Top 8 Bài văn cảm nhận khổ thơ đầu bài "Tương tư" của Nguyễn Bính (lớp 11) hay nhất
"Tương tư" là bài thơ điển hình cho phong cách thơ của Nguyễn Bính, bài thơ là lời của chàng trai đang yêu với nỗi nhớ da diết băn khoăn vì không nhận được sự...xem thêm ...
Bài văn cảm nhận khổ thơ đầu bài "Tương tư" - mẫu 1
Nguyễn Bính vốn đã sớm nổi tiếng với dòng văn thơ mang tính chất giản dị chân quê,những câu thơ được dệt nên bởi những chất liệu mộc mạc nhất. Ấy vậy mà trải qua bao nhiêu giai đoạn, những bài thơ của Nguyễn Bính vẫn nhận được sự đón nhận nồng nhiệt của độc giả. “Tương tư” là một trong số những bài thơ hay viết về tình yêu đôi lứa, thấm đượm những tình cảm vừa trong sáng lại vừa chân thực.
Những vấn thơ của Nguyễn Bính không giống thơ hiện đại là mấy mà nó lại giống như những câu ca dao không biết từ khi nào đi vào lòng người một cách dễ dàng như vậy. Lấy cách ví von của người xưa,tương tư lại trở thành một hiện tượng, dám nói trực tiếp lên tình cảm của đôi lứa. Những câu thơ lục bát như những lời hát rồi lại đáp lại của những cặp đôi có tình ý với nhau. Đó là những cảnh của những cô gái chàng trai thầm thương trộm nhớ nhau, đứng ở bên đình tát nước rồi nói ví von cho nhau nghe:
“Hôm qua tát nước bên đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen
Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà”
Những câu thơ ấy, sao mà nhẹ nhàng đằm thắm đến thế, như tiếng ru dịu ngọt của tình yêu dẫn dắt những tình cảm từ thuở ban đầu đi sâu vào tâm hồn người đọc. Để khiến người đọc thấy chính bóng dáng của mình ở trong đấy vậy. Rồi những câu thơ khác cũng không kém phần ý tứ sâu xa.
“Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi”
Tát nước dưới ánh trăng làm tan ánh trăng tròn trịa cũng đúng, nhưng chính điều đó mới là cái cớ để làm quen nhau. Chỉ những thứ nhỏ nhặt khó hiểu thế nhưng lại khiến các cặp đôi đi đến với nhau quả thật là lạ. Chính vậy mà cái bệnh mà người ta khó chữa nhất là bệnh ở tâm, là bệnh tương tư, bệnh này chỉ có thuốc tình yêu mới chữa nổi. Thế nên mới có bài Tương tư của Nguyễn Bính.
Trong bài thơ, những đặc điểm dân gian khiến tứ thơ của Nguyễn Bính, tìm được sự đồng cảm và tiếp đón nồng nhiệt của đông đảo độc giả. Tương tư với thể thơ lục bát ngàn xưa dịu ngọt giàu tính nhạc, vần phong phú, lối đan chữ (chín nhớ mười mong), kiểu suy tưởng vật thể hóa (Lá xanh nay đã thành cây lá vàng), và những từ có vùng mờ ngữ nghĩa dẫn thi tứ lan tỏa man mác. Cũng trong bài thơ, những hình ảnh như: thôn Đoài, thôn Đông, bến nước, đầu đình, giàn trầu, hàng cau ở những bài thơ khác của Nguyễn Bính, cũng tràn ngập các hình ảnh gần gũi, chân quê từ nhà ra ngõ, bến nước hữu tình,con bướm trắng, bướm vàng vẽ vòng trên các vườn hoa cải vàng, vườn chanh, vườn cam, vườn bưởi ngào ngạt hương bay, ven đê là ruộng dâu, bãi cháy, bãi đất, vườn chè, bên ao bèo, bên giếng khơi, giậu mồng tơi xanh rờn…
Chữ “tôi” xuất hiện trong bài thơ của Nguyễn Bính thật đáng yêu. Thôn Đoài với thôn Đông là nơi nhà “Nàng” và nhà “Tôi” đang ở,cũng là cách nói cụ thể hóa, hai thôn chính là hai cầu nối cho nàng và tôi gần nhau hơn. Sử dụng hoán dụ – nhân hoá kết hợp với thành ngữ và nghệ thuật phân hợp số từ – vị ngữ “chín, mười, nhớ mong = chín nhớ mười mong” góp phần làm cho tứ thơ trở nên bình dị mà hồn nhiên, đằm thắm. “chín nhớ mười mong một người” giống như tâm trạng “ bổi hổi bồi hồi” hay tâm trạng của cô gái trong bài ca dao “khăn thương nhớ ai,không chỉ đầy ắp, da diết trong lòng chàng trai đa tình mà còn tràn ngập cả xóm thôn, cả thôn Đông lẫn thôn Đoài. Vì yêu cho nên tương tư đã thành “bệnh”, thật đáng thương,… cũng như bệnh nắng mưa của trời vậy. Cách so sánh “bệnh giời” với bệnh tương tư “của tôi yêu nàng”, tác giả Nguyễn Bính đã diễn tả hồn nhiên, thú vị về nỗi buồn tương tư trong tình yêu là lẽ tự nhiên, là tất yếu. Gần thì thương, xa thì nhớ, đấy là những cảm xúc thường thấy của tình yêu.
Những câu nói tiếp theo, việc vận dụng lối nói ước lệ ẩn dụ trong ca dao (bến, đò) trong thơ văn truyền thống (hoa khuê các, bướm giang hồ) thể hiện một nỗi ước mong, khao khát về tình yêu hạnh phúc của lứa đôi rất thiết tha. Để từ đây, tác giả bộc lộ những khát khao trọn vẹn và được đáp trả trong tình yêu đó. Cái tôi trữ tình của chàng trai đa tình, nỗi buồn tương tư, nỗi khát khao ước mong về hạnh phúc “của tôi yêu nàng”, trở thành “cái chung” của nhiều chàng trai, cô gái khác. Tương tư không chỉ là cảm xúc của nhân vật trữ tình “tôi” trong tương tư mà bài thơ còn nói hộ bao nhiêu người khác. Chính vì thế, cho tới nay, mỗi khi muốn bày tỏ tình ý với người khác, người ta hay nói bóng gió bâng quơ một câu như ý nhắn nhủ với người họ yêu rằng họ cũng đang tương tư vì một ai đó.
“Nắng mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
Những vần thơ của bài thơ Tương Tư vừa có phần thơ mộng lại vô cùng lãng mạn,không có gì có thể thay đổi cảm xúc lâng lâng nhớ nhung đó,dù có trải qua bao nhiêu thời gian đi chăng nữa. Tương tư có những nỗi buồn,có hờn giận trách móc nhưng những cảm xúc đó lại trở thành một đặc sản của tình yêu tạo nên sự đáng yêu và khát khao trọn vẹn trong tình yêu của lứa đôi,đặc biệt là những mối tình đơn phương.
Bài văn cảm nhận khổ thơ đầu bài "Tương tư" - mẫu 3
Nguyễn Bính là thi sĩ của đồng quê, như nhà văn Tô Hoài từng nhận xét: “Chỉ có quê hương mới tạo ra được từng chữ, từng câu Nguyễn Bính. Trên chặng đường ngót nửa thế kỉ đề thơ, mỗi khi những gắn bó mồ hôi nước mắt kia đằm lên, ngây ngất, day dứt không thể yên, khi ấy xuất hiện những bài thơ tình yêu tuyệt vời của Nguyễn Bính”. Để bàn luận đến phong cách thơ bình dị, mộc mạc, đậm chất thôn quê của Nguyễn Bính, chúng ta không thể nào không nhắc đến Tương tư.
Cũng như các nhà thơ lãng mạn đương thời, Nguyễn Bính say mê với đề tài tình yêu. Nhưng cách biểu hiện thì theo một lối riêng của chính ông. Trong khi các nhà thơ lãng mạn hướng về phương Tây, chịu ảnh hưởng của nghệ thuật phương Tây, thì Nguyễn Bính hướng về nghệ thuật dân tộc, chịu ảnh hưởng của thơ ca dân gian. Với Tương tư, Nguyễn Bính bắt đầu chủ đề tình yêu bằng một nỗi nhớ:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người”
Trong cuộc sống hàng ngày, tương tư là chỉ nỗi nhớ nhung đơn phương, thầm kín của người con người với đối tượng mà mình có cảm tình hoặc yêu thích. Vậy mới nói, tình yêu nào cũng bắt đầu bằng nỗi nhớ, và tình yêu trong Tương tư cũng vậy. Cũng là nhớ, nhưng là “chín nhớ mười mong”, là nhớ thương khắc khoải. Cái nỗi nhớ da diết tưởng chừng như không đong đếm được được nhà thơ gói gọn trong bốn chữ “chín nhớ mười mong” nhưng lại càng khiến cho nỗi nhớ như trải rộng thêm ra, đầy thêm lên.
Nỗi nhớ ấy chính là tương tư, chính là biểu hiện của tình yêu! Đến hai câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã khẳng định đó chính là tình yêu! Vì yêu nên mới “chín nhớ mười mong”, vì yêu nên mới tương tư, chờ đợi:
“Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.
Đến đây, nỗi nhớ đã được chỉ đích danh. Đó là nỗi nhớ của tình yêu, nỗi nhớ của một người con trai dành cho một người con gái. Người con trai đang yêu này là con người có gốc rễ sâu xa với làng mạc quê hương. Vì thế, đến cả cái chất yêu, cái chất nhớ cũng đượm tình quê, hồn quê bình dị mà chân thật. Thơ của thi sĩ lãng mạn mà như của dân dã, nỗi nhớ mộc mạc mà lại đằm thắm, tâm tư. Nguyễn Bính thích lối cụ thể hóa cái trừu tượng của ca dao, cụ thể ra thành chữ số (yêu nhau tam tứ núi cũng trèo), nhưng lại có cấu trúc điêu luyện của thơ:
“Một người chín nhớ mười mong Một người”
“Một người” đứng ở hai đầu câu thơ, tạo ra một khoảng cách, diễn tả sự xa cách, nhớ mong như vậy quả là hay, quả là độc đáo! Tâm trạng của người tình đơn phương cũng được mở ra với trời đất. Rằng trời cao kia cứ nắng cứ mưa, còn “tôi” đây dù nắng dù mưa vẫn một nỗi lòng yêu thương, nhớ nhung “nàng”.
Có lẽ đây chính là hai câu thơ được nhiều người nhớ nhất, nhiều người nhắc tới nhất của Tương tư – Nguyễn Bính. Bởi nó không chỉ là tâm trạng của chàng trai thôn quê trong riêng Tương tư mà còn là nỗi niềm chung của biết bao chàng trai đang yêu khác, câu thơ như nói thay tâm tư của họ.
Chỉ với bốn câu thơ thôi, phần nào người đọc đã cảm nhận được cái tình mộc mạc mà trong trẻo trong thơ của Nguyễn Bính. Yêu đấy, thương đấy, nhiều lắm đấy nhưng nhẹ nhàng, e ấp đậm chất quê.
Bài văn cảm nhận khổ thơ đầu bài "Tương tư" - mẫu 4
Nguyễn Bính là một trong những gương mặt nhà thơ nổi bật của phong trào Thơ mới, những vần thơ của Nguyễn Bính thường mang đậm nét chân quê với những hình ảnh giản dị, lời thơ chân thành, da diết. Tương tư là bài thơ điển hình cho phong cách thơ của Nguyễn Bính, bài thơ là lời của chàng trai đang yêu với nỗi nhớ da diết băn khoăn vì không nhận được sự đáp lại của cô gái mình yêu. Khổ thơ đầu tiên đã tái hiện đầy sống động tình yêu đầy mộc mạc mà không kém phần tinh tế, ý nhị của chàng trai.
Mở đầu bài thơ, tác giả Nguyễn Bính đã nhắc đến một tình yêu chân thành với nỗi nhớ da diết của nhân vật trữ tình dành cho cô gái mình yêu:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người”
Nỗi nhớ là tâm trạng thường trực của những người đang yêu. Ở trong hai câu thơ đầu tiên, Nguyễn Bính đã hình tượng hóa nỗi nhớ thông qua hình ảnh hoán dụ về “thôn Đoài” và “thôn Đông”. Sự dãi bày tình cảm mang tính tế nhị đã thể hiện được cái mộc mạc, chân chất trong tình yêu của chàng trai quê. Tình yêu của hai người được đặt trong không gian của làng quê càng gợi ra cái gần gũi, thân thương trong cảm xúc của độc giả.
Mức độ của tình cảm được thể hiện thông qua câu thành ngữ “chín nhớ mười mong” đã thể hiện được nỗi nhớ nhung khôn xiết, thường trực trong tâm hồn của người đang yêu. Đó không chỉ đơn thuần là nỗi nhớ mà còn là sự trông chờ, mong ngóng đến đứng ngồi không yên. Tình yêu đơn phương được thể hiện đầy ý nhị, kín đáo, có thể dễ dàng khơi dậy cảm xúc trong trái tim của người đọc.
Không chỉ thể hiện nỗi nhớ của kẻ si tình mà tác giả Nguyễn Bính còn khái quát căn “bệnh” tương tư như một trạng thái điển hình, tự nhiên trong tình yêu:
“Nắng mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
Ở hai câu thơ này tác giả Nguyễn Bính đã có sự so sánh vô cùng độc đáo, tương tư là trạng thái tự nhiên trong trái tim kẻ si tình cũng như quy luật nắng mưa của tự nhiên. Cách ví von của tác giả vừa mang tính độc đáo vừa có chút hóm hỉnh về tình yêu. Nắng mưa là quy luật của tự nhiên không thể thay đổi cũng như tương tư là trạng thái tâm lí tự nhiên, tất yếu bên trong con người. Tương tư là trạng thái đặc biệt của cảm xúc, đó là sự rung động của con tim, là sự mơ tưởng, tưởng tượng đến những khoảnh khắc lứa đôi.
Bất kì ai khi yêu cũng nhớ nhung, cũng tương tư nên trong nhận định của nhà thơ, tương tư cũng là một căn “bệnh”. Cách thể hiện tình yêu của nhà thơ vừa độc đáo lại đáng yêu vô cùng. Hình ảnh thôn Đoài, thôn Đông xuyên suốt bài thơ như đại diện cho những chủ thể về tình cảm. Biện pháp hoán dụ đã thể hiện đầy ý nhị, tinh tế của nhân vật trữ tình. Lời thơ giản dị, chân thành lại được kết hợp với nhịp thơ chậm dãi như lời tâm sự da diết, say sưa mà cũng đầy khắc khoải, bối rối trong tình yêu.
Qua bốn câu thơ đầu, tác giả Nguyễn Bính đã tái hiện đầy sinh động nỗi thương nhớ, tương tư của chàng trai dành cho cô gái mình yêu. Cách thể hiện không suồng sã, hoa mĩ mà đầy mộc mạc, chân quê, đây cũng là nét rất riêng trong phong cách sáng tác của Nguyễn Bính.
Bài văn cảm nhận khổ thơ đầu bài "Tương tư" - mẫu 2
Thơ Nguyễn Bính mang màu sắc dân gian, khơi gợi cho ta ít nhiều về hồn xưa đất nước, quy tụ trong những câu thơ mộc mạc, giản dị mà thấm đẫm nghĩa tình.
Tương tư là thi phẩm tiêu biểu cho hồn thơ bình dị của Nguyễn Bính. Bài thơ là xúc cảm nhớ nhung, tha thiết của chàng trai chân quê với nhiều cung bậc phong phú, đẹp đẽ, thắm đượm màu sắc dân gian, hồn quê ấm áp. Màu sắc dân gian đã tạo bầu không khí thôn quê cho thi phẩm nhưng đồng thời cũng là nét đặc trưng cho phong cách thơ của Nguyễn Bính.
Một tác phẩm mang đậm màu sắc dân gian là tác phẩm mang tình cảm truyền thống cũng như phương thức thể hiện thường được bắt gặp ở ca dao, dân ca. Ca dao dân ca là chuỗi ngọc trong sáng vô ngần của người lao động bình dân. Nó thấm đẫm cách cảm, cách nghĩ của người lao động
Bài thơ tương tư trước hết là một sản phẩm của nền Thơ mới. Khi tung phá bức màn ước lệ để nhìn thẳng vào cái tôi cá nhân của mình, Thơ mới thoát ra như một tiếng ca chân thật, phong phú, mặc sức phô bày không hề giấu giếm. Nhiều nhà thơ chọn viết về đề tài tình yêu như Nguyễn Bính luôn hướng ngòi bút vào chiều sâu thẳm, huyền bí của cõi thơ này. Thế nhưng, Nguyễn Bính đã có một hướng đi khác. Nói rằng ông có một hướng đi khác lạ thật là không phải bởi ông chưa từng rời đi. Nói ông đã có những sáng tạo vượt bậc cũng không phải bởi ông chưa từng phá vỡ thi pháp vốn có trong ca dao. Thơ ông không phải là cái tình thoảng qua, cũng chẳng phải là tình thiên thu. Tình yêu trong thơ Nguyễn Bính nằm ngay trong đời sống dân tộc được phản ánh sâu sắc trong ca dao trong mấy nghìn năm qua. Thơ ông chứa đựng cái hồn bình dị của dân tộc. Mở đầu bài thơ, là lời tâm tình của chàng trai:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.
Một nỗi niềm nhung nhớ, tương tư ấy vậy mà lắm cung bậc đẹp đẽ. Giọng kể tâm tình vừa tự nhiên lại vừa hết sức kín đáo. Rõ ràng là chuyện tôi yêu nàng ấy vậy mà cứ vòng vo không nói nên lời. Đó chính là cái tình trong sáng, thánh thiện mà ta thường bắt gặp trong ca dao dân ca:
“Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen
Em nhận thì cho anh xin”.
(Ca dao)
Nào phải là chuyên quên chiếc áo mà đó chính là cái cớ để gặp gỡ, để chuyện trò, thổ lộ tâm tình. hay một cách tỏ tình khác đẹp đẽ, tinh tế hơn:
“Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?”
(Ca dao)
Hình ảnh chàng trai ẩn mình trong biểu tượng “thôn Đoài”. Tình cảm cũng được che giấu tế nhị: “ngồi nhớ”, không hề vồ vập hay lộ liễu. Người xưa là thế, nhẹ nhàng, kín đáo mà đắm say, nồng nhiệt: “chín nhớ mười mong”.
Đọc thơ Nguyễn Bính thấy nhẹ nhàng và thanh lọc tâm hồn. Khung cảnh làng quê bình dị và mộc mạc được thể hiện trong Tương tư cùng với tình yêu đôi lứa dung dị, đậm chất tình quê.
Bài văn cảm nhận khổ thơ đầu bài "Tương tư" - mẫu 5
Tình yêu luôn mang đến cho tâm hồn mỗi kẻ đang yêu những cung bậc cảm xúc khó tả. Đó là những hạnh phúc, yêu thương, những vui buồn, những ghen tuông, hờn giận vô cớ. Đó là sự vị tha, cao thượng. Và đó còn là nỗi nhớ, nỗi mong chờ, ngóng trông thường trực trong trái tim kẻ si tình. Bởi vậy mà biết bao hồn thơ tình thấm đẫm thứ gia vị thiêng liêng ấy luôn được viết nên bằng chính những cảm xúc đầy chân thành, thiết tha như thế. Bài thơ "Tương tư "trích trong tập "Lỡ bước sang ngang" của Nguyễn Bính cũng mang màu nỗi nhớ như vậy. Khổ thơ đầu của bài thơ là những câu thơ hay và tuyệt mỹ nhất của tác phẩm:
"Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Nắng mưa là chuyện của trời
Tương tư là chuyện của tôi yêu nàng"
Nỗi nhớ của nhân vật trữ tình được hoán dụ qua những hình ảnh thân thương bình dị của làng quê. Thôn Đoài nhớ thôn Đông như anh đang nhớ mong em vậy, khoảng không gian không quá xa cũng chẳng phải gần, bao trùm lên chốn không gian ấy là màu nhớ, màu yêu thương của "anh" gửi đến nàng. Nỗi nhớ bình dị, thân thương, nỗi nhớ chứa chan niềm yêu, quá đỗi thiết tha, chân tình. Hai thôn quê như hai đầu nỗi nhớ. Nỗi nhớ được bộc lộ đầy ân cần, tinh tế, không phô trương mà ý nhị, dịu dàng. "Một người chín nhớ mười mong một người" Niềm mong, niềm nhớ luôn chiếm lấy trái tim và tâm hồn của nhân vật trữ tình" chín nhớ mười mong". Tính yêu nơi phương này của" một người " luôn đầy ắp , tràn ngập, nỗi nhớ cứ thường trực trong lòng của nhân vật trữ tình khôn nguôi, nỗi nhớ, nỗi mong ấy làm sao có thể đong đếm được. Tác giả đã không gọi tên cụ thể mà đem nỗi nhớ ấy trở thành một điển hình hoá, nghĩa là nỗi nhớ trong tình yêu là luôn luôn có, không phải là của riêng ai, của riêng một mối tình nào mà là niềm chung, là cảm xúc của mỗi người đang sống trong tình yêu.
"Nắng mưa là chuyện của trời
Tương tư là chuyện của tôi yêu nàng"
Làm sao ai có thể ngăn cản được chuyện của thời tiết, nắng mưa là lẽ tự nhiên. Mà đã là lẽ tự nhiên thì dù có vui hay buồn cũng phải chấp nhận, tìm lấy những niềm đẹp đẽ trong sự đổi thay của thời tiết. Cái " bệnh" của trời ấy cũng như cái bệnh mà tôi đang có khi gặp gỡ và yêu em. Người ta thường bảo đã là bệnh thì không ai muốn nhưng bây giờ " tôi" lại lỡ mắc " bệnh" tương tư khi yêu em mất rồi . Căn bệnh yêu mà không có em, không phải là em thì làm sao cứu chữa được. Nhân vật tôi không than thở, đớn đau khi mắc thứ bệnh lạ lùng ấy mà là giọng thơ đầy sự tự nguyện, đó là một quy luật dễ dàng chấp nhận khi lỡ yêu người. Tình yêu khiến tôi" tương tư" nàng vô bờ, tôi nhớ nhung nàng như thế, yêu thương và ngóng chờ nàng như thế, chỉ mong nàng hiểu được lòng này, trái tim nhỏ bé này mà thôi.
Bằng thể thơ lục bát quen thuộc, ngôn từ hình ảnh bình dị, giọng điệu nhịp nhàng, chân thành thiết tha. Các thành ngữ, hình ảnh nhân hoá, ẩn dụ khá gần gũi được tác giả thể hiện một cách đầy độc đáo và mang nhiều ý nghĩa. Nỗi nhớ dường như được đong đầy hơn bởi không gian, đằm thắm hơn bởi vị yêu trong cái " bệnh tương tư' và dịu ngọt hơn bởi niềm mong có được " nàng".
Chỉ với 4 câu thơ thôi nhưng bằng ngòi bút đầy tài năng, Nguyễn Bính là phác hoạ nên nốt nhạc của tình yêu, một câu chuyện tình chốn thôn quê êm ả, gần gũi nhẹ nhàng đi vào lòng người đọc. Cái chất riêng trong hồn thơ Nguyễn Bính cứ thế được phát triển, trở nên thì vị, mang dư âm, dấu ấn khó phai mà khi nhắc đến ông, không ai không nghĩ về làng quê với những yên bình yêu dấu, một nhà thơ " chân quê" với những đóng góp lớn lao cho nền văn học nước nhà.
Bài văn cảm nhận khổ thơ đầu bài "Tương tư" - mẫu 6
“Hoa chanh nở giữa vườn tranh
Thầy u mình với chúng mình chân quê”
(“Chân quê” – Nguyễn Bính)
Rất nhiều người công nhận Nguyễn Bính là nhà thơ “quê mùa” nhất trong thơ hiện đại Việt Nam. Riêng tôi, tôi cho rằng từ “chân quê” hợp với Nguyễn Bính hơn. Nguyễn Bính muôn đời vẫn trung thành nhất nhất với bản sắc văn hóa truyền thống Việt, với những mối duyên tơ tình tự mà tế nhị, thẹn thùng. Chỉ một đoạn thơ ngắn trong bài “Tương tư”, người đọc sẽ thấy một cái tôi rất Nguyễn Bính:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người.
Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
Nguyễn Bính (1918-1966) tên thật là Nguyễn Trọng Bính, người Vụ Bản, Nam Định. Nguyễn Bính thuộc nhóm nhà thơ lãng mạn, được coi là nhà thơ của làng quê Việt Nam. Thơ Nguyễn Bính tựa nàng thiếu nữ thôn quê mộc mạc, mặn mà, sâu sắc, kín đáo, dung dị, đằm thắm. Người ta dễ thấy cái hồn cốt người Á Đông trong mỗi con chữ, ngôn từ, cách gieo vần, thả âm, nhấn thanh. Và cũng thấy cả một trái tim đau đáu cho những bản sắc và bản chất tốt đẹp của người xưa đang dần mai một vì sự du nhập của các nền văn hóa mới.
Vậy đó, Nguyễn Bính đâu đưa ta đến vườn trần nào đâu. Nguyễn Bính chỉ sống với không gian ao làng, có thôn Đoài, thông Đông, có người tình xóm bên hay e hay thẹn:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông”
Thôn Đông hay thôn Đoài là những địa danh quen thuộc ở làng quê xóm nhỏ Việt Nam. Những cái tên ấy gợi ra không gian của những mái nhà tranh san sát, có những con đường nhỏ uốn quanh, có cây cầu bắc ngang nối giữa thôn này với thôn nọ. Nguyễn Bính đã nhân hóa 2 địa danh này, gieo vào nó cảm xúc của con người – “nhớ”. Nỗi nhớ xa xôi giữa hai thôn dường như tượng trưng cho chàng trai và cô gái nào đó đang phải lòng nhau. Hai nhân vật ấy được cụ thể hóa trong câu thơ tiếp:
“Một người chín nhớ mười mong một người”
Đó là “một người” và “một người”. Hai con người ấy không tên tuổi, không danh xưng. Cho nên, nó có khả năng điển hình hóa. Một mối tình riêng nhưng mang đậm văn hóa thôn quê.
Cách nói “chín nhớ mười mong” cũng rất độc đáo. Có ai lại đếm được nỗi nhớ, nỗi mong. Tác giả tách một bên “chín nhớ” và một bên “mười mong” trao cho hai chủ thể. Chính cách tách riêng như vậy ngược lại khiến người đọc có cảm giác như hai chủ thể đang hòa vào một, tuy hai mà một, tuy một mà hai. Tình yêu của ai, nơi đâu, ta không rõ. Nhưng tình yêu xa xôi ấy lại nồng nàn như thể rất gần, rất đậm. Nhưng Nguyễn Bính không gọi là “yêu”, chàng thi sĩ gọi bằng động từ rất chân chất: “tương tư”. Hãy nghe người nói:
“Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
Cái bệnh “tương tư” sao mà đáng yêu tới thế. Ở đây, thi sĩ đã tế nhị so sánh mối tương tư với nắng mưa. Làm gì có trời nào mà mắc bệnh nắng, bệnh mưa. Chỉ có lòng người là như chốc mưa, chốc nắng. Người đang tương tư thất thường lắm, tâm trạng khi ấm áp có khi lại cay đắng, có lúc sáng rực rỡ cũng có khi u tối mịt mùng. Đáng yêu biết mấy. Trong sáng biết mấy.
Tóm lại, đoạn thơ độc 2 câu lục bát đầu bài thơ “Tương tư” đã cho thấy toàn bộ nội dung tâm hồn, tư tưởng và phong cách nghệ thuật của Nguyễn Bính. Chất thơ mộc mạc, vừa đậm phong vị dân gian vừa đầy sáng tạo mới mẻ đã chứng tỏ Nguyễn Bính là một trong những đỉnh cao thơ Mới lãng mạn có cái tôi rất dân dã. Nếu như Xuân Diệu nhập vào dòng văn học Pháp mà viết lên những câu thơ khiến người ta thấy sửng sốt, nếu như Thế Lữ hay Chế Lan Viên không chịu trở về, nếu như Hàn Mặc Tử đắm chìm trong thế giới ảo mộng… thì Nguyễn Bính lại chọn đi về với “chân quê”.
Bài văn cảm nhận khổ thơ đầu bài "Tương tư" - mẫu 7
Nguyễn Bính là một trong những cây bút tài năng trong phong trào thơ mới. Khác với phong cách thơ của các nhà thơ cùng thời hiện đại và mới mẻ, thơ Nguyễn Bính lại thường mang đậm nét truyền thống, chân quê với hình ảnh thơ mộc mạc, lời thơ dung dị. Tương tư là một trong những bài thơ nổi tiếng cho phong cách thơ Nguyễn Bính. Bài thơ là tâm trạng nhớ nhung, băn khoăn của nhà thơ trong tình yêu đôi lứa. Khổ đầu trong bài thơ đã cho người đọc thấy tâm trạng, nỗi nhớ của nhà thơ rất mộc mạc, chân thành cùng khát vọng tình yêu.
Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
Trong tình yêu, tâm trạng đầu tiên ai cũng từng trải qua đó là nỗi nhớ. Và mở đầu đoạn thơ, tác giả đã nhắc đến nỗi nhớ một cách mộc mạc:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông”
Nhà thơ đã sử dụng hình ảnh hoán dụ “thôn Đoài” “thôn Đông” để viết về nỗi nhớ. Ông không viết “anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét” như Chế Lan Viên, cũng không viết quyết liệt “Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh. Anh nhớ em! nhớ lắm em ôi” như Xuân Diệu. Nguyễn Bính dùng cái tên “thôn Đoài”, “thôn Đông” một cách khái quát và kín đáo, nhẹ nhàng, mượn “thôn Đoài” hoán dụ cho cái tôi Nguyễn Bính còn mượn “thôn Đông” để hoán dụ cho người con gái ông nhớ, ông thương. Nỗi nhớ ở đây có vẻ nhẹ nhàng nhưng cũng mạnh mẽ lắm bởi lẽ không gian thôn Đoài có anh, không gian thôn Đông có em. Khi người ta yêu nhau thì người ta yêu cả không gian bao trùm người thương ấy. Như ca dao, dân ca Việt Nam có câu “yêu nhau yêu cả đường đi”. Nhà thơ tiếp tục thể hiện nỗi nhớ một cách tinh tế hơn, cụ thể hơn:
“Một người chín nhớ mười mong một người”
Hai từ “một người” được điệp lại hai lần ở đầu và cuối của một câu thơ nhưng người đọc vẫn hiểu được là đại diện cho hai cá thể người nhớ và người đọc nhớ. Thành ngữ “chín nhớ mười mong” được sử dụng trong câu thơ thể hiện niềm mong nhớ vô cùng của nhân vật trữ tình. Nó không chỉ đơn thuần là nỗi nhớ nữa mà còn là sự mong đợi và ngóng trông, nỗi nhớ đến da diết đứng ngồi không yên. Một tình yêu thật đẹp nhưng lại được nhà thơ thể hiện một cách ý nhị, kín đáo những vẫn sâu sắc, đi vào lòng người. Bên cạnh nỗi nhớ thì tương tư cũng là một tâm trạng rất điển hình trong tình yêu:
“Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
Với thiên nhiên, đất trời thì nắng, mưa là hiện tượng thiên nhiên rất gần gũi, thân thuộc và sảy ra một cách hiển nhiên không thể bàn cãi. Nguyễn Bính đã có một cách ví von rất độc đáo khi ví nắng mưa là “bệnh” của trời. Cách ví von ấy nghe chân thật mà pha chút hóm hỉnh trong tình yêu. Nhà thơ đã mượn hình ảnh “nắng mưa” của thiên nhiên để nói lên sự tất nhiên của bệnh tương tư khi yêu. Tương tư nó là một trạng thái rất đặc biệt, nó không chỉ là nhớ mà còn là sự mơ tưởng, tưởng tượng đến những kỷ niệm đẹp, những mong ước lứa đôi. Khi yêu, có ai là không tương tư, nhung nhớ người yêu? Nhà thơ cảm nhận tương tư cũng là “bệnh” khi yêu. Yêu và tương tư đến phát “bệnh” thì quả là sự tương tư ấy nó luôn thường trực trong tâm trí của người si tình, tương tư từ sáng tới trưa, từ trưa đến tối, ngày qua ngày. Cách thể hiện nỗi tương tư của nhà thơ có nét thật hài hước và đáng yêu vô cùng.
Xuyên suốt bốn câu thơ là những hình ảnh chân quê bình dị “thôn Đoài”, “thôn Đông”, “nắng mưa” cùng cách sử dụng biện pháp tu từ hoán dụ, thành ngữ, thể thơ lục bát mang phong cách dân tộc, nhà thơ đã thổi hồn vào bốn câu thơ với đầy nỗi nhớ nhung, tương tư và cách thể hiện tình yêu kín đáo, tế nhị nhưng cũng rất sâu lắng. Nhịp thơ nhịp nhàng, chậm rãi như một lời tâm sự da diết của người đang say sưa, tương tư, bối rối tronng tình yêu.
Chỉ với một khổ thơ ngắn với bốn câu thơ, Nguyễn Bính đã thể hiện được một sự nhớ nhung, tương tư của tình yêu đôi lứa. Bài thơ nói chung và khổ thơ nói riêng mang đến một cách thể hiện tình yêu rất nhẹ nhàng, ý nhị, dân dã, mộc mạc nhưng vẫn rất chân thành, mang đậm sắc thái hồn quê và điển hình cho hồn thơ Nguyễn Bính. Đó là cái chất rất riêng mà Nguyễn Bính cũng như bài thơ Tương tư để lai một dấu ấn riêng khó phai trong trái tim độc giả.
Bài văn cảm nhận khổ thơ đầu bài "Tương tư" - mẫu 8
Nhà thơ Nguyễn Bính nổi tiếng là một trong những cây bút tài năng trong phong trào thơ mới của Việt Nam. Phong cách thơ mới của Nguyễn Bính thường mang đậm nét truyền thống, chân quê với những hình ảnh mộc mạc, lời thơ dung dị, bài thơ “Tương tư” chính là một điển hình cho phong cách thơ ấy. Xuyên suốt bài thơ là tâm trạng nhớ mong, chờ đợi của nhân vật trữ tình trong tình yêu đôi lứa, ngay ở khổ đầu bài thơ, tác giả đã cho ta thấ tâm trạng và nỗi nhớ của nhân vật trữ tình lộ ra rất chân thành, mộc mạc.
Trong tình yêu, đặc biệt là một tình yêu chớm nở còn e ấp, ngài ngùng chưa dám tỏ bày, làm sao tránh khỏi trạng thái nhớ mong, và trong khổ đầu bài thơ, tác giả đã nhắc đến nỗi nhớ ấy của một chàng trai về người mình yêu:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông…
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
Trong câu thơ “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông”, tác giả đã rấ tinh tế khi sử dụng hình ảnh hoán dụ “thôn Đoài”, “thôn Đông” để nói về nỗi nhớ của hai con người. Nguyễn Bính không nhắc đến con người cụ thể như Chế Lan Viên “Anh nhớ em như đông về nhớ rét”, hay như Xuân Diệu “Anh nhớ em! Nhớ lắm em ôi”. Tác giả dùng cái tên của hai thôn thay thế cho hai cá thể con người kia một cách vừa khái quát, vừa kín đáo lại nhẹ nhàng.
Ở đây có thể hiểu là người ở thôn Đoài nhớ người ở thôn Đông, hay chính chàng trai ở thôn Đoài đang nhớ người con gái mình yêu thương ở thôn Đông. Nỗi nhớ ở đây dường như nhẹ nhàng nhưng cũng mạnh mẽ lắm, bởi nó đã lan tỏa ra không gian, thấm vào cảnh vật. Khi người ta yêu nhau thì người ta yêu thương cả cái không gian bao trùm nơi người mình thương, có chăng là nỗi nhớ cũng là nỗi nhớ của không gian có anh và không gian có em. Bằng cách đong đếm nỗi nhớ mong, tác giả đã thể hiện nỗi nhớ của chàng trai một cách tinh tế, cụ thể hơn: “Một người chín nhớ mười mong một người”.
Điệp từ “một người” ở đầu và cuối câu thơ vẫn là đại diện cho hai cá thể, một người nhớ và một người được nhớ. Nằm giữa hai con người ấy là thành ngữ “chín nhớ mười mong”, nó góp phần thể hiện niềm mong nhớ vô cùng của chàng trai kia. Đồng thời, nỗi nhớ mong ấy vừa là cầu nối lại là ngăn cách giữa tình cảm của hai con người. Đến đây thì nỗi nhớ của chàng trai quê chất phác kia không đơn thuần là nhớ nữa mà còn là sự mong đợi, ngóng trông, nhớ đến nỗi đứng ngồi không yên. Có thể nói đó là một tình yêu đằm thắm, tha thiết nhưng nhà thơ thể hiện thật ý nhị, kín đáo và sâu sắc.
Bên cạnh nỗi nhớ mong, những con người đã và đang muốn dấn thân vào thứ tình yêu vừa ngọt ngào vừa đau khổ sẽ khó mà tránh khỏi căn bệnh tương tư, đó là một căn bệnh điển hình trong khi yêu:
“Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
Tác giả đã có một cách ví von thật độc đáo, ví nắng mưa là “bệnh” của trời, cách ví von vừa chân thật lại có sự hóm hỉnh trong tình yêu, mượn hình ảnh nắng mưa của thiên nhiên để nói lên tính tất nhiên của bênh tương tư khi yêu. Trạng thái tương tư rất đặc biệt, nó không chỉ đơn giản là nhớ mong mà còn là sự mơ tưởng, mong ước lứa đôi. Nhà thơ đã cảm nhận rất rõ, thấu hiểu rằng khi yêu có ai mà không tương tư, không nhung nhớ người yêu. Để cho yêu và tương tư đến phát bênh thì phải nói, sự tương tư ấy đã luôn thường trực trong tâm trí của kẻ si tình, tương tư từ sáng tới trưa, từ trưa tới tối, từ ngày này qua ngày khác, cách thể hiện tương tư của nhà thơ vừa hài hước lại đáng yêu. Xuyên suốt bài thơ là những hình ảnh chân quê bình dị “thôn Đoài”, “thôn Đông”, “nắng mưa”, chính chàng trai nhân vật trữ tình cũng là một chàng trai quê chân thành, chất phác. Cách sử dụng biện pháp tu từ hoán dụ, thành ngữ, nhà thơ đã mang vào từng câu thơ chất chứa đầy nỗi nhớ nhung, tương tư.
Chỉ với bốn câu thơ, nhà thơ đã thể hiện một cách tinh tế, kín đáo lại nhẹ nhàng và hài hước về sự nhớ nhung, tương tư của tình yêu đôi lứa. Khổ thơ nói riêng và bài thơ nói chung đã thể hiện một tình yêu mộc mạc, chân thành, mang đậm sắc thái hồn quê.
Hãy đăng nhập để bình luận
Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .