Top 8 Bài văn cảm nhận của em về nhân vật Thị Kính (lớp 7) hay nhất

8712

Việt Nam ta có nhiều loại hình nghệ thuật rất nổi tiếng và đến giờ vẫn giữ được truyền thống ấy như tuồng, kịch nói, múa rối nước,.. Một trong những loại hình nghệ thuật...xem thêm ...

Top 0
(có 1 lượt vote)

Bài văn cảm nhận của em về nhân vật Thị Kính - mẫu 1

Người phụ nữ trong xã hội phong kiến là một đề tài quen thuộc trong nền văn học Việt Nam. Các nhà văn luôn dành những trang viết để đồng cảm và trân trọng họ bởi đó là những con người đầy nỗi bất hạnh. Nhân vật Thị Kính trong tác phẩm Quan âm Thị Kính là một nhân vật tiêu biểu như vậy, một số phận chịu nhiều oan khuất, đau đớn. Đoạn trích “Nỗi oan hại chồng” đã cho thấy phần nào cuộc sống bế tắc, không lối thoát của người phụ nữ nói riêng và những số phận thấp cổ bé họng nói chung. 


Đoạn trích nằm ở hồi một của tác phẩm “Quan âm Thị Kính”. Thị Kính là cô gái sinh ra trong gia đình nghèo, được cha mẹ gả cho Sùng Thiện Sĩ – chàng thư sinh của gia đình giàu có trong vùng. Một đêm khâu áo cho chồng, nàng bỗng nhìn thấy chiếc râu mọc ngược, nàng cầm dao toan xén đi. Người chồng tỉnh dậy, bất giác hô hoán lê. Cha mẹ chồng đổ mọi tội lỗi cho Thị Kính và đuổi nàng về nhà bố đẻ.Bao nỗi oan khuất chẳng thể giãi bày, dẫn tới bi kịch “Nỗi oan hại chồng”.


Là người con gái xuất thân trong gia cảnh nghèo khó nhưng Thị Kính là người con gái nết na, đoan trang, nhân hậu và rất mực yêu thương chồng. Khi chồng thức khuya học bài, nàng ngồi cạnh khâu vá, dọn kỉ rồi ngồi quạt cho chồng yên giấc trong đêm. Tấm lòng sắc son, hi sinh vì chồng của nàng thật đáng trân trọng. Vậy rồi mà cuộc đời chẳng đáp đền tấm lòng của người con gái nết na. Vì chiếc râu mọc ngược của chồng, nàng định cắt đi để rồi dẫn đến bi kịch Thiện Sĩ nghi ngờ vợ có ý định giết mình. Mở đầu cho những sóng gió liên tiếp xảy đến với cuộc đời người con gái đáng thương, bất hạnh.


Trước bi kịch xảy ra, Sùng ông Sùng bà đã mắng nhiếc, ruồng bỏ người con dâu. Nàng bị đối xử một cách tệ bạc,bị gia đình chồng khinh thường. Ta không khỏi xót xa trước những lời van xin, khóc lóc van lậy của Thị Kính: " Oan cho con lắm mẹ ơi", "Mẹ xét tình con, oan cho con lắm mẹ ơi". Tiếng khóc đau đớn từ tận đáy lòng của nàng khiến chúng ta không khỏi xót xa, thương cảm cho hoàn cảnh đầy oan trái của nàng. Nàng càng khóc, Sùng bà càng mắng nhiếc nàng thậm tệ hơn và đuổi nàng về nhà. Người con gái đi lấy chồng chẳng thể báo đáp được công ơn sinh thành của cha mẹ, giờ lại khiến cha mẹ phải chịu nỗi oan tày trời, bị khinh bỉ và ruồng rẫy. Phận làm con có ai không đau lòng, xót xa.


 Hoàn cảnh của Thị Kính chẳng khác nào nỗi oan của Vũ Nương trong truyện người con gái Nam Xương. Chỉ vì chiếc bóng in trên tường mà nàng đùa nghịch cùng con khi đêm tối, đã khiến người chồng hiểu lầm nàng không chung thủy và Vũ Nương đã chọn cái chết để giải thoát. Nỗi oan của Thị Kính nói riêng và của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung là do sự bất công, chà đạp của chế độ nam quyền khiến họ không thể giãi bày những tâm tư trong lòng. Nỗi đau đớn của Thị Kính cũng xuất phát từ từ hoàn cảnh gia đình không “môn đăng hậu đối” với gia cảnh nhà chồng. nàng bị Sùng bà sỉ nhục với bao lời lẽ cay nghiệt. Bởi vậy, nàng chỉ than thân trách phận mình sao hẩm hiu, đầy đau đớn:


Nghĩ trách mình phận hẩm duyên ôi

Cho nên nỗi thế tình run rủi


Và trong cơn bĩ cực của cuộc đời, nàng đã tìm cách để giải thoát cho mình, để cha mẹ chẳng phải đau khổ vì nàng. Đó là nàng đóng giả nam nhi, xuất gia tìm lại bình yên chốn cửa Phật. Sự ra đi của nàng hướng về chân trời chớm rạng đông như mong ước về một cuộc sống bình yên, không vương vấn bụi trần.


Nhân vật Thị Kính như tiêu biểu cho bao bi kịch của người phụ nữ trong xã hội cũ với những bất công, oan trái. Qua đó, tác phẩm đã lên án mạnh mẽ xã hội thối nát, chà đạp lên những ước mơ, cuộc sống tốt đẹp của con người và đó cũng tiếng lòng thương cảm, xót xa của nhân dân cho số phận hồng nhan mà bạc mệnh.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 1
(có 0 lượt vote)

Bài văn cảm nhận của em về nhân vật Thị Kính - mẫu 2

Trong Quan Âm Thị Kính, đoạn Nỗi oan hại chồng giúp chúng ta hiểu những nét dặc sắc của cả tác phẩm, nhất là về mặt kịch bản văn học. Nỗi oan hại chồng là bi kịch đầu tiên của cuộc đời Thị Kính - nhân vật chính của vở chèo.


Thị Kính vốn sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo hị Kính được bố mẹ gả cho Sùng Thiện Sĩ – một thư sinh đẹp trai, chăm học. Một lần đọc sách mệt, Thiện Sĩ ngủ thiếp đi. Thị Kính ngắm nhìn khuôn mặt tuấn tú của chồng, bỗng nhận ra ở cằm chồng có một sợi râu mọc ngược. Sẵn con dao nhíp trong thúng khảo đựng đồ may, Thị Kính liền cầm lên định tỉa sợi râu. Bỗng Thiện Sĩ chợt tỉnh, nhìn thấy vợ cầm dao kề vào cổ mình, liền tri hô là vợ định giết mình. Thế là Thị Kính mang tội tầy đình, bị chồng ruồng bỏ, xã hội lên án. Thị đã hành xử một cách tùy tiện đã gây ra bi kịch “ nỗi oan hại chồng”. Trong đoạn trích 6 lần Thị Kính khóc lóc, van xin,  4 lầ khóc van lạy sùng bà “ Oan cho con lắm mẹ ơi…”, “ mẹ xét tình con, oan cho con lắm mẹ ơi..” nàng càng khóc thì mụ càng chửi mắng thậm tệ hơn. Với nàng nỗi oan chỉ có kêu trời mà thôi.


Bị vu oan là giết chồng, tội ác không thể tha thứ, mẹ chồng nàng không cần biết nàng nói gì, mặc nàng cứ khóc, cứ van xin. Mụ nhất định đuổi Thị Kính về nhà mẹ đẻ. Đó là sự tủi nhục cực khổ vô cùng của Thị Kính, của người phụ nữ nghèo hèn trong xã hội cũ. Sinh ra phải kiếp nhà nghèo tưởng rằng được nương tựa nhà giàu là bớt khổ, tường rằng lấy được chồng có học thì cuộc sống gia đình sẽ ấm êm, ai ngờ nhà giàu họ khinh bĩ phận nghèo, coi nàng như cỏ rác, còn chồng thì nhu nhược, vô tâm... Ngay cả cha đẻ của nàng cũng bị Sùng ông khinh miệt coi thường, mặc dù giữa họ là chỗ thông gia. Cha con ôm nhau cùng khóc, có nỗi đau nào hơn nỗi đau này.


Thị Kính lại kêu với Thiện Sĩ nhưng anh chồng đần nào có động lòng. Nỗi oan của Thị Kính được người cha cảm thông, san sẻ. Nghe con gái khóc thì Mãng Ông đã cất lời than:


“Con ơi!

Dù oan dù nhẫn chẳng oan,

Xa xôi cha biết nỗi con thế nào?”

An ủi con gái, Mãng Ông khuyên con đi về nhà “ Về cùng cha con ơi..”


Cuối trích đoạn, “ Nỗi oan hại chồng”, Thị Kính cất lời than. Đau khổ về tiếng mỉa mai sao tránh khỏi.Trách duyên số, trách hai cha mẹ con Thiện Sĩ: “ Đang tay nở bẻ phím đồng làm đôi”. Nàng cầu mong “ nhật nguyệt rạng soi” cho nỗi oan, xin lạy cha, ạy mẹ và “ quyết tâm trá hình nam tử bước đi tu hành”. Cách ứng xử cho thấy Thị Kính đau khổ và bế tắc tột cùng. Cảnh chân trời chớm rạng đông khi Thị Kính lặng lẽ bước ra khỏi nhà họ Sùng à một cảnh tượng nói lên một qua niệm, một niềm tin thánh thiện của nhân dân ta ngày xưa: con đường tu hành đi tới cửa Phật là con đường sáng. Họ quan niệm chỉ có đến cửa Phật mới mong rũ bỏ bụi trần, khiến cho con người ta thiện hơn, nhân ái với nhau hơn. Sự bế tắc không chỉ của Thị Kính mà là của cả một lớp người, giai tầng xã hội. Cả cuộc đời họ chuỗi ngày oan trái không lối thoát. Tiếng nói của họ là sự lên án mạnh mẽ xã hội thối nát đồng thời mơ ước một xã hội tốt đẹp hơn như cõi tu chẳng hạn. Đây chính là sự bế tắc, có thể nói rằng là sự buông xuôi phó mặc cho số phận của cả một xã hội chưa có cách mạng dẫn đường.


Qua nhân vật Thị Kính ta biết được số phận của người phụ nữ xưa trong xã hội ngang trái lúc bấy giờ. Thị Kính là hiện thân của nhân vật khổ cực trong xã hội lúc ấy. Qua đây cũng cho ta thấy được đoạn trích nói riêng và vở chèo nói chung giafu giá trị nhân đạo sâu sắc.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 2
(có 2 lượt vote)

Bài văn cảm nhận của em về nhân vật Thị Kính - mẫu 4

Người phụ nữ trong xã hội xưa luôn phải chịu nhưng bất công, khổ hạnh mà không biết giãi bày cùng ai. Trong đó tác phẩm ” Quan âm Thi Kính” đặc biệt là đoạn trích ” Nỗi oan hại chồng” đã khắc hoạ rõ nét hình ảnh người phụ nữ như vậy với nhiều bi kịch trong cuộc đời. Qua đó nói lên tiếng phê phán xã hội cũ.


Thị Kính sinh ra trong một gia đình nghèo được bố mẹ gả cho Sùng Thiện Sĩ, chàng thư sinh mà gia đình khá giả. Một đêm nọ, khi Thiên Sĩ – là chồng của Thị thiu thiu ngủ do học hành mệt mỏi. Thị Kính ngồi quạt cho chồng và nhìn thấy dưới cằm chồng có chiếc râu mọc ngược, nàng bèn dùng dao xén đi. Ngay lúc đó, Thiện Sĩ giật mình choàng tỉnh, nghĩ Thị Kính có ý đồ giết mình bèn hô hào lên. Cả gia đình chồng không phân rõ trắng đen đã vu cho Thị Kính tội giết chồng, rồi trả nành về cho Mãng Ông – cha đẻ nàng sang mặc cho Thị Kính ra sức giải thích. Thị Kính trên cùng cha về nhà nhưng đến giữa chừng thì quyết định từ biệt cha mẹ, giả dạng nam nhi bước đi tu hành.


Tuy xuất thân nghèo khó nhưng Thị Kinh là người con gái đoan trang,nhân hậu, hiền lành và rất mực thương yêu quan tâm chồng. Đây là vẻ đẹp chung của người phụ nữ trong xã hội xưa “thân em vừa trắng lại vừa tròn, Bảy nổi ba chìm với nước non”. Tuy nhiên, dưới sự bất công của xã hội xưa, nàng bị vu oan giết chông và không thể giải oan. Với một xã hội trong tôn trọng giá trị của phụ nữ, nàng bị người chồng đầu ấp tay kề bỏ rơi và thờ ơ, chịu đựng những oan ức sự bê tắc, nàng bị đối xử một cách tùy tiện, tệ bạc.


Mặc dù bị đối xử tệ bạc, nàng vẫn ra sức sự tha thứ ” Oan cho con lắm mẹ ơi”, “Mẹ xét tình con, oan cho con lắm mẹ ơi”… Nàng vẫn mong rằng được cảm thông, thấu hiểu, nhưng đáp lại là sự phũ phàng, nàng càng khóc thì mụ càng mắng chửi thậm thệ hơn. Đó chính là một số phận đầy bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội xưa: thấp bé, dễ dành bị chà đạp. Đến khi chính mẹ chồng – người phụ nữ cũng không thông cảm cho Thị, nhất định đuổi Thị Kính về nhà mẹ đẻ. Đối với nàng, đó là sự đau khổ, tuyệt vọng tột cùng.


Người duy nhất hiểu Nỗi oan của Thị Kính là Mãn Ông, nhưng ông lại không có tiếng nói trong xã hội xưa, để rồi đây khi con mắt của người đời vẫn không ngừng chỉ trích. Mãng Ông tuyệt vong mà than rằng: ” Con ơi/ Dù oan con nhẫn chẳng oan/ xa xôi cha biết nỗi con thế nào?” Khi không được con người thấu hiểu, nàng cầu mong” Nhật nguyệt rang soi” cho nỗi oan, xin lậy cha lậy mẹ và ” Quyết tâm trá hình nam tử đi tu hành”. Hành động này của Thị Kính cho thấy sự đau khổ và bế tắc tột cùng. Sự bế tắc ấy không phải của riêng Thị Kính mà là của một lớp người, một giai cấp nhỏ bé trong xã hội xưa. Tiếng nói của họ là sự phê phán mạnh mẽ xã hội thối nát, đồng thời thể hiện những ước mơ cuộc sống tốt đẹp hơn, như là sự nương nhờ cửa Phật.


Qua nhân vật ta thấy được số phận bi kịch của người phụ nữ trong xã hội cũ với nhiều những bất công ngang trái. Đồng thời thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc trong tác phẩm với lòng thương cảm cho những số phận bất hạnh.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 3
(có 0 lượt vote)

Bài văn cảm nhận của em về nhân vật Thị Kính - mẫu 3

Những thân phận nhỏ bé trong xã hội luôn gặp phải những khổ đau bất hạnh làm cho chúng ta phải xót xa, thương cảm. Nhân vật Thị Kính trong vở chèo “Quan Âm Thị Kính” là một nhân vật như vậy, những vẻ đẹp trong tâm hồn nàng cùng số phận khổ đau vừa đem lại cho người ta sự yêu mến về nhân cách đồng thời cũng xót xa cho số phận – một số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy bất công.


Nhân vật Thị Kính xuất thân trong gia đình nghèo khó nhưng là một người con gái đức hạnh. Đầu tiên nàng là một người phụ nữ hết lòng vì chồng, vì gia đình chồng. Đức tính này thể hiện thông qua hành động nhỏ là để ý chồng mình có cái râu mọc ngược và muốn cắt nó để làm đẹp cho chồng. Đây là một hành động thể hiện tình yêu sâu sắc với chồng, không có gì đáng chê trách mà ngược lại rất yêu thương chồng. Với hành động yêu thương ấy, đáng ra chồng nàng phải là người hiểu điều này hơn ai cả, thế nhưng lại có thể hiểu lầm nàng có ý mưu sát chồng. Một người sống cùng nhau mà không hiểu tấm lòng của nhau thì thật là đáng buồn cho Thị Kính. Với xuất thân từ nhà nghèo được gả cho nhà chồng, sự không môn đăng hộ đối đã khiến cho nàng phải chịu số phận khổ đau sau này.


Đây là số phận của nhiều phụ nữ trong xã hội phong kiến là vậy, chính những cổ tục hà khắc đè nén là mầm mống cho những hiểm họa về sự bất hạnh, cộng thêm sự thấp cổ bé họng, cuộc đời của họ biết đi về đâu bị. Chính những điều này khiến một việc nhỏ bé mà nàng bị vu oan có ý mưu sát chồng. Khi bị vu oan, với tính cách hiền hậu, dịu dàng, nàng không đối lại với lời lẽ cay nghiệt của nhà chồng mà chỉ một điều van xin, hai điều can xin sự thấu hiểu và đồng cảm. Chỉ có cha của nàng đông cảm nhưng ông lại không có tiếng nói nên nỗi oan của Thị không được làm sáng tỏ. Trước những bất công của xã hội, trước nỗi oan ức không thể giãi bày, nàng cầu xin sự chứng giám của thời xanh với tấm lòng trong sạch của mình. Cuối cùng Thị quyết định giả làm chú tiểu, nương nhờ cửa Phật để người có thể thấu nỗi lòng của nàng. Sự quyết định của nành thể hiện tấm lòng hiếu thảo đối với cha mẹ.


Nàng sợ cha mẹ bị hàng xóm láng giềng chê bai, sợ làm xấu tiếng của gia đình nên quyết định nương tựa cửa Phật. Qua những hành động của Thị, ta thấy được số phận của người con gái đẹp người đẹp nết ấy sao mà lại bất hạnh như vậy. Ngay từ đầu, Thị không hề làm một hành động gì có lỗi cả, mọi chuyện đều xuất phát từ ý tốt vậy mà vì không tin tưởng nhau trở thành tai họa. Cuộc đời nàng không hề làm sai trái điều gì, cũng chưa từng hại ai vậy mà chịu oan, nỗi oan tày trời mà lần nào nàng cũng phải chịu. Bởi người con gái bất hạnh ấy không biết phải kêu oan ở đâu kêu oan như thế nào khi quyền thế nằm trong tay những người có quyền thế, còn nàng chỉ là một người phụ nữ bé nhỏ, khổ sở.


Qua đó, ta đồng cảm, xót thương cho nành, cho những người phụ nữ đẹp người, đẹp nết mà phải chịu số phận khổ đau. Nhân vật Thị Kính để lại trong lòng người đọc nhiều xót xa, thương cảm cho một tầng lớp nhỏ bé, bất hạnh, đồng thời dậy lên niềm quý mến, trân trọng cho một người con gái đức hạnh, đẹp người, đẹp nết.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 4
(có 0 lượt vote)

Bài văn cảm nhận của em về nhân vật Thị Kính - mẫu 5

Trong xã hội phong kiến xưa thân phận của người phụ nữ luôn gặp phải những khổ đau bất hạnh. Những thân phận ấy luôn làm cho chúng ta phải xót xa, thương cảm. Nhân vật Thị Kính trong vở chèo “Quan Âm Thị Kính” đem lại cho người ta sự yêu mến về nhân cách đồng thời cũng xót xa cho số phận- một số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến hà khắc.

Nhân vật Thị Kính hiện lên đầu tiên đó là một người con gái đức hạnh. Đầu tiên, nàng là một người phụ nữ hết lòng vì chồng, vì gia đình chồng. Chỉ một hành động nhỏ là để ý chồng mình có cái râu mọc ngược và muốn cắt nó để làm đẹp cho chồng ta cũng có thể nhận ra đối với chồng, nàng không phải là một người vợ có gì đáng chê trách mà ngược lại rất yêu thương chồng. Đáng ra chồng nàng phải là người hiểu điều này hơn ai cả, thế nhưng lại có thể hiểu lầm nàng có ý mưu sát chồng. Thêm vào đó, hôn nhân của nàng vốn không môn đăng hộ đối, gia đình nhà chồng không ai ủng hộ nên thực chất, mối hiểm họa về số phận bi đát của nàng đã manh nha dự báo từ lâu.


Người phụ nữ trong xã hội phong kiến là vậy, họ bị những cổ tục hà khắc đè nén mang theo những hiểm họa về sự bất hạnh, đồng thời họ là những người không có tiếng nói, sống phụ thuộc và bị coi rẻ.Vậy là từ một việc nhỏ như vậy, nàng bị vu oan có ý mưu sát chồng, với tính cách hiền hậy, dịu dàng, nàng không thể đối lại với lời lẽ cay nghiệt của nhà chồng lại sợ cha mẹ ruột liên lụy nên quyết định giả làm chú tiểu, nương nhờ cửa Phật. Những tưởng đến chốn linh thiêng, cuộc đời nàng sẽ vơi sóng gió, nhưng vốn là một người phụ nữ có nhan sắc, khi giả chú tiểu nàng trở thành một chú tiểu khôi ngô tuấn tú và khiến cho Thị Mầu - con gái phú ông mê mệt. Nhưng vốn thân nữ nhi lại đang nương nhờ cửa Phật, hết lần này đến lần khác, Thị Kính trốn tránh những lời ong bướm tán tỉnh lẳng lở của Thị Mầu.


Thị Mầu vì vậy sinh thù, ăn nằm với anh hầu rồi đổ vạ cho Thị Kính. Nếu khi ấy, Thị Kính nói rõ thân phận của mình là nữ nhi, mọi thị phi sẽ rũ bỏ nhưng nàng không thể làm vậy, đành ôm mối oan ức, bị đuổi ra khỏi chùa. Nhưng nàng không vì thế mà mất đi lòng nhân của mình. Sau sự việc, Thị Mầu để lại đứa con của mình trước cổng chùa cốt để lại cho Thị Kính, Thị Kính hoàn toàn có lí do để bỏ mặc đứa trẻ. Nhưng một tấm lòng nhân hậu như của nàng hiểu rằng đứa trẻ là vô tội, nàng không ngại nuôi nấng chăm sóc nó như con ruột cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay mới để lại một bức di thư cho người đời hiểu rõ ngọn nguồn.


Số phận của người con gái đẹp người đẹp nết ấy sao mà lại bất hạnh như vậy. Ngay từ đầu, Thị Kính không hề làm một hành động gì có lỗi cả, mọi chuyện đều xuất phát từ ý tốt vậy mà trở thành tai họa. Cuộc đời nàng không hề làm sai trái điều gì, cũng chưa từng hại ai vậy mà chịu hai lần nỗi oan, lần nào cũng là nỗi oan tày trời mà lần nào nàng cũng phải chịu. Người con gái bất hạnh ấy không biết phải kêu oan ở đâu kêu oan như thế nào khi quyền thế nằm trong tay những người có quyền thế, còn nàng chỉ là một người phụ nữ bé nhỏ, khổ sở

Nhân vật Thị Kính để lại trong lòng người đọc nhiều xót xa, thương cảm cho một kiếp người khổ đau và niềm quý mến cho một người con gái đức hạnh, đẹp người, đẹp nết.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 5
(có 0 lượt vote)

Bài văn cảm nhận của em về nhân vật Thị Kính - mẫu 6

Quan Âm Thị Kính là một vở chèo cổ nổi tiếng của sân khấu chèo. Nội dung của vở chèo chia làm ba phần. Phần 1 là Án giết chống: Thiện Sĩ, con trai Sùng ông, Sùng bà gia đình khá giả, kết duyên cùng Thị Kính, con gái Mãng ông, một nông dân nghèo. Một hôm, vợ ngồi khâu, chồng đọc sách rồi thiu thiu ngủ. Thấy chồng có sợi dâu mọc ngược, Thị Kính cầm dao khâu toan xén đi. Thiện Sĩ giật mình hoảng sợ vội hô hoán lên, Sùng bà giận dữ đổ riệt cho con dâu có ý giết chồng, mắng chửi thậm tệ và đuổi Thị Kính về nhà bố mẹ đẻ. Phần 2 là Án hoang thai: Bị oan ức nhưng không thể thanh minh, Thị Kính đành giả trai, vào tưở chùa Vân Tự, lấy pháp danh là Kính Tâm. Thị Mầu, con gái phú ông, vốn tính lẳng lơ, đem lòng say mê chú tiểu Kính Tâm. Ve vãn Kính Tâm không được, Thị Màu ăn nằm với anh Nô là đầy tớ rồi có thai. Làng bắt vạ. Bí thế, Thị Mầu đổ cho Kính Tâm, Kính Tâm chịu oan, bị sư cụ đuổi ra khỏi tam quan (cổng chùa), Thị Màu đem con bỏ cho Kính Tâm. Phần 3 là Oan tình được giải, Thị Kính lên tòa sen: Trải qua ba năm, Kính Tâm đi xin sữa từng ngày nuôi con của Thị Mầu. Rồi nàng "hóa" (chết), được lên tòa sen, trở thành Phật Bà Quan Âm. Trước khi "hóa", Kính Tâm viết thư để lại cho đứa trẻ. Bấy giờ mọi người mới biết Kính Tâm là gái và hiểu ro tấm lòng từ bi nhẫn nhục của nàng.


 Nỗi oan hại chồng và cái án oan hoang thai là hai sự kiện chính của vở chèo. Qua đó, tác giả dân gian phản ánh bi kịch trong thân phận của người phụ nữ nghèo khổ thời phong kiến. Hai sự kiện tuy thuộc hai mảnh đời khác nhau của Thị Kính nhưng liên hệ chặt chẽ với nhau. Cảnh ngộ nào cũng éo le, đau đớn nhưng mỗi cảnh ngộ lại có một vẻ riêng. Chúng kết hợp với nhau, bổ sung cho nhau để hoàn chỉnh tấn bi kịch về cuộc đời người phụ nữ. Bên cạnh nội dung đó, vở chèo còn có dụng ý đề cao phẩm chất cao quý của người phụ nữ và lên án cái xấu, cái ác trong xã hội phong kiến xưa.


 Trích đoạn Nỗi oan hại chồng là cốt lõi trong phần mở đầu của vở chèo. Phần này có năm nhân vật tham gia vào quá trình tạo nên xung đột kịch và làm nền cho nhân vật Thị Kính bộc lộ phẩm chất cao đẹp. thiện Sĩ và Sùng ông là những kẻ nhu nhược, không có chủ kiến, chỉ đóng vai phụ để làm nổi bật tính cách điêu ngoa, nanh ác của Sùng bà. Xung đột cơ bản của vở chèo được thể hiện qua mâu thuẫn của Sùng bà và Thị Kính (mẹ chồng, nàng dâu). Sùng bà thuộc loại nhân vật mụ ác, đại diện cho tầng lớp địa chủ phong kiến với những thói hư tật xấu như hóm hĩnh, tự phụ về dòng giống cao sang, cả vú lấp miệng em, luôn lấy mình làm chuẩn mực để xem xét, đánh giá người khác theo nhân thức hồ đồ của mình, Thị Kính thuộc loại nhân vật nữ chính trong chèo, đại diện cho người phụ nữ lao động nghèo. Thị Kính là nàng dâu ngoan hiền nết na, thùy mị nhưng bị Sùng bà nanh ác buộc tội giét chồng. Gia đình nhà chồng đã gây ra cho Thị kÍnh những nỗi oan chồng chất. Nàng bị hàm oan, hạnh phúc tan vỡ, bị đuổi khỏi nhà chồng và đau khổ nhất là phải chứng kiến cảnh người cha thân yêu bị sỉ nhục.


 Mâu thuẫn giữa Sùng bà và Thị Kính về hình thức là xung đột trực tiếp giữa mẹ chồng nàng dâu nhưng về bản chất lại là mâu thuẫn sâu sắc giữa kẻ thống trị và người bị trị. Đó là cái nút đầu tiên trong vở chèo bộc lộ thân phận, địa vị thấp kém của người phụ nữ nghèo trong quan hệ gia đình và hôn nhân phong kiến. Mở đầu là cảnh sinh hoạt đầm ấm, (vợ vá may thêu thùa. Chồng đọc sách), tuy không phổ biến và gần gũi như cảnh chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa trong ca dao nhưng nó cũng thể hiện khát vọng về hạnh phúc gia đình của nhân dân lao động.


Trong khung cảnh ấy nổi bật lên hình ảnh người vợ thương chồng. Những cử chỉ của Thị Kính đối diện với Thiện Sĩ rất ân cần, dịu dàng. Khi chồng học bài mệt mỗi đêm ngủ thiếp đi, nàng dọn lại kỉ rồi ngồi quạt cho chồng. Thấy sợi râu mọc ngược dưới cằm chồng, nàng băn khoăn lo lắng về một điềm báo chẳng lành. Thị Kính muốn làm đẹp cho chồng và cho mình: Trước đẹp mặt chồng, sau đẹp mặt ta…, Dạ thương chồng, lòng thiếp sao an. Âu dao bén, thiếp xén tày một mực. Tâm trạng của nàng là tâm trạng của người vợ yêu thương chồng thắm thiết. Việc làm đầy thiện ý của Thị Kính chưa kịp thực hiện thì Thiện Sĩ chợt giật mình choàng thức dậy, hốt hoảng nắm lấy con dao kêu lên: Hỡi cha! Hỡi mẹ! Hỡi xóm! Hỡi làng! Đêm hôm khuya khoắt bỗng làm sao thấy sự bất thường… khiến cho cả nhà tỉnh giấc. Chẳng cần hỏi rõ đầu đuôi câu chuyện ra sao, Sùng bà đã sừng sộ khép ngay Thị Kính vào tội giết chồng: Cái con mặt gan lim này! Mày định giết con bà à? Thái độ của Sùng bà rất thô bạo và tàn nhẫn. Khi Thị Kính khóc lóc van xin được thanh minh, Sùng bà dúi đầu Thị Kính ngã xuống rồi lại bắt nàng ngửa mặt lên để nghe mụ chửi, chứ không cho phân bua, thanh minh gì cả.


Sùng bà nói với Thị Kính toàn là những lời đay nghiến, mắng nhiếc, lăng mạ. Dường như một lần mụ cất lời, Thị Kính lại bị kết thêm một tội. Mụ trút cho Thị Kính đủ tội mà không cần biết sự tình. Mụ xỉ vả, đuổi Thị Kính ra khỏi nhà không chỉ vì lí do cho rằng Thị Kính giết chồng mà Thị Kính còn là loại đàn bà hư đốn, tâm địa xấu xa; là con nhà thấp hèn không xứng với nhà mụ: Giống nhà bà đây giống phượng giống công – Còn tuồng bay mèo mã gà đồng lẳng lơ – Nhà bà đây cao môn lệnh tộc – Mày là con nhà cua ốc – Trứng rồng lại nở ra trứng rồng – Lìu điu lại nở ra dòng lìu điu – Đồng nát thì về Cầu Nôm, Con gái nỏ mồm về ở với cha… Tất cả những lời nói và cử chỉ đó đã bộc lộ bản chất của một mụ nhà giàu bất nhân, bất nghĩa. Lời lẽ của mụ chứa đựng toàn là sự phân biệt đối xử. Vốn từ ngữ dùng để so sánh chuyện cao thấp, sang hèn, giàu nghèo… của mụ phong phú đến mức đáng sợ. Mâu thuẫn giữa mụ và Thị Kính đã vượt khỏi mâu thuẫn mẹ chồng – nàng dâu. Mụ đã trả nó vào đúng vị trí là mâu thuẫn giai cấp. Các điệu hát sắp, nói lệch… phù hợp với việc thể hiện thái độ trấn áp phũ phàng và giọng nói điệu kiêu kì, tự phụ về dòng, giống giàu sang, khinh thị người nghèo khó của mụ. Nhân vật Sùng bà chỉ xuất hiện trong một lớp diễn nhưng đã bộc lộ đầy đủ tính cách của vai mụ ác trong vai chèo cổ. Mụ ra oai sấm sét để tỏ ra " phép nhà". Mụ tự cho mình cái quyền tạo ra "luật" và "lệ" trong gia đình Thị Kính tuy có đủ đức hạnh như lễ giáo phong kiến quy định nhưng vẫn không được gia đình chấp nhận bởi vì nàng không xuất thân từ nguồn gốc " con nhà gia thế". Quả là mâu thuẫn giai cấp không thể dung hòa đã tác động ghê gớm đến cuộc hôn nhân này.


Khi bị mẹ chồng khép vào tội giết chồng, Thị Kính đã có những lời nói, cử chỉ thật nhẫn nhục, đáng thương. Năm lần kêu oan thì bốn lần tiếng kêu của nàng hướng về chồng và mẹ chồng. Lần thứ nhất, nàng kêu oan với mẹ chồng: Giời ơi! Mẹ ơi, oan cho con lắm mẹ ơi! Lần thứ hai, vẫn với mẹ chồng: Oan cho con lắm mẹ ơi! Lần thứ ba, kêu oan với chồng: Oan thiếp lắm chàng ơi! Lần thứ tư, một lần nữa, lại kêu oan, van xin mẹ chồng: Mẹ xét tình cho con, oan con lắm mẹ ơi! Thị Kính kêu oan với chồng nhưng vô ích bởi Thiện Sĩ là gã đàn ông đơn hèn, nhu nhược. Hắn bỏ mặc người vợ hết lòng thương yêu, chăm sóc gắn bó với mình cho bà mẹ độc ác hành hạ. Lúc này, Thiện Sũ chỉ là một nhân vật thừa trên sân khấu. Lời van xin của Thị Kính giống như lửa đổ thêm dầu, càng làm bùng lên những lời đay nghiến lăng nhục của Sùng bà. Thị Kính càng kêu oan, nỗi oan lại càng dày. Giữa gia đình nhà chồng người phụ nữ đức hạnh ấy hoàn toàn cô độc. Chỉ đến lần cuối cùng, Thị Kính kêu oan với cha đẻ là Mãng ông thì nàng mới nhận được sự cảm thông, nhưng đó là sự cam thông đau khổ và bất lực. Mãng ông nói trong nước mắt:  Con ơi! Dù oan dù nhẫn chẳng oan  Xa xôi cha biết nỗi con nhường nào!   Kết cục của nối oan là tình vợ chồng giữa Thị Kính và Thiện Sĩ tan vỡ. Nàng bị đuổi ra khỏi nhà chồng.


Trước khi đuổi Thị Kính, Sùng bà và Sùng ông còn nhẫn tâm dựng lên một vở kịch tàn ác: lừa Mãng ông sang ăn cữ cháu, kì thực là bắt Mãng ông nhận con gái về. Chúng có thú vui làm điều ác, muốn cha con Mãng ông phải nhục nhã ê chề. Hơn thế nữa, nhanh như trở bàn tay, Sùng ông đã thay đổi quan hệ thông gia bằng những hành động vũ phu. Cảnh này được xây dựng bằng những chi tiết, hình ảnh, lời nói thật sinh động: Mãng ông: Ông ơi! Ông cho tôi biết đầu đuôi câu chuyện với, ông ơi! Sùng ông: Biết này! (Sùng ông dúi ngã Mãng ông rồi bỏ vào, Thị Kính chạy vội lại đỡ cha. Hai cha con ôm nhau khóc). Sự việc Sùng bà cho gọi Mãng ông đến để trả Thị Kính đã thể hiện tính cách bất nhân bất nghĩa của mụ, đồng thời bộc lộ nỗi bất hạnh lớn nhất của Thị Kính. Thị Kính như bị đẩy đến cực điểm của bi kịch. Nàng chới với trong nỗi oan ức tày trời, nỗi đau tình vợ chồng tan vỡ cộng thêm nỗi nhục nhã, đau đoén trước ảnh người cha già kính yêu bị chính cha mẹ chồng khinh khi, hành hạ.


Cuối lớp diễn, trên sân khấu chỉ còn lại hai hca con Thị Kính lẻ loi đơn độc giữa sự vô tình đến lạnh lùng, tàn nhẫn. Cảnh hai cha con ôm nhua than khóc là hình ảnh của những người nghèo khổ chịu oan ức mà hoàn toàn bất lực. Cảnh Sùng bà quy kết, đổ vạ cho Thị Kính diễn ra chóng vánh, dồn dập. Còn cảnh hai cha con Thị Kính ôm nhau than khóc thì kéo dài trên sân khấu. Sự bố trí như vậy mang ý nghĩa tố cáo cái ác và cảm thông sâu sắc với cái thiện đang bị cái ác bủa vây giwuax trùng trùng sóng dữ. Thái độ của Thị Kính trước khi ra khỏi nhà chồng được đặc tả: Thị Kính đi theo cha mấy bước nữa, rồi dừng lại và thở than, quay vào nhìn từ cái kỉ đến sách, thúng khâu, rồi cầm chiếc áo ddang khâu dở, bóp chặt trong tay. Chiếc kỉ, thúng khâu, chiếc áo đang khâu dở là bằng chứng chứng minh cho tình cảm thủy chung, hiền dịu của người vợ yêu chồng nhưng giờ đây lại bị coi là chứng cứ của sự thất tiết. Sự đảo lộn đột ngột đó đã làm cho trái tim đa cảm của Thị Kính đau đớn, bàng hoàng. Tâm sự của nàng thể hiện qua điệu sử rầu và nói thảm: Thương ôi! Bấy lâu nay sắt cầm tịnh hảo  Bỗng ai làm chăn gối lẻ loi.  


Một bên là những kỉ niệm hạnh phúc của tình vợ chồng, một bên là khoảnh khắc chớp nhoáng của sự tan vỡ, chia lìa. Lời thoại gợi lên rất rõ hình ảnh một người con gái bị hàm oan đang vô cùng đau khổ và bơ vơ trước cuộc đời vô định. Thị Kính đột ngột bị đẩy vào tình thế éo le: Biết đi đâu? Về đâu bây giờ? Đời người phụ nữ trong xã hội phong kiến tránh sao khỏi cảnh Lênh đênh chiếc bách giữa dòng?! Trong nỗi đau tình vợ chồng chia cắt, nỗi nhục khi phẩm giá bị chà đạp, sự ê chề khi khong bảo vệ được người cha già bị gia đình chồng sỉ nhục, Thị Kính vẫn giữ bản chất chân thật, hiền lành, giữ phép tắc luân lí của đạo dâu con. Người đọc càng xót thương, Thị Kính bao nhiêu thì càng căm ghét sự bất nhân bất nghĩa của gia đình Sùng bà bấy nhiêu.


Kết thúc đoạn trích nỗi oan hại chồng là cảnh Thị kính cúi lạy cha rồi nói lên nguyện vọng của mình là sẽ giả trai để bước vào cửa phật tu hành. Con đường giải thoát của Thị Kính có hai mặt tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực là Thị kính xác định phải sống ở đời, mới mong tỏ rõ là người đoan chính. Mặt tiêu cực là nàng cho rằng mình khỏ do số kiếp đã định, do phận hẩm duyên ôi, nên tìm vào cửa Phật để lánh đời. Thái độ của Thị Kính thiếu cái khỏe khoắn, lạc quan, dũng cảm của những người vợ nghèo trong ca dao. Nàng không dám đứng lên chống lại những oan trái bất công, chưa đủ bản llinhx vượt qua hoàn cảnh nghiệt ngã, trái lại đã cam chịu bằng sự nhẫn nhục đáng thương. Phản ứng của Thị Kính mới chỉ dừng lại ở lời trách móc số phận và ước muốn lòng dạ ngay thẳng của mình được nhật nguyệt sáng soi.


Vở chèo Quan Âm Thị Kính nói chung và đoạn trích Nỗi oan hại chồng nói riêng là vở diễn và trích đoạn chèo rất tiêu biểu của sân khấu chèo truyền thống, thể hiện chân thực cuộc sống bi thảm, bế tắc của nhiều số phận, đồng thời ca ngợi phẩm chất tốt đẹp, cao quý của người phụ nữ nghèo trong xã hội phong kiến xưa kia.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 6
(có 0 lượt vote)

Bài văn cảm nhận của em về nhân vật Thị Kính - mẫu 7

Trong những tác phẩm văn học nghệ thuật thì chèo có lẽ là một trong những thể loại có từ lâu đời nhất. Sức sống của chèo có thể đi cùng năm tháng với rất nhiều những giá trị mà nó mang lại cho tất cả chúng ta. Và trong những tác phẩm chèo mà em biết thì có lẽ “ Quan âm thị kính” là một trong những vở chèo mà em yêu thích nhất bởi những chi tiết và ý nghĩa hàm chưa trong nó. Qua đó chúng ta cũng học hỏi rất nhiều điều về những gì mà mình cần học hỏi và cố gắng. Mở đầu tác phẩm chính là đoạn trích Nỗi oan hai chồng chính là nguyên nhân gây nên những đau khổ và hiểm lầm của gia đình nhà chồng đối với Thị Kính.


Giới thiệt về Thị Kính thì cô là một người con gái đoan trang và phúc hậu. Cô luôn luôn chăm lo cho cuộc sống của gia đình nhà chồng và biết quán xuyến gia đình nhà chồng cẩn thận. Bỗng nhiên có một hôm, đang ngồi bên cạnh thêu thùa quần áo còn người chồng thì đang nằm ngủ, cô bỗng thấy chồng mình có một sợi râu mọc ngược. Suy nghĩ trong chốc lát, vì cho rằng trước đẹp mặt chồng, sau đẹp mặt ta hơn thế nữa râu mọc ngược cũng mang những ý nghĩa xấu mà người vợ cầm cây kéo toan cắt chiếc râu của người chồng. Và mọi hiểu lầm cũng bắt đầu từ đây. Đang mơ màng trong giấc ngủ say thì bỗng người chồng chợt thức giấc. Khi tỉnh dậy thấy người vợ của mình đang cầm kéo kề sát cổ của mình thì Thiện Sĩ- chồng của Thị Kính cảm thấy nghi ngờ và sợ hãi. Hành động đấu tiên của người chồng chính là đã hô hoán lên. Và sự nghi ngờ này đã khiến cho cuộc sống của Thị Kính sau này trở nên vất vả và khó khăn hơn bao giờ hết. Nghe tiếng con trai kêu lên như vây thì lập tức Sùng ông và Sùng bà cùng nhau chạy vào.


Sùng bà vốn là người đanh đá chua ngoa. Thấy sự tình như vậy, không chịu hỏi đầu đuôi như thế nào, bà ta liền hô hoán lên và đổ mỗi tội lỗi lên người của cô con dâu với tội danh muốn giết chồng. Mà trong xã hội cũ thì đó chính là một trong những tội lớn nhất. Cứ thế Thị Kính không thể nào tự thanh minh cho chính bản thân của mình được bởi cứ mỗi lúc nàng muốn nói thì lại bị người mẹ chồng hắt hủi quở nạt. Tận cho tới lần thứ tư thì lúc này, người cha mới đáp lại những câu nói thanh minh của nàng nhưng đó cũng chỉ là sự bất lực mà thôi. Bởi chính Sùng ông lại là người sợ vợ, luôn chịu sự đàn áp và chỉ đạo của Sùng bà. Xã hội phong kiến cũ chính là xã hội mà ở đó, trọng nữ khinh nam đặc biết nhiều người bị ảnh hưởng. Thế nhưng trong gia đình của Sùng ông và sùng bà thì dường như cả hai người đàn ông trong gia đình đều là những người hết sức nhu nhược và không hề có những chính kiến của chính bản thân mình.


So với những người khác thì Thiện Sĩ mới là nỗi đau lớn nhất của Thi Kính. Bởi cha me chồng không hiểu nàng đã đành, thế nhưng, người chồng luôn đầu gối tay ấp với mình lại không hề nghĩ và có hành động gì thể hiện vài trò của một người chồng, người đàn ông trong chuyện này. Đó chính là cái bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội cũ. Có người chồng bên cạnh nhưng lại người đàn ông ấy lại không thể một lần bảo vệ mình khỏi những hiểu lầm. Trong trường hợp này, có những khi chỉ một câu nói của người chồng hay là một lần người chồng đứng ra để tìm hiểu nguyên nhân của sự việc theo đúng những gì mà trách của người chồng phải làm thì mọi thứ có lẽ đã xoay chuyển theo một chiều hướng khác. Đó cũng chính là một trong nhưng điều đau khổ của những người phụ nữ thời kì lúc bấy giờ. Sự đau khổ của Thị Kính trong những lần bị người mẹ chồng và người chồng của mình hắt hủi, xa lánh càng ngày mức độ càng tăng cao. Cô không thể làm được bất cứ một điều gì. Mọi chuyện chỉ bắt đầu từ một hành động, một suy nghĩ tốt nhưng lại gây ra biết bao nhiêu phong ba, vất vả. Trong đoạn trích sử dụng rất nhiều những cặp từ ngữ đối lập nhau như: “ bấy lâu- bỗng”, “sắt cầm tịnh hảo- chăn gối lẻ loi” lại càng làm rõ nét sự đau khổ tới tột cùng của người phụ nữ. Tình cảm vợ chồng bao nhiêu lâu chỉ bị đổ vỡ bởi một lí do không đáng có.


Đó chính là điều mà người vợ cảm thấy bi ai nhất. Có những khi, chúng ta thậm chí còn cảm thấy nhân vật Thiện Sĩ thật là đáng trách. Chàng là người dùi mài kinh sử, đáng lẽ ra chàng phải là người hiểu biết nhất trong số những người trong gia đình và phải biết giải quyết những việc quan trọng trong gia đình, Thế nhưng chàng không hề làm như vậy. Chàng chỉ biết đứng đó và nhìn người vợ của mình bị mẹ mắng chửi mà không hề có những hành động mà đáng lĩ những người đấng nam nhi phải làm. Đó cũng chính là nỗi khổ của những người phụ nữ thời bấy giờ.


Tóm lại, đoạn trích trên là một trong những đoạn trích mang rất nhiều kịch tính mà thông qua những nhân vật, chúng ta càng hiểu thêm nhiều về số phận của những người phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ phải chịu đựng. Đó là những nỗi khổ mà không thể nói cùng với ai mà chỉ có thể chịu đựng một mình mà thôi.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 7
(có 0 lượt vote)

Bài văn cảm nhận của em về nhân vật Thị Kính - mẫu 8

Trong những tác phẩm văn học nghệ thuật thì chèo có lẽ là một trong những thể loại có từ lâu đời nhất. Sức sống của chèo có thể đi cùng năm tháng với rất nhiều những giá trị mà nó mang lại cho tất cả chúng ta. Và trong những tác phẩm chèo mà em biết thì có lẽ “ Quan âm thị kính” là một trong những vở chèo mà em yêu thích nhất bởi những chi tiết và ý nghĩa hàm chưa trong nó. Qua đó chúng ta cũng học hỏi rất nhiều điều về những gì mà mình cần học hỏi và cố gắng. Mở đầu tác phẩm chính là đoạn trích Nỗi oan hai chồng chính là nguyên nhân gây nên những đau khổ và hiểm lầm của gia đình nhà chồng đối với Thị Kính.


Giới thiệt về Thị Kính thì cô là một người con gái đoan trang và phúc hậu. Cô luôn luôn chăm lo cho cuộc sống của gia đình nhà chồng và biết quán xuyến gia đình nhà chồng cẩn thận. Bỗng nhiên có một hôm, đang ngồi bên cạnh thêu thùa quần áo còn người chồng thì đang nằm ngủ, cô bỗng thấy chồng mình có một sợi râu mọc ngược. Suy nghĩ trong chốc lát, vì cho rằng trước đẹp mặt chồng, sau đẹp mặt ta hơn thế nữa râu mọc ngược cũng mang những ý nghĩa xấu mà người vợ cầm cây kéo toan cắt chiếc râu của người chồng. Và mọi hiểu lầm cũng bắt đầu từ đây. Đang mơ màng trong giấc ngủ say thì bỗng người chồng chợt thức giấc. Khi tỉnh dậy thấy người vợ của mình đang cầm kéo kề sát cổ của mình thì Thiện Sĩ- chồng của Thị Kính cảm thấy nghi ngờ và sợ hãi. Hành động đấu tiên của người chồng chính là đã hô hoán lên. Và sự nghi ngờ này đã khiến cho cuộc sống của Thị Kính sau này trở nên vất vả và khó khăn hơn bao giờ hết. Nghe tiếng con trai kêu lên như vây thì lập tức Sùng ông và Sùng bà cùng nhau chạy vào.


Sùng bà vốn là người đanh đá chua ngoa. Thấy sự tình như vậy, không chịu hỏi đầu đuôi như thế nào, bà ta liền hô hoán lên và đổ mỗi tội lỗi lên người của cô con dâu với tội danh muốn giết chồng. Mà trong xã hội cũ thì đó chính là một trong những tội lớn nhất. Cứ thế Thị Kính không thể nào tự thanh minh cho chính bản thân của mình được bởi cứ mỗi lúc nàng muốn nói thì lại bị người mẹ chồng hắt hủi quở nạt. Tận cho tới lần thứ tư thì lúc này, người cha mới đáp lại những câu nói thanh minh của nàng nhưng đó cũng chỉ là sự bất lực mà thôi. Bởi chính Sùng ông lại là người sợ vợ, luôn chịu sự đàn áp và chỉ đạo của Sùng bà. Xã hội phong kiến cũ chính là xã hội mà ở đó, trọng nữ khinh nam đặc biết nhiều người bị ảnh hưởng. Thế nhưng trong gia đình của Sùng ông và sùng bà thì dường như cả hai người đàn ông trong gia đình đều là những người hết sức nhu nhược và không hề có những chính kiến của chính bản thân mình.


So với những người khác thì Thiện Sĩ mới là nỗi đau lớn nhất của Thi Kính. Bởi cha me chồng không hiểu nàng đã đành, thế nhưng, người chồng luôn đầu gối tay ấp với mình lại không hề nghĩ và có hành động gì thể hiện vài trò của một người chồng, người đàn ông trong chuyện này. Đó chính là cái bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội cũ. Có người chồng bên cạnh nhưng lại người đàn ông ấy lại không thể một lần bảo vệ mình khỏi những hiểu lầm. Trong trường hợp này, có những khi chỉ một câu nói của người chồng hay là một lần người chồng đứng ra để tìm hiểu nguyên nhân của sự việc theo đúng những gì mà trách của người chồng phải làm thì mọi thứ có lẽ đã xoay chuyển theo một chiều hướng khác. Đó cũng chính là một trong nhưng điều đau khổ của những người phụ nữ thời kì lúc bấy giờ. Sự đau khổ của Thị Kính trong những lần bị người mẹ chồng và người chồng của mình hắt hủi, xa lánh càng ngày mức độ càng tăng cao. Cô không thể làm được bất cứ một điều gì. Mọi chuyện chỉ bắt đầu từ một hành động, một suy nghĩ tốt nhưng lại gây ra biết bao nhiêu phong ba, vất vả. Trong đoạn trích sử dụng rất nhiều những cặp từ ngữ đối lập nhau như: “ bấy lâu- bỗng”, “sắt cầm tịnh hảo- chăn gối lẻ loi” lại càng làm rõ nét sự đau khổ tới tột cùng của người phụ nữ. Tình cảm vợ chồng bao nhiêu lâu chỉ bị đổ vỡ bởi một lí do không đáng có.


Đó chính là điều mà người vợ cảm thấy bi ai nhất. Có những khi, chúng ta thậm chí còn cảm thấy nhân vật Thiện Sĩ thật là đáng trách. Chàng là người dùi mài kinh sử, đáng lẽ ra chàng phải là người hiểu biết nhất trong số những người trong gia đình và phải biết giải quyết những việc quan trọng trong gia đình, Thế nhưng chàng không hề làm như vậy. Chàng chỉ biết đứng đó và nhìn người vợ của mình bị mẹ mắng chửi mà không hề có những hành động mà đáng lĩ những người đấng nam nhi phải làm. Đó cũng chính là nỗi khổ của những người phụ nữ thời bấy giờ.


Tóm lại, đoạn trích trên là một trong những đoạn trích mang rất nhiều kịch tính mà thông qua những nhân vật, chúng ta càng hiểu thêm nhiều về số phận của những người phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ phải chịu đựng. Đó là những nỗi khổ mà không thể nói cùng với ai mà chỉ có thể chịu đựng một mình mà thôi.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Hi vọng bài viết trên mang lại nhiều giá trị cho bạn. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài văn hay trên Alltop.vn

Hãy đăng nhập để bình luận

Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .