pháp của một danh họa trường phái ấn tượng nhân lực tinh tướng và trái tim đa cam). Hồi không rõ từ khơi dâu trong kí ức trở về một bức chân dung có bố cục hẳn hoi xóm thôn Vĩ Dạ: "Lá trúc che ngang mặt chữ điền"...
Một đặc điểm thơ Hàn Mạc Tử là phong cánh hiện ra trong một số bài rất đậm đà sắc màu dân tộc. Không gắn bó máu thịt với quê hương xứ sở, khó có thể viết được những câu thơ như trong khổ Đây thôn Vĩ Dạ vừa rồi, và những câu hoặc ngọt lịm giai điệu dân ca Nhưng hỡi ôi! Niềm vui quá ngắn trước vẻ đẹp của tình người (Sao anh không vá của cảnh đời không tránh khỏi chia lìa và vinh quyết. Cái lối chuyến tứ rất nhanh, có khi rất xa. cũng là một tập thơ Hàn Mạc Tử; và khi "Những đột xuất ấy lặp lại với tấn số cao hiếu" (Vũ Quần Phương). Càng ở những tác phẩm cuối thơ Hàn Mặc Tử càng thể hiện rõ đặc đỉêm này. Chúng không lạ lùng điều ấy khi nhớ lại rằng: thơ Hàn Mặc Tử trong khoảng hơn 10 năm (từ đời Đường đến chủ nghĩa tượng trưng. Ngay từ tập Thơ Điêu, trong có yếu tố tượng trưng đã thấp thoáng xuất hiện. Câu thơ thôn Vĩ phảng phất bút pháp của trường phái ấy không khỏi không gây thêm đôi chút rắc rối khó hiểu nữa (dẫn đến những cảm nhận phân tán) đối với độc giả.
Do trực cảm mối quan hệ giữa bản thân với Hoàng Cúc (có lẽ cũng là với không ít những người thân thiết, khác) trước sau sẽ là gió - mây đôi ngả; nên trừớc mắt nhà thơ: "nắng mới" thên Vĩ phút chốc đã lụi tàn, thay vì là hình ảnh "Dòng nước buồn thiu" của Tiêu Kim Thúy (nét 'hoa bắp lay" lại cũng là một hình tượng thơ xuất hiện đột ngột theo kiểu quen thuộc trong thi pháp Hàn Mặc Tứ - mặc dầu về phương diện luận lí có thể cho rằng: Nghĩ về Vĩ Dạ là nhớ đến Cồn Hến giữa sông Hương đối diện Vĩ Dạ, trên cồn trồng nhiều vạt bắp với vùng hoa ngút ngát lay động theo gió)... Mông lung khuây phần nào mối sầu gió - mây đôi ngả, nhà thơ ngóng đợi một bạn cố tri có vẻ đẹp "huyền ảo": Trăng Vàng Trăng Ngọc. Nhưng bạn cố tri vô cùng thân thiết ấy có về kịp không?... "Thuyền ai đậu bến sông trăng đó - Có chở trăng về kịp tối nay mà cứu rỗi linh hồn bất hạnh này khống? - Kết thúc khổ thơ II là một tín hiệu mong chờ cứu nạn, nhưng lời khẩn cầu đồng thời lại đã chứa đựng niềm hồ nghi hiệu quả.
Khổ thơ III xuất hiệu tiếp theo cũng không hoàn toàn rồ mạch. Đọc thơ Hàn Mặc Tư nhiều khi như xem tranh đồng hiện: Sự vật, sự thể ở những thời gian không gian xa cách nhau đồng loạt xuất hiện và xâm nhập lẫn nhau không quan tâm luận lí - tinh luận lí ở đây chi tồn tại trong tinh thần toàn khối dòng tâm tưởng. Đọc Hàn Mạc Tử, người ta cũng dễ liên tưởng đến thơ Lamactin: Thứ thơ vừa lãng mạn vừa chứa đựng mầm mống của chủ nghĩa tượng trưng, nhiều lúc ngẫu phát: Cõi lòng nhà thơ có khi như chìm đắm vào một cõi mù sương, bởi vậy, cảnh trí ngoại giới được tái hiện chỉ có tính chất như những âm thanh của tâm hồn phán hưởng khi va chạm với sự vật đó là kiểu thơ "phong cánh nội tâm"... tương tự như vậy: "Mơ khách đường xa, khách đdường xa" là ai mơ? Theo mạch thơ và dựa vào ý tứ trong nội dung thơ Hoàng Cúc gửi Hàn Mặc Tứ, người mơ hẳn đang sống ở Vĩ Dạ, nhưng cũng không loại trừ ý nghĩa là chủ thể lãng mạn cũng mơ theo... Và rồi: "Áo em trắng quá (màu áo trắng trong bức ảnh Hoàng Cúc gửi Hàn Mặc Tử?), có nghĩa: tâm hồn em thánh thiện quá, hạnh phúc đến đột ngột quá... ta say men sắc màu trinh trắng đến choáng váng "nhìn không ra Hay chỉ hàm nghĩa là: Những nét chữ từ thôn Vĩ gửi về Quy Nhơn đã làm thao thức hình bóng xa xôi một nữ sinh Đồng Khánh thuở nào... Đến câu tiếp theo, đòi cảnh thơ với phong độ mơ màng quen thuộc vẫn như còn tiếp tục bay lượn kiếm tìm cái Đep của miền đất Thầu kinh sương khói mịt mờ - miền đất có:
Dòng Tiêu Kim thủy gà xao xác
Ngẩng thấy kinh ki khái vấn vương:
(Văn Cao - Một đêm dài lạnh trên sông Huế)
Cuối cùng, nếu ở khố thơ II, nhà thơ vừa muốn nhờ Trăng Vàng Trăng Ngọc làm tan biến nỗi sầu thương, vừa âu lo ước nguyện không thành. Có chở trăng về kịp tối nay, thì chấm dứt khổ thơ thúc toàn bài nương nhờ cái đẹp của tình người làm liệu pháp cứu rồi, người thi nhân hoạn nạn của trần giới và đất trời này cũng vẫn không khỏi ngậm ngùi nghi ngại:
Ai biết tình ai có đậm dà
Bối cảnh hương sắc quê xứ Việt, phải chăng tỉ trọng chủ yếu trong khối thơ tứ Đây thôn Vĩ Dạ có ý nghĩa là những thẩm mĩ chứa đựng ước nguyện được cứu nạn - những tín hiệu tuy đứt nỗi mơ hồ mà thiết tha thấm thìa của một tấm linh hồn bất hạnh - chuỗi tín hiệu cầu cứu ấy tiếp khuyên thiện: Cộng đồng con người hãy vị tha và chung thủy nhất là đối với những thân phận bi kịch đã không nên nói lời rên xiết:
Trời hỡi! Nhờ ai cho khói đói
Gió trăng có sẵn làm sao ăn?
Làm sao giết được người trong mộng
Bể trả thù duyên kiếp phũ phàng.
(Lang thang)
Bài văn cảm nhận bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" - mẫu 9
Trong số các thi sĩ Việt Nam hiện đại, Hàn Mặc Tử là người khổ nhất. Tạo hóa vốn rộng luợng, nhưng không hay đãi đăng khách văn chương. Nhà thơ chỉ sống vẻn vẹn 28 năm (1912-1940). 28 năm của một đời người, sao lại lắm truân chuyên khổ ải? Ông xuất hiện trên bầu trời thi ca Việt Nam như một vì sao băng, ngắn ngủi mà lóe sáng, và những ai một lần đã tiếp xúc với thơ Hàn Mặc Tử thì "dấu ấn" kia không thể xóa nhòa.
Mấy năm trở lại đây, vị trí của Hàn Mặc Tử trong lịch sử văn chương nước nhà đã dần hồi được trả lại đúng giá trị vốn có. Trong chương trình môn Văn bậc Trung học phổ thông, lần đầu tiên thơ Hàn Mặc Tử được đem ra giảng dạy cho học sinh qua bài Đây thôn Vĩ Dạ. Bài thơ chỉ có 12 câu, nhưng hồn vía Hàn Mặc Tử vẫn hiển hiện nguyên vẹn: Tài hoa, thật thà và tha thiết dâng hiến. Thi sĩ Pháp, Elsa Triolet nói "nhà thơ là người cho máu". Với Hàn Mặc Tử, đấy là tận cùng của dâng hiến.
Năm 1936, đang làm báo ở Sài Gòn, Hàn Mặc Tử biết mình mắc chứng nan y (bệnh phong), liền trở về thành phố Quy Nhơn. Khi đó bà Hoàng Cúc, người yêu đầu tiên của thi sĩ vừa mới ra Huế, ở chốn xa xôi, người tình năm cũ không biết chuyện nhà thơ bệnh, gửi thư hỏi thăm cùng với lời trách trên tấm ảnh của mình "Sao không về thăm Vĩ Dạ?". Đây thôn Vĩ Dạ là lá thư tình giãi bày tâm trạng, có điều nó được diễn đạt bằng ngôn ngữ thi ca. Hai khổ thơ đầu, nhà thơ hóa thân thành người thiếu nữ thôn Vĩ, đang trách móc người yêu và kể về Vĩ Dạ:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Người thôn Vĩ mà cứ như ai đâu. Vĩ Dạ lúc gần, lúc xa. Ố, thì hóa ra, đấy là tâm trạng của người tương tư: Chỉ thiếu một người nhưng không gian trống rỗng (Lamactin). Nhà thơ hóa thân hay thật. Màu xanh của lá, chút nắng mới lên vẫn chưa đủ ấm lòng người thiếu nữ. Nàng buồn và "cảnh có vui đâu bao giờ": Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn thiu, hoa bấp lay... Viết đến đây thi sự hóa thân của nhà thơ vào lòng người thiếu nữ cũng chấm dứt.. Thi sĩ, anh có thể trốn tránh mọi điều, trừ bản thân anh. Mà Thượng đế, bao phen lỡ tay, tâm hồn nhà thơ mới phức tạp, giàu ưu tư và đa cảm làm sao! Người đời có thế trách khách văn chương hay viển vông. Nhưng ở đây là ước mơ thật:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Một "bên sông trăng" hiện hữu ở ngoài đời thực. Và cũng có một "bến" tít tắp trong tâm tưởng con người. Khi "Trăng" không về cõi ấy hoang vắng buồn bã biết bao! Có người bình những câu: "Áo em trắng quá nhìn không ra: Sương khói mờ nhân ảnh..." là lúc nhà thơ nhìn tấm ảnh người yêu cũ, huyện cách xa bây giờ, hết thảy như muốn nhòa đi. Đấy mới chỉ là cái nghĩa của văn bản", chứ chưa phải của thơ hay tâm hồn Hàn Mặc Tử. Bất cứ nhà thơ tài hoa ở thời đại nào cũng thấy giữa mình và cuộc đời có nhiều lỗi nhịp ít nhiều, họ cô độc, đôi khi chỉ trong tâm hồn, chứ không nhất thiết giữa đám đông. Trường hợp Hàn Mặc Tử và những năm tháng ấy, điều đó càng rõ. Biết vậy, nhưng vẫn khát khao giãi bày, khát khao dâng hiến. Hình dung Đây thôn Vĩ Dạ là bức thư tình gửi một người yêu xứ Huế của Hàn Mặc Tử thì Ai biết tình ai có đậm đà? Là lời than thở về một hoàn cảnh không thể giãi bày đối với Hoàng Cúc. Song, hiểu Hàn Mặc Tử - một người tình làm thơ, đấy còn là tiếng nói của thi nhân với cuộc đời.
Ngày ấy, Hàn Mặc Tử đã muộn phiền Ai biết tình ai có đậm đà? Và, có lẽ, cho đến buổi trưa nghiệt ngã 11-11-1940, nhà thơ tài hoa này vẫn ôm trọn khối tình đau đớn với cuộc đời, ra đi, để lại: "Một nấm mồ bằng đất, một cây thánh giá bằng gỗ tạp, không vòng hoa, không hương khói, đìu hiu quạnh quẽ dưới một gốc cây phi lao!" (Quách Tấn). Đến nay, 50 năm đã trôi qua, khi người đời nhận ra Hàn Mặc Tử là ánh sao băng không thể xoa nhòa dấu ấn trên bầu trời thi ca dân tộc thì xin ai đừng trách "Sao anh không về?", vì chẳng phải bao năm nhà thơ vẫn ở lại đó sao? Xin hãy rộng đường cho người năm cũ...
Bài văn cảm nhận bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" - mẫu 10
"Thơ chỉ tràn ra khi cảm xúc thật đầy". Thật vậy, thơ là điệu cảm xúc, thơ là cứu cánh cho cuộc đời mỗi người. Đối với Hàn Mạc Tử cũng vậy, thơ trở thành nơi ông bày tỏ bao nỗi niềm giấu kín cùng cảm xúc mãnh liệt nhưng tồn tại trong đau thương. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của ông là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Hàn. Bài thơ là một bức tranh thiên nhiên đẹp xứ Huế và tình đời tình người sâu kín.
Cảnh sắc thiên nhiên nơi thôn Vĩ Dạ được gợi mở ra tươi mới tràn ngập sức sống:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Mở đầu là câu hỏi: "sao anh không về chơi thôn Vĩ?" vang lên như lời trách thầm, lời nhắn gửi nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình. Câu hỏi là của ai? Mà vừa có nhiều cung bậc như vậy. Không phải là của Hoàng Cúc, hay một cô gái nào khác ở Thôn Vĩ vậy thì của ai? Của Hàn Mạc Tử, dường như tác giả tự phân thâm để chất vấn chính mình. Cũng là một lời xác nhận đã lâu rồi không về thôn Vĩ, và không biết đến bao giờ, đến khi nào mới có thể trở về để thăm lại nơi đầy gắn bó những dấu yêu kỉ niệm. Không những vậy, câu hỏi còn là cái cớ rất đáng yêu, nhẹ bẫng lại xót xa để gợi về kỉ niệm thôn Vĩ và bức tranh thôn Vĩ mở ra tự nhiên ở ba câu thơ tiếp với nắng hàng cau, vườn cây và cành lá trúc thân thuộc. "nắng hàng cau" là nắng đầu tiên của buổi sáng sớm, cũng là hình ảnh quen thuộc trong thơ Hàn Mạc Tử.
Buổi sớm với những hàng cau cao và thẳng vươn cao đón ánh nắng đầu tiên. Sau một đêm bừng tỉnh, sương còn chưa tan hết, nắng mới đã bừng lên tràn ngập trên những hàng cây mới mẻ thanh tân. Trong những câu thơ không chỉ miêu ta ánh nắng một lần mà tác giả còn sử dụng điệp từ "nắng" vẽ ra luồng ánh sáng của thời gian , nắng lan trên đầu vạn vật từ trên cao xuống thấp, tràn cả khu vườn. Khoác lên tấm áo mới tươi tắn thanh tân. Vườn thôn Vĩ ngời lên sắc xanh "xanh mướt như ngọc" thân thuộc. "Mướt" manh sức gợi cảm cao, không chỉ diễn tả màu sắc mà còn cả sức sống. Tính từ độc đáo kết hợp sử dụng biện pháp so sánh "xanh như ngọc" khiến khu vườn biếc lên một màu ngọc lung linh. Vừa có màu sắc xanh tươi vừa lấp lánh ánh sáng khi bóng nắng trên cao chiếu dọi tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp.
Nét đẹp thân thuộc mà cũng rất xa xôi qua đại từ phiếm chỉ "ai", trong " vườn ai" gợi lên một nét đẹp khó nắm bắt, đẹp nhưng lại quá xa vời. Tất cả chỉ là sự sống của thế giới ngoài kia- một thế giới mà tác giả mong muốn. Cảnh thiên nhiên được tô điểm với sự xuất hiện của con người: "lá trúc che ngang mặt chữ điền". Quả là một hình ảnh độc đáo, đa nghĩa với khuôn mặt chữ điền hiền hòa phúc hậu kín đáo che đi bởi màu xanh của lá trúc thanh mảnh. Thật vậy, đây là một sản phẩm sáng tạp quen thuộc trong thơ Hàn được tạo bởi mặc cảm chia lìa của con người luôn tự nhận mình đứng ngoài những cuộc vui. Mở ra một ấn tượng say đắm trong hồn thơ Hàn Mạc Tử trữ tình sâu lắng cùng với đó bộc lộ những khắc khoải chi phôi khi hướng về thôn Vĩ. Nếu khổ thơ thứ nhất là một bức tranh xanh tươi thì ở khổ thơ thứ hai là bức tranh thiên nhiên nhuốm màu tâm trạng:
Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Hình ảnh gió mây, sông nước, trăng hiện lên khác biệt. Gió và mây không đi liền với nhau như vốn dĩ gió thổi mây bay hưng ở đây gió và mây chia làm đôi ngả. Những sự vật vốn dĩ không thể tách rời, thì hồn thơ Hàn Mạc Tử đã chia cắt một thứ không thể cắt chia. Bản thân dòng nước là một vật vô tri vô giác nhưng ở đây" dòng nước buồn thiu". Một biện pháp nhân hóa khiến dòng sông mang tâm trạng con người. Hay đó là sự chảy trôi của tâm trạng, là nỗi buồn li tán của sự vận động của mây, của gió, cũng chính là mặc cảm chia lìa của tác giả thấm vào cảnh vật. Trên dòng sông ấy là những bông hoa bắp lay. khẽ động ở đôi bờ rất nhẹ rất khẽ. Khi đặt chúng cùng với gió, mây, nước hoa bắp lay gợi sự tàn buồn hiu hắt khiến cảnh sông nước hiện lên hoang vắng rợn ngợp thấm thía nỗi buồn của sự chắc chở thê lương. Nỗi buồn thi sĩ hòa cùng nhịp buồn xứ Huế vang lên câu hỏi:" Thuyền ai đậu bến sông trăng đó".
Trong tâm trạng ấy, chợt bật lên ước ao khát vọng là có một điều gì đó có thể trở về với mình để níu giữ, để bám víu. Những ước mơ của thi sĩ gắn liền với trăng với nhạc. Đó là ước mơ khao khát được tri âm. Ở trăng luôn có những vẻ đẹp mà Hàn Mạc Tử luôn hướng tới. Qua câu thơ ta tưởng tượng cả một dòng sông trăng đang chảy trôi hay trăng đang tan mình trong nước. Hình ảnh "thuyền chở trăng" vừa mơ vừa thực hư ảo huyền hoặc đến khó phân định. Đối với trăng tác giả không chỉ gắn vào đó những ước mơ khát vọng mà còn cả nỗi lo lắng, mặc cảm với hiện tại ngắn ngủi qua từ "kịp". Sự bối rối hiện hữu trong câu chữ bổ khát vọng thì ít mà cảm giác bi kịch thì nhiều. Mong mỏi của Hàn Mạc Tử gắn liền với đau thương dự cảm đổ vỡ. Ở khổ một và khổ hai là khắc họa bức tranh thiên nhiên thì ở khổ ba hình ảnh người con gái trong lòng tác giả xuất hiện với bao da diết nhớ mong:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà
Giọng thơ khẩn khoản, gấp gáp thể hiện khao kháy gắn liền với hình bóng cụ thể:" khách đường xa" và "em" với tà áo trắng. Thấp thoáng hình bóng giai nhân, dường như " khách đường xa" và "em" là một. "Em" là một giấc mộng say đắm mộng ảo. Đó là hình bóng đẹp đẽ nhưng vô cùng xa xôi diệu vợi thuộc về thế giới ngoài kia. Với thi sĩ thì hình bóng đó chỉ hiện hưu trong giấc mộng dài. Tưởng chừng giấc mộng như tác giả ngỡ ngàng phát hiện giai nhân đang hiện hữu với tà áo trắng thuần khiết mỏng manh. Đó là vẻ đẹp mà tác giả luôn tôn thờ. Đúng lúc giai nhân hiện hữu rõ nhất trong tâm tưởng cũng là lúc nhà văm tuyệt vọng nhất vì đang tuột mất nó khỏi tầm tay. Khép lại tác phẩm với câu hỏi vang lên da diết:
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà
Chủ thể trữ tình đã trở về với thực tại đầy đau thương với màn sương khói của thực tại hay chính là sương khói của thời gian che phủ khiến tất cả trở nêm xa với hư ảo che mờ nhân ảnh của người yêu thương. Kết bài thơ lại một lần nữa vang lên câu hỏi đầy khắc khoải với đại từ phiếm chỉ "ai" có thể là tác giả cũng có thể là người con gái tác giả thầm thương. Tiếng ai vang lên chơi vơi khép lại bài thơ trong nỗi sầu mênh mang trong khát vọng không thôi hướng về tình người. Đó là khao khát được sẻ chia, thấu hiểu và yêu thương dẫu cô đơn tuyệt vọng nhưng không thôi khát khao.
Như vậy bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ mang đến cho người đọc những giá trị sâu sắc. Bên cạnh đó, bài thơ cho ra thấy khi con người bị đẩy đến tận cùng của khổ đau và bế tắc nhưng vẫn hướng đến cuộc đời sự khao khát sẻ chia.
Bài văn cảm nhận bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" - mẫu 11
Bạch Cư Dị từng nói: “Cảm động lòng người, trước hết không gì bằng tình, đầu tiên không gì bằng lời, tha thiết không gì bằng thanh, sâu xa không gì bằng nghĩa. Vậy đối với thơ tình là gốc, lời là cảnh, thanh là họa, nghĩa là quả”. Có thể nói, tình cảm là yếu tố sinh mệnh của thơ ca, thiếu tình cảm thì chỉ có thể trở thành người thợ làm những câu có vần chứ không làm được nhà thơ. Đồng thời, thơ ca không bộc lộ tình cảm một cách bản năng, trực tiếp mà nó được ý thức, được siêu thăng, được lắng lọc qua cảm xúc thẩm mĩ gắn liền với ý thức về mình, về đời.
Hiện lên như một “ngôi sao chổi” xoẹt qua bầu trời thi đàn văn học với cái đuôi chói lòa, rực rỡ của mình, Hàn Mặc Tử đến với thơ, với đời bằng tình cảm tha thiết, chân thành của một kẻ sĩ đứng giữa hai bờ sinh tử, chơi vơi giữa cõi thực và cõi mộng. Gã làm thơ khi đã nếm trải đủ mùi vị đau thương trong chốn vốn chẳng có gì là vĩnh hằng.
Bao giờ cũng vậy, Hàn Mặc Tử luôn muốn thoát li hiện thực, tìm về một cõi xa xăm nào đấy để ôm ấp những nỗi sầu u oải, mơ hồ, và có lẽ “Đây thôn Vĩ Dạ” đã bước ra từ sự quằn quại, đau đớn để góp vào vườn thơ Hàn “rộng không bờ không bến” một cõi hư vô rợn ngợp khiến thi nhân không khỏi thổn thức:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
....
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiêu biểu, có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào thơ Mới giai đoạn 1932 - 1945. Thế giới thơ ông đầy bí ẩn, phức tạp, luôn đan xen giữa những gì thân thuộc, thanh khiết, thiêng liêng nhất với những gì ghê rợn, ma quái, cuồng loạn nhất. Trong đó hình ảnh trăng, hoa, nhạc luôn chan lẫn với hình ảnh hồn, máu, yêu ma nói như Hoài Thanh: “Vườn thơ Hàn rộng không bờ không bến, càng đi xa càng ớn lạnh…”.
Sự nghiệp thơ ca của Hàn là một tháp ngà kiêu sa, tráng lệ, ánh hào quang của nó tỏa sáng chói lòa nhân thế… vì vậy những hình tượng thơ của ông khiến người đọc khó đến gần, khó nắm bắt và có khi khó hiểu. Vườn thơ của ông có lẽ được xếp vào loại “siêu”: siêu thực, siêu thức và siêu thoát nhưng đọc thơ ông nào đã thoát, rốt cuộc vẫn lơ lửng, vẫn còn đó một câu hỏi lớn: “Hàn Mặc Tử, anh là ai?”. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được in trong tập “Thơ điên” (1938), toàn bộ thi phẩm là tiếng lòng vừa tha thiết mê đắm, vừa đau đớn tuyệt vọng của một thi nhân yêu đời da diết mà phải vĩnh viễn rời xa cuộc đời bởi bi kịch éo le và vô vọng.
Tại trại phong Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử đã nhận được tấm bưu ảnh chụp cảnh bến Vĩ Dạ cùng lời thăm hỏi của Hoàng Cúc. Chính bức ảnh cùng lời hỏi thăm đó đã gợi lên trong lòng nhà thơ kỉ niệm về một miền quê và người con gái trong mối tình đơn phương, cũng bởi vậy mà mỗi vần thơ thấm đượm nỗi buồn sâu sắc. Thôn Vĩ Dạ là một làng nhỏ nằm bên bờ sông Hương, đây là nơi nghỉ ngơi của những quan lại, viên chức về hưu nên cuộc sống nơi đây vô cùng bình yên, no đủ và thơ mộng với những vườn cây xum xuê, những ngôi nhà xinh xắn,... Từ xa xưa Vĩ Dạ đã đi vào thơ ca bởi vẻ đẹp thi vị, tiêu biểu cho cảnh sắc xứ Huế:
“Du khách bảo đây vườn kín đáo
Đây xứ mơ màng đây xứ thơ”
Hay nhà thơ Bích Khê đã từng viết:
“Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn
Biếc tre cần chúc không buồn mà say”
Mạch thơ như một dòng tâm tư bất định, khước từ vai trò tổ chức chặt chẽ vốn là đặc trưng của “Thơ điên” với những “đứt đoạn”, “cóc nhảy”. Có thể thấy thi phẩm được dệt bằng một chuỗi hình ảnh liên kết với nhau rất bất định. Vừa mới ngoại cảnh (phần đầu) thoắt đã tâm cảnh (phần sau). Hãy còn tươi sáng (Vườn thôn Vĩ) chợt đã âm u (cảnh sông trăng và sương khói)... Những mảng thơ phản trái nhau cứ dính kết vào nhau ngỡ như rất thiếu trật tự, “vô kỉ luật”. Nhưng nhìn kĩ sẽ thấy đó chỉ là sự chuyển kênh quá mau lẹ từ “hàng chữ gấm” sang “đôi mắt mờ lệ”. Dường như Hàn Mặc Tử đưa ta từ cõi thực đến cõi mộng rồi chìm đắm vào hư vô lúc nào không hay. Câu hỏi mở đầu chủ yếu là thanh bằng khiến lời thơ thật nhẹ nhàng, êm ái như nghe văng vẳng bên tai giọng nói của người con gái xứ Huế ngọt ngào:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Đại từ “anh” gợi cho ta nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng đó là sự phân thân của nhân vật trữ tình, thi nhân tự vấn lòng mình “sao lâu quá rồi mà chưa một lần về thăm thôn Vĩ?” như nhắc nhở đến một việc cần làm, đáng phải làm, mà cũng chẳng biết giờ đây có còn cơ hội để thực hiện nó nữa không, ấy là về lại với thôn Vĩ, về thăm lại chốn cũ, cảnh xưa. Có người lại cho rằng đó là lời của Hoàng Cúc đang hỏi dịu dàng, kín đáo nhưng ẩn sau trong đó là lời trách móc “Thôn Vĩ đẹp sao anh chẳng về chơi?”.
Hàn Mặc Tử dùng hai chữ “về chơi” bởi nó mang sắc thái thân mật, gần gũi thay vì chỉ mang vẻ xã giao, có khoảng cách như hai chữ “về thăm”. Chẳng phải vô tình mà nhà thơ viết “không về chơi thôn Vĩ?”, “không về” khác hoàn toàn với “chưa về”. Nó dường như khép lại mọi nẻo đường về thôn Vĩ, cộm lên biết bao xót xa vì giờ đây thôn Vĩ chỉ còn trong hoài niệm của quá khứ xa vời. Hố sâu ngăn cách giữa Hàn Mặc Tử với thế giới ngoài kia chính là căn bệnh hiểm nghèo khiến cho nhà thơ vô cùng cô đơn, tuyệt vọng. Hơn nữa, hai chữ “không về” còn thể hiện rõ được tình cảm một phía của Hàn Mặc Tử với Hoàng Cúc. Đó là dòng sông một bờ mà phía bờ đó lại xuất phát từ Hàn Mặc Tử:
“Dòng sông anh tự đặt
Xin mùa thu chiếc lá làm thuyền
Có một dòng sông trôi vào lãng quên
Nước trong như nước mắt
Điều chưa thấy mà sao đã mất
Có một dòng sông chỉ có một bờ
Phía bờ kia quay mặt
Dòng sông anh không qua được bao giờ”
Câu hỏi mở đầu mang nhiều sắc thái khác nhau, hỏi để mà trách nhưng lời trách thân mật, đáng yêu. Trách để mời mọc, để tiếc nuối. Thanh trắc duy nhất của câu thơ rơi vào chữ “Vĩ” ở cuối cùng khiến cho nỗi buồn như đằm xuống thành nỗi nhớ vô hạn về cảnh và về người thôn Vĩ. Câu hỏi tu từ như cái cớ để nhà thơ gợi lại vẻ đẹp thi vị, nên thơ của thôn Vĩ Dạ. Bắt đầu bằng câu hỏi đầy ẩn ý đã giúp nhà thơ mở ra khung cảnh thiên nhiên thôn Vĩ tinh khôi, sống động, tươi đẹp và căng tràn sức sống:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Đọc thơ Tử, qua các tập, thấy vườn thực sự là một môtip ám ảnh. Nào vườn trần, vườn tiên, vườn chiêm bao... Dù mỗi nơi một khác, nhưng vườn của Tử đều mang chung một diện mạo mà Tử muốn gọi là “chốn nước non thanh tú”. Nhắc đến Vĩ Dạ, hình ảnh đầu tiên hiện lên trong tâm trí nhà thơ là hình ảnh hàng cau, nó mang vẻ đẹp rất đặc trưng của nhà vườn xứ Huế. Cau là loài cây thanh nhã, xinh xắn với thân hình thẳng tắp, tán lá xanh tươi. Cau còn là loài cây thân thuộc với làng quê Việt Nam - nơi có tập tục ăn trầu từ ngàn đời. Nguyễn Bính đã đặt mối tình bình dị của đôi trai gái thôn quê trên nền phong cảnh có hình ảnh hàng cau quen thuộc:
“Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.”
Bởi lẽ là loài cây cao nhất trong vườn Vĩ Dạ, cau được đón những tia nắng đầu tiên trong một ngày mới tràn đầy sức sống. Thơ Mới thường đem đến cho người đọc những cấu tứ, thi liệu mới mẻ. Ta đã bắt gặp trên diễn đàn thơ Mới nhiều màu nắng lạ, đó là cái nắng chang chang trong bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử:
“Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”
hay “Nắng trở chiều” trong thơ Xuân Diệu:
“Con đường nhỏ nhỏ nắng xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều”
Còn ở đây ta lại bắt gặp hình ảnh “nắng hàng cau nắng mới lên”. Từ “nắng” được lặp lại hai lần cho ta cảm giác thôn Vĩ đang bừng sáng lên trong ánh bình minh. Đó không phải là ánh nắng nhạt buồn của hoàng hôn hay ánh nắng chói gắt của buổi trưa mà là ánh nắng mới mẻ, trong sáng và tinh khôi của buổi sớm mai làm ta liên tưởng đến câu thơ của Hồng Nguyên: “Có nắng chiếu đột kích mấy hàng cau”. Chi tiết ấy không chỉ gợi lên cảm giác trong trẻo, tươi tắn mà còn mở ra không gian thôn Vĩ trong buổi sớm mai, là khoảnh khắc diệu kì khi làn sương mỏng trên lá cau chưa kịp từ biệt sau một đêm dài thì thi nhân đã bắt gặp những tia nắng ban mai tô điểm, đó là nắng ướt, nắng tươi, nắng long lanh, nắng thiếu nữ.
Cây cau xuất hiện trong vườn thôn Vĩ như cây thước của thiên nhiên để đo mực nắng như thầy Chu Văn Sơn từng viết: “Đốt cau như thước đo mực nắng trong vườn”. Phải yêu lắm, say lắm vẻ đẹp của đất trời, của thiên nhiên xứ Huế thi nhân mới chụp được khoảnh khắc đặc biệt ấy vào tâm trí mình. Nắng dường như làm bừng sáng cả khoảng trời kí ức của nhà thơ, nó lưu lại trong tâm hồn thi sĩ những kí ức không thể nào phai. Pautopxki từng nói: “Niềm vui của nhà văn chân chính là được làm người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp”, bước vào thơ Hàn ta như được chiêm ngưỡng vẻ đẹp tuyệt sắc đến cực tả của thiên nhiên cũng như con người.
Ở câu thơ tiếp theo, thi nhân đã chuyển điểm nhìn từ bầu trời tràn ngập ánh nắng xuống khu vườn phủ đầy một màu xanh lá, khu vườn ấy như hóa thành một viên ngọc lớn trong đôi mắt của thi nhân:
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Câu thơ như một tiếng reo vui đầy thích thú thể hiện sự ngạc nhiên đến bất ngờ của tác giả trước vẻ đẹp của thôn Vĩ. Câu thơ sử dụng một loạt các từ trong cùng một trường từ vựng: “mướt”, “xanh”, “ngọc” để miêu tả màu xanh non tơ, trẻ trung, tươi mới. Vườn Vĩ Dạ sau một đêm những chiếc lá cây được sương đêm lau chùi sạch sẽ giờ đây bỗng bừng sáng lung linh. Tác giả khéo léo sử dụng từ cảm thán “quá” - không chỉ là từ chỉ mức độ gợi vẻ đẹp thanh sạch của cây lá, nhà vườn xứ Huế mà còn bộc lộc cảm giác ngạc nhiên, đầy ngưỡng mộ, cùng với đó việc dùng tính từ “mướt” chứ không phải là “mượt” vì tính từ ấy ngoài chỉ sự nhẵn bóng còn gợi vẻ óng ả, mỡ màng.
Hai thanh trắc đứng liền nhau trong cụm từ “mướt quá” đã tạo ra ấn tượng mạnh về một tiếng reo, một cảm xúc bồng bột không thể kiềm chế. Vẻ đẹp của vườn cây còn được miêu tả qua phép so sánh độc đáo “xanh như ngọc” - đó là cách nói ước lệ nhằm lí tưởng hóa đối tượng thẩm mĩ, gợi ra màu xanh trong mướt, quý giá, cả vườn thôn Vĩ hiện lên như một viên ngọc óng ánh sắc xanh và tỏa ra không gian một màu xanh long lanh ánh sáng. Dường như trong thơ Hàn rất ưa dùng những vật liệu cao sang nhất là giai đoạn cuối đời.
Các trang thơ đều tràn ngập những vàng, gấm, lụa, trân châu, thất bảo, nhũ hương, mộc dược... đặc biệt là ngọc được so sánh ở mức tuyệt đối:
“Đức tin thơm hơn ngọc
Thơ bay rồi thơ bay”
hay:
“Xác cô thơm quá thơm hơn ngọc
Cả một mùa xuân đã hiện hình”
Nói về màu xanh ngọc bích, trước đó Xuân Diệu đã từng viết:
“Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá”
Sau này Nguyễn Tuân cũng dùng màu xanh ấy để nói về màu nước của con sông Đà vào mùa xuân. Tiếp đến là cách sử dụng đại từ phiếm chỉ “vườn ai”, vườn Vĩ Dạ vườn nào mà chẳng đẹp, vườn nào mà chẳng tươi nhưng để có được vẻ đẹp khiến thi nhân say đắm như vậy chỉ có thể là vườn của người mình thương, mình nhớ. Hai chữ “vườn ai” không phải là câu hỏi để tìm chủ nhân khu vườn mà chỉ là cách thể hiện niềm vui sướng, niềm bất ngờ khi gặp lại dẫu chỉ là trong tưởng tượng mà thôi. Đại từ phiếm chỉ như mang một sắc thái mơ hồ, mang lại cho cả câu thơ một chút nhớ nhung, một chút ngậm ngùi và một chút xa vắng bởi tất cả đã thuộc về thế giới khác, thế giới của ai đó ngoài kia chứ không còn thuộc về mình nữa… Cuối cùng Hàn Mặc Tử khép lại khổ thơ bằng một nét vẽ thi vị về cảnh và người thôn Vĩ:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Từ một hình ảnh thật trong tấm bưu thiếp, Hàn Mặc Tử đã sáng tạo nên một hình tượng nghệ thuật độc đáo, thơ mộng, đẹp đẽ. “Mặt chữ điền” chỉ những người có khuôn mặt vuông vắn, đầy đặn ứng với đức tính thật thà, phúc hậu, Khuôn mặt ấy trở nên duyên dáng khi được những cành trúc tô điểm, bóng dáng con người làm cảnh Vĩ Dạ vốn đã đẹp nay lại càng đẹp hơn trong sự hài hòa giữa cảnh và người, giữa tĩnh và động qua tạo nên nét đẹp e lệ, kín đáo, duyên dáng của con người xứ Huế. Hàn Mặc Tử đã hơn một lần nói về trúc và thiếu nữ. Khóm trúc như tỏa bóng xanh mát che chở cho mối tình đẹp đang nảy nở:
“Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây”
Song có lẽ đây là câu thơ gây nhiều tranh cãi bởi khuôn mặt chữ điền kia là đàn ông hay phụ nữ? Lối tạo hình của nó là cách điệu hay tả thực? Dường như vườn thơ Hàn là một tháp ngà kiêu sa, tráng lệ, ánh hào quang của nó tỏa sáng chói lòa nhân thế… bởi lẽ những hình tượng thơ của ông khiến người đọc khó đến gần, khó nắm bắt hiểu, nhiều tầng nghĩa và cũng có nhiều cách hiểu. Có người cho rằng đó là khuôn mặt đôn hậu của người con gái xứ Huế, có người lại cho rằng đó là khung cửa sổ, là cổng nhà quý phái hay đặc biệt hơn cả đó chính là khuôn mặt của tác giả.
Tìm trong thơ Hàn, sẽ thấy đây là lối tạo hình khá phổ biến, và cái nhân vật nép mình khi thì sau cành lá, khóm lau, khi thì sau rào thưa, bờ liễu... thường là hình bóng tự hoạ của Tử, mà Tử vẫn có cái “thói” tự vẽ mình một cách rất kiêu hãnh:
“Xin mời chàng tài hoa thi sĩ đó
Ngồi xuống đây bên thảm ngọc vườn châu”
Hàn Mặc Tử tự vẽ mình lên trang thơ như một “kẻ đứng ngoài”, “kẻ đi ngang qua cuộc đời”, “kẻ đứng cách xa hàng thế giới”, là vị “khách xa lạ”, là kẻ đứng ngoài mọi cuộc vui, mọi cảnh đẹp trần thế. Phải chăng đó là sản phẩm của mặc cảm chia lìa? Đắm chìm trong cảnh sắc tươi đẹp của vườn thôn Vĩ chỉ là khoảnh khắc với Hàn Mặc Tử, để rồi khi tác giả chợt nghĩ đến hố sâu ngăn cản giữa mình với thôn Vĩ bởi chứng bệnh nan y như đang vẫy gọi án tử hình. Cũng vì vậy bài thơ đã có sự chuyển ý, “bật cóc” rất nhanh từ cảnh sắc vui tươi đã chuyển sang đau thương u hoài:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Cái lối chuyển tứ nhanh, có khi rất xa, có khi rất kì lạ song đó là một đặc điểm của thơ Hàn và khi “những đột xuất ấy lặp đi lặp lại với tần số cao sẽ tạo nên sự khó hiểu” (Vũ Quần Phương), quả thực là như vậy. Cảm nhận về hai khổ thơ đầu bài Đây thôn Vĩ Dạ ta thấy bốn câu thơ khổ hai không có liên hệ gì về chi tiết với đoạn một, cả khu vườn hay khuôn mặt chữ điền kia cũng không hề được nhắc lại. Cảnh bây giờ đã hoàn toàn khác, nhưng cái tâm trạng vẫn một xa cách, vẫn một vắng vẻ.
Thấm đượm trong lời thơ là cảm giác buồn vắng, sầu tủi, chia lìa. Nhịp thơ 4/3 chậm rãi như ngắt câu thơ làm hai nửa, âm điệu dàn trải như đưa người đọc chìm đắm vào nỗi buồn hiu hắt cùng thi nhân, câu thơ khiến ta liên tưởng đến những vần thơ của Thế Lữ:
“Anh đi đường anh tôi đường tôi
Tình nghĩa đôi ta chỉ thế thôi.”
Nhưng nếu như Thế Lữ nói trực tiếp lời nhân vật trữ tình thì Hàn Mặc Tử lại mượn hình ảnh để nói lên tiếng lòng. Dường như cảnh vật đang bắt đầu chia lìa, gió và mây đều có đường đi riêng cũng giống như sự chia li của mối tình đơn phương, vô vọng sớm muộn cũng tàn. Điệp từ “gió” và “mây” đã càng tô đậm sự chia lìa ấy. Gió thổi mây bay là quy luật tất yếu của tự nhiên nhưng cái tưởng như không thể chia cách ấy nay lại xa cách chia lìa, mỗi thứ một phương, gió một đường, mây một nẻo.
Những hình ảnh được lặp lại không phải để nhấn mạnh cường độ của gió hay sắc độ của mây mà là để tạo ra một khoảng không gian khép kín chia rẽ đôi bờ xa cách. Nỗi đau đến tốt cũng đã thấm đượm vào cả không gian khiến cho dòng nước sông Hương cũng nhuốm màu tâm trạng. Phép nhân hóa “Dòng nước buồn thiu” vừa làm hiện lên một dòng sông phẳng lặng như không trôi chảy, vừa gợi như làm ngưng đọng nỗi buồn. Thêm vào đó là động thái “lay” của hoa bắp chính là một nét buồn phụ họa vào khung cảnh bởi bản thân nó vốn dĩ chẳng mang nghĩa buồn hay không vui, ta cảm thấy dường như thật nhẹ nhàng, thật buồn.
Nghệ thuật lấy động tả tĩnh đã gợi lại nỗi buồn đến tê tái, thiên nhiên Huế vốn được ban tặng vẻ đẹp bình lặng, trầm tư mà giờ đây sàng lọc qua tâm hồn Hàn Mặc Tử đã trở thành nỗi buồn sâu tận đáy lòng. Có phải có một chữ “lay” buồn như thế từ bông sậy của dân ca đã xuôi theo ngọn gió thời gian mà đậu vào thơ Tử:
“Ai về giồng dứa qua truông
Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em”
Có phải chữ “lay” ấy lại trôi nổi thêm nữa để đến với hiện đại nhập vào lá ngô của thơ Trúc Thông:
“Lá ngô lay ở bờ sông
Bờ sông vẫn gió người không thấy về”
Hàn Mặc Tử nhìn thấy hoa bắp lay như nhận ra sự phiêu tán, chia lìa. Tất cả gió, mây, dòng nước đều đang lưu chuyển, đều đang rời bỏ chốn này mà đi hết và bỏ rơi lại hoa bắp. Chỉ còn một mình, nó đang cố lay động như một sự níu giữ, một lưu luyến trong vô vọng của kẻ bị chia lìa. Nếu cõi thực của kí ức trong khổ 1 thật trong trẻo, tươi tắn và rực rỡ với ánh nắng ban mai ấm áp thì đến khổ hai đã tràn ngập ánh trăng làm vạn vật mờ ảo, nhạt nhòa, lạnh lẽo như thực, như mơ:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Thơ Hàn Mặc Tử ngày là cõi nắng, đêm là cõi trăng. Hàn rất mê trăng, nó đã đi vào vườn thơ ông thật ám ảnh như một nhân vật huyền thoại, như một nơi chốn để tâm hồn thi nhân được phiêu du, thoát tục:
“Trăng nằm sóng soải trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi”
hay:
“Không gian đắm đuối toàn trăng cả
Anh cũng trăng mà em cũng trăng”
Còn ở đây Hàn Mặc Tử đã gợi ra một hình ảnh thật lạ, đó là một thế giới huyền diệu, nơi ấy có con thuyền chở trăng và có một bến sông trăng. Chỉ có trong mộng thì sông mới là sông trăng, thuyền mới chở được đầy trăng, đúng như lời nhận xét của Bích Khê: “Hàn Mặc Tử co con mắt rất mơ, rất ảo nhìn vào sự thực thì hóa sự thực hóa thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại biến thành huyền diệu”. Câu thơ của Hàn làm ta nhớ tới câu thơ rất mực tao nhã, phong lưu của Nguyễn Công Trứ:
“Gió trăng chứa một thuyền đầy
Củi kho vô hạn biết ngày nào vơi”
Cách diễn đạt phiếm chỉ “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó” tạo ra cảm giác bóng tối lạnh lẽo như bao trùm lên dòng sông, lên cảnh vật, thi sĩ như khát khao có con thuyền chở trăng về, phải chăng là để chở những khát khao hy vọng đến khắc khoải về một sự gặp gỡ và hòa hợp? Chữ “kịp” trong câu thơ thứ 2 càng thấm thía nỗi tiếc nuối, xót xa, lo sợ khi luôn biết rằng chẳng bao giờ kịp nữa nhưng ông vẫn cố hỏi khiến tâm trạng trở nên bồn chồn, chua xót, bất lực. Hỏi chỉ để tiếc, để tự dày vò bản thân mình mà thôi. Dường như, nếu trăng không về “kịp” thì kẻ bị số phận bỏ rơi bên rìa cuộc đời này, bỏ dưới trời sâu này sẽ hoàn toàn lâm vào tuyệt vọng, vĩnh viễn đau thương:
“Tôi vẫn còn đây hay ở đâu?
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?
Sao bông phượng nở trong màu huyết,
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu?”
Cụm từ “tối nay” càng làm thi nhân thêm khắc khoải bởi khi tối là khoảng thời gian cuối cùng của một ngày, “tối nay” lại mang ý nghĩa xác định khiến quỹ thời gian vốn ngắn ngủi nay lại càng ngắn ngủi. Chỉ có “tối nay”, chỉ còn “tối nay” nữa mà thôi, dường như với Hàn, sống là chạy đua với thời gian. Nếu như Xuân Diệu chạy đua với thời gian để sống tận hưởng và tận hiến hết mình, ông chỉ sợ thời gian cướp đi tuổi trẻ cũng như tình yêu thì ở Hàn Mặc Tử đang đứng ở giữa hai bờ sinh tử, lưỡi hái của tử thần đã huơ lên lạnh buốt sau lưng bởi vậy gã lo sợ từng khắc từng giờ sẽ sớm vĩnh viễn rời xa cõi đời. Trong cảnh ngộ ấy, trăng dường như là điểm tựa duy nhất, là bấu víu cuối cùng của kẻ cô đơn đang chới với trong mơ hồ. “Thơ là sự lên tiếng của thân phận”, thật trớ trêu, định nghĩa ấy hoàn toàn đúng với Hàn Mặc Tử.
Đọc thơ Hàn Mặc Tử đôi khi khiến ta liên tưởng đến những vần thơ của Lamartine, tứ thơ vừa lãng mạn vừa chứa đựng mầm mống của chủ nghĩa tượng trưng, nhiều lúc phát ngẫu, cõi lòng nhà thơ có khi như chìm đắm vào trong cõi sương mù bởi vậy cảnh trí ngoại giới được tái hiện chỉ có tính chất như những âm thanh của tâm hồn đó chính là kiểu thơ “Phong cảnh nội tâm” như trong bài “Tình hồ” có viết:
“Dưới đá sâu lòng hồ gào thét
Tự vỗ mình đau xiết tâm can
Gió xua bọt sóng miên man
Trên đôi chân đẹp của nàng dấu yêu.”
Thơ Hàn cũng vậy, mặc dù đang sống với cảnh mộng và sống với người trong mộng, câu thơ đang bồng bềnh phút chốc như trở nên hụt hẫng khi thi sĩ rơi về hiện thực của cuộc đời:
“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra”
Khi không còn ánh nắng ấm áp, cũng không còn ánh trăng mộng ảo thi nhân đưa người đọc tới một cõi xa xăm, không gian đã chuyển sang hoàn toàn thế giới mộng ảo. Màu sắc, âm thanh, đường nét đều mờ nhòa, chỉ còn một bóng hình ai đó đang chập chờn xuất hiện, phải chăng đó là hình bóng xa xôi của một nữ sinh Đồng Khánh thuở nào… Chữ “mơ” đầu câu thể hiện niềm mong ước cháy bỏng của thi nhân muốn được cảm nhận, gần gũi với những hình bóng, hơi ấm của con người và cuộc đời nơi trần thế song điệp từ “khách đường xa” trong hai vế câu như tái hiện hình ảnh con người nơi trần thế đang xa dần, mờ khuất dần trong ánh nhìn tiếc nuối mà vô vọng của thi nhân.
Hình ảnh người con gái xứ Huế xuất hiện trực diện bằng tiếng “em” rất mơ hồ. Em gần gũi đấy nhưng mà sao lại quá đỗi xa vời? Gần gũi vì đây là hình ảnh thường trực trong cõi lòng thi nhân, xa vời vì giữa hai người là khoảng cách thời gian cùng màn khói sương của quá khứ mờ ảo hay là vì xuất phát từ sự mặc cảm tự ti trong tình yêu:
“Em lớn quá làm sao anh giữ nổi
Nên lúc nào em muốn cứ xa anh!”
(Sechxpia)
Dường như bóng dáng em xa khuất chỉ còn đọng lại sắc áo trắng - một vẻ đẹp thánh thiện, tinh khôi đúng như Huy Cận từng viết:
“Áo trắng đơn sơ, mộng trắng trong,
Hôm xưa em đến, mắt như lòng.”
Hàn Mặc Tử muốn cực tả sắc trắng trong câu thơ “Áo em trắng quá nhìn không ra” ở độ tuyệt đối, tột cùng. Nó choáng cả không gian làm lập lòe cả thị giác. Ta dễ thường thấy trong thơ Tử hình bóng giai nhân bao giờ cũng là hiện thân sống động của vẻ đẹp trinh khiết xuân tình và gắn vào làm một với hình bóng họ là sắc áo trắng tinh khôi: “Chị ấy năm nay còn gánh thóc / Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”, đôi lúc khiến câu thơ trở nên kì quặc: “chết rồi xiêm áo trắng như tinh”. Câu thơ của Hàn làm ta liên tưởng tới màu trắng trong thơ Xuân Quỳnh khi thi sĩ cảm thấy thời khắc xa cách cuộc đời đã đến gần:
“Người ta khuyên lúc này đừng suy nghĩ
Mà cũng đừng xúc động, lo âu.
Phía trước, phía sau, dưới đất, trên đầu
Dường trong suốt một màu vô tận trắng.”
Hình ảnh “khách đường xa” đã trở về trong cõi mộng khiến nhà thơ ngơ ngẩn, bâng khuâng, Hàn như bất lực trước cuộc đời khi thấy nó mỗi ngày một xa dần tưởng như nắm bắt được rồi lại tuột ra khỏi tay… Say đến đâu rồi cũng phải tỉnh, mơ mộng đến mấy rồi cũng phải quay lại thực tại, Hàn Mặc Tử cũng vậy, ông đã đến lúc phải quay về với thực tại u ám dù chẳng muốn chút nào, ấy là chốn lãnh cung ảm đạm mờ mịt chẳng biết tương lai ngày mai ra sao:
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Cụm từ “ở đây” đã vẽ ra hai không gian hoàn toàn đối lập. “Ở đây” là nơi nhà thơ đang sống, là không gian nghiệt ngã và tăm tối đang bủa vây xung quanh Tử tựa một lãnh cung nơi không có “niềm trăng và ý nhạc”, nơi có “người cung nữ nhớ thương vua”. Không gian ấy bây giờ chìm trong sương khói mông lung, lạnh lẽo của xứ Huế buồn lắm nắng, nhiều mưa. Dường như bóng dáng của người đang dần nhòa mờ “nhân ảnh” làm ta nhớ đến câu thơ của Nguyễn Gia Thiều:
“Con quay búng sẵn lên trời
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm”
Dù tất cả đều chìm vào ảo ảnh nhưng tâm hồn thi nhân vẫn luôn băn khoăn, day dứt với một câu hỏi:
“Ai biết tình ai có đậm đà?”
Từ cõi hư vô ấy, câu hỏi cuối cùng vang lên như một nỗi xót xa, tuyệt vọng của một con người tha thiết mê đắm với cuộc đời, khao khát bộc lộ tình yêu đời và khắc khoải tìm kiếm sự đồng cảm, đồng điệu. Câu thơ sử dụng đến hai lần đại từ phiếm chỉ “ai” gợi nhiều liên tưởng đến mối giao cảm của nhà thơ với người con gái xứ Huế. Chẳng biết thôn Vĩ có hiểu cho mối tình đơn phương mà tha thiết đó không? Chẳng hay người thôn Vĩ có tình cảm đậm đà với mình không? Đó là câu hỏi của tình yêu và cũng là câu hỏi muôn thuở của tất cả những người đang yêu tha thiết như nữ sĩ Xuân Quỳnh đã từng viết:
“Anh có nghe hoa rơi
Quanh chỗ mình đứng đó
Hoa ơi sao chẳng nói
Anh ơi sao lặng thinh
Đốt lòng em câu hỏi:
Yêu em nhiều không anh?"
Câu thơ của Tử rất mơ hồ, một câu hỏi đã hàm ý vô vọng nhưng vẫn thể hiện được niềm khao khát của thi nhân. Hai chữ “đậm đà” khép lại bài thơ như muốn nói dẫu vô vọng nhưng thi nhân vẫn khao khát, vẫn mong ai đó biết và thấu hiểu cho tình yêu, cho sự đậm đà của tình người.
Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng nhận định: “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”. Biết bao ống kính thiên văn đua nhau chĩa về “ngôi sao chổi” kì lạ ấy, song tiếc thay, cái vừng sáng vừa trong trẻo, vừa chói lói, vừa ma quái phát ra từ ngôi sao có sức cuốn hút bao nhiêu cũng có sức xô đẩy bấy nhiêu. Dù xuất hiện trên thi đàn văn học Việt Nam vỏn vẹn 12 năm, song những gì ông để lại cho hậu thế là cả một vườn thơ “rộng không bờ, không bến, càng đi xa càng ớn lạnh”, càng thấy “nhọc” bởi lớp lớp tầng nghĩa của những vần thơ vẫn chưa được lật mở.
Ba câu hỏi ở ba khổ thơ là ba sắc thái tình cảm hoàn toàn khác nhau. Câu hỏi thứ nhất là để nhớ mong, tiếc nuối, câu hỏi thứ hai là khắc khoải, lo âu và câu hỏi cuối cùng cho ta thấy khát khao cũng như hoài nghi của thi nhân. Ba câu hỏi như sợi dây vô hình gắn kết các khổ thơ trong mặt cảm xúc thống nhất, bài thơ thể hiện một tâm hồn rạo rực tình đời, tình người tha thiết hướng về cuộc sống đến khắc khoải của thi nhân. Bài thơ đã để lại một bức tranh ngoại cảnh và tâm cảnh thật đẹp vương vấn mãi trong lòng người đọc như nhà thơ Thu Bồn đã viết:
“Xin chào Huế một lần anh đến
Để ngàn lần anh nhớ trong mơ
Em rất thực mà nắng thì mờ ảo
Xin đừng lầm em với cố đô”
Bài văn cảm nhận bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" - mẫu 12
Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” chính là tác phẩm nổi bật nằm trong tập “Thơ Điên” đại diện cho hồn thơ mãnh liệt và luôn sáng tạo dẫu xa lạ với đời thực của Hàn Mặc Tử. Sự sáng tạo ấy thể hiện ngay ở phần mở đầu của bài thơ khi tác giả lại chọn một câu hỏi tu từ để dẫn dắt người đọc vào bức tranh thiên nhiên đầy tâm sự của Vĩ Dạ.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Câu thơ đầu là lời tự sự chạy theo dòng cảm xúc của chủ thể trữ tình. Đôi chút trách móc, giận hờn cũng là nghệ thuật để tôn lên nét duyên của người con gái. Hoặc có chăng đây chính là lời tự vấn khi từ "anh” được dùng như đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất thể hiện sự nuối tiếc muốn giãi bày. Chính vì giọng thơ rất duyên Đây thôn Vĩ Dạ cảm nhận được đượm chút buồn để rồi kết thúc bằng một dấu chấm hỏi lưng chừng.
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Bức tranh thiên nhiên Vĩ Dạ bắt đầu hiện lên rõ nét qua từng hình ảnh thơ cụ thể của tác giả. Từ “nắng” được lặp lại hai lần trong cùng một câu thơ khiến cả thôn Vĩ Dạ như được tắm mình trong màu nắng vàng ấm áp, ấm như chính lòng người nơi đây. Nhà thơ đã đặc biệt miêu tả về hình ảnh “nắng mới lên” như muốn gợi đến sự thanh khiết, tinh tươm của cảnh vật chốn quê nhà.
Bức tranh thiên nhiên Vĩ Dạ không chỉ có “nắng hàng cau” trải dài từng vệt ấm mà còn tươi mới với màu xanh của cây cối nơi đây. Màu xanh được so sánh với màu ngọc như một phép nghệ thuật khéo léo tôn lên vẻ trân quý của bức tranh thiên nhiên xứ mộng mơ. Câu thơ thứ ba nổi bật lên nhờ vào giọng thơ đầy sắc thái ngạc nhiên pha lẫn thích thú của tác giả. Chính vì thế mà người đọc như được bước vào không gian nghệ thuật mà nhà thơ xây lên.
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Thiên nhiên dẫu đẹp đến đâu thì cũng sẽ trở nên vô hồn nếu thiếu đi bóng dáng con người. Do đó mà câu thơ cuối của khổ thơ thứ nhất đã làm sống dậy hồn của cả đoạn thơ khi vẻ đẹp con người được miêu tả hòa quyện cùng cảnh vật thiên nhiên. Ở đây, tác giả đã vô cùng tinh tế khi đưa hình ảnh con người vào bức tranh thiên nhiên một cách thấp thoáng, vừa thực vừa ảo với gương mặt chữ điền vốn là biểu tượng của sự phúc hậu và vừa gần gần vừa xa bởi sự che ngang của lá trúc. Tại sao lại là lá trúc mà không phải bất kì loại lá nào, vì trúc với dáng lá thanh mảnh tượng trưng cho cái đẹp nhẹ nhàng của thiên nhiên. Có thể nói, khổ thơ đầu chính là một bức tranh thiên nhiên đẹp đúng với vẻ mộng mơ của xứ Huế. Từ đó, gợi lên nỗi niềm nhớ thương về quê hương của nhà thơ. Khổ thơ thứ hai là sự chuyển biến nội tâm hoàn toàn của nhân vật trữ tình thông qua tứ thơ vận động theo cảm xúc.
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
Hai câu thơ trên vốn tả cảnh nhưng lại nặng trĩu tâm tình khi tác giả mượn hình ảnh gió và mây để cụ thể hóa tâm sự nơi lòng mình. Gió và mây muôn đời vẫn quấn quýt bên nhau nhưng ở đây hai sự vật này lại chia đôi ngã “gió theo lối gió” để rồi bỏ lại “mây đường mây”. Tiếp đến là hình ảnh hoa rơi nước chảy càng khiến lòng người thêm não nề bởi cảnh vật sao mà vô tình thế khiến lòng người cũng chẳng mấy khá hơn. Đây thôn Vĩ Dạ cảm nhận được mối tình đơn phương của chính chủ thể, chưa gặp đã vội chia lìa:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Trăng với Hàn Mặc Tử là đôi bạn tri âm tri kỉ, trong thơ ông bao giờ cũng có cả một miền trăng như mượn hình ảnh đó để mà giải tỏa niềm đau, chất chứa tâm sự. Qua hình ảnh “sông trăng” độc đáo, dòng sông Hương được nhà thơ miêu tả với tất cả vẻ đẹp đằm thắm, thơ mộng. Bút pháp tả thực mà như ảo của nhà thơ đã khiến dòng sông quê hương không chỉ là một dòng nước mà đây chính là một dòng ánh trăng lấp lánh trải dài.
Kết thúc khổ thơ, Hàn Mặc Tử lại đặt một dấu chấm hỏi lưng chừng nhưng khắc khoải hi vọng. Từ “kịp” được tác giả sử dụng rất đắt, thể hiện tâm trạng lo âu của chính nhà thơ. Bởi với một người bình thường, nếu không kịp vào tối nay thì sẽ còn những đêm khác, nhưng với nhân vật trữ tình này, đêm nào cũng có cảm giác là đêm cuối và nếu không kịp thì có lẽ ông sẽ ra đi mãi trong sự nuối tiếc.
Qua đó thể hiện rõ nét bi kịch của chính cuộc đời ông, đó là nỗi lòng khắc khoải tìm kiếm sự tri âm, thèm muốn được giao cảm với đời nhưng lại phải chống chọi với nỗi đau thể xác trong quỹ thời gian hạn hẹp còn lại của đời mình. Bút pháp lãng mạn tượng trưng của ông không chỉ dựng lên không gian nghệ thuật độc đáo mà qua ngôn ngữ điêu luyện ông còn gửi gắm tâm trạng của chính mình. Từ giọng thơ man mác, khắc khoải của khổ thơ thứ hai, Hàn Mặc Tử đã chuyển thành giọng gấp gáp ở khổ thơ cuối cùng.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá, nhìn không ra”
Bị cuộc đời tuyệt giao nhưng nhà thơ quyết không bao giờ chịu tuyệt tình, càng bị bỏ rơi ông càng tha thiết níu giữ dù đớn đau muôn phần. Lời gọi “Khách đường xa” được lặp lại như tiếng nấc nghẹn ngào đầy hụt hẫng của tác giả. Ông chơi vơi khi nghĩ về người thương nơi quê nhà để rồi phải mặc cảm trong sự chia li, tưởng chừng dáng người vừa hiện lên nhưng lại vội biến mất.
Hàn Mặc Tử đã cho người đọc cùng ông chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nhân vật trữ tình trong quan niệm thơ mới của mình. Nếu như sắc trắng ở văn học trung đại là màu của sự tang thương, mất mát thì trong văn học hiện đại, nhà thơ đã nhắc đến nó như màu của sự tươi mới, tinh khôi. Quan niệm văn chương mới mẻ này đã tạo nên một vẻ đẹp “nhìn không ra”, rất đẹp nhưng xa vời chẳng dễ dàng nắm bắt. Đây vốn là cái đẹp đáng để tôn thờ nhưng bi kịch thay lại tưởng chừng như sắp tuột khỏi tầm với của ông.
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà.”
Đắm mãi trong giấc mơ về con người Vĩ Dạ, nhà thơ cuối cùng cũng phải quay về với thực tại đầy “sương khói”. Đây là sương khói của Huế thương hay là sương khói của dòng thời gian khiến mọi thứ trở nên “mờ nhân ảnh”. Dù hiểu theo cách nào thì ta cũng dễ dàng cảm nhận được rằng nhà thơ vẫn muốn thoát mình khỏi nỗi cô đơn, sự đau đớn giày xéo mãi một thân xác bệnh tật.
Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” kết thúc bằng câu hỏi đầy khắc khoải vô cùng thương xót. Động từ phiếm chỉ “ai” vang lên khiến lòng người lắng đọng bởi cảm giác hụt hẫng của cô gái ấy hoặc cũng có thể của chính nhà thơ. Dù bài thơ khép lại bằng nỗi buồn mênh mang nhưng lại cháy lên mãnh liệt ngọn lửa yêu đời, yêu người nhà thơ.
Đây thôn Vĩ Dạ cảm nhận bằng một hồn thơ mãnh liệt nặng tình với cuộc đời, với cái nhìn mới mẻ của mình Hàn Mặc Tử đã mang một góc Huế thân thương dệt cùng nỗi lòng đầy tâm sự của mình. Trong cơn giằng xé giữa tâm hồn và thể xác đớn đau, nhà thơ đã mang đến cho chúng ta những vần thơ đầy xúc cảm, rung lên từng hơi thở nghẹn ngào từ sự đồng điệu của nhà văn và bạn đọc.
Bài văn cảm nhận bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" - mẫu 13
Hàn Mặc Tử là một hồn thơ mãnh liệt và có sức sáng tạo đặc biệt nhưng luôn quằn quại đau đớn vì một căn bệnh hiểm nghèo. Ông là tác giả tiêu biểu cho "trường phái thơ loạn" xa lạ với đời thực. Tuy nhiên, Hàn Mặc Tử cũng có những bài thơ thật tuyệt mĩ và trong trẻo lạ thường viết về thiên nhiên, đất nước và con người như Đây thôn Vĩ Dạ, Mùa xuân chín… Đây thôn Vĩ Dạ được in trong tập Thơ Điên của Hàn Mặc Tử. Bài thơ được ông viết khi nhận được bức ảnh chụp về phong cảnh Huế kèm theo mấy lời thăm hỏi của người bạn gái có tên là Hoàng Cúc. Những kỉ niệm về vùng đất và con người xứ Huế được sống lại trong bài thơ. Lúc này, ở Quy Nhơn ông đã biết mình mắc bệnh hiểm nghèo. Vì vậy bài thơ là một bức tranh đẹp về thiên nhiên xứ Huế nhưng cũng thấm đượm nỗi buồn da diết, bâng khuâng:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Câu hỏi Sao anh không về chơi thôn Vĩ có thể là câu tự vấn. Từ anh có thể là đại từ nhân xưng được dùng ở ngôi thứ nhất, mang tính chất giãi bày, thể hiện niềm nuối tiếc. Nhân vật trữ tình trong Đây thôn Vĩ Dạ đã tự trách mình sao lại không về chơi thôn Vĩ. Giọng thơ đượm buồn có pha chút ân hận. Cảnh vườn cây đẹp trong nắng ban mai với cành lá mơn mởn ướt sương, ánh như ngọc được miêu tả trực tiếp, qua những hình ảnh cụ thể, sinh động:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Rồi con người xuất hiện:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
khiến cho thiên nhiên bỗng trở nên sinh động hẳn lên. Thiên nhiên như được thổi thêm một luồng sinh khí, tạo nên nét đẹp hài hòa trong giá trị tạo hình. Ở đây, câu thơ vừa miêu tả khuôn mặt chữ điền vuông vức đầy đặn ẩn chứa bên trong cảm giác hiền lành đã bị trúc trong vườn che khuất (cảnh thực) vừa như nói đến một trở lực ngăn cách tình người. Sau vườn cây xứ Huế là thiên nhiên xứ Huế. Cảnh trời, mây, sông, nước ở đây thật đẹp, nhất là cảnh một dòng sông được tưới đẫm ánh trăng với con thuyền cũng đầy ắp ánh trăng. Nhưng tất cả đều thấm đượm nỗi buồn. Cách miêu tả thể hiện trạng thái ảo mộng của tâm hồn nhà thơ. Nếu như ở khổ thơ đầu, nỗi buồn chỉ lộ rõ ở một câu thì ở khổ thơ này, dường như nỗi buồn giăng trải ra ở khắp cả khổ thơ:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Câu thơ như xẻ ra làm hai diễn tả sự phân cách, li tán của thiên nhiên nhưng lại gợi ra sự chia ly của lòng người. Nó như lưỡi dao rạch vào nỗi đau của thân phận kẻ bị chia lìa.
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Nỗi buồn của thi nhân đã lan trải ra khắp không gian theo quy luật tâm lý người buồn cảnh có vui đâu bao giờ (Nguyễn Du).
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Ánh trăng huyền ảo tràn đầy vũ trụ nên không khí hư ảo. Tâm trạng mộng mơ của thi nhân dường như đã cảm nhận được tất cả: sông trăng, bến trăng, thuyền chở trăng. Khổ thơ cho thấy con người nhà thơ rất cô đơn, đang khao khát được ai đó chia sẻ, tâm sự. Có chở trăng về kịp tối nay là một câu hỏi vừa như khắc khoải, bồn chồn, vừa như hy vọng chờ đợi một cái gì đang rời xa, biết có khi nào quay trở lại.
Tiếp tục nối mạch thơ trên, khổ thơ thứ ba thể hiện một nỗi niềm canh cánh của thi nhân trong không gian bao la của trời, mây, sông, nước đã thấm đẫm ánh trăng. Đó là sự hy vọng, chờ đợi, mong mỏi và một niềm khắc khoải khôn nguôi. Vẫn ở trong mộng ảo, vì vậy cảnh và người ở đây đều hư hư, thực thực. Đối với thi nhân thì tất cả chỉ là sự cảm nhận. Nhà thơ mơ thấy một khách đường xa, cảm nhận rõ một bóng hình người con gái Huế thơ mộng song không thể nắm bắt được, thoắt ẩn, thoắt hiện, áo em trắng quá nhìn không ra. Sự hụt hẫng đến cao độ, nhà thơ muốn bấu víu, cầm nắm mà không được vì cảnh đầy màu hư ảo lẫn khói mây:
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Bóng hình của giai nhân mờ ảo trong sương, nhưng cũng có thể đó là ẩn ý của người viết. Phải chăng đây là biểu tượng của cái "không đi đến đâu" trong tình yêu của Hàn Mặc Tử:
Ai biết tình ai có đậm đà?
Một câu hỏi không rõ ngôi thứ, không cần sự trả lời nhưng người đọc cũng hiểu được ý nghĩa của nó, vì những khổ thơ đầu của bài thơ đã xuất hiện những cụm đại từ vườn ai, thuyền ai và những câu hỏi như thế:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Có chở trăng về kịp tối nay?
Tâm trạng mong mỏi, khát khao bao nhiêu thì sự day dứt, buồn đau cũng tăng lên bấy nhiêu. Tóm lại, cảnh trong Đây thôn Vĩ Dạ là cảnh của vườn quê sông nước xứ Huế. Cảnh đẹp, giàu sức sống, thơ mộng nhưng đượm một nỗi buồn bâng khuâng, da diết. Cảnh ấy như là sự thể hiện biện chứng tâm hồn của một nghệ sỹ tài hoa nhưng đa tình, đa cảm. Mỗi khổ thơ là một câu hỏi, như một nỗi buồn day dứt lòng người. Vì vậy âm hưởng chung của bài thơ là buồn nhưng không bi lụy.
Bài thơ thể hiện một tâm trạng rất thật của nhà thơ và một tình yêu xứ Huế thiết tha. Những chi tiết hình ảnh, thủ pháp nghệ thuật, cấu tứ của bài thơ đều được Hàn Mặc Tử chuyên chở bằng chính tình cảm của mình.
Bài văn cảm nhận bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" - mẫu 15
“Đây thôn Vĩ Dạ” là một kiệt tác của Hàn Mặc Tử, được sáng tác vào năm 1938, in lần đầu trong tập “Thơ điên”. Khi viết bài thơ này Hàn Mặc Tử đang trong giai đoạn bệnh nặng, cả thể xác lẫn tinh thần bị đau đớn và bệnh tật giằng xé. Nhưng thể hiện qua bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” ta chỉ thấy một chất thơ nhẹ nhàng, một hồn thơ khao khát yêu thương, bệnh tật dường như không thể chạm đến tâm hồn của Hàn Mặc Tử. Với những hình ảnh biểu hiện nội tâm, hình ảnh gợi tả, ngôn ngữ tinh tế, giàu liên tưởng, “Đây thôn Vĩ Dạ” vẽ lên một bức tranh đẹp về một miền quê Việt Nam cũng như qua đó gửi gắm tiếng lòng tha thiết yêu đời, yêu người của tác giả.
Theo một số tài liệu, bài thơ được gợi cảm hứng từ mối tình của Hàn Mặc Tử với một cô gái vốn ở thôn Vĩ Dạ. Mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Câu hỏi vừa như lời trách cứ nhưng lại nhẹ nhàng, dịu ngọt như một lời mời. Nghệ thuật trách và mời trong câu thơ thật khéo léo, uyển chuyển, ngọt ngào như nét duyên của người con gái. Qua lời mời gọi dịu dàng, tác giả đưa ta đến với một bức tranh thiên nhiên nhiên tuyệt mĩ của thôn Vĩ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Thôn Vĩ Dạ là một thôn làng thơ mộng nằm kề sát thành phố Huế bên bờ sông Hương. Qua ngòi bút tinh tế của tác giả, vẻ đẹp thôn Vĩ Dạ hiện lên càng lấp lánh hơn, như một điểm nhấn của thiên nhiên. Đến với bức tranh thôn Vĩ Dạ, cảnh đầu tiên hiện ra trong tầm nhìn chính là “hàng cau”. Nhà thơ nói đến hàng cau trước tiên vì cau là một loài cây thanh nhã, ngay thẳng gợi lên sự bất khuất, thủy chung. Cau trồng thành hàng lối tạo nên vẻ đẹp chuẩn mực, ngay ngắn, giàu tính tạo hình, gây ấn tượng đẹp trong tâm trí người đọc.
Vẻ đẹp của hàng cau còn có thêm một chi tiết đẹp hơn tô điểm, đó là “nắng hàng cau”, “nắng mới lên”. Những hàng cau trồng theo hàng lối đón ánh nắng lấp lánh khiến cho ánh nắng dường như cũng trải dài, trải dài thành từng tầng sáng theo từng ngọn cau bao phủ lấy thôn làng ngõ xóm. Từ “nắng” ở đây lặp lại hai lần làm ta dường như cảm nhận được ánh nắng ấm áp lan tỏa khắp nơi, tạo nên sức sống cho bức tranh thôn Vĩ Dạ. Câu thơ thứ ba bật lên như một sự ngạc nhiên thích thú: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”.
Bức tranh thiên nhiên không chỉ có ánh vàng của nắng mà còn có màu xanh tràn nhựa sống của cây lá hoa cỏ. “Mướt quá” gợi lên cho ta thấy sự tràn trề sức sống của cây cối xanh tốt. Màu “mướt quá” làm dịu đi trong ta những bụi bặm, khiến tâm hồn cảm thấy như tươi trẻ hơn. Màu xanh được so sánh với “ngọc” càng khiến cho bức tranh thiên nhiên dường như cao quý, thuần khiết hơn, không nhiễm bụi trần. Câu thơ cũng thoáng hiện lên hình bóng của ai đó qua thông tin “vườn ai” mà tác giả còn để ngỏ. Và để đến câu thơ tiếp theo, hình bóng ấy hiện ra một các rõ ràng hơn:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Hình bóng con người hiện lên làm cảnh vật dường như sinh động hẳn lên. “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Thấp thoáng trong khu vườn xanh mướt lá, hiện ra một gương mặt “chữ điền” phúc hậu vừa thực, vừa ảo, vừa gần nhưng lại vừa xa bởi “lá trúc che ngang”. Gương mặt trong câu thơ như đang dõi theo bước chân người khách nhưng lại vô cùng dịu dàng, e ấp. Câu thơ đẹp vì có sự hài hòa giữa cảnh vật và con người. Như vậy chỉ với vài nét chấm phá, Hàn Mặc tử đã phác họa được cảnh vật và con người ở thôn Vĩ Dạ một cách vô cùng sinh động, vừa quen thuộc gần gũi lại thi vị độc đáo. Đoạn thơ gợi lên trong tâm hồn người đọc bao nỗi niềm, cảm xúc về quê hương yêu dấu. Khổ thơ thứ hai cho ta thấy một thế giới khác của Huế, một sự chuyển biến hoàn toàn về tâm trạng của nhân vật trữ tình:
“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
Hai câu thơ tả cảnh nhưng ta dường như ta thấy nặng trĩu tâm tình. Hai câu thơ gợi cảnh chia li sầu não buồn đến não nề. Gió thổi mây bay thường quấn quýt bên nhau nhưng ở đây “gió theo lối gió, mây đường mây”. Còn nữa, hoa rơi nước chảy còn sự việc nào vô tình hơn? Phải chăng là một mối tình đơn phương, chưa có phút giây gặp gỡ yêu thương đã sớm chia li buồn tủi nên cảnh mới hòa vào lòng người mà sầu khổ, phân li. Điệp từ “gió” và “mây” càng nhấn mạnh thêm khoảng cách, sự xa cách. Hai câu thơ mang một nhịp điệu rất Huế, êm đềm, lững lờ mà trầm tư, man mác buồn. Đặc biệt viết về Huế không thể thiếu ánh trăng:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Trăng là biểu tượng cho cái đẹp, tượng trưng cho hạnh phúc và thanh bình. Hình ảnh trăng trong thơ của Hàn Mặc Tử gợi cho người đọc một niềm hi vọng, một niềm tin. Chỉ có trong thơ mới có thể có sông trăng và thuyền chở trăng. Ẩn dụ của tác giả thật thơ mộng, mang đến cho ta niềm khao khát, đợi chờ. Nhưng có thể không? “Có chở trăng về kịp tối nay”. Lời thơ cất lên như một câu hỏi vô vọng không có đáp án. Hai câu thơ đặc tả tâm trạng khát khao gặp gỡ nhưng đồng thời cũng thể hiện nỗi lo lắng phập phồng. Khổ thơ cuối có lẽ nhà thơ đã tỉnh mộng, quay về với thực tại đang sống, đối mặt với chính mình để viết lên những vần thơ:
“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra”
Điệp ngữ “khách đường xa” vừa thể hiện tâm trạng nhớ thương khắc khoải lại dường như cái vô vọng của mối tình đơn phương xa vời. Lúc này ở thực tại tác giả đang đối mặt với căn bệnh hiểm nghèo, cắt đứt mọi giao tiếp với xung quanh nên ta có thể nhận thấy qua lời thơ ước mơ của tác giả vô cùng tha thiết. Tác giả không mơ được trở về thôn Vĩ nữa mà mơ có một người khách nào đó đến thăm. Nhưng rồi giấc mơ ấy như nhòa đi: “Áo em trắng quá nhìn không ra”.
Ở đây ta có thể thấy tác giả mơ về một người con gái, nhưng chỉ có thể thấy “áo” chứ “nhìn không ra”. Chỉ biết đây là một hình ảnh rất đỗi gần gũi nhưng lại quá xa xôi. Gần gũi vì nó đã trở thành một hoài niệm thường trực, còn xa xôi là vì khoảng cách thời gian, không gian. Câu thơ còn có nét đặc sắc riêng khi nhắc đến chiếc áo trắng gợi cho ta nhớ đến những nữ sinh Huế mặc áo dài. Nét thanh khiết này làm ta hình dung rõ hơn về cô gái trong mộng tưởng. Trong tâm trạng buồn bã cô đơn của thực tại và nhớ mong khắc khoải trong thơ, nhà thơ chợt khao khát cuộc sống đến tột cùng:
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”
Ở nơi tình cảm chỉ mờ như sương khói, cái tha thiết mong đợi của tác giả như đọng lại tới vô cùng. “Ai biết tình ai có đậm đà”. Cái hay của câu thơ nằm ở đại từ phiếm chỉ “ai”, nghe như lời nghi ngờ, cũng như một tiếng thở dài vô vọng.
Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” mặc dù đã ra đời từ lâu nhưng vẫn để lại cho người đọc rất nhiều cảm xúc. Bài thơ không chỉ là một bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ mà con là nỗi lòng của một con người với những tâm sự sâu lắng, với những khát khao yêu đời, yêu người. Hiện nay, theo nhiều đánh giá, bài thơ xứng đáng được xếp vào một trong những thi phẩm xuất sắc của thơ Việt Nam hiện đại.
Bài văn cảm nhận bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" - mẫu 14
Hàn Mặc Tử là một nhà thơ nổi bật trong phong trào thơ mới. Các sáng tác thơ của ông là tiếng lòng của một tâm hồn thiết tha yêu cuộc sống, mang khát vọng sống mãnh liệt đến đau đớn. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được sáng tác trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt, khi tác giả đang phải điều trị bệnh phong. Bài thơ đã thể hiện nổi bật và sâu sắc một hồn thơ tha thiết với đời.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh vườn thôn Vĩ sáng trong nắng mai với cảnh sắc đẹp một cách bình dị:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Câu hỏi tu từ đầu tiên đặt ra cho độc giả nhiều thắc mắc. Có người cho rằng, câu thơ này xuất phát từ lời trách móc, nhưng đó hay chăng cũng là một lời mời nhẹ nhàng mà tình tứ. Câu hỏi gợi ra hình ảnh thôn Vĩ bình dị, tràn đầy sức sống trong tâm thức của nhà thơ. Đây cũng như là câu hỏi mà nhà thơ đã phân thân ra để hỏi chính bản thân mình. Hình ảnh nắng mới tràn đầy sức sống, khu vườn được hứng trọn những tia sáng tinh khôi nhất của đất trời. Màu sắc của khu vườn được lột tả qua từ “mướt”, qua đó gợi những sức sống mạnh mẽ của cảnh vật.
Không gian được tràn ngập ánh sáng, ánh sáng như mang sự sống gieo vào tất cả cảnh vật, cảnh vật đơn sơ mà lại vô cùng lộng lẫy. Hình ảnh thơ ở cuối khổ “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” gợi lên hình ảnh thơ vô cùng độc đáo. Khuôn mặt ai duyên dáng sau cành lá trúc, gợi một chất tạo hình cho thơ đậm chất cổ điển, tạo nên sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người nơi thôn Vĩ. “Mặt chữ điền” thường được nhắc tới khi nói về người có khuôn mặt phúc hậu, cũng có thể được hiểu đó là khuôn mặt trở về thăm thôn Vĩ, đang say đắm trước vẻ đẹp thiên nhiên của khu vườn và cảnh vườn thôn Vĩ cũng là hình ảnh cuộc đời, như một thiên đường trần gian. Cảnh trời mây buồn và sông nước đếm trăng vừa thực, vừa ảo cứ chập chờn chuyển hóa trong khổ thơ thứ 2:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Những mặc cảm chia lìa đã hiện ra qua từng câu chữ. Hai câu thơ diễn tả thực trạng chia lìa, không có sự ràng buộc, không có sự gắn kết. Nỗi buồn chia lìa của gió mây đôi ngả đã thấm vào dòng nước và hoa bắp lay. Trong tâm trí của thi sĩ lại xuất hiện một khao khát. Ông coi trăng như một tri âm, một niềm tin cậy. “Thuyền” và “trăng” là những hình ảnh đầy chất thơ, ảo huyền trong cõi mộng.
Câu thơ cuối là một câu hỏi đầy tâm sự. Tại sao lại dùng từ “kịp”? Có phải không kịp thì tất cả sẽ trở thành muộn màng, phải chăng thi sĩ đã dự cảm về một kết thúc đau thương của mình, chữ “kịp” như chất chứa bi kịch tâm hồn của tác giả. Nó hé mở cho người đọc về cảm nhận và tâm thế sống của Hàn Mặc Tử: cảm nhận về một hiện tại ngắn ngủi và sống là chạy đua với thời gian. Nỗi niềm khắc khoải đã hiện rõ trong khổ thơ cuối của bài:
“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”
Giấc mơ ấy là niềm mong ước, tận cùng là hình bóng của “khách đường xa” đã trở nên xa xôi quá. Câu thơ “Áo em trắng quá nhìn không ra”, mới đọc ta cảm giác khó hiểu, trắng quá là cách nói đầy cảm xúc để tả sắc trắng của áo em, tạo nên một cách nói ấn tượng để cực tả sắc trắng, màu trắng đã trở thành ám ảnh trong thơ Hàn Mặc Tử. Trong bài thơ này, vẻ đẹp của chiếc áo trắng tinh khôi như một vẻ đẹp đang tôn thờ, hình ảnh người con gái càng đẹp, càng tinh khiết thì lại càng xa vời. Cuối bài thơ xuất hiện từ để hỏi và đại từ “ai”, như khép lại bài thơ một cách ngậm ngùi, bởi tình người quá mong manh và xa vời. Câu thơ nhuốm màu hoài nghi về sự đậm đà trong tình cảm của ai đó. Đây là sự hoài nghi của một người rất yêu đời, yêu cuộc sống, cũng chính là uẩn khúc của một người có tấm lòng thiết tha với đời.
Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” đã giúp người đọc cảm thông với khát vọng và nỗi đau của tác giả. Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tài năng nhưng lại phải chịu một cuộc đời ngắn ngủi, một số phận bất hạnh. Nhưng, ông vẫn luôn giữ một niềm yêu đời, khát khao sống và thiết tha với cuộc sống.
Hãy đăng nhập để bình luận
Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .