Top 9 Bài văn cảm nhận về bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm (lớp 12) hay nhất

921

Đất nước là một đề tài lớn thường gợi lên những cảm hứng mãnh liệt đối với thi nhân, nhất là vào thời điểm nền độc lập dân tộc đứng trước những thử thách lớn...xem thêm ...

Top 0
(có 0 lượt vote)

Bài văn cảm nhận về bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm - mẫu 1

Đất nước là đề tài muôn thuở của thơ văn Việt Nam. Chúng ta đã bắt gặp đất nước chìm trong đau thương, mất mát qua thơ Hoàng Cầm; gặp đất nước đang đổi mới từng ngày qua thơ Nguyễn Đình Thi. Nhưng có lẽ đất nước được nhìn từ nhiều khía cạnh, đầy đủ và trọn vẹn nhất qua bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Hình hài đất nước từ khi được sinh ra cho đến khi phải trải qua bao nhiêu sóng gió chiến tranh được tái diễn sinh động qua một hồn thơ tinh tế, phóng khoáng của Nguyễn Khoa Điềm.


Tác giả nhìn đất nước từ nhiều khía cạnh, trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử. Đất nước là tên gọi thiêng liêng, bình dị nhưng chất chứa bao nhiêu ngọn nguồn của cảm xúc chính tác giả. Bài thơ được mở đầu bằng những vần thơ nhẹ nhàng, tinh tế đưa người đọc trở về với những ngày đầu mới khai sinh:


Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa mẹ…” thường hay kể
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc.


Đất nước hiện lên qua những câu thơ thật bình dị, gần gũi, nó không phải là một khái niệm trừu tượng mà là một khái niệm hiện hữu hằng ngày trong cuộc sống của mỗi chúng ta. Tác giả sử dụng từ “khi” để đánh dấu sự ra đời của khái niệm “đất nước”. Từ khi mỗi chúng ta sinh ra thì đất nước đã có rồi. Sau câu thơ ấy, tác giả bắt đầu lí giải nguồn gốc của đất nước mà mỗi người đều mong muốn hiểu thấu được. Giọng thơ dịu nhẹ, ngọt ngào dẫn dụ người đọc về với những “ngày xửa ngày xưa”. Đó như một nốt nhạc của quá khứ trở về trong những suy nghĩ của con người. Từ “ngày xửa, ngày xưa” đánh dấu những điều gì đó xa xưa, rất xưa, không xác định thời gian cụ thể, chỉ biết rằng nó đã có từ lâu đời. Đất nước đồng thời hình thành từ khi dân mình biết đánh giặc, là những con người đó làm nên đất nước…


Đất nước còn gắn liền với cuộc sống bình dị, thân quen của người nông dân Việt Nam. Tác giả không chỉ dừng lại ở đó, đất nước còn được lý giải chính là thành quả của công cuộc lao động để xây dựng và phát triển:


Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng
Đất nước có từ ngày đó


Một một dụng cụ được tạo ra để phục vụ cho đời sống sản xuất cũng như sinh hoạt của con người như “kèo, cột” đều gắn bó với lịch sử ra đời của đất nước. Rất bình dị, rất chân thực nhưng nó như là một sự giải thích đúng đắn. Hình ảnh Đất Nước trong 9 câu thơ đầu Việt Bắc qua sự cảm nhận của tác giả thật mới mẻ nhưng cũng rất gần gũi, thân thương. Nguyễn Khoa Điềm như dẫn người đọc đi vào những cung bậc tình cảm khác của đất nước, đó là chuyện tình yêu lứa đôi e ấp nhưng tha thiết và mặn nồng:


Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm


Đất nước không chỉ hiển hiện trong không gian văn hóa, phong tục tập quán của con người mà còn hiện lên trong những tình yêu lứa đôi mặn nồng, tha thiết nhất. Tác giả đã cắt nghĩa “đất nước” thành hai từ “đất” và “nước” để lí giải cụ thể ý nghĩa của từng từ. Đây có thể coi là sự tinh tế và đầy thi vị của Nguyễn Khoa Điềm. Nhưng dù được tách ra thì đất nước vẫn là một khái niệm trọn vẹn và đầy ý nghĩa nhất.


Đất nước còn được mở ra theo chiều dài của lịch sử và chiều dài của không gian văn hóa, của những con người vẫn còn trằn trọc tha thiết đi tìm hình bóng quê hương. Đất nước được hình thành từ những câu chuyện xa xưa, từ những điển tích điển cố mà người đời sau vẫn luôn nhắc nhở nhau. Hình ảnh “con chim phượng hoàng”, “núi bà Đen, bà Điểm”, “Lạc Long Quân Âu Cơ” chính là minh chứng cho sự phát triển nhiều thăng trầm nhưng đáng tự hào của chúng ta. Nhớ về cội nguồn, nhớ về những ngày xưa vất vả chính là đạo lí, truyền thống uống nước nhớ nguồn mãnh liệt của nhân dân ta. Đất nước trong ý niệm của Nguyễn Khoa Điềm còn là sự tiếp nối truyền thống:


Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau


Trong sự hình thành và phát triển bề dày văn hóa lịch sử ngày càng được khẳng định. Những con người đã ngã xuống vì đất nước, những con người thế hệ mai sau cần phải cố gắng gìn giữ và phát huy được truyền thống tốt đẹp đó. Nguyễn Khoa Điềm đã có cái nhìn đa chiều về đất nước từ khía cạnh đời thường, khía cạnh lịch sử, khía cạnh không gian và thời gian mang đến cho người đọc nhận thức đúng đắn nhất về đất nước mà chúng ta đang sống và cống hiến.


Hơn hết tác giả còn khẳng định:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước


Có thể nói đất nước đã đi vào và in hằn vào máu thịt của mỗi người, nhắc nhở trách nhiệm và nghĩa vụ của chúng ta về công cuộc xây dựng và bảo vệ sự vững mạnh của đất nước này. Đất nước còn được Nguyễn Khoa Điềm tích lũy thành một khái niệm sâu sắc:


Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta


Một quan niệm sâu sắc, giàu giá trị nhân sinh quan khiến cho người đọc không thể phủ nhận sự tồn tại của đất nước là một thực tế. Đất nước còn biểu tượng cho lòng thành kính, sự biết ơn đến những người đã ngã xuống vì hòa bình, tự do cho hôm nay:


Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước


Lại thêm một sự lí giải đúng đắn cho định nghĩa “đất nước”, những con người đó họ dù chết nhưng trái tim họ vẫn còn sống mãi trong cuộc sống của những người ở lại. Nhưng ở hai câu thơ cuối có thể nói Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ra định nghĩa đúng đắn và sâu sắc nhất về đất nước:


Đất nước này là đất nước của nhân dân
Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại.


Thật vậy, nhân dân chính là chủ nhân của đất nước. Bởi vậy đất nước này phải thuộc về nhân dân. Tư tưởng của tác giả rất tiến bộ, rất đời thường và rất sâu sắc.


Như vậy, Nguyễn Khoa Điềm bằng những lý lẽ và dẫn chứng đầy thuyết phục đã khẳng định được vị trí, vai trò vô cùng to lớn của đất nước trong cuộc sống của mỗi con người. Gấp trang sách lại nhưng những hình ảnh về đất nước vẫn sống mãi trong lòng người đọc.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 1
(có 0 lượt vote)

Bài văn cảm nhận về bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm - mẫu 2

Chương Đất Nước trích trong trường ca Mặt đường khát vọng là sự cảm của Nguyễn Khoa Điềm về vai trò và những hi sinh to lớn của nhân dân trong công cuộc dựng nước và giữ nước lâu dài của dân tộc. Cũng như những nhà thơ trẻ tiêu biểu của thời kỳ chống Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những suy ngẫm của mình về nhân dân thông qua những trải nghiệm của chính bản thân mình. Tư tưởng “Đất nước của nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại” là tư tưởng chủ đạo, chi phối cả nội dung và hình thức chương V của bản trường ca này.


Tư tưởng chủ đạo nói trên được Nguyễn Khoa Điềm thể hiện bằng một hình thức thơ trữ tình - chính luận. Cái lý lẽ mà tác giả đưa ra nhằm thuyết phục người đọc thật giản dị: Không phải ai khác mà chính nhân dân - những người vô danh - đã kiến tạo và bảo vệ, giữ gìn đất nước, đã xây dựng nên những truyền thống vãn hoá, lịch sử hàng ngàn đời của dân tộc. Lý lẽ ấy nhà thơ không phát biểu một cách khô khan, trừu tượng mà bằng hình ảnh gợi bằng giọng thơ sôi nổi tha thiết của mình. Thông qua những vần thơ kết giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, Nguyễn Khoa Điềm muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm gắn bó với nhân dân, đất nước thế hệ trẻ trong những năm chống Mĩ.


Mượn hình thức trò chuyện tâm tình với một người con gái yêu thương, kết cấu chương V của bản trường ca có vẻ phóng túng, tự do, nhưng từ trong chiều sâu của cảm hứng của mỗi phần vẫn bám rất chắc vào tư tưởng cốt lõi: Đất nước nhân dân. Tư tưởng đó được nhà thơ thể hiện cụ thể, sinh động và được triển trên các bình diện: trong chiều dài của thời gian (thời gian đằng đẵng) và bề dày của truyền thống văn hoá, phong tục, tâm hồn và tính cách dân tộc. Ba phương diện ấy gắn bó, hoà quyện, thống nhất chặt chẽ với nhau trong một “hệ quy chiếu”. Đất nước của nhân dân vốn là linh hồn của cả bài thơ.


Cả chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng như được bao bọc bởi không khí của văn hoá dân gian. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rộng rãi và linh hoạt các chất liệu của văn hoá dân gian, từ ca dao, tục ngữ đến truyền thuyết, cổ tích, từ phong tục tập quán đến thói quen sinh hoạt trong đời sống hằng ngày của nhân dân. Những chất liệu ấy đã tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi, quen thuộc, vừa sâu xa, kì diệu, đủ gợi lên được cái hồn thiêng của non sông, đất nước. Điều đó không đơn thuần chỉ là thủ pháp nghệ thuật, cũng không phải chỉ là một tiếp thu có sáng tạo vãn học dân gian. Có thể nói, tư tưởng Đất nước của Nhân dân là tư tưởng chủ đạo của bài thơ - đã thấm nhuần từ quan niệm đến cảm xúc, từ hình tượng đến chi tiết nghệ thuật của bài thơ.


Phần đầu của bài thơ này, có thể xem là một định nghĩa về đất nước. Cố nhiên là định nghĩa theo cách riêng của thơ, được phát biểu thông qua những hình tượng cụ thể, sinh động, đầy gợi cảm. Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết, ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người: Đất nước hiện hình lên qua những lời kể chuyện của mẹ, qua “miếng trầu bây giờ bà ăn”, qua cái kèo, cái cột, qua hạt gạo miếng cơm ta ăn hàng ngày. Đất nước không phải là cái gì xa lạ mà ở ngay trong máu thịt của anh và em:


Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước


Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên được sự gắn bó máu thịt giữa số phận cá nhân với vận mệnh chung của cộng đồng, của đất nước. Đó là tư tưởng chung của thời đại khi mà vấn đề dân tộc nói lên như một vân đề khác. Trách nhiệm, bổn phận đối với đất nước không phải là cái gì khác mà cũng chính là trách nhiệm đối với chính bản thân mình:


Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san xẻ,
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở,
Làm nên Đất Nước muôn đời.


Đất nước còn được hình thành từ những truyền thống lịch sử, văn hoá, phong tục hàng ngàn đời của dân tộc. Nhà thơ đã khai thác ý nghĩa các thành tố Đất Nước trong mối quan hệ với không gian và thời gian, với lịch sử và hiện ta. Chiều sâu của lịch sử, truyền thống, phong tục và văn hoá của đất nước được gợi lên từ huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, từ truyền thuyết Hùng Vương với ngày giỗ tổ, từ những câu ca dao quen thuộc, ở đây, đất nước được cảm nhận như là sự thống nhất của các phương diện truyền thống, vãn hoá, phong tục rất thiêng liêng song cũng rất gần gũi với cuộc sống của mỗi con người. Những giá trị tinh thần bền vững ấy của đất nước đã gắn liền với quá khứ, hiện tại với tương lai, được nuôi dưỡng qua các thế hệ:


Những ai đã khuất,
Những ai bây giờ,
Yêu nhau và sinh con đẻ cái,
Gánh vác phần người đi trước để lại.
Dặn dò con cháu chuyện mai sau,
Hằng năm ăn đâu nằm đâu,
Cũng biết cúi đầu nhớ - ngày giỗ Tổ.


Từ những quan niệm về đất nước như vậy, đến phần sau của bài thơ, tác giả tập trung làm nổi bật tư tưởng. Đất Nước của nhân dân, chính nhân dân là người sáng tạo ra Đất Nước. Tư tưởng đó đã dẫn đến một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, những danh lam thắng cảnh trên khắp các miền đất nước. Những núi Vọng Phu những hòn Trống Mái, những núi Bút non Nghiên không còn là những cảnh thú thiên nhiên thuần tuý nữa, mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, hoá thân của những con người không tên, không tuổi: “Những người vợ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu, Cặp vợ chồng yêu nhau nên hòn Trống Mái”. “Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình Bút non Nghiên”. Cả đến “Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”, ở đây, cảnh vật của thiên nhiên đất nước qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước này, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất này, từ những hình ảnh, những cảnh vật, hình tượng cụ thể, nhà thơ đã “quy nạp” thành một khái quát sâu sắc:


Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha,
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy,
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta.


Tư tưởng Đất nước của Nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước. Nhà thơ không ngợi ca các triều đại, cũng không nói tới những anh hùng đã được ghi lại trong sử sách mà chỉ tập trung nói tới những con người vô đanh, bình thường, bình dị. Đất nước trước hết là của nhân dân, của những con người bình dị, vô danh đó:


Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.


Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ giữ gìn và truyền lại cho các thế mai sau những giá trị văn hoá, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước lại lúa, ngọn lửa, tiếng nói, lên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, những câu ca dao, tục ngữ. Mạch cảm xúc, suy nghĩ của bài thơ cứ dồn tụ dần để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm bật lên tư tưởng cốt lõi của bài thơ vừa bất ngờ vừa giản dị và độc đáo:


Đất Nước này là Đất nước Nhân dân Đất Nước của Nhân dân,
Đất Nước của ca dao, thần thoại.


Đọc chương Đất Nước, có thể thấy rõ dấu ấn của vốn tri thức văn hoá nhà trường và sách vở, sự ảnh hưởng phong cách của một nhà thơ nào đó. Tuy nhiên, đó vẫn là chương tiêu biểu và tinh tuý nhất của trường ca Mặt đường khát vọng. Bài thơ vẫn tạo nên được những rung động âm vang trong lòng người đọc là nhờ tác giả từ những cảm xúc chân thành, từ sự trải nghiệm của bản mà nói lên những suy nghĩ chung của cả thế hệ mình về đất nước.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 2
(có 0 lượt vote)

Bài văn cảm nhận về bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm - mẫu 3

Từ sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, dân tộc ta đã phải tiến hành liên tiếp hai cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược để gìn giữ nền độc lập tự do và thống nhất Tổ quốc. Trong suốt ba mươi năm ấy, vận mệnh của đất nước luôn luôn là vấn đề lớn lao, nóng bỏng và chi phối mọi lĩnh vực của đời sống dân tộc và mỗi con người Việt Nam. Vì thế, cũng là lẽ tự nhiên, tình cảm yêu nước đã trở thành cảm hứng chủ đạo trong thơ ca hiện đại Việt Nam, tiếp nối một truyền thống sâu đậm của văn học dân tộc từ ngàn xưa. Tình cảm yêu nước được biểu hiện trong thơ ca ta thống nhất nhưng cũng rất đa dạng, phong phú tùy theo hoàn cảnh sáng tác, tâm trạng cụ thể của từng nhà thơ.


Trường ca Mặt đường khát vọng được viết giữa những năm tháng hào hùng cả toàn quân, toàn dân ta đang tập trung sức lực, tập trung trí tuệ để chiến thắng đế quốc Mĩ, có vai trò không nhỏ của tầng lớp tuổi trẻ học sinh, sinh viên các thành thị vùng tạm chiếm miền Nam đang thức tỉnh, siết chặt đội ngũ xuống đường. Tầng lớp này cũng có nhiều tâm tư, nhiều suy ngẫm về thế hệ mình, về đất nước. Từ góc độ đó, ở Đất Nước, chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm đã định nghĩa, cảm nhận ngợi ca vẻ đẹp nhiều mặt của đất nước, trình bày ý thức trách nhiệm đối với vận mệnh dân tộc giữa cơn thử thách lớn của lịch sử.


Hình tượng đất nước, trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, gắn với những nhân vật, hình ảnh hết sức cụ thể với những sinh hoạt rất đỗi thường ngày của mỗi chúng ta. Tình yêu lớn lao nhưng không hề xa xôi, trừu tượng mà được khơi gợi từ những sự vật, sinh hoạt gần gũi, từ những phong tục văn hóa có tự ngàn xưa. Đất nước có trong những câu chuyện cổ tích mẹ thường hay kể cho ta từ tuổi bé thơ, trong miếng trầu bây giờ bà ăn, trong lũy tre làng bao đời thành lũy thành công cho dân mình đánh giặc. Đất nước gắn cùng tục búi tóc sau đầu, câu ca dao gừng cay muối mặn, gắn cùng cái kèo, cái cột, hạt gạo một nắng hai sương. Cảm nhận đất nước từ những cái bình thường quanh ta đã dẫn Nguyễn Khoa Điềm đến biện pháp nghệ thuật chiết tự. Từ ghép đất nước được tách thành đôi để nhà thơ định nghĩa thật cụ thể từng thành đôi.


Đất và Nước:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc
Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khai
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở


Dòng suy tưởng đưa Nguyễn Khoa Điềm trở về quá khứ, với huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ khẳng định cội nguồn thống nhất của con người Việt. Đất nước trường tồn trong thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông. Vậy là những hình ảnh, sự vật trên rất đỗi bình thường, nhưng đâu phải tầm thường; trong đó ẩn chứa sâu xa chiều dài lịch sử, truyền thống văn hóa với bao phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc. Gợi lên truyền thống lịch sử - văn hóa vững bền, không gian địa lí mênh mông của đất nước từ những điều giản dị, thường ngày, đó là thành công đặc biệt của Nguyễn Khoa Điềm ở đoạn trích này. Đất nước là đời sống, là hơi thở hàng ngày của mỗi chúng ta. Đất nước là sông bể mênh mông, núi rừng hùng vĩ. Đất nước trải suốt chiều dài lịch sử từ truyền thuyết Hùng Vương đến đạo lí Hàng năm ăn đâu làm đâu - Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ. Ai biết được tự bao giờ con người Việt Nam biết kể chuyện cổ tích, có tục ăn trầu... Ai biết được tự bao giờ con người Việt Nam biết làm bạn với cây tre, với cái kèo, cái cột... Đằng sau những điều giản dị ấy là truyền thống lịch sử — văn hóa lâu đời, bền vững của đất nước Việt Nam ta. Từ góc độ đời sống cá nhân, nhà thơ nói được cả cuộc sống cộng đồng, đưa đến cho người đọc cảm nhận toàn vẹn, tổng hợp về vẻ đẹp đất nước.


Làm nên truyền thống lịch sử - văn hóa độc đáo, vững bền của đất nước chính là bao thế hệ nhân dân. Bởi thế, lòng yêu nước của Nguyễn Khoa Điềm ở đoạn trích này gắn liền cùng lòng yêu nhân dân, cùng niềm tự hào về vai trò to lớn của nhân dân. Đất Nước của Nhân dân đã trở thành tư tưởng nổi bật, xuyên suốt đoạn trích Đất Nước này và chính ngay cách cảm nhận đất nước từ những điều bình dị, gần gũi như trên sẽ tự nhiên dẫn đến tư tưởng ấy.


Có lẽ chưa bao giờ như trong thời đại dân tộc Việt Nam ta đánh Mĩ, vai trò to lớn, sức mạnh vô địch của nhân dân được thể hiện đầy đủ đến thế. Cuộc đối chọi quyết liệt với một kẻ thù giàu có và hung bạo vào bậc nhất đòi hỏi phải huy động triệt để sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân. Bởi vậy, Đất Nước của Nhân dân đã trở thành tư tưởng chung của thời đại, đã chi phối toàn bộ nền văn học cách mạng và làm nên rất nhiều tác phẩm có giá trị. Trong bối cảnh ấy, đoạn trích Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm đã đóng góp một cách cảm nhận, cách thể hiện đặc sắc. Khi nói về bốn nghìn năm lịch sử của đất nước, nhà thơ không điểm lại các triều đại, những anh hùng nổi tiếng mà tự hào nhắc đến vô vàn lớp người vô danh bình dị:


Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con


Đối với nhân dân, cần cù làm lụng và ra trận đánh giặc, sống và chết đều thật giản dị và bình tâm vì lẽ tồn vong của đất nước. Khi đất nước thanh bình, họ "cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó". Khi đất nước gặp nạn ngoại xâm, họ đứng dậy cầm vũ khí, sẵn sàng xả thân vì độc lập, chủ quyền như lẽ tự nhiên. Chính những con người không ai nhớ mặt đặt tên ấy đã làm ra Đất Nước. Trong trường kì lịch sử, nhân dân là lực lượng chủ yếu sáng tạo, giữ gìn truyền lại mọi tài sản vật chất, mọi giá trị tinh thần để làm nên Đất Nước muôn đời:


Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân.


Bao lớp người vô danh, thầm lặng ấy đã hóa thân cho đất nước vững bền. Nguyễn Khoa Điềm đã cảm nhận sự hóa thân của nhân dân hiển hiện trên gương mặt địa lí của đất nước. Không ít tác phẩm thơ văn đã nhắc tới những danh lam thắng cảnh, những sự tích núi sông của đất nước Việt Nam bốn ngàn năm văn hiến. Nhưng gắn chúng cùng số phận, cùng phẩm chất của những người dân bình dị, thấy trong đó cuộc đời hi sinh cao đẹp của quần chúng nhân dân, ấy là Nguyễn Khoa Điềm. Sau khi nhắc tới hàng loạt danh lam thắng cảnh, sự tích núi sông trên các miền đất nước, nhà thơ đi đến một khái quát thấm thía:


Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...


Làm sáng tỏ tư tưởng Đất Nước của nhân dân từ nhiều phía, nhiều chiều như thế, đoạn trích đã đem đến cho người đọc niềm tin vào sự trường tồn của đất nước. Đất Nước là của nhân dân, mà nhân dân thì mênh mông, vĩ đại và bất tử. Vì thế, Đất Nước này mãi mãi trường tồn cùng với nhân dân.


Chiêm ngưỡng tiếp nhận Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại từ góc độ thế hệ trẻ trong thời đại dân tộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm đã gợi nhắc trách nhiệm đối với vận mệnh đất nước. Phải chăng đây chính là mục đích của đoạn thơ Đất Nước này khi ra đời giữa những năm tháng chiến tranh quyết liệt, hào hùng, khi lịch sử đang yêu cầu mọi con người phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở. Ý thức trách nhiệm này được Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận, dẫn dắt rất tự nhiên cùng quá trình khám phá ngày càng sâu về đất nước. Ban đầu, đất nước là những gì thân thiết ở ngoài ta, ở xung quanh ta. Nhưng dần về sau, đất nước đã ở trong ta, đất nước có trong mỗi người:


Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn


Mỗi con người hôm nay đều đang thừa hưởng những di sản vật chất và tinh thần quý báu của đất nước, của nhân dân, của bao thế hệ đi trước, vì thế phải biết cống hiến đời mình vì lẽ tồn vong của đất nước. Ý thức trách nhiệm được nhà thơ trình bày thật thiết tha. Đó là mệnh lệnh cất lên từ trái tim đang xúc động:


Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...


Như vậy, tiếp thu nguồn mạch cảm hứng yêu nước chưa bao giờ vơi cạn trong lịch sử văn học Việt Nam, nằm trong bối cảnh của thời đại dân tộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ, đoạn trích Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát vọng đã thể hiện những nhận thức, khám phá mới mẻ về vẻ đẹp đất nước. Trên nền văn hóa dân gian vững chắc, Nguyễn Khoa Điềm đã hướng sự tìm tòi, suy ngẫm tới nhiều bình diện như lịch sử, địa lí, phong tục... để làm nổi bật tư tưởng Đất Nước của Nhân dân và gợi nhắc ý thức trách nhiệm trước vận mệnh đất nước. Nhưng sức hấp dẫn của chương Đất Nước không chỉ ở các nội dung cảm nhận mà còn ở cách thể hiện của Nguyễn Khoa Điềm. Khi đưa vào đây nhiều kiến thức về lịch sử, địa lí, về văn hóa dân gian, thơ dễ sa vào diễn ca theo lối phô bày hiểu biết, dễ chỉ tác động vào lí trí mà khó lay thức tình cảm người đọc. Nguyễn Khoa Điềm đã vượt qua thử thách đó và Đất Nước vừa làm sáng bừng nhận thức, vừa lay động sâu xa tâm hồn mỗi con người Việt Nam. Cái gì đã tạo nên thành công ấy? Điều chủ yếu là do tất cả các kiến thức, tư liệu, sự kiện phong phú này đã được thẩm thấu qua tâm hồn chứa chan xúc cảm của Nguyễn Khoa Điềm và nhà thơ đã tìm được một cách nói riêng, bằng giọng điệu tâm tình, qua hồi ức lại những kỉ niệm riêng tư:


Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa..." mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc


Ngay từ phần mở đầu, Đất Nước dẫn ta vào câu chuyện tâm tình thiết tha, sâu lắng. Toàn bộ chương này được thể hiện bằng hình thức "anh" trò chuyện cùng "em". Với hình thức này, giọng điệu thơ tất phải ngọt ngào, thủ thỉ. Nguyễn Khoa Điềm nói về lịch sử mà như tâm sự về những kỉ niệm tuổi thơ, như nhắc lại những hồi ức cảm động về người thân trong gia đình là bà, là mẹ. Bề dày của lịch sử, của nền văn hóa phong phú, lâu đời, cả không khí của truyền thuyết Thánh Gióng, cổ tích Trầu Cau bỗng được sống dậy trong cảm nhận gần gũi của mỗi người đọc. Chính nhờ lối thể hiện ấy mà vẻ đẹp sâu xa của đất nước, ý thức trách nhiệm công dân trước vận mệnh đất nước được người đọc nhận cảm một cách tự nhiên, thấm thía.


Tiếp nối dòng mạch thơ ca yêu nước trong lịch sử văn học dân tộc, Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm đã mang nội dung cảm nhận cùng cách thể hiện thật độc đáo. Thành công của đoạn trích Đất Nước này góp phần chứng tỏ tầm trí tuệ, sức khám phá của một nhà thơ trưởng thành cùng thời đại kháng chiến chống Mĩ cứu nước anh hùng.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 3
(có 0 lượt vote)

Bài văn cảm nhận về bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm - mẫu 4

Đất nước là hình tượng trữ tình lớn, là cảm xúc nghệ thuật của nhiều thế hệ nhà thơ Việt Nam. Có một thực tế: mỗi lần đất nước đặt trước những thử thách thì hình tượng đất nước lại ngời sáng trong văn học với những phát hiện mới mẻ độc đáo. Trường ca Mặt đường khát vọng với trích đoạn Đất Nước là một minh chứng đẹp đẽ cho quy luật này. Trong trích đoạn nói trên, những cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đạt tới một tầm vóc triết học sâu sắc.


Trước tiên, đất nước hiện lên trong chiều dài của thời gian. Thời gian trong trích đoạn Đất Nước đầy ắp những hình tượng huyền thoại lấy từ trong truyền thuyết, phong tục dân gian. Nhờ sự xuất hiện của hình tượng thời gian này đất nước hiện lên trong chiều sâu thẳm của thời gian nguồn cội, đầy thiêng liêng thành kính.


Bên cạnh “thời gian đằng đẵng” là “không gian mênh mông”. Có không gian gắn với sự sinh tồn của cả cộng đồng: “Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ”. Có không gian gắn bó với cuộc đời riêng tư của mỗi cá nhân; “Đất là nơi anh đến trường - Nước là nơi em tắm”... Sự song hành của các không gian như thế gợi lên hình tượng đất nước như là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, cộng đồng và cá nhân. Đất Nước thiêng liêng mà cũng thật gần gũi gắn bó.


Đất nước còn hiện lên trong bề sâu văn hóa - phong tục, lối sống, mang đậm bản sắc Việt Nam. Chiều sâu văn hóa luôn ẩn hiện trong toàn bộ trích đoạn. Từ một nét phong tục: “Tóc mẹ thì bới sau đầu” cho đến nghi thức thiêng liêng của ngày giỗ Tổ. Tuy nhiên, chiều sâu văn hóa hiện lên thấm thía và đẹp đẽ nhất với những phát hiện và ngợi ca về vẻ đẹp tâm hồn, tính cách Việt Nam: yêu đắm say mà chung thủy; trọng nghĩa tình nhưng vì thế mà quyết liệt, không khoan nhượng trước kẻ thù.


Tư duy triết học hướng tới khám phá, nhận thức cái thống nhất. Tầm vóc triết học trong cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm là ở chỗ: từ ba bình diện không gian - thời gian - văn hóa, nhà thơ đã tìm ra hạt nhân gắn kết làm nên tính chính thể của hình tượng đất nước. Cái hạt nhân gắn kết này, không gì khác, đó chính là quan niệm: đất nước của nhân dân.


Tư tưởng đất nước của nhân dân là cơ sở đem lại những khám phá mới mẻ, độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm về hình tượng đất nước. Từ quan niệm đất nước của nhân dân. Lịch sử của đất nước không còn là lịch sử của các triều đại, các anh hùng mà là lịch sử của hàng nghìn lớp người “không ai nhớ mặt đặt tên - Nhưng họ đã làm ra đất nước”. Không gian đất nước cũng được tạo hình từ những “ao ước”, “lối sống" của ông cha từ bao đời nay. Cũng chính nhân dân là người đã sáng lập, giữ gìn dòng chảy văn hóa của đất nước: “Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng - Họ truyền lửa.. - Họ truyền giọng điệu... - Họ gánh theo tên xã, tên làng...”. Một mật độ lớn các động từ được xếp cạnh nhau làm nổi lên hình tượng thật tầm vóc và kì vĩ của nhân dân - những người “làm ra Đất Nước”.


Tư tưởng đất nước của nhân dân đã có một quá trình phát triển lâu dài trong lịch sử văn học dân tộc (Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu...). Trong văn học cách mạng, tư tưởng đất nước của nhân dân cũng đã được nhiều nhà thơ đề cập đến (Bài thơ Hắc Hải, Đất nước của Nguyễn Đình Thi, Tre Việt Nam của Nguyễn Duy). Tuy nhiên, để tư tưởng này trở thành cảm hứng chủ đạo, xuyên thấm vào mọi biểu hiện nhỏ bé tinh tế nhất của hình tượng đất nước thì đó là một đóng góp đặc sắc của Nguyễn Khoa Điềm. Nó cho thấy sự kế thừa và kết tinh ở một trình độ mới của tư tưởng đất nước của nhân dân trong văn học.


Đoạn thơ mở đầu trích đoạn là một minh chứng sống động cho những đặc sắc trong cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm. Hiện lên qua đoạn thơ là hình tượng đất nước mênh mang trong thời gian. Nét đặc sắc là ở chỗ chiều sâu thời gian ấy được gợi lên trước tiên từ những “ngày xửa ngày xưa” trong lời kể của mẹ. Đây không phải là thời gian lịch sử chính xác với những niên đại cụ thể. Nó là thứ thời gian mơ hồ, ảo diệu trong trí tưởng tượng của trẻ thơ. Nó không định vị chính xác nhưng giúp ta cảm nhận thật sâu sắc, thấm thía về sự trường tồn của đất nước.


Gương mặt của đất nước được hình dung từ những gì gần gũi bình dị trong cuộc sống thường ngày. Có cái gì thật chi li, tường tận trong cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm. Từ một cách búi tóc, một câu ca dao đến những sự vật bình dị: cái kèo, cái cột. Ngay cả đối với những vật tưởng rất mực bé nhỏ như “hạt gạo” thì tác giả vẫn có sự cảm nhận thật sâu sắc từ những thời điểm cụ thể: “một nắng hai sương” - “xay” - “giã” - “giần” - “sàng”. Với cách cảm nhận này, đất nước trở thành bầu khí quyển bao bọc lấy cuộc sống của mỗi con người. Ở đâu, trong bất kì biểu hiện nhỏ bé nào cũng mang hình đất nước. Đất nước được kéo gần lại thân quen, gắn bó máu thịt với con người.


Góp phần quan trọng tạo nên vẻ đẹp của hình tượng đất nước trong đoạn thơ là một ngôn ngữ thấm đẫm chất liệu và hương sắc của văn hóa dân gian. Ngôn ngữ không bao giờ chỉ là ngôn ngữ. Đằng sau ngôn ngữ là một quan niệm. Ngôn ngữ mang đậm màu sắc văn hóa dân gian, ở đây là sự thấm nhuần quan niệm đất nước của nhân dân. Nói cách khác, quan điểm đất nước của nhân dân không chỉ là suy tưởng bên trong mà còn được hiện thực hóa bằng chính hình thức và ngôn ngữ thơ.


Giọng điệu thơ trầm lắng, chất chứa suy tư. Vừa như bộc bạch giải bày vừa như tự nói với chính mình. Một giọng điệu như thế khiến hình tượng đất nước hiện lên vừa trang nghiêm thành kính, vừa gần gũi thân thiết.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 4
(có 0 lượt vote)

Bài văn cảm nhận về bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm - mẫu 5

Đề tài đất nước là một trong những đề tài muôn thuở của thơ văn Việt Nam nói chung và trong các lĩnh vực khác nói riêng. Chúng ta đã bắt gặp hình ảnh đất nước rất nhiều không chỉ trong văn học, thơ ca mà cả trong những lời ca, câu hát của bà và mẹ. Hình ảnh đất nước chìm trong đau thương, mất mát qua thơ Hoàng Cầm; gặp đất nước đang đổi mới từng ngày qua thơ Nguyễn Đình Thi. Nhưng có lẽ đất nước được nhìn từ nhiều khía cạnh, đầy đủ và trọn vẹn nhất vẫn là qua bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Hình hài đất nước từ khi được sinh ra cho đến khi phải trải qua bao nhiêu sóng gió chiến tranh được tái diễn sinh động qua một hồn thơ tinh tế, phóng khoáng của Nguyễn Khoa Điềm.


Tác giả nhìn đất nước từ nhiều khía cạnh, trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử. Đất nước là tên gọi thiêng liêng, bình dị nhưng chất chứa bao nhiêu ngọn nguồn của cảm xúc chính tác giả. Bài thơ được mở đầu bằng những vần thơ nhẹ nhàng, tinh tế đưa người đọc trở về với những ngày đầu mới khai sinh:


Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái ngày xửa
Ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc.


Đất nước hiện lên qua những câu thơ thật bình dị, gần gũi, nó không phải là một khái niệm trừu tượng mà là một khái niệm hiện hữu hằng ngày trong cuộc sống của mỗi chúng ta. Tác giả sử dụng từ “khi” để đánh dấu sự ra đời của khái niệm “đất nước”. Từ khi mỗi chúng ta sinh ra thì đất nước đã có rồi. Sau câu thơ ấy, tác giả bắt đầu lí giải nguồn gốc của đất nước mà mỗi người đều mong muốn hiểu thấu được. Giọng thơ dịu nhẹ, ngọt ngào dẫn dụ người đọc về với những “ngày xửa ngày xưa”. Đó như một nốt nhạc của quá khứ trở về trong những suy nghĩ của con người. Từ: “ngày xửa, ngày xưa” đánh dấu những điều gì đó xa xưa, rất xưa, không xác định thời gian cụ thể, chỉ biết rằng nó đã có từ lâu đời. Đất nước đồng thời hình thành từ khi dân mình biết đánh giặc. Là những con người đó làm nên đất nước… Đất nước còn gắn liền với cuộc sống bình dị, thân quen của người nông dân Việt Nam. Tác giả không chỉ dừng lại ở đó, đất nước còn được lý giải chính là thành quả của công cuộc lao động để xây dựng và phát triển:


Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng
Đất nước có từ ngày đó


Một một dụng cụ được tạo ra để phục vụ cho đời sống sản xuất cũng như sinh hoạt của con người như “kèo, cột” đều gắn bó với lịch sử ra đời của đất nước. Rất bình dị, rất chân thực nhưng nó như là một sự giải thích đúng đắn. Nguyễn Khoa Điềm như dẫn người đọc đi vào những cung bậc tình cảm khác của đất nước, đó là chuyện tình yêu lứa đôi e ấp nhưng tha thiết và mặn nồng:


Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm


Đất nước không chỉ hiển hiện trong không gian văn hóa, phong tục tập quán của con người mà còn hiện lên trong những tình yêu lứa đôi mặn nồng, tha thiết nhất. Tác giả đã cắt nghĩa “đất nước” thành hai từ “đất” và “nước” để lí giải cụ thể ý nghĩa của từng từ. Đây có thể coi là sự tinh tế và đầy thi vị của Nguyễn Khoa Điềm. Nhưng dù được tách ra thì đất nước vẫn là một khái niệm trọn vẹn và đầy ý nghĩa nhất.


Đất nước còn được mở ra theo chiều dài của lịch sử và chiều dài của không gian văn hóa, của những con người vẫn còn trằn trọc tha thiết đi tìm hình bóng quê hương. Đất nước được hình thành từ những câu chuyện xa xưa, từ những điển tích điển cố mà người đời sau vẫn luôn nhắc nhở nhau. Hình ảnh “con chim phượng hoàng”, “núi Bà Đen, Bà Điểm”, “Lạc Long Quân Âu Cơ” chính là minh chứng cho sự phát triển nhiều thăng trầm nhưng đáng tự hào của chúng ta. Nhớ về cội nguồn, nhớ về những ngày xưa vất vả chính là đạo lí, truyền thống uống nước nhớ nguồn mãnh liệt của nhân dân ta. Đất nước trong ý niệm của Nguyễn Khoa Điềm còn là sự tiếp nối truyền thống:


Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau


Trong sự hình thành và phát triển, bề dày văn hóa lịch sử ngày càng được khẳng định. Những con người đã ngã xuống vì đất nước, những con người thế hệ mai sau cần phải cố gắng gìn giữ và phát huy được truyền thống tốt đẹp đó. Nguyễn Khoa Điềm đã có cái nhìn đa chiều về đất nước từ khía cạnh đời thường, khía cạnh lịch sử, khía cạnh không gian và thời gian mang đến cho người đọc nhận thức đúng đắn nhất về đất nước mà chúng ta đang sống và cống hiến.


Hơn hết tác giả còn khẳng định:

Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước


Có thể nói đất nước đã đi vào và in hằn vào máu thịt của mỗi người, nhắc nhở trách nhiệm và nghĩa vụ của chúng ta về công cuộc xây dựng và bảo vệ sự vững mạnh của đất nước này. Đất nước còn được Nguyễn Khoa Điềm tích lũy thành một khái niệm sâu sắc:


Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta


Một quan niệm sâu sắc, giàu giá trị nhân sinh quan khiến cho người đọc không thể phủ nhận sự tồn tại của đất nước là một thực tế. Đất nước còn biểu tượng cho lòng thành kính, sự biết ơn đến những người đã ngã xuống vì hòa bình, tự do cho hôm nay:


Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước


Lại thêm một sự lí giải đúng đắn cho định nghĩa “đất nước”, những con người đó họ dù chết nhưng trái tim họ vẫn còn sống mãi trong cuộc sống của những người ở lại. Nhưng ở hai câu thơ cuối có thể nói Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ra định nghĩa đúng đắn và sâu sắc nhất về đất nước:


Đất nước này là đất nước của nhân dân
Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại.


Thật vậy, nhân dân chính là chủ nhân của đất nước. Bởi vậy đất nước này phải thuộc về nhân dân. Tư tưởng của tác giả rất tiến bộ, rất đời thường và rất sâu sắc.


Như vậy Nguyễn Khoa Điềm bằng những lý lẽ và dẫn chứng đầy thuyết phục đã khẳng định được vị trí, vai trò vô cùng to lớn của đất nước trong cuộc sống của mỗi con người. Gấp lại những trang thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm chắc hẳn ai trong chúng ta cũng có những bồi hồi, xao xuyến nơi sâu thẳm đáy lòng bởi những vần thơ sâu lắng đi vào lòng người nghe và người đọc.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 5
(có 0 lượt vote)

Bài văn cảm nhận về bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm - mẫu 6

Nguyễn Khoa Điềm thuộc lớp thi sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Những năm 1970, 1971,... ông sống và hoạt động tại chiến trường Trị - Thiên; trường ca "Mặt đường khát vọng" được ông sáng tác vào thời gian ấy. Chương V "Đất Nước" trích trong trường ca "Mặt đường khát vọng".


Phần đầu 42 câu tác giả nhận diện Đất Nước có nguồn gốc lâu đời, Tục ăn trầu, cổ tích Trầu - Cau, truyền thuyết Thánh Gióng dùng gốc tre đánh đuổi giặc Ân mà "mẹ thường hay kể":


"Đất Nước bắt dầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc".


Nhà thơ cảm nhận Đất Nước trong dòng chảy thời gian "đằng đẵng" trên không gian địa lí "mênh mông", qua sự tích "Trăm trứng" và giỗ Tổ Hùng Vương. Nhà thơ bằng giọng tâm tình đã dẫn hồn ta ngược thời gian bốn nghìn nãm trở về cội nguồn Đất Nước:


"Đất là nơi Chim về

Nước là nơi Rồng ở

Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

(...) Hằng năm ăn đâu làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày Tổ".


Tục "bới tóc xăm mình" của người Lạc Việt, câu ca dao "gừng cay muối mặn" nói về đạo vợ chồng, ngôn ngữ dân tộc hình thành, phát triển, nên "cái kèo, cái cột thành tên", công việc cấy cày làm ăn "xay giã, giần, sàng" được chỉ rõ. Cội nguồn "Đất Nước có từ ngày đó". Đất Nước trong quá khứ mang vẻ đẹp kì diệu, huyền thoại:


"Đất là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc"

Nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi".


Đất Nước hiện tại gắn bó yêu thương với mọi người, "trong anh và em hôm nay – Đều có một phần Đất Nước". Mai này Đất Nước nhiều "mơ mộng". Yêu nước là nghĩa vụ thiêng liêng:


"Em ơi Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời".


Phần thứ hai có 68 câu (Văn 12 chỉ trích học 47 câu) nói về tư tưởng "Đất Nước của Nhân Dân". Nhân Dân sáng tạo ra Đất Nước. Các danh lam thắng cảnh đều biểu tượng cho phẩm chất cao đẹp, "lối sống" của ông cha như tình nghĩa vợ chồng thủy chung, tình yêu lứa đôi thắm thiết, sức mạnh quật khởi, tinh thần đại đoàn kết của dân tộc, truyển thống hiếu học của Nhân Dân ta:


"Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Mái

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm dể lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương".


Núi Bút non Nghiên, vịnh Hạ Long, ông Đốc ông Trang... đều do Nhân Dân ta "góp cho", "cùng góp cho","góp tên"- mà Đất Nước đẹp tươi, hùng vĩ. "Bốn nghìn lớp người" đã đem mồ hôi, xương máu ra xây dựng và bảo vệ Đất Nước: "Khi có giặc người con trai ra trận - Người con gái trở về nuôi cái cùng con – Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh". Nhân Dân đã sáng tạo ra Đất Nước và làm chủ Đất Nước. Họ là những con người vô danh mà vĩ đại:


"Họ đã sổng và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước".


Nhân Dân là người sản xuất "giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng". Nhân Dân đã sáng tạo ra ngôn ngữ "truyền giọng điệu của mình cho con tập nói". Nhân Dân đã diệt thù trong giặc ngoài để giữ gìn Đất Nước, làm cho Đất Nước ngày thêm giàu đẹp:


"Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm

Có nội thù thì vùng lên đánh bại

Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân

Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại".


Tóm lại, Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng sáng tạo tục ngữ, ca dao, dân ca, truyện cổ, phong tục, ngôn ngữ để cảm nhận về nguồn gốc lâu đời của Đất Nước, khẳng định Nhân Dân vĩ đại đã sáng tạo ra Đất Nước và làm chủ Đất Nước. Chương "Đất Nước" chứa chan tình yêu và niềm tự hào dân tộc.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 6
(có 0 lượt vote)

Bài văn cảm nhận về bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm - mẫu 7

Là gương mặt nhà thơ trẻ trên diễn đàn văn học thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Nguyễn Khoa Điềm cùng thế hệ với những nhà thơ Trần Đăng Khoa, Trần Mạnh Hảo, Lê Thị Mây, Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật, Lê Thị Thanh Nhàn. Trong dàn đồng ca chung một thời kì lửa cháy, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng viết về hào khí của một dân tộc hừng hực khí thế:

Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai

(Theo chân Bác – Tố Hữu)


Bước chân của ông in hằn trên dải đất hình tia chớp. Đây là thời kì Nguyễn Khoa Điềm viết rất sung sức, ông cho ra đời nhiều tập thơ, trường ca có giá trị tiêu biểu như tập Đất ngoại ô, trường ca Mặt đường khát vọng. Ai đã từng đọc trường ca Mặt đường khát vọng thì đều thấy chương V của bài thơ với nhan đề Đất Nước – Chương hay nhất của bản trường ca này. Thành công lớn của chương V này là Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện được tư tưởng Đất Nước của Nhân dân:


“Để đất nước này là Đất Nước của Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại.”


Nguyễn Khoa Điềm được đào tạo góp phần hoàn tất nền văn hóa mới trong thời kì xã hội chủ nghĩa. Sau khi được đào tạo ông lại trở về quê hương trong những ngày quê hương đầy bóng giặc. Nguyễn Khoa Điềm tham gia kháng chiến, trở thành người chiến sĩ. Thơ của nguyễn Khoa Điềm mang đậm chất triết luận, triết lí. Ông thường viết về những vấn đề lớn lao như Tổ quốc, nhân dân và trách nhiệm của người công dân với đất nước.


Có thể khẳng định một điều rằng, tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” như một mạch ngầm chảy sâu vào nền văn chương nước nhà. Nó có từ thời cổ trung đại. Tư tưởng này đã xuất hiện trong thơ văn ở thế kỉ XV, Nguyễn Trãi đã từng đề cao vai trò của nhân dân: chở thuyền, lật thuyền:


“Chở thuyền cũng là dân
Lật thuyền cũng là dân”


Hơn 100 năm sau, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đề cao “Dân vi bản” (dân là gốc của nước). Tư tưởng này còn thể hiện rõ trong quan niệm của chí sĩ Phan Bội Châu, trong tư tưởng của Chủ tích Hồ Chí Minh vĩ đại. Tuy nhiên tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” trong các bậc hiền triết ngày xưa vẫn mang đậm tính giai cấp. Chỉ đến khi cuộc Cách mạng tháng Tám thành công thì tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” mới được thể hiện rõ nét và sâu sắc.


Là một nhà văn được đào tạo dưới nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, là sinh viên khóa đầu tiên Khoa văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Nguyễn Khoa Điềm được đào tạo rất hoàn hảo theo tư tưởng Mác – Lenin. Theo tư tưởng Mác – Lê nin, quần chúng nhân dân là người làm ra lịch sử. Chính cuộc kháng chiến chống Mĩ, hơn một lần như minh chứng để nhà thơ khẳng định tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”. Chương V của trường ca Mặt đường khát vọng, nhà thơ thể hiện rất thành công tư tưởng này.


Thành công đầu tiên của Nguyễn Khoa Điềm khi thể hiện tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”. Tức là Nhân dân làm ra Đất Nước. Nguyễn Khoa Điềm đã lựa chọn cho mình một chất liệu văn hóa phù hợp. Đó là lấy văn hóa dân gian làm chất liệu biểu đạt tư tưởng. Chất liệu là hình thức bề ngoài nhưng nó là phương tiện để truyền tải nội dung. Chất liệu bên ngoài và bản chất bên trong có mối quan hệ hiện chứng hữu cơ với nhau. Trong bất cứ một nền văn học nào cũng có hai dòng văn hóa song song và tồn tại. Đó là văn hóa dân gian và văn hóa chính thống (còn gọi là văn hóa bác học). Trong đó văn hóa dân gian là cội nguồn của văn hóa nước nhà.


Tất cả những điều này đều do nhân dân sáng tạo ra. Nhất là nhân dân ta, trong quá trình lao động sản xuất, họ đúc kết những kinh nghiệm thành những câu tục ngữ, ca dao, những câu chuyện…, để thể hiện ước vọng của nhân dân ta trong buổi đầu chinh phục thiên nhiên, thế giới. Cho nên văn hóa dân gian là cội nguồn dân tộc. Nó như một mạch ngần thấm sâu vào tâm hồn người Việt Nam. Đó là sản phẩm của nhân dân, tư tưởng, văn hóa nhân dân. Hình ảnh đất nước được xây dựng từ những chất liệu quen thuộc, gần gũi. Lấy ngay chất liệu, tư tưởng văn hóa nhân dân nên nguyễn Khoa Điềm rất thành công. Vì vậy chương V với nhan đề Đất Nước, từ nội dung đến hình thức đều thấm đẫm tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”.


Đọc bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, ta có cảm giác những câu thơ rất gần gũi trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Từ thuở trong nôi, chúng ta đã từng được nghe những lời ru của bà, của mẹ, những câu ca dao, dân ca vô cùng gần gũi với chúng ta. Ta thấy đâu đó hình ảnh đời sống bình dị vô cùng gần gũi:


Khăn thương nhớ ai
Khăn roi xuống đất


Đi vào trong câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm “Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. Ta cũng thấy đâu đây những câu chuyện cổ mẹ kể từ ngày xửa ngày xưa như: Sự tích trầu câu, truyền thuyết Thánh Gióng, Núi Vọng Phu trong câu thơ: “Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể”. Cả một thế giới huyền thoại hiện hình trong câu thơ, làm sống dậy những ước mơ, khát vọng của cha ông thuở hồng hoang chinh phục thiên nhiên và xây dựng cuộc sống. Ta bắt gặp đâu đây những câu ca dao, thành ngữ: “Miếng trầu là đầu câu chuyện” hay “Cơi trầu nên dâu nhà người” ở trong câu thơ: “Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”. Hình ảnh thân thương gợi nhớ về cội nguồn tiên tổ làm ấm lại trong lòng người đã có quá nhiều mất mát đau thương muốn tìm nơi nương tựa. Đọc bài thơ này, mỗi người Việt Nam từ trong tiềm thức của mình, hẳn không thể quên được khi đọc đến câu thơ: “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu”. Vang vọng đâu đây câu ca dao mộc mạc từ xứ Lạng vọng về:


Đồng đăng có phó Kì Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh


Và cứ như thế, Nguyễn Khoa Điềm dẫn dắt người đọc đi hết nơi này đến nới khác, từ thời dại này qua thời địa khác trong dòng lịch sử mênh mang. Từ Bạch Đằng Giang kiêu hãnh phút chốc đã đến Cửu Long xanh thẳm. Rồi đưa người đọc đi qua Hạ Long để ngắm những thắng cảnh: Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh. Lai ghé qua lăng Phù Đổng, để thấy được sự tích trăm ao đầm để lại của chàng Thánh Gióng ngày xưa, đánh tan giặc Ân xâm lược: Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại. Và dẫu đi đến, đâu bằng hàng loạt câu chuyện cổ tích, bằng hàng loạt những câu ca dao, ông cứ tâm tình, cứ thủ thỉ như kể cho người đọc nghe đất nước mình rộng lớn, lịch sử mình hào hùng trong niềm tự hào lớn lao. Tất cả điều lớn lao đó là sản phẩm của nhân dân. Nhà thơ còn đưa chúng ta đến những phong tục của nhân dân ta như làm nhà, làm cửa, cách để tóc sau đầu, nền văn minh công nghiệp:


Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay, muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay,giã, giần, sàng


Như vậy rõ ràng, với cách lựa chọn này, Nguyễn Khoa Điềm đã rất thành công khi viết về Đất Nước. Có lẽ trước khi cầm bút viết bài thơ Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm luôn băn khoăn, trăn trở bởi hàng loạt câu hỏi: Đất Nước là gì? Đất nước này do ai sáng tạo ra? Đất Nước do ai gìn giữ và bảo vệ trong suốt bốn ngàn năm qua? Và cả bài thơ Đất Nước được việt về vô cùng thoải mái, phóng túng, tất cả như một dòng nội tâm tuôn chảy.


Chúng ta có cảm giác rằng nhà thơ không hề có sự sắp đặt theo khuôn khổ nào. Ông cứ dùng hàng loạt những thủ pháp nghệ thuật: lí giải, cắt nghĩa, khám phá. Vài bài thơ Đất Nước là một câu trả lời, một câu trả lời vô cùng sâu sắc và đầy triết luận, chất thơ. Tất cả điều này đều do Nhân dân. Tức là Đất Nước này do Nhân dân xây dựng lên. Đất Nước do Nhân dân gìn giữ và bảo vệ. Chính muôn triệu người dân là chủ thể của Đất Nước này, là chủ thể của lịch sử, của văn hóa, phong tục, tập quán.


Nhìn sâu vào bài thơ này ta thấy tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” được triển khai trên 3 bình diện sau: Thứ nhất, Đất Nước được triển khai trong không gian địa lí lãnh thổ. Nguyễn Khoa Điềm đi tìm Đất Nước rong những cái ngày xửa ngày xưa:


“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”


Như vậy, đi đến đâu trên dải đất Việt Nam, Nguyễn Khoa Điềm đều khẳng định nó, có từ “ngày xửa, ngày xưa mẹ thường hay kể”. Đất nước đã đi vào tâm hồn con người và kết tinh ở những câu chuyện còn truyền đời bất diệt. Những câu chuyện ấy cứ tự nhiên thấm vào tâm hồn của bao thế hệ. Những người bà, người mẹ chính là người giữ gìn và truyền tự giá trị cao quý ấy. Nó diễn ra rất tự nhiên như một dòng chảy bất tận.


Nguyễn Khoa Điềm đi lần giở lại những trang sử để xem Đất Nước do ai sáng tạo ra. Thực sự đó cũng là điều người đọc mong muốn. Trải qua thời gian, chưa hẳn ai cũng biết được Đất nước mình có từ đâu và do ai gây dựng nên. Nguyễn Khoa Điềm đã tìm ra hai nguyên tố gốc, hai tế bào đầu tiên: đó là Đất và Nước… Dùng nghệ thuật cắt nghĩa, ông chia khái niệm Đất Nước thành hai yếu tố là Đất và Nước. Ông định nghịa Đất là không gian gìn giữ gắn bó với anh: “Đất là nơi anh đến trường”, “Nước là không gian gắn bó với em: “Nước là nơi em tắm”. Rồi nhà thơ lại nhập vào khẳng định Đất Nước gắn với không gian, thời gian, kỉ niệm của tình yêu đôi lứa.


– “Đất Nước là nơi ta hò hẹn”.
– Đất Nước là “nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”.
– Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”.
– “Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ”.


Vậy làm ra Đất Nước là ta, là anh là em, là muôn triệu người dân trong mấy nghìn năm lịch sử. Để có tính thuyết phục hơn, Nguyễn Khoa Điềm lại chứng minh:


Khi hai đừa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn


Đất Nước hài hòa, vẹn tròn, to lớn là khi chúng ta cầm tay mọi người. Như vậy, phát triển, gìn giữ đất nước này không ai khác là nhân dân. Và những câu hỏi đầu tiên đất nước này làm ra, ai gìn giữ đất, những con người làm nên chủ thể của đất nước. Để chứng minh “Đất Nước là của Nhân dân”, Nguyễn Khoa Điềm đã đi ở khía cạnh thứ hai, lí giải tên địa danh. Một Đất Nước như thế này từ Bắc vào Nam là sự cộng gộp biết bao ngọn núi, con sông, ruộng đồng, gò bãi, ở đây cũng có tên đất, tên làng, tên núi, tên sông. Một mảnh đất chừng nào chưa có tên gọi sẽ còn thiếu đi sự sống thiêng liêng của con người. Đặt tên gọi không thể tùy tiện được bởi đằng sau tên gọi là một huyền thoại, môt sự tích, là cuộc đời của một con người. Chính cuộc đời, con người ấy đã hóa thân thành “dáng, hình xứ sở” như:


“Những người dân nào đã đặt tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”;


Hay những núi non là công sức của những người học trò nghèo. Điều này thể hiện tinh thần hiếu học của người dân Việt Nam. Đó là hình ảnh của núi Vọng Phu. Ngọn núi của những người vợ hóa đá chờ chồng. Đất nước Việt Nam trong bốn nghìn năm trải qua biết bao cuộc chiến tranh trường kì gian khổ, biết bao người phụ nữ đã ngồi chờ chồng đến hóa đá. Nó tượng trưng cho đức tính của người phụ nữ Việt Nam thủy chung, sắc son… Trên đất nước Việt Nam này có biết bao danh lam thắng cảnh đẹp như: con cóc, con gà… Những người quê hương đã thổi hồn mình vào “con cóc, con gà làm cho Hạ Long thành thắng cảnh”. Nhiều, nhiều nữa không thể kể hết, Nguyễn Khoa Điềm đi đến kết luận khái quát:


Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha.


Qua đó, tác giả đã giáo dục thế hệ sau biết giữ gìn bảo vệ Đất Nước bới Đất Nước do Nhân dân làm ra, Đất Nước mang đậm lối sống ông cha. Tác giả khẳng định Đất Nước do người dân xây dựng và bảo vệ:


Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt, đặt tên
Nhưng chính họ đã làm ra Đất Nước.


Như vậy gìn giữ, bảo vệ Đất Nước là nhân dân, Khi có thù trong, giặc ngoài, biết bao con người đã đứng lên, xung phong ra trận. Đất nước còn được phát triển khai theo chiều dài lịch sử. Nói đến lịch sử của đất nước Việt Nam là nói đến bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước. Ở đây, Nguyễn Khoa Điềm không đi theo các nhà sử học gia chính thống.Họ thường nhìn lịch sử là sự kết nối của biết bao thời đại, triều đại. Đã có nguyễn Trãi đi theo hướng này: “Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập” (Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi). Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm nhìn lịch sử bốn nghìn năm là bốn nghìn lớp người, bốn nghìn thế hệ mang trong mình ngọn lửa của dân tộc Việt Nam.


Em ơi em hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn nâm Đất nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta.


Trong bốn nghìn lớp người ấy, họ đều mang trong mình tình yêu quê hương, đất nước Việt Nam:


Lớp cha trước, lớp con sau
Đã thành đồng chí chung câu quân hành.


Đó là tinh thần của những con người sẵn sáng ra trận, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng:


Tôi muốn viết bài ca trên báng súng
Con lớn lên để viết tiếp thay cha
Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống
Người hôm nay viết tiếp người hôm qua.


Chính người dân Việt Nam đã đứng dậy bảo vệ và ngã xuống. Máu của họ đã thấm đẫm mảnh đất này. Cho nhên chính họ đã viết nên trang sử vàng Ăng – ghen đã từng nói; “Không có máu và mồ hôi của nhân dân, dân tộc ấy không có lịch sử”. Vì vậy viết nên lịch sử của Việt Nam là nhân dân, là muôn triệu người dân Việt Nam. Hơn nữa, nói đến lịch sử trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm không chỉ là lịch sử của chiến trận, mà còn là lịch sử của những con người biết gìn giữ văn hóa, ngôn ngữ:


Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi.


Trong bốn nghìn năm qua, người Việt Nam biết giữ gìn hạt lúa, ngọn lửa, ngôn ngữ cho thế hệ sau để làm nên Đất Nước. Đất nước hiện hình trong bề dày văn hóa mất nghìn năm của dân tộc. Nếu chỉ dừng lại ở phương diện địa lí, phương diện lịch sử thì chưa thể có một khái niềm Đất Nước hoàn chỉnh bởi vì môt Đất Nước phải có bề dày văn hóa riêng của mình. Do đó, suy tưởng của Nguyễn Khoa Điềm đã triển khai bình diện thứ ba, đó là bình diện văn hóa phong tục tập quán.


Chúng ta gặp trong bài thơ này nhiều câu thơ, nhiều ý tưởng ở đó, nguyễn Khoa Điềm đã phá về một chiều sâu văn hóa lâu đời của người Việt. Cần phải công nhận rằng, Nguyễn Khoa Điềm không tìm kiếm văn hóa theo hướng liệt kê những đền đài, thành quách, những công trình văn hóa, những công trình sáng tạo về vật chất cảu nền văn hóa bác học. Trái lại, ông chỉ điểm đến những công trình tưởng như bình thường nhất nhưng lại sớm nhất, bền bỉ lâu, lâu đời nhất. Nó được gìn giữ qua bao đời. Đó là những câu chuyện cổ tích, những câu hò sông nước, những câu tục ngữ, lời ru, cách gìn giữ ngọn lửa, gìn giữ ngôn ngữ…


Tất cả đều là những công trình văn hóa chân chính gắn liền với sự sống bền bỉ của dân tộc. Đó là sự sống hằng ngày của nhân dân ta. Tư tưởng theo hướng này, Nguyễn Khoa Điềm đã có những khám phá bất ngờ có thể làm ngỡ ngàng tất cả chúng ta. Chẳng hạn khi viết về miếng trầu như là một sự sáng tạo về văn hóa:


“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bao giờ bà ăn.”


Câu thơ mới đọc nghe như một nghịch lí, bởi Đất Nước có từ ngàn năm sao lại có thể bắt đầu bây giờ qua hình ảnh miếng trầu. Miếng trầu nhỏ bé kia lại chứa đựng những giá trị thiêng liêng lớn lao đến vậy? Nhưng khi chúng ta ngẫm nghĩ vào chiều sâu của câu thơ này thì chúng ta mới thấy hết sự hợp lí và sắc sảo của câu thơ. Miếng trầu bà ăn hôm này đều chứa đựng một phần Đất Nước. Mùi nồng của vôi, vị hăng của trầu, vị cay của thuốc… Chính là sự kết tinh mọi thăng trầm của lịch sử.


Hơn nữa, miếng trầu còn nhắc nhở người ta nhớ đến Sự tích Trầu Cau, câu chuyện cổ tích về tình cảm anh em, vợ chồng thắm thiết… Từ thuở khai thiên, lập địa và cho tận đến bây giờ. Vì vậy, mỗi miếng trầu ấy đều đã bốn nghìn năm tuổi. Câu thơ là sự đúc kết từ nhiều tập tục, nhiều giá trị nghệ thuật. Do đó, nó gợi cho chúng ta nhớ đến nhiều tập tục, nhiều giá trị nghệ thuật.


Do đó, nó gợi cho chúng ta nhớ đến những câu thơ, câu tục ngữ, thành ngữ gắn liền với tâm hồn người Việt, như “Miếng trầu nên dâu nhà người”. Cứ như thế, Nguyễn Khoa Điềm đã có những đóng góp độc đáo để thể hiện tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”. Từ những cảm nhận trên, tác giả phải thốt lên khẳng định:


“Đất Nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại”.


Câu thơ như một lời kết gói gọn tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” mà tác giả muốn khẳng định trong đoạn trích này. Đúng là Đất Nước không ở đâu xa, không phải là những gì cao siêu, xa vời mà rất gần gũi gắn bó với mỗi chúng ta, do chính bàn tay người dân xây dựng và làm nên. Qua đó, tác giả như nhắc nhở mỗi chúng ta phải có ý thức trách nhiệm giữ gìn và bảo vệ Đất Nước.


Để thể hiện tư tưởng tiến bộ trên chúng ta phải kể đến những thành công về nghệ thuật của đoạn trích này. Bởi nội dung và hình thức có mối quan hệ biện chứng với nhau. Xác định được mối quan hệ đó, tác giả đã dùng thể thơ mới – trường ca, khiến vần thơ mang tính triết luận nhưng vẫn đậm tính trữ tình. Tác giả đã chọn lộc chất liệu dân gian để xây dựng lên hình ảnh thơ. Giọng thơ mượt mà, trữ tình, cách xưng hô anh – em khiến bài thơ như câu chuyện tâm tình, như lời đối đáp của đôi lứa yêu nhau đang khẳng định Đất Nước là do nhân dân làm nên phải gìn giữ, bảo vệ Đất Nước.


Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Làm nên Đất Nước muôn đời…


Không mạnh mẽ, gân guốc, không đanh thép và hùng hồn, Nguyễn Khoa Điềm cứ nhẹ nhàng gieo vào lòng người những âm thanh trầm lắng trữ tình về một để tưởng như loogic triết luận khô khan với một giọng kể thủ thỉ, tâm tình rất riêng, độc đáo và đầy sáng tạo.


Nhà thơ đã thành công khi thể hiện tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”. Tư tưởng này được Nguyễn Khoa Điềm thể hiện ở một thể loại thơ mới, đó là thể loại trường ca. Mọi khổ thơ đều dài, khó thuộc và khó nhớ. Do vậy bài thơ Đất Nước cũng không tránh được những khuyết điểm trên. Thế nhưng, nhìn một cách tổng quát thì Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm vẫn xứng quan trọng, đáng ghi nhớ, là một tác phẩm đã đi vào trí nhớ của bạn đọc bằng những vần thơ đẹp của những năm tháng không thể nào quên ấy. Đó là những vần xanh trong một thời kì lửa cháy.


Sự kết hợp giữa chính luận với trữ tình, suy tưởng và cảm xúc, nhờ đó đoạn thơ đã đưa đến những nhận thức: đất nước không ở đâu xa, đất nước là những gì gần gũi thân yêu, bình dị trong cuộc sống hàng ngày, đất nước ở trong ta với tâm hồn, cốt cách. Đất nước ở ngoài ta với những nuôi dưỡng, dạy dỗ, chở che. Đất nước hình thành và phát triển qua cuộc chạy tiếp sức vĩ đại, vĩnh hằng của các thế hệ người Việt Nam trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Đất nước cũng là nơi những con người Việt Nam sinh ra, lớn lên, “yêu nhau và sinh con đẻ cái”, lao động dựng xây và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thân yêu. Đó là đất nước của nhân dân. Những tư tưởng ấy được thể hiện trong những vần thơ thấm đượm cảm xúc, trong những suy tưởng sâu xa, mới mẻ…

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 7
(có 0 lượt vote)

Bài văn cảm nhận về bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm - mẫu 8

“Việt Nam đất nước ta ơi

Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn”


Nếu như Nguyễn Đình Thi thể hiện niềm tự hào trước sự lớn lao, tươi đẹp của đất nước qua bài thơ Việt Nam quê hương ta ơi thì Nguyễn Khoa Điềm với thi phẩm Đất nước có cách nói riêng đầy rung cảm về đất nước của con người, của nhân dân. Đề tài quê hương, đất nước không còn quá lạ lẫm với người đọc cũng như cách viết của các văn nghệ sĩ, nhưng với Nguyễn Khoa Điềm thì bài thơ Đất nước được khai thác rất đặc sắc mà thân thuộc, triết lí sâu lắng. Bài thơ nằm trong phần đầu chương V của Trường ca Mặt đường khát vọng ra đời năm 1971 trong giai đoạn kháng chiến chống Mĩ giữa lúc căng thẳng, tàn khốc.


Nhà thơ mở đầu không phải ngợi ca, dùng những hình ảnh lớn lao để so sánh mà ông đi từ cái ngọn nguồn, gốc rễ rằng đất nước có tự bao giờ.


“Khi ta lớn lên… đất nước có từ ngày đó”


Nguyễn Khoa Điềm dù là thuộc hàng những nhà thơ mới nhưng lối viết của ông luôn thể hiện nét chân phương, bình dị rất đáng trân trọng. Ở đoạn này từ “ta” được dùng đa nghĩa, có thể hiểu đây là tác giả - nhân vật trữ tình hay có thể là tất cả chúng ta, những con nguười của vua Hùng đất Việt. Ngẫm nghĩ thì điều đó thật đúng, đất nước đã có từ bởi khi chúng ta lớn lên đất nước đã có rồi, đã từ rất lâu đời rồi, qua từ “bắt đầu, lớn lên” mà chẳng ai đoán đúng về thời gian ra đời. Người ta dù ở tầng lớp, độ tuổi như thế nào thì cũng sẽ hiểu về đất nước một cách đơn thuần nhất là những điều đơn giản, gần gũi, có thể là nằm trong những khúc hát lời ru của bà, câu chuyện mẹ kể thuở thơ ấu “ngày xửa ngày xưa”.


Năm tháng trôi qua đất nước lớn lên, hình thành rồi phát triển, hoàn thiện từng ngày. Những hình ảnh cụ thể trên mang tính tích hợp đã gợi đến truyền thống văn hóa, lịch sử lâu đời, những lối sống, tâm hồn người Việt. Đó là các chất liệu dân gian ta thấy trong thơ được sử dụng: miếng trầu của bà, mái tóc dài hiền hòa của mẹ, hay cái kèo, cái cột thân thuộc bền lâu cùng sự chung thủy, son sắc “gừng cay muối mặn” tình yêu cha mẹ.


Còn nhiều rất nhiêù những điều ta gặp hàng ngày nhưng lại rất quý giá, nó trở thành những dấu ấn tốt đẹp thuần phong mỹ tục. Thứ hai là truyền thống yêu nước đậm sâu với bao người con hy sinh vì Tổ quốc. “Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”, đó là Thánh Gióng cùng lũy tre làng đuổi giặt Ân. Nhân dân chưa một giây phút nào khuất phục, mất đi sức mạnh khiên cường, đoàn kết. Thứ ba là đến nếp sống lao động bền bỉ, một nắng hai sương bươn chãi, bao giọt mồ hôi rơi xuống để có được thành phẩm là những hạt gạo thơm ngon. Từ ấy mới thấy hết được phẩm chất của nhân dân tốt đẹp, luôn biết trân quý từng điều nhỏ nhặt cho đến những điều lớn lao. Chín dòng thơ, chín dòng cảm nhận của nhà thơ về quá trình đất nước lập nên, phát triển, trưởng thành. “Đất nước của nhân dân” là tư tưởng sâu sắc được nhà thơ thể hiện rõ ràng hơn và nó sẽ là cảm hứng chủ đạo đến suốt bài. Mạch thơ đi từ cái hình thành tiếp đến nội dung, chất lượng hay cụ thể hơn ở những dòng thơ tiếp là đi tìm câu trả lời Đất nước là gì?


“Đất nước là nơi anh đến trường…Đất Nước muôn đời”


Nói về Đất Nước, cảm xúc ấy không lúc nào giảm sút đi mà ngược lại nó càng lúc càng tha thiết hơn rất nhiều với giọng điệu đầy sự tự hào, yêu thương. Đi từ cái giản dị là cách tâm tình, chuyện trò của người con gái để thấy được chất thơ riêng, lối đi của nhà thơ. “Đất”, “Nước” là hai thành tố đơn lập trở nên khác lạ trong thơ đã được nhà thơ mạnh dạn, mới lạ tách chúng ra riêng. Từ đó mới hiểu được sâu sắc, có điều kiện biết rõ ràng, cụ thể về hình ảnh đất nước mới gần gũi, thân thuộc làm sao. Ở đất nước mở rộng theo mỗi cuộc đời, in dấu bao nỗi niềm, kí ức vui buồn. Đó là trở về tuổi thơ với con đường làng thân thuộc, ngôi nhà yêu thương, đến khi lớn lên là mái trường, ngôi làng quen thuộc để mai này nơi ấy chứng dám cho tình yêu đôi lứa hò hẹn. Tự nhiên mảnh đất, không gian ấy bỗng trở nên đầy ấm áp, mảnh đất tâm hồn mỗi người. Âm hưởng hùng hồn, chắc nịch đi cùng lời thơ da diết, hào hùng mà giản dị để thấy được thời gian, công sức dân ta làm nên dải đất hình chữ S thân yêu này. Để lúc này “Đất Nước của nhân dân” đến đây tiếp tục được nhà thơ khẳng định mạnh mẽ hơn.


Những lời thơ ở trên khi nói về đất nước đều bắt nguồn từ con người, từ những điều nối kết với đời sống, số phận từng cá nhân ở mọi mặt: lịch sử, địa lí, văn hóa. Do vậy trách nhiệm với Đất Nước luôn nằm ở sứ mệnh của con người. Nhà thơ nói về đất nước bằng lời thơ nhẹ nhàng, đơn giản nhưng cảm xúc dạt dào, lớn lao không hề lộ sự khô khan. 


“Trong anh và em hôm nay… một phần Đất Nước”


Tha thiết, tâm tình mà còn rất đỗi mới lạ để nói về đất nước được trình bày trong cách xưng hô “anh – em”. Lúc này đất nước như in hằn, ghi dấu trong xương thịt của mỗi người, tâm hồn, trí tuệ của anh và em. Tình yêu đôi lứa cũng hòa cùng tình yêu đất nước, từ cái nhỏ gom vào cái lớn tạo nên sự vẹn tròn trong tình yêu quê hương, cộng đồng. Để khi đó sẽ thấy được trách nhiệm đối với Đất Nước muốn trọn vẹn, đậm sâu thì nó phải bắt nguồn từ trách nhiệm đối với bản thân. “Đất Nước là máu xương của mình”. Khi chúng ta sống yêu thương bản thân, biết chăm sóc chính mình trước tiên thì mới nghĩ tới chăm lo những thứ lớn lao hơn, sẽ “hóa thân” cho đất nước khi cần. Nhà thơ sử dụng điệp ngữ “phải biết” thay cho lời mệnh lệnh, thôi thúc đánh vào tâm lí mỗi công dân đối với nước nhà.


Đất Nước trong trang thơ của Nguyễn Khoa Điềm là hình ảnh, lời thơ, cách kể thiết tha mà giàu trí tuệ, giản dị vô cùng những khi hiểu nó sẽ mang tầm vóc lớn lao, thiêng liêng về quê hương, đất nước. Đất Nước khi viết hoa và lặp lại nhiều lần chính là dụng ý nhà thơ thể hiện niềm kính yêu, trân trọng, tự hào. Thời gian trôi xa thì bài thơ luôn mang tiếng vang sâu lắng trong lòng độc giả.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 8
(có 0 lượt vote)

Bài văn cảm nhận về bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm - mẫu 9

Tình yêu đất nước được thể hiện vô số cách khác nhau. Có người thể hiện nó bằng phương pháp xung phong ra chiến trận bảo vệ quê nhà. Có người lại thể hiện nó bằng phương pháp trân quý giữ gìn nét đẹp của truyền thống văn hóa truyền thống dân tộc bản địa. Nguyễn Khoa Điềm đã lựa chọn cho mình một cách thức độc đáo để thể hiện tình yêu đất nước và con người. Nhà thơ đã chuyển tải tình yêu ấy thành lời thơ trong khúc hát về Đất Nước. Đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ra những hình ảnh mang tính mới mẻ đầy phát hiện của nhà thơ về một quan điểm độc đáo – Đất nước của nhân dân.


Đoạn trích nằm ở phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng. Đoạn trích này đã được viết năm 1971 tại chiến khu Trị Thiên giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang hết sức khốc liệt mà bản thân nhà thơ trực tiếp có mặt. Chương này được thẩm định và đánh giá là hay nhất của tất cả trường ca, là chương thâu tóm toàn bộ tư tưởng và nội dung của tác phẩm.


“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi

Đất nước có trong những cái ngày xửa

Thời trước mẹ thường hay kể

Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu lúc bấy giờ bà ăn

Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc.”


Đất Nước được viết hoa trang trọng thể hiện tình cảm yêu mến đầy tự hào của tác giả về một vùng đất thiêng liêng có quá trình hình thành và phát triển như một con người cụ thể. Hàng loạt các từ ngữ mang ý nghĩa khẳng định xuất hiện “đã có rồi, bắt đầu, lớn lên, có từ thời điểm ngày đó” đã xác nhận một điều: Đất Nước đã được hình thành từ rất mất thời gian và bắt nguồn từ những gì gần gũi thân thương nhất trong đời sống vật chất lẫn tinh thần hằng ngày, tiện lợi dàng phát hiện ở mọi nơi.


Hình ảnh “những cái ngày xửa thời xưa”, “miếng trầu” gợi tình cảm gia đình thắm thiết. “trồng tre đánh giặc” gợi truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm, gợi nhớ đến chiến công thần kỳ của dân tộc bản địa – Thánh Gióng. Cuộc sống sinh hoạt bình dị ấy còn hiện lên qua “tóc mẹ bới sau đầu”, “gừng cay muối mặn”, “cái kèo”, “hạt gạo” thể hiện tập quán lâu năm với lối sống cần cù chịu thương chịu khó, nặng nghĩa tình. Đất Nước được cảm nhận ở một góc độ gần gũi giản dị, thiết thực gắn bó với cuộc sống thường nhật của nhân dân, đó đó chính là thành quả lao động vất vả của biết bao thế hệ.


Chính nhân dân đã làm ra Đất Nước. Nhân dân đó đó chính là ông bà, cha mẹ của ta và bao người lao động vất vả. Đất Nước có trong mẩu truyện thời xưa mẹ thường hay kể rồi bắt đầu với miếng trầu bà ăn và trưởng thành trong trận đấu đấu bảo vệ và giữ gìn Đất Nước, được kết nên là tình nghĩa đậm đà của mẹ cha, của sức lao động “một nắng hai sương” tạo ra hạt gạo. Với một loạt các biểu tượng văn hóa truyền thống dân gian, tác giả đã lý giải một cách thuyết phục cụ thể nhưng không kém phần sinh động về quan niệm Đất Nước do nhân dân tạo nên. Bên cạnh gia đình, cảm nhận Đất nước còn thấy hình tượng này xuất hiện trong không gian lứa đôi.


“Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất nước là nơi ta hò hẹn

Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khan trong nỗi nhớ thầm”


Tiếp nối ý thơ trên, tác giả đã mở rộng phạm vi khái niệm Đất Nước không chỉ gắn liền với hình ảnh sinh hoạt mà còn gắn liền với những không gian quen thuộc, đặc biệt quan trọng đó là không gian đôi lứa “nơi em tắm”, “nơi anh đến trường”, “nơi ta hò hẹn” cả tình yêu đôi lứa cũng là một phần không thể thiếu để tạo ra sự Đất Nước.


Đất gắn liền với không gian kỷ niệm của riêng anh “đến trường” – nơi nuôi dưỡng kiến thức. Nước gắn liền với không gian kỷ niệm của riêng em “nơi em tắm, nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” – nơi nuôi dưỡng tâm hồn với những bổi hổi thiết tha của nỗi tương tư. Đất nước còn là một nơi quyện kết hài hòa giữa cái riêng của em và anh thành cái chung của ta – “nơi hò hẹn”. Đất Nước bất chợt thành ghi dấu, chứng nhân cho tình yêu đôi lứa. Và từ tình yêu ấy phát triển nên một bước mới mạnh hơn với nhiều tầng nghĩa khác. Đất Nước còn hiện lên ở một không gian rộng to nhiều hơn xuyến suốt chiều dài lịch sử dân tộc văn hóa truyền thống dân tộc bản địa.


“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”

Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”

Thời gian đằng đẵng

Không gian mênh mông

Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ

Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”


Không tạm dừng ở khung cảnh sinh hoạt và tình yêu đôi lứa, Đất nước còn là một tất cả những gì thiêng liêng, vĩ đại. Thiêng liêng với cội nguồn dân tộc bản địa “chim về, rồng ở” – gợi hình ảnh Lạc Long Quân cùng Âu Cơ. Lớn lao vĩ đại vì thế hệ này nối tiếp thế hệ kia, người còn sống nối tiếp người đã khuất. Đất Nước quê nhà thống nhất về một mối. Khi cảm nhận Đất nước, ta thấy mượn bài dân ca Bình Trị Thiên cùng với việc sử dụng các động từ “bay về, móng nước”, tác giả đã mở ra một không gian rộng lớn với đất – “hòn núi bạc”, nước – “biển khơi”. Đất Nước bỗng trở nên tráng lệ rực rỡ với những thanh âm da diết của nhiều làn điệu ca dao dân ca. Một khung cảnh nguy nga với lấp lánh ánh bạc của “hòn núi bạc”, chập chờn cánh bay của “phượng hoàng” lịch sử một thời, lộng lẫy với không gian xanh thẳm bát ngát có “con cá ngư ông móng nước biển khơi”.


Đất nước không chỉ được cảm nhận ở không gian địa lý, không gian tồn tại của bao thế hệ dân tộc bản địa Việt Nam mà còn được cảm nhận ở chiều sâu văn hóa truyền thống – lịch sử dân tộc, hình thành từ những truyền thống văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc bản địa như đoàn kết, yêu thương, uống nước nhớ nguồn. Ở đoạn thơ này, từ những kỷ niệm quá khứ tác giả trở về với cuộc sống thực tại. Những trăn trở suy tư về quan hệ riêng – chung, member – cộng đồng và sự tiếp nối giữa các thế hệ.


“Trong anh và em hôm nay

Đều sở hữu một phần đất nước

Khi tất cả chúng ta cầm tay mọi người

Đất Nước vẹn tròn, to lớn.”


Đất Nước tồn tại ngay trong mỗi con người, member. Đất Nước kết tinh, hóa thân trong máu thịt mỗi con người, là máu xương, là lẽ sống của mỗi con người. Điều đó hàm chứa rằng trong mỗi con người đều sở hữu một phần Đất Nước tuy nhỏ bé nhưng lại trân quý đáng tự hào biết bao. Từ đó, gợi trách nhiệm của từng người khi đối chiếu với Đất Nước.


“Mai này con ta lớn lên

Con sẽ mang Đất Nước ra đi

Đến những tháng ngày mơ mộng”


Đất Nước từ quá khứ đến hiện tại, tiếp đến tác giả đã phóng tầm nhìn đến tương lai. “Đất Nước ra đi…đến những tháng ngày mơ mộng” đã thể hiện niềm tin về một tương lai tươi sáng, bình yên. Đặt những dòng thơ này trong hoàn cảnh lịch sử dân tộc cuộc chiến tranh khốc liệt, ta càng thêm trân quý khát vọng hòa bình ấy.


“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

Phải ghi nhận gắn bó và san sẻ

Phải ghi nhận hóa thân cho dáng hình xứ sở

Làm ra Đất Nước muôn đời…”


Nghĩa vụ của từng người khi đối chiếu với Đất Nước đã được tác giả thể hiện qua lối suy luận với tiền đề “Đất Nước là…” kết phù hợp với điệp ngữ “phải ghi nhận” cùng hàng loạt động từ chỉ mức độ tăng dần như lời nhắn nhủ tâm thành, tha thiết. Để sở hữu sự sống thiêng liêng ngày hôm nay biết bao thế hệ đã ngã xuống hi sinh, vì lẽ đó nên từng người phải ghi nhận san sẻ, gắn bó hóa thân tiếp nối truyền thống hào hùng ấy. Bóng hình từng người đã tạo ra sự bóng hình Đất Nước “muôn đời”. Cách nhìn của tác giả về những địa danh thắng cảnh là một góc nhìn mới mẻ đầy sáng tạo, mang đậm chiều sâu.


“Những người dân vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp thêm hòn Trống Mái

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương.

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm.

Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên.

Con cóc, con gà quê nhà cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Những người dân dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm.”


Động từ “góp” được điệp lại liên tục khẳng định vai trò của nhân dân đã tạo ra sự Đất Nước. Hình ảnh nhân dân được tái hiện với nhiều thân phân, tầng lớp phong phú, từ những người dân hữu danh đến những người dân vô danh thầm lặng. Người vợ nhớ chồng, vợ chồng yêu nhau, người học trò nghèo, ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm,…gắn liền với mỗi đối tượng người dùng là một địa danh cụ thể – núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, núi Bút, non Nghiên, Hạ Long,… Những khung cảnh ấy gắn liền với cuộc sống nhân dân và nó chỉ trở thành thắng cảnh khi đã gắn với con người, được tiếp nhận và cảm nhận qua tâm hồn nhân dân và lịch sử dân tộc dân tộc bản địa. Nhìn mỗi ngọn núi, dòng sông, ruộng đồng, gò bãi đều mang dấu ấn ông cha qua bốn nghìn năm lịch sử dân tộc với rất đầy đủ cung bậc tình cảm, truyền thống dân tộc bản địa (gót ngựa Thánh Gióng, rồng uốn thành sông, voi hình thành đất tổ). Nhìn vào chiều sâu của dòng chảy lịch sử dân tộc để nhận thức thâm thúy vấn đề, khẳng định vấn đề một lần nữa: từ ngàn xưa nhân dân đã là người chiến đấu xây dựng bảo vệ Đất Nước.


“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao nước, một lối sống ông cha

Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.”


Cảnh vật không chỉ là tạo vật của tạo hóa mà còn phản ánh đời sống, tính cách, gửi gắm ước mơ, tâm hồn Việt, lối sống Việt. Hình ảnh đó trải dài khắp nơi trên Đất Nước. Chính nhân dân đã tạo hình thành Đất Nước này, đã đặt tên ghi dấu mình vào từng tấc đất quê nhà nên “Chẳng mang một dáng hình…..Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”.


“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi

Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

Họ gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân

Họ đắp đập be bờ cho tất cả những người sau trồng cây hái trái

Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm

Có nội thù thì vùng lên vượt qua”.


Nhân dân còn góp phần cho Đất Nước đi đến mai sau. Họ giữ gìn và truyền lại cho bao thế hệ nối tiếp từ hạt giống, ngọn lửa đến bản sắc, phong tục, từ giá trị vật chất đến giá trị tinh thần. Tất cả đều được nhân dân giữ gìn, và tiếp nối. Đất Nước được nhắc đến là “Đất Nước của ca dao thần thoại cổ xưa” vì đó là nền văn hóa cổ truyền dân gian do nhân dân tạo nên và cũng vì nhân dân mà hình thành, thấm nhuần vẻ đẹp tâm hồn mộc mạc chất phác mà thiết tha nghĩa tình.


“Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại cổ xưa

Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”

Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội

Biết trồng tre đợi ngày thành gậy

Đi trả thù mà không sợ lâu dài.”


Trong muôn vàn vẻ đẹp của đời sống nội tâm phong phú được khắc họa trong ca dao, tác giả đã tạm dừng ở một số nét nổi bật, độc đáo. Vẻ đẹp của tình yêu thủy chung say đắm. Điều đó không chỉ được khắc họa qua hình ảnh hòn Vọng Phu, hòn Trống Mái, gừng cay muối mặn mà còn được thể hiện say đắm nồng nàn khi “biết yêu em từ thuở trong nôi”. Tiếp đến là vẻ đẹp của lối sống giàu nghĩa tình và vẻ đẹp của ý chí quật cường, của quyết tâm chống giặc ngoại xâm. Mạch cảm xúc và mạch chính luận nhẹ nhàng tha thiết đến cuối thì trào dân kết lại thành một lý lẽ “Đất Nước của nhân dân” – đó cũng đó chính là tư tưởng cốt lõi, là nguồn cội của tất cả mọi hình ảnh, mọi nỗi niềm trăn trở của nhà thơ.


Nhà thơ đã vận dụng thành công ý tứ của ca dao dân ca để thể hiện một tư tưởng quan niệm rất mới. Dùng chính lời ăn tiếng nói của nhân dân để thể hiện “Đất Nước của nhân dân”. Những hình ảnh giản dị quen thuộc nhưng đi vào thơ của Nguyễn Khoa Điềm lại mang đến cho tất cả những người đọc nhiều bất ngờ thú vị. Những hình ảnh, câu hát, thần thoại cổ xưa mà người Việt Nam nào thì cũng biết nhưng hiện lên đầy sắc tố mới lạ. Nguyễn Khoa Điềm đã thổi hồn vào đó. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân là tư tưởng xuyên thấu nổi bật toàn bài. Và qua đoạn trích trên Nguyễn Khoa Điềm đã chứng minh điều đó một cách đầy thuyết phục. Đất Nước của nhân dân vì nhân dân mà có nên tất cả mọi người phải có ý thức trách nhiệm khi đối chiếu với quê nhà xứ sở của mình.


Đoạn trích mở ra một thế giới thần thoại cổ xưa quen thuộc cho tới một thế giới của cuộc sống lao động sinh hoạt bình dị. Nhưng hơn hết, đoạn trích đã hoàn thành sứ mệnh chuyển tải thông điệp Đất Nước của nhân dân một cách tròn trịa. Những vần thơ ấy cứ thế mà sống mãi cùng tháng năm. Và gieo vào lòng người những cảm xúc tinh tế tự hào cũng như ý thức khi đối chiếu với mảnh đất nền quê nhà bình dị nhưng tươi đẹp này.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Hi vọng bài viết trên mang lại nhiều giá trị cho bạn. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài văn hay trên Alltop.vn

Hãy đăng nhập để bình luận

Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .