Top 12 Bài văn cảm nhận về bài thơ "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương (lớp 9) hay nhất
Nhắc đến nhà thơ Viễn Phương là nhắc đến một thi sĩ với hồn thơ nhẹ nhàng, man mác, bâng khuâng. Thơ ông lay động lòng người bởi sự tinh tế trong cách diễn đạt...xem thêm ...
Bài văn cảm nhận về bài thơ "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương - mẫu 1
Viễn Phương là cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam thời kì chống Mĩ cứu nước. Thơ ông thường nhỏ nhẹ, giàu tình cảm, thể hiện cuộc sống ước mơ khát vọng của đồng bào Nam Bộ. "Viếng lăng Bác" là tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ. Bài thơ thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ cũng như của mọi người đối với Bác khi vào lăng viếng Bác.
Bài thơ "Viếng lăng Bác" được Viễn Phương viết vào tháng 4 năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất, lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vừa được khánh thành, Viễn Phương cùng đoàn đại biểu miền Nam đầu tiên ra thăm miền Bắc, vào lăng viếng Bác, xúc động ông đã viết lên bài thơ. Bài thơ thể hiện lòng thành kính, niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ cũng như của mọi người đối với Bác khi vào lăng viếng Bác.
Trước hết khổ thơ đầu của bài thơ đã thể hiện cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác lúc sáng sớm. Sau hơn hai mươi năm xa cách, người con miền Nam mới được về thăm Bác, bao nỗi xúc động nghẹn ngào:
"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác"
Câu thơ giản dị tự nhiên như một lời thông báo mà chứa chan tình cảm thân thương. Nhà thơ xưng "con" gọi "Bác"- cách xưng hô quen thuộc của nhân dân ta với vị lãnh tụ vừa gần gũi vừa thành kính. Đặc biệt đối với Viễn Phương còn mang theo bao tình cảm nỗi nhớ thương của miền Nam trong trái tim Bác. Tác giả không nói "ra viếng" mà là "ra thăm"- như đứa con đi xa giờ mới được về thăm cha, thăm nơi Bác nghỉ. Nỗi đau như cố giấu mà giọng thơ có gì ngậm ngùi. Hình ảnh đầu tiên và cũng là ấn tượng đậm nét của nhà thơ về cảnh quan bên lăng là hình ảnh "hàng tre bát ngát":
"Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng."
Hình ảnh hàng tre được miêu tả từ xa đến gần gợi trong lòng nhà thơ bao liên tưởng: cây tre từ lâu đã trở thành biểu tượng của con người Việt Nam kiên cường bất khuất "Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng". Hình ảnh "hàng tre bát ngát quanh lăng" trong cái nhìn xúc động của nhà thơ như hình ảnh nhân dân Việt Nam, cháu con đang quây quần tụ hội bên Bác, canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người. Ra thăm lăng Bác - một nơi trang nghiêm thành kính, người con miền Nam lại bắt gặp hình ảnh rất quen thuộc của làng quê, của đất nước. Thán từ "ôi" đã thể hiện niềm xúc động nghẹn ngào và cả sự ngạc nhiên bất ngờ của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác.
Khổ thơ thứ hai của bài thơ đã thể hiện cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác lúc mặt trời lên. Mặt trời lên cao dần, hình ảnh mặt trời gợi trong lòng nhà thơ bao liên tưởng:
"Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ."
Hai câu thơ rực sáng hình ảnh mặt trời: mặt trời của thiên nhiên theo quy luật vận động vũ trụ "ngày ngày đi qua trên lăng"- thấy một mặt trời khác "mặt trời trong lăng rất đỏ". "Mặt trời trong lăng rất đỏ là hình ảnh ẩn dụ chỉ về Bác Hồ: nếu như mặt trời của thiên nhiên đem lại ánh sáng, sự sống cho vạn vật thì mặt trời Bác đem lại sự tự do, hạnh phúc cho nhân dân ta. Mặt trời ấy rất đỏ như nhiệt huyết cách mạng, như trái tim yêu thương của Người. Đặt mặt trời Bác sóng đôi trường tồn với mặt trời thiên nhiên không chỉ thể hiện lòng biết ơn mà còn thể hiện lòng ngưỡng mộ ngợi ca sự bất tử của Người. Chứng kiến dòng người xếp hàng vào lăng viếng Bác trong lòng nhà thơ trào dâng bao xúc động:
"Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân"
Cấu trúc "ngày ngày... đi" được lặp lại khẳng định quy luật tất yếu: còn mặt trời đi qua trên lăng thì còn dòng người xếp hàng vào lăng viếng Bác. Xếp hàng vào lăng viếng Bác đã trở thành hoạt động không thể thiếu trong đời sống nhân dân ta. Dòng người xếp hàng vào lăng viếng Bác được liên tưởng như "kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân". Đây là hình ảnh ẩn dụ đẹp giàu ý nghĩa bởi mỗi người vào lăng viếng Bác đều mang theo bao tình cảm, nỗi biết ơn người Cha già. Mỗi người là bông hoa kết thành tràng hoa dâng lên Bác với bao thương nhớ biết ơn. Hình ảnh ẩn dụ " bảy mươi chín mùa xuân" khẳng định cuộc đời Bác mãi là những mùa xuân vĩnh hằng của dân tộc.
Sang đến khổ thơ thứ ba là cảm xúc của nhà thơ khi vào trong lăng viếng Bác. Biết bao xúc động trào dâng khi người con miền Nam lần đầu được đối diện với Bác. Trong cái nhìn xúc động của nhà thơ hình ảnh Bác nằm trong lăng hiện ra thật đẹp:
"Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền"
Cả không gian thời gian như ngưng đọng trước hình ảnh có tính chất vĩnh hằng: Bác đang nằm ngủ một giấc ngủ bình yên thanh thản dưới ánh sáng dịu nhẹ của vầng trăng. Gam màu của đoạn thơ không còn chói lọi rực rỡ mà chuyển sang dịu nhẹ phù hợp với không khí tĩnh lặng trong lăng, vầng trăng như đang nâng niu giấc ngủ của Người. Hình ảnh ẩn dụ "vầng trăng" vừa gợi tâm hồn sáng trong thanh cao của Bác vừa gợi những vần thơ đầy trăng của Người. Niềm xúc động nỗi xót đau của người con miền Nam được thể hiện thật cảm động trong hai câu thơ sau:
"Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim"
Hình ảnh ẩn dụ "trời xanh" cũng giống như "mặt trời" ,"vầng trăng"- gợi cái vĩ đại, bất tử của Bác. Trong tâm tưởng của mỗi người con miền Nam, của nhân dân Việt Nam Bác vẫn còn sống mãi với non sông đất nước như trời xanh kia còn mãi. Người đã hóa vào thiên nhiên đất nước núi rừng sự nghiệp của Người mãi là bất tử. Dù vẫn vững tin như thế nhưng trở lại thực tế khi người con miền Nam xa xôi về đến bên Bác thì Bác không còn nữa, nỗi xót đau không gì bù đắp nổi "nghe nhói ở trong tim". Kết cấu "vẫn biết...mà sao" tưởng như đối lập nhau mà lại hài hòa, thống nhất với nhau trong cảm xúc của người con miền Nam khi lần đầu đối diện với Bác. Khổ thơ cuối kết thúc bài thơ đã thể hiện ước nguyện của nhà thơ khi nghĩ đến mai về miền Nam. Niềm xúc động trào dâng khi nhà thơ nghĩ đến mai về miền Nam:
"Mai về miền nam thương trào nước mắt"
Câu thơ có cách diễn đạt mộc mạc mà đằm thắm của người Nam Bộ: mai về có nghĩa là chưa về vậy mà đã thấy nhớ thấy thương thấy lưu luyến "thương trào nước mắt". Tình cảm ấy đã chắp cánh cho những ước nguyện được hóa thân vào những cảnh vật ở quanh lăng Bác để mãi được ở bên Bác không rời xa:
"Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đấy
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này."
Nhà thơ muốn làm con chim hót quanh lăng Bác, muốn làm đóa hoa tỏa hương thơm ngát bên lăng, muốn làm cây tre trung hiếu hòa nhập vào hàng tre bát ngát quanh lăng. Những ước nguyện ấy thật nhỏ bé mà thật đẹp bởi đều là những ước nguyện dâng hiến cho Bác, cho dân tộc. Điệp ngữ "muốn làm" tạo nhịp thơ dồn dập nhấn mạnh những ước nguyện thiết tha chân thành của nhà thơ. Đặc biệt kết thúc bài thơ ta bắt gặp hình ảnh "cây tre trung hiếu". Hình ảnh cây tre được lặp lại ở khổ thơ đầu tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng làm trọn vẹn cho mạch cảm xúc của nhà thơ. Nhà thơ muốn hòa nhập vào hàng tre bát ngát quanh lăng. Hình ảnh ẩn dụ "cây tre trung hiếu" hay tấm lòng của người con miền Nam, của nhân dân Việt Nam một lòng trung hiếu với bác nguyện đi theo con đường mà Bác đã chọn.
Bài thơ đã rất thành công khi sử dụng những nghệ thuật đặc sắc. Đó là thể thơ tám chữ đan xen những dòng bảy chữ, chín chữ phù hợp với nội dung cảm xúc. Giọng điệu bài thơ vừa trang nghiêm sâu lắng vừa thiết tha đau xót tự hào, phù hợp với tâm trạng cảm xúc khi vào lăng viếng Bác. Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo kết hợp giữa hình ảnh thực và hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng. Đặc biệt trong bài thơ có nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp gợi sự suy ngẫm sâu xa: "mặt trời", "trời xanh", " tràng hoa". Với những nét đặc sắc nghệ thuật ấy, bài thơ đã thể hiện lòng thành kính niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ cũng như của mọi người đối với Bác khi vào lăng viếng Bác. "Viếng lăng Bác" là nén tâm hương mà người con miền Nam thành kính dâng lên bác kính yêu. Cùng với "Trường ca theo chân Bác" của Tố Hữu, "Hoa trước lăng Người" của Chế Lan Viên,... "Viếng Lăng Bác" của Viễn Phương đã góp phần làm phong phú đề tài Bác Hồ trong thơ ca hiện đại. Ngay từ khi ra đời bài thơ đã được khẳng định và trở thành tiếng lòng chung của mỗi người con Việt Nam đối với Bác. "Viếng lăng Bác" là một trong những thành công sớm nhất viết về Người sau ngày Bác đã đi xa.
Như vậy với thể thơ tám chữ giọng điệu vừa trang nghiêm sâu lắng vừa thiết tha đau xót tự hào, bài thơ đã thể hiện lòng thành kính niềm xúc động của nhà thơ cũng như của mọi người đối với Bác khi vào lăng viếng Bác. Bài thơ không chỉ là tiếng lòng chung của riêng nhà thơ mà còn là tiếng lòng chung của tất cả mọi người đối với Bác. Chính vì vậy bài thơ có sức sống mãi trong lòng người đọc.
Bài văn cảm nhận về bài thơ "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương - mẫu 2
Viễn Phương là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời kì chống Mĩ cứu nước. Thơ ông thường nhỏ nhẹ, giàu tình cảm, giàu chất mộng mơ ngay trong hoàn cảnh khốc liệt của chiến trường. Viếng lăng Bác là tác phẩm tiêu biểu của viễn Phương giai đoạn sau 1975.
Bài thơ Viếng lăng Bác được viết vào tháng 4 năm 1976, một năm sau ngày giải phóng miền Nam, đất nước vừa được thống nhất. Đó cũng là khi lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa được khánh thành, đáp ứng nguyện vọng tha thiết của nhân dân cả nước là được đến viếng lăng Bác. Tác giả là một người con của miền Nam, suốt ba mươi năm hoạt động và chiến đấu ở chiến trường Nam Bộ xa xôi. Cũng như đồng bào và chiến sĩ miền Nam,nhà thơ mong mỏi được ra thăm Bác và chỉ đến lúc này, khi đất nước đã thống nhất, ông mới có thể thực hiện được ước nguyện ấy. Tình cảm đối với Bác trở thành nguồn cảm hứng để ông sáng tác bài thơ này.
Bài thơ được chia làm 4 phần tương ứng với 4 khổ thơ thể hiện mạch vận động của cảm xúc trong bài theo trình tự của một cuộc viếng thăm, thời gian kết hợp với không gian. Cảm xúc bao trùm trọn vẹn bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, niềm tự hào, đau xót của nhà thơ từ miền Nam vừa được giải phóng ra thăm lăng Bác. Cảm xúc của một người con đã đi từ một nơi rất xa cả về không gian và thời gian, giờ đây giờ phút được trở về bên Bác đã được diễn tả sâu sắc trong khổ thơ này:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng”.
Câu thơ mở đầu như một lời thông báo ngắn gọn, lời lẽ giản dị nhưng chứa đựng trong nó biết bao điều sâu xa,. Nhà thơ nói mình ở miền Nam, ở tuyến đầu của Tổ quốc, ở nơi máu đổ suốt mấy chục năm trời. Như vậy, không đơn giản là chuyên đi thăm công trình kiến trúc, không chỉ chiêm ngưỡng trước di hài một vĩ nhân mà đó là cây tìm về cội, lá tìm về cành, máu chảy về tim, sông trở về nguồn. Đó là cuộc trở về để báo công với Bác, để được Bác ôm vào lòng và ngợi khen. Nhà thơ xưng “con” và chữ “con” ở đầu dòng thơ, đầu bài thơ. Trong ngôn từ của nhân loại không có một chữ nào lại xúc động và sâu nặng bằng tiếng “con”. Cách xưng hô này thật gần gũi, thật thân thiết, ấm áp tình thân thương mà vẫn rất mực thành kính, thiêng liêng. Đồng thời, cũng diễn tả tâm trạng xúc động của người con ra thăm cha sau bao nhiêu năm xa cách.
Tác giả sử dụng từ “thăm” thay cho từ “viếng”. “Viếng”: là đến chia buồn với thân nhân người chết. “Thăm”: là gặp gỡ, trò chuyện với người đang sống. Cách nói giảm, nói tránh có vai trò làm giảm nhẹ nỗi đau thương mất mát. Qua đó, nhà thơ muốn khẳng định Bác vẫn còn mãi trong trái tim nhân dân miền Nam, trong lòng dân tộc. Đồng thời gợi sự thân mật, gần gũi: Con về thăm cha – thăm người thân ruột thịt, thăm chỗ Bác nằm, thăm nơi Bác ở để thỏa lòng khát khao mong nhớ bấy lâu.
Câu thơ không có một dụng công nghệ thuật nào nhưng lại vô cùng gợi cảm, dồn nén biết bao cảm xúc. Cách xưng hô và cách dùng từ của Viễn Phương giúp cho người đọc cảm nhận được tình cảm xúc động, nhớ thương của một người con đối với cha. Đó không chỉ là tình cảm riêng của nhà thơ mà còn là tình cảm chung của dân tộc Việt Nam. Thế hệ này tiếp nối thế hệ khác song tất cả đều có chung một tình cảm như thế với Bác Hồ kính yêu.
Sự xuất hiện của hàng tre trong thơ Viễn Phương không chỉ có ý tả thực, nhà thơ đã viết hình ảnh hàng tre với bút pháp tượng trưng, biểu tượng (gợi ra một điều gì đó từ một hình ảnh ẩn dụ lớn). Trước hết, hàng tre là hình ảnh hết sức thân thuộc và gần gũi của làng quê, đất nước Việt Nam. Tre đại diện cho sức sống mãnh liệt, kiên cường, bất khuất trước hoàn cảnh. Nơi đâu có đất đai, nơi ấy tre đủ sức mạnh để sinh tồn. Hình ảnh hàng tre còn là một biểu tượng con người, dân tộc Việt Nam. Trải qua mấy nghìn năm, dân tộc Việt Nam vẫn luôn đứng vững trước âm mưu xâm lược của kẻ thù. Dù có lúc tưởng chừng như bị khuất phục, bị đồng hóa nhưng bản lĩnh kiên cường, bất khuất đã đưa dân tộc đi qua gian khổ, chiến thắng kẻ thù.
Dù “bão táp mưa sa” nhưng tre vẫn “đứng thẳng hàng”. Đó là sức mạnh tinh thần đoàn kết đấu tranh, chiến đấu anh hùng, không bao giờ khuất phục, tất cả vì độc lập tự do của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ. Từ hình ảnh hàng tre bát ngát trong sương quanh lăng Bác, nhà thơ đã suy nghĩ, liên tưởng và mở rộng khái quát thành một hình ảnh hàng tre mang ý nghĩa ẩn dụ, biểu tượng cho sức sống bền bỉ, kiên cường, bất khuất của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam.
Hàng tre ấy như những đội quân danh dự cùng với những loài cây khác đại diện cho những con người ở mọi miền quê trên đất nước Việt Nam tụ họp về đây xum vầy với Bác, trò chuyện và bảo vệ giấc ngủ cho Người. Nơi Bác nghỉ vẫn luôn xanh mát bóng tre xanh. Chỉ một khổ thơ ngắn thôi nhưng cũng đủ để thể hiện những cảm xúc chân thành, thiêng liêng của nhà thơ và cũng là của nhân dân đối với Bác kính yêu. Nhà thơ đã sử dụng một ẩn dụ nghệ thuật tuyệt đẹp để nói lên cảm nhận của mình khi đứng trước lăng Bác:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…”
Hình ảnh “mặt trời đi qua trên lăng” là hình ảnh thực. Đó là mặt trời thiên tạo. Nó gợi ra sự kì vĩ, sự bất tử, vĩnh hằng, hơi ấm và ánh sáng. Mặt trời là nguồn cội của sự sống, là động lực của mọi sự sống. Hình ảnh “mặt trời trong lăng” là một ẩn dụ đầy sáng tạo,độc đáo. Đó là hình ảnh của Bác Hồ, một nguồn ánh sáng, nguồn sức mạnh vĩ đại và vĩnh hằng của dân tộc. Bác Hồ soi đường dẫn lối cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do, thống nhất đất nước. Bác đã cùng nhân dân vượt qua trăm ngàn gian khổ, hi sinh để đi tới chiến thắng quang vinh, trọn vẹn. Tình yêu thương bao la của Bác tỏa hơi ấm trong lòng mỗi con người Việt Nam. Nhà thơ Tố Hữu đã so sánh Bác như: “Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ”. Cái nghĩa, cái nhân lớn lao của Bác đã tác động mạnh mẽ, sâu xa tới mỗi số phận con người.
Từ láy “ngày ngày” đứng ở đầu câu vừa diễn tả sự liên tục bất biến của tự nhiên vừa góp phần vĩnh viễn hóa, bất tử hóa hình ảnh Bác Hồ trong lòng mọi người và giữa thiên nhiên vũ trụ. Hình ảnh dòng người vào thăm lăng Bác đã được nhà thơ miêu tả một cách độc đáo và để lại nhiều ấn tượng Từ láy “ngày ngày” có nghĩa tương tự như câu thơ cầu đầu trong khổ thơ diễn tả cảnh tượng có thực đang diễn ra hàng ngày, đều đặn trong cuộc sống của con người Việt Nam: Những dòng người nặng trĩu nhớ thương từ khắp mọi miền đất nước đã về đây xếp hàng, lặng lẽ theo nhau vào lăng viếng Bác. Bằng sự quan sát trong thực tế, tác giả đã tạo ra một hình ảnh ẩn dụ đẹp và sáng tạo: “tràng hoa”. “Tràng hoa” ở đây theo nghĩa thực là những bông hoa tươi thắm kết thành vòng hoa được những người con khắp nơi trên đất nước và thế giới về thăm dâng lên Bác để bày tỏ tình cảm, tấm lòng nhớ thương, yêu quý, tự hào của mình. “Tràng hoa” ở đây còn mang nghĩa ẩn dụ chỉ từng người một đang xếp hàng viếng lăng Bác mỗi ngày là một bông hoa ngát thơm.
Những dòng người bất tận đang ngày ngày vào lăng viếng Bác nối kết nhau thành những tràng hoa bất tận. Những bông hoa – tràng hoa rực rỡ đó dưới ánh mặt trời của Bác đã trở thành những bông hoa – tràng hoa đẹp nhất dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân”– 79 năm cuộc đời của Người. Hình ảnh thơ trên biểu lộ tấm lòng thành kính và biết ơn sâu sắc của nhà thơ, của nhân dân đối với Bác Hồ.
Vào trong lăng, khung cảnh và không khí như ngưng kết cả thời gian, không gian. Hình ảnh thơ đã diễn tả thật chính xác, tinh tế sự yên tĩnh, trang nghiêm cùng ánh sáng dịu nhẹ, trong trẻo của không gian trong lăng Bác:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”.
Đứng trước Bác, nhà thơ cảm nhận Người đang ngủ giấc ngủ bình yên, thanh thản giữa vầng trăng sáng dịu hiền.
Hình ảnh “vầng trăng sáng dịu hiền” gợi cho chúng ta nghĩ đến tâm hồn, cách sống cao đẹp, thanh cao, sáng trong của Bác và những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Người. Trăng với Bác đã từng vào thơ Bác trong nhà lao, trên chiến trận, giờ đây trăng cũng đến để giữ giấc ngủ ngàn thu cho Người. Chỉ có thể bằng trí tưởng tượng, sự thấu hiểu và yêu quí những vẻ đẹp trong nhân cách của Hồ Chí Minh thì nhà thơ mới sáng tạo nên được những ảnh thơ đẹp như vậy!
Tâm trạng xúc động của nhà thơ được biểu hiện bằng một hình ảnh ẩn dụ sâu xa: “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi”. “Trời xanh” trước tiên được hiểu theo nghĩa tả thực đó là hình thiên nhiên mà chúng ta hằng ngày vẫn đang chiêm ngưỡng, nó tồn tại mãi mãi và vĩnh hằng. Mặt khác, “trời xanh” còn là một hình ảnh ẩn dụ sâu xa: Bác vẫn còn mãi với non sông đất nước, như “trời xanh” vĩnh hằng. Bác đã hóa thân thành thiên nhiên, đất nước và dân tộc. Dù tin như thế nhưng mấy chục triệu người dân Việt Nam vẫn đau xót và nuối tiếc khôn nguôi trước sự ra đi của Bác.
“Nhói” là từ ngữ biểu cảm trực tiếp, biểu hiện nỗi đau đột ngột quặn thắt. Tác giả tự cảm thấy nỗi đau mất mát ở tận trong đáy sâu tâm hồn mình: nỗi đau uất nghẹn tột cùng không nói thành lời. Đó không chỉ là nỗi đau riêng tác giả mà của cả triệu trái tim con người Việt Nam. Lúc sinh thời, Người từng nói khi nào đất nước thống nhất, Người sẽ vào miền nam thăm đồng bào. Giờ đất nước thống nhất rồi nhưng Bác đã mãi mãi đi xa, không thực hiện được niềm mong ước ấy. nghĩ đến điều đó, nhà thơ không khỏi ngậm ngùi.
Cặp quan hệ từ “vẫn, mà” diễn tả mâu thuẫn. Cảm giác nghe nhói ở trong tim mâu thuẫn với nhận biết trời xanh là mãi mãi. Như vậy, giữa tình cảm và lý trí có sự mâu thuẫn. Con người đã không kìm nén được khoảnh khắc yếu lòng. Chính đau xót này đã làm cho tình cảm giữa lãnh tụ và nhân dân trở nên ruột già, xót xa.
Nếu ở khổ thơ đầu, nhà thơ giới thiệu mình là người con miền Nam ra thăm Bác thì trong khổ thơ cuối, nhà thơ lại đề cập đến sự chia xa Bác. Nghĩ đến ngày mai về miền Nam, xa Bác, xa Hà Nội, tình cảm của nhà thơ không kìm nén, ẩn giấu trong lòng mà được bộc lộ thể hiện ra ngoài:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”
Câu thơ “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” như một lời giã biệt. Lời nói giản dị diễn tả tình cảm sâu lắng. Từ “trào” diễn tả cảm xúc thật mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn không muốn xa nơi Bác nghỉ. Đó là không chỉ là tâm trạng của tác giả mà còn là của muôn triệu trái tim khác. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi Người ấm áp quá, rộng lớn quá.
Mặc dù lưu luyến muốn được ở mãi bên Bác nhưng tác giả cũng biết rằng đến lúc phải trở về miền Nam. Và chỉ có thể gửi tấm lòng mình bằng cách muốn hóa thân, hòa nhập vào những cảnh vật quanh lăng để được luôn ở bên Người trong thế giới của Người. Điệp ngữ “muốn làm” cùng các hình ảnh đẹp của thiên nhiên“con chim”,”đóa hoa”,”cây tre” đã thể hiện ước muốn tha thiết, mãnh liệt của tác giả. Nhà thơ ao ước được hóa thân thành con chim nhỏ cất tiếng hót làm vui lăng Bác, thành đóa hoa đem sắc hương, điểm tô cho vườn hoa quanh lăng.
Đặc biệt là ước nguyện “Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này” để nhập vào hàng tre bát ngát, canh giữ giấc ngủ thiên thu của Người. Hình ảnh cây tre có tính chất tượng trưng một lần nữa nhắc lại khiến bài thơ có kết cấu đầu cuối tương ứng. Hình ảnh hàng tre quanh lăng Bác được lặp ở câu thơ cuối như mang thêm nghĩa mới, tạo ấn tượng sâu sắc, làm dòng cảm xúc được trọn vẹn. “Cây tre trung hiếu” là hình ảnh ẩn dụ thể hiện lòng kính yêu, sự trung thành vô hạn với Bác, nguyện mãi mãi đi theo con đường cách mạng mà Người đã đưa đường chỉ lối. Đó là lời hứa thủy chung của riêng nhà thơ và cũng là ý nguyện của đồng miền Nam, của mỗi chúng ta nói chung với Bác.
Viếng lăng Bác thể hiện niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, niềm tự hào, đau xót của nhà thơ từ miền Nam vừa được giải phóng ra thăm lăng Bác. Giọng điệu thơ phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc: vừa trang nghiêm, sâu lắng, vừa tha thiết, đau xót, tự hào. Thể thơ 8 chữ, xen lẫn những dòng thơ 7 hoặc 9 chữ. Nhịp thơ chủ yếu là nhịp chậm, diễn tả sự trang nghiêm, thành kính và những cảm xúc sâu lắng. Riêng khổ cuối nhịp thơ nhanh hơn, phù hợp với sắc thái của niềm mong ước. Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo, kết hợp hình ảnh thực với hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng. Những hình ảnh ẩn dụ – biểu tượng như “mặt trời trong lăng”, "tràng hoa”, "trời xanh” vừa quen thuộc, vừa gần gũi với hình ảnh thực, vừa sâu sắc, có ý nghĩa khái quát và giá trị biểu cảm.
Bài văn cảm nhận về bài thơ "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương - mẫu 3
Chiến tranh qua đi đã gần được một thế kỉ, ấy vậy mà mỗi khi nhắc lại, chúng ta vẫn không khỏi đau xót trước những nỗi mất mát, trước những hi sinh của thế hệ đi trước để bảo vệ độc lập, tự do. Trong số những nỗi mất mát của chiến tranh, có sự ra đi của các anh hùng, có sự rời bỏ cuộc sống của những người nông dân áo vải.... nhưng không phải những nỗi đau của chiến tranh mới là đau đớn nhất. Khi chiến tranh kết thúc, chúng ta còn phải chịu một nỗi đau vô cùng lớn, đó là sự ra đi của Bác Hồ - vị lãnh tụ kính yêu của mỗi người dân Việt Nam. Dành cả cuộc đời để giành lấy độc lập, tự do cho đất nước, Người cũng đến lúc phải từ biệt trần thế. Bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương đã thay lời mỗi con dân của Bác, nói lên nỗi đau xót, thương nhớ khôn nguôi dành cho Người.
Ta cảm nhận ở nhà thơ trước hết là tấm lòng thành kính, biết ơn của một người con chưa từng một lần được nhìn thấy Bác:
"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng"
Chiến tranh kết thúc, hòa bình được lập lại ở miền Nam, năm 1976, nhà thơ Viễn Phương cùng với đồng bào miền Nam đã có dịp được ra Hà Nội viếng Bác. Tác giả như một người con xa nhà về thăm người cha của mình. Nhà thơ bộc lộ nỗi xúc động nghẹn ngào khi chưa kịp cảm ơn, chưa kịp thể hiện tấm lòng thành kính trước công ơn của Bác mà Bác đã ra đi mất rồi. Nhà thơ sử dụng hình ảnh "hàng tre" đã nói lên hình ảnh của mỗi người dân Việt Nam kiên cường, bất khuất và ngay thẳng. Ta cảm nhận được thái độ vô cùng tự hào vì là một người dân Việt Nam của tác giả. Nhà thơ cũng như bao người khác, đều biết ơn Hồ Chủ Tịch kính yêu!
Từ tấm lòng thành kính, sự biết ơn dành cho Người, tác giả còn thể hiện nỗi đau xót, xót thương trước sự ra đi của Bác:
"Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim"
Hình ảnh Bác đang nằm ngủ say giữa "một vầng trăng sáng dịu hiền" cho thấy tâm hồn cao đẹp, cho thấy sự hiền dịu của Người. Nhà thơ đau xót, cảm thấy mất mát vô cùng: "Mà sao nghe nhói ở trong tim!". Động từ "nhói" cho thấy sự bật ra của cảm xúc, nhà thơ không thể kìm nén được nữa, từng cơn đau cứ quặn lên trong tim. Dù tác giả biết rằng, Bác ra đi những vẫn ở mãi trong lòng mỗi người dân Việt Nam nhưng nhà thơ vẫn không giấu nổi sự xúc động của mình. Phải là một người vô cùng yêu thương, kính trọng Người thì mới có thể có những cảm xúc, những nỗi đau lớn như vậy. Ta thấy ở tác giả tấm lòng đối với Bác, cũng như tấm lòng của cả miền Nam. Nhưng xúc động nhất có lẽ là ở khổ thơ cuối, khi nhà thơ thể hiện ước muốn cháy bỏng cùng với tâm nguyện được cống hiến cho dân tộc, cho đất nước:
"Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này"
Những giọt nước mắt của tác giả là những giọt nước mắt của sự đau xót, của sự lưu luyến khi vừa mới tới thăm Người được một chút thôi, giờ đã phải rời xa rồi. Trở lại miền Nam là thực tại, không nỡ rời xa là ý muốn trong tâm tưởng của nhà thơ. Để quên đi thực tại đau xót này, nhà thơ đã tự nhủ với lòng mình, đã bộc lộ mong ước được hóa thân vào những cảnh vật quanh lăng Bác để được mãi mãi ở bên Người. Điệp từ "Muốn làm" cho thấy ước muốn mãnh liệt, cháy bỏng của nhà thơ. Tác giả muốn làm con chim để hót quanh lăng Bác mỗi sớm mai, muốn làm đóa hoa tô điểm thêm cho cảnh vật quanh lăng, tỏa hương thơm ngát.... và muốn làm cây tre để trung hiếu với Người:
"Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này"
Hình ảnh cây tre được tác giả sử dụng rất khéo léo, xuất hiện ở đầu bài thơ và quay lại ở cuối bài thơ. Kết cấu này tạo ra tính biểu tượng cho hình ảnh cây tre, vừa là biểu tượng cho con người Việt Nam, vừa nói lên tấm lòng của tác giả đối với Người. Xúc động biết bao trước tình cảm của nhà thơ đối với Bác!
Là một người dân Việt Nam sống trong thời buổi hiện đại, khi chiến tranh đã kết thúc, dù ta không thể hiểu được hoàn cảnh và những khó khăn trước kia nhưng vẫn cảm thấy được công lao to lớn của Bác dành cho đất nước qua những lời thơ của nhà thơ Viễn Phương. Ông thực sự đã viết rất hay, mạch cảm xúc tự nhiên, lắng đọng theo trình tự vào thăm lăng Bác, qua đó gieo vào lòng người đọc sự xúc động, tình cảm mến yêu dành cho cả Hồ Chủ tịch và cả những người con dân miền Nam như tác giả.
Đọc bài thơ Viếng lăng Bác, ta hiểu được lí do tại sao mà bài thơ được phổ thành nhạc sau này. Đó chính là bởi vì những cảm xúc được cất lên từ tấm lòng chân thành của người viết, từ sự vĩ đại, cao cả của Bác Hồ kính yêu...
Bài văn cảm nhận về bài thơ "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương - mẫu 4
Mùa xuân năm 1975 là mùa xuân đáng nhớ nhất của đất nước ta. Sau hơn 80 năm kháng chiến chống Pháp và 20 năm kháng chiến chống Mỹ, quân và dân ta đã giành được độc lập, tự do, thống nhất hai miền Nam Bắc. Trong giây phút vẻ vang đó, đồng bào ta nhớ đến người Cha già của dân tộc, vị lãnh tụ vĩ đại của nhân loại - Hồ Chí Minh. Bất cứ ai cũng muốn được một lần đến viếng thăm Bác, kể cho người nghe những thắng lợi mà chúng ta đạt được.
Viễn Phương, một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời chống Mỹ cứu nước, đã có dịp từ miền Nam ra Hà Nội viếng thăm lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1976. Bài thơ “Viếng lăng Bác” ra đời, ghi lại những cảm xúc chân thành nhất của nhà thơ lúc bấy giờ, đồng thời là những dòng cảm xúc của nhân dân miền Nam. Khổ thơ đầu tiên là lời bộc bạch của nhà thơ khi đặt chân lên thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến, đặt chân đến nơi Bác Hồ đang yên nghỉ:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Lời thơ bình dị là lời nhà thơ nói với Bác, “ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Câu thơ toát lên sự tự hào, xúc động đang trào dâng trong lòng của người thi sĩ. Rằng đồng bào miền Nam đã đứng dậy đập tan mọi xiềng xích của bọn cướp nước và lũ bán nước. Giờ đây, những người con miền Nam đã về thăm Bác.
Cặp đại từ “con - Bác” vừa thể hiện sự kính trọng vừa gần gũi, thân thiết. Vì Hồ Chí Minh chính là người Cha của người dân Việt Nam. Biện pháp nói giảm nói tránh “thăm” giúp giảm đi sự buồn thương, mất mát, tựa hồ như đây là một cuộc đoàn tụ, sum họp chan chứa yêu thương. Trong khung cảnh sương mờ của một sáng mùa thu, nhà thơ phải thốt lên khi thấy hàng tre bát ngát “Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam”.
Bức tranh một miền quê Việt yên bình, dân giã được vẽ nên, tuyệt đẹp. Cây tre là biểu trưng cho con người, tinh thần, cốt cách con người Việt Nam. Bất cứ khi nào, bất kể ở đâu những con người ấy luôn kiên cường, bất khuất, ngay thẳng, trung trực, vượt qua mọi chông gai. Hình ảnh nhân hóa “đứng thẳng hàng” như càng khẳng định thêm điều đó. Chuyến đi “thăm” lăng Bác của nhà thơ giống như một chuyến đi tìm về cội nguồn dân tộc, có truyền thống tốt đẹp, biểu tượng dân tộc luôn hiện hữu.
Trước lăng Bác không phải những gì tráng lệ, rực rỡ, chỉ là hình ảnh cây tre bình dị, thân thuộc. Hàng tre giống một đoàn vệ binh đang canh gác cho giấc ngủ của Bác, cũng là cúi chào đoàn người từ từ tiến vào lăng bằng tất cả lòng thành kính:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Viễn Phương đưa ra hai hình tượng sóng đôi giữa thực tế “mặt trời đi qua trên lăng” và hình ảnh ẩn dụ “mặt trời trong lăng”. Mặt trời là nguồn sáng duy nhất của Trái Đất, cung cấp nhiệt và là nguồn sống của nhân loại, đặc biệt mặt trời chỉ có một mà thôi. Vậy mà ở đây có hẳn hai mặt trời? Mặt trời còn lại chính là vị Chủ tịch kính yêu Hồ Chí Minh.
Người chính là mặt trời chân lý, mang lại ánh sáng cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Người đã lãnh đạo cuộc cách mạng của nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cuối cùng là giải phóng đất nước, thống nhất hai miền.
Câu thơ mang dáng vẻ sôi nổi, bật lên sắc “đỏ” tràn đầy sức sống, chứa chan lòng thành kính gửi đến Bác. Hai câu thơ tiếp chùng xuống, trầm mặc bộc lộ không khí của đoàn người đang tiến vào lăng. Họ đến đây mang trong mình lòng kính yêu vô bờ và nỗi tiếc thương khi Bác mất đi.
Điệp từ “ngày ngày” như khẳng định chân lý rằng tình cảm mà nhân dân gửi đến bác là vô hạn, luôn luôn tồn tại, cũng như mặt trời kia vẫn mọc - lặn đều đặn hàng ngày. Tràng hoa đó không là tràng hoa kết từ những loài hoa bình thường. Đó là tràng hoa của đời được kết thành từ dòng người vô tận dâng lên Bác. Dưới ánh sáng của Bác, những bông hoa đẹp nhất đã nở. Bác chính là nguồn sống, là mùa xuân của đất nước, con người “bảy mươi chín mùa xuân.” Dòng người từ từ tiến vào nơi Bác năm, nơi chan hòa ánh trăng hiền dịu:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền.
Dẫu biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Bác đang nằm ở đó, giống như đang chìm trong giấc ngủ yên bình, thanh thản “giấc ngủ bình yên”. Lại một lần nữa nhà thơ sử dụng bút pháp nói giảm nói tránh để kìm nén lại nỗi tiếc thương trong lòng. Hình ảnh vầng trăng sáng dịu hiền tạo nên khung cảnh thơ vừa lãng mạn vừa hiện thực. Người Cha già dân tộc tỏa ra sự ấm áp, bình dị và giản đơn trong con người, cốt cách. Vầng trán Bác rộng lớn, êm đềm, mãn nguyện với những thành tựu mà nhân dân đạt được, “có cơm ăn áo mặc”, “được tự do”, “được học hành”.
Thế nhưng, đứng trước Bác, nhà thơ không thể kìm nén được sự xúc động: “nghe nhói ở trong tim”. Ngày Bác ra đi là ngày mà đồng bào ta chịu sự mất mát lớn nhất về tinh thần, tiếc thương vô cùng. Mặc dù, đó là quy luật của tạo hóa, và Bác dẫu đã mất nhưng vẫn còn sống mãi trong tâm trí, trong lòng người dân Việt “mãi mãi”. Cuộc sum họp nào rồi cũng đến phút chia ly, đứng trước lăng Bác nghĩ đến phút xa rời, nhà thơ Viễn Phương không khỏi xúc động:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”
Cảm xúc dâng trào trong giây phút trở về miền Nam thật tự nhiên, xuất phát từ tình yêu gửi đến Bác: “thương trào nước mắt”. Tình thương cứ thế nghẹn ngào, hóa thành nước mắt trào dâng, không thể nào ngăn lại được. Thương nên nhà thơ càng khao khát được ở gần Bác, được hóa thân thành cảnh vật xung quanh lăng. Điệp từ “muốn” tạo âm hưởng quyết liệt, nhấn mạnh hơn nữa mong muốn trong lòng Viễn Phương.
Ông ước được làm “con chim hót quanh lăng”, “đóa hoa tỏa hương”, “cây tre trung hiếu”. Nhưng có lẽ, ước mong lớn nhất chính là được tiếp tục đi theo con đường cách mạng chân lý của Bác, được làm “cây tre trung hiếu”. Cây tre đó là hóa thân của nhân cách, tâm hồn Việt, ngay thẳng, chính trực, kiên cường, trung với Đảng, hiếu với dân. Bài thơ mang âm hưởng buồn thương nhưng lại vút lên ở câu kết. Một lời hứa, lời cam kết sẽ tiếp tục cống hiến, hy sinh vì đất nước, nhân dân của nhà thơ.
Cùng với phong cách thơ chân thành, giàu cảm xúc, nền nã, thì thầm, bâng khuâng nhưng không bi lụy, Viễn Phương đã mang đến cho người đọc một chuyến viếng thăm trên dòng cảm xúc chân thật nhất. Thơ bảy chữ mang âm hưởng lãng mạn pha lẫn hiện thực, hình ảnh thơ linh hoạt cùng các biện pháp ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa làm tăng thêm giá trị nội dung của bài thơ.
Đúng như Viễn Phương đã chia sẻ cùng bạn đọc, bài thơ thật giản dị: "Bởi tôi nghĩ, Bác của chúng ta vốn rất giản dị". Giản dị ở câu thơ, lời thơ, giản dị trong cả những suy nghĩ, ước mong. Giản dị, tự nhiên nhưng vẫn vô cùng sâu sắc. Bởi lẽ “Viếng lăng Bác” là kết tinh của dòng cảm xúc chân thành, mãnh liệt của nhà thơ trong chuyến đi thăm lăng Bác. Đó còn là tiếng lòng của người dân miền Nam nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung. “Viếng lăng Bác” thực sự là lời tưởng niệm chân thành đến với vị cha già dân tộc.
Khép lại những trang thơ, ta như thấy từng đoàn người kính cẩn, nghiêng mình vào viếng Bác mang theo hành trang là lòng kính yêu vô hạn đối với vị cha già dân tộc. Cảm xúc của Viễn Phương cũng là cảm xúc của tất thảy người dân miền Nam và người dân Việt nói chung. Hy vọng rằng, sau khi học bài thơ này, các em có thể nêu suy nghĩ của em về bài thơ Viếng lăng Bác bằng tất cả cảm nhận chân thành nhất.
Bài văn cảm nhận về bài thơ "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương - mẫu 5
Trong những ngày đất nước đang tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam sắp đến thắng lợi hoàn toàn, nhà thơ Viễn Phương được ra Bắc viếng lăng Bác. Trước khi chia tay, nhà thơ đã để lại một bài thơ bày tỏ niềm cảm xúc sâu xa, tình yêu thương vô hạn và lòng cảm phục, tôn kính của mình đối với Bác Hồ vĩ đại - người từng lái con thuyền cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Đoạn thơ mở đầu gợi ra cảnh tượng thiêng liêng, thành kính. Tác giả xưng”con”- đứa con bao năm xa cách nay mới được trở về đứng trước lăng mộ của vị cha già dân tộc. Cách xưng hô đó còn gợi lên một tình cảm ấm áp gần gũi- tình cảm trong gia đình. Tình cảm gần gũi ấm áp đó còn được thể hiện qua hình ảnh” hàng tre bát ngát” trong sương. Hàng tre quen thuộc biết bao. Từ bao đời nay tre vẫn được xem là bản lĩnh, cốt cách con người Việt Nam. Một hình ảnh thật có ý nghĩa.
Tác giả tiếp tục mạch suy tưởng khi đứng trước lăng Người:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ,
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...
Mặt trời ngày ngày đi qua trên lăng là mặt trời của vũ trụ, của thiên nhiên. Mặt trời soi sáng tất cả thế gian. Mặt trời thượng tượng trưng cho chân lý. Dưới ánh mặt trời, mọi vật, mọi việc đều sáng rỏ. Chỉ mặt trời đỏ mới nhìn và “thấy mặt trời trong lăng rất đỏ”. “Mặt trời trong lăng” chính là hình ảnh Bác Hồ vĩ đại với trái tim rực đỏ. Trái tim ấy, mặt trời ấy mãi mãi soi sáng cho dân tộc Việt nam, mặt trời thiên nhiên, mặt trời vũ trụ được nhân hoá thể hiện niềm cảm phục của nhà thơ đối với sự nghiệp, con người, cuộc đời của Bác. Nhà thơ còn sáng tạo hình ảnh dòng người kết thành “tràng hoa” dâng bảy mươi chín mùa xuân để thể hiện tấm lòng nhân dân cả nước hướng về Bác. Khi vào trong lăng tác giả lại tiếp tục suy tưởng:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Với dân tộc Việt Nam, Bác Hồ không bao giờ mất, Bác vẫn sống. Nằm trong lăng chỉ là giây phút nghỉ ngơi của Bác. Bác ngủ bình yên thanh thản bới Bác đã cống hiến tất cả cuộc đời mình cho đất nước, cho dân tộc. Bác đang nằm “giữa một vầng trăng sáng dịu hiền. Đây cũng là hình ảnh ẩn dụ “vầng trăng sáng dịu hiền” chính là tấm lòng của nhân dân đối với Bác. Tác giả bày tỏ niềm tiếc thương vô hạn đối với Bác: “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi”. Vẫn biết Bác không bao giờ mất nhưng sự thật là sự thật! Bác đã vĩnh viễn ra đi. Cái “đau nhói trong tim” không chỉ là nỗi đau của riêng nhà thơ mà là nỗi đau của tất cả mọi người. Tác giả chia tay Bác trong niềm cảm xúc dâng trào:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng...
Viễn Phương bộc lộ một cách thành thực ý nghĩ, tình cảm của mình đối với Bác. Đó là phong cách của đồng bào Nam Bộ: rõ ràng, dứt khoát. Đó cũng là tình cảm của nhân dân miền Nam đối với Bác. Ước nguyện của tác giả hết sức giản dị mà sâu lắng: muốn làm con chim, muốn làm đoá hoa, muốn làm cây tre. Ước nguyện ấy thật chân thành và cảm động. Đó là sự vấn vương lưu luyến của tất cả những ai đã có dịp viếng lăng Người.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh hàng tre, kết thúc bài thơ là hình ảnh cây tre hiền lành, quen thuộc. Nhưng đây cũng là một lời hứa của tác giả trước an linh của Bác: luôn giữ mãi cốt cách, phẩm chất của người Việt Nam!
Viếng lăng Bác của Viễn Phương vừa giàu hình ảnh, vừa giàu trữ tình đằm thắm. Bài thơ đã thể hiện một cách chân thành sâu sắc tình cảm của tác giả, của đồng bào miền Nam đối với vị lãnh tụ kính yêu. Viếng lăng Bác đã được phổ nhạc trở thành một trong những bài hát được nhân dân cả nước yêu thích.
Bài văn cảm nhận về bài thơ "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương - mẫu 6
Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại, người cha già muôn vàn kính yêu của dân tộc Việt Nam. Người ra đi để lại niềm tiếc thương vô hạn cho toàn thể nhân dân. Để rồi 7 năm sau, tháng 9 năm 1969, nhà thơ Viễn Phương vẫn bồi hồi thương nhớ Người và sáng tác lên bài thơ “Viếng lăng Bác”. Bài thơ thể hiện niềm kính yêu, sự xót thương và lòng biết ơn sâu sắc của tác giả nói riêng, của toàn thể đồng bào Việt nói chung với vị lãnh tụ của dân tộc.
“Viếng lăng Bác” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ Viễn Phương. Bài thơ được in trong tập “Như mây mùa xuân” xuất bản năm 1976, gây ấn tượng bởi những cảm xúc chân thành và niềm thành kính, biết ơn của nhà thơ, của đồng bào miền Nam và nhân dân cả nước dành cho Bác. Mở đầu bài thơ, người đọc cảm nhận được niềm xúc động và tự hào của nhà thơ khi được đến thăm lăng Bác sau 7 năm kể từ ngày Người ra đi:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Câu thơ đầu tiên vang lên như một lời chào, lời giới thiệu đầy cảm xúc về hành trình của những đứa con từ miền Nam ra thủ đô thăm Bác. Viễn Phương xưng hô “con -Bác” gợi cảm giác gần gũi thân thương, gợi mối quan hệ gắn bó như cha con ruột thịt. Nhà thơ trong đó giống như một người con xa nhà, lâu ngày mới có dịp trở về thăm hỏi người cha già kính yêu. Đồng thời, động từ “thăm” được sử dụng như cách nói giảm nói tránh cho sự ra đi của Bác để nén lại bớt cảm xúc mất mát đau thương chưa thể nguôi ngoai của cả dân tộc.
Hình ảnh “hàng tre bát ngát” ẩn hiện trong làn sương sớm mờ ảo trên đường đến thăm Bác chính là hình ảnh tả thực mang dáng hình quê hương đất nước thân yêu, bình dị. Nó cũng là biểu tượng cho con người Việt Nam kiên cường bất khuất, vượt qua “bão táp mưa sa” muôn vàn gian khổ để thống nhất đất nước theo di ngôn của Người, rồi trở về nghiêng mình kính cẩn trước anh linh của Người. Những hình ảnh gợi tả gợi cảm kết hợp với nhau đã tạo nên một trường liên tưởng độc đáo, thú vị. Lăng Bác hiện lên dưới ngòi bút nhà thơ như một làng quê yên bình. Tác giả bước theo dòng người chầm chậm vào lăng, tâm hồn trào dâng niềm thành kính, biết ơn và ngưỡng mộ sâu sắc:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một Mặt Trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Đến đây, nhà thơ tiếp tục sáng tạo những hình ảnh thơ vô cùng độc đáo. Hình ảnh “Mặt trời đi qua trên lăng” miêu tả mặt trời của thiên nhiên, vũ trụ, ngày ngày tỏa ánh sáng đem đến sự sống cho vạn vật. Trong lăng Bác – nơi Bác yên nghỉ lại có một “mặt trời” khác “rất đỏ”. “mặt trời trong lăng” chính là hình ảnh ẩn dụ tuyệt đẹp chỉ Bác Hồ kính yêu, thể hiện niềm biết ơn thành kính với vị lãnh tụ như vầng thái dương soi sáng đường đi, chở che cho cả dân tộc.
Từ “ngày ngày” khẳng định quy luật thời gian bất biến của tự nhiên lẫn con người, diễn tả hiện thực dòng người nối dài vô tận, lặng lẽ trang nghiêm mỗi ngày tiến vào lăng Bác để bày tỏ tình cảm với người cha già muôn vàn kính yêu. Họ là đại diện cho người Việt Nam từ ba miền Bắc Trung Nam, từ 54 dân tộc anh em trên khắp mọi miền Tổ Quốc. Họ kết thành hình ảnh ẩn dụ “tràng hoa” biểu tượng cho những gì tinh túy, đẹp đẽ nhất của đất nước và con người Việt Nam kính dâng lên Bác.
Ngoài ra, tác giả cũng sáng tạo hình ảnh hoán dụ “bảy mươi chín mùa xuân” diễn tả bảy mươi chín năm tuổi đời của Bác là bảy mươi chín mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy ý nghĩa. 79 mùa xuân ấy đã hy sinh để đem đến cho dân tộc ta một mùa xuân độc lập, tự do và hạnh phúc vĩnh hằng. Để rồi khi đứng trước di hài của Bác, trái tim nhà thơ trào dâng cảm xúc nghẹn ngào không thể kìm nén, lay động trái tim của hàng triệu người:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Viễn Phương vẫn tiếp tục dùng phép nói giảm, nói tránh “giấc ngủ bình yên” như muốn cố gắng giảm bớt sự thật đau đớn về sự ra đi của Bác. Nhà thơ tái hiện trước mắt người đọc khung cảnh chân thực đầy xúc động: Bác nằm trong lăng, gương mặt thân thương của Bác trở nên hồng hào, dịu hiền như vầng trăng dưới ánh đèn hồng mờ ảo. Hình ảnh “trời xanh” và “ánh trăng” là hình ảnh thực thể hiện sự trường tồn vĩnh cửu của thiên nhiên đồng thời cũng là hình ảnh ẩn dụ cho tình cảm của nhân dân với Bác. Nó kết hợp với cặp quan hệ từ “vẫn biết – mà sao” diễn tả cảm xúc nghẹn ngào trào dâng. Biết rằng Người sẽ luôn sống mãi trong lòng dân tộc nhưng sự thật Bác đã ra đi mãi mãi vẫn khiến nhà thơ “nghe nhói ở trong tim”.
Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “nghe nhói” nhấn mạnh niềm đau xót tột cùng của nhà thơ trước thực tại Bác không con nữa. Rồi nghĩ đến ngày mai phải trở về, xa Bác, nỗi xúc động của tác giả cũng như những người con miền Nam bật lên thành tiếng nấc vỡ òa:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…
Những giọt nước mắt tiếc thương, nhung nhớ Bác đến giây phút này đã không thể kìm nén. Lời thơ vang lên đầy nức nở, nghẹn ngào. Niềm khát khao chân thành muốn ở gần Bác của ông được bộc lộ mãnh liệt bằng một loạt động từ “muốn làm”. Viễn Phương muốn làm con chim để hiến dâng tiếng hót lên lăng Bác, làm cây tre thành kính, tôn nghiêm như người lính canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người. Đó đều là những hình ảnh ẩn dụ chỉ những gì tinh túy tốt đẹp của thiên nhiên, thể hiện ước nguyện xúc động của nhà thơ và toàn thể dân tộc: Muốn ở bên, canh giữ cho giấc ngủ bình yên của Người. Đặc biệt, bài thơ kết thúc bằng hình ảnh “cây tre trung hiếu” tạo kết cấu đầu cuối tương ứng, khẳng định tấm lòng chung thủy, sắt son vô hạn với Đảng, với Bác Hồ của đồng bào miền Nam, của cả dân tộc.
Trải qua bao dòng chảy thời gian, bài thơ vẫn chạm đến trái tim người đọc bởi nội dung và nghệ thuật đặc sắc. Bài thơ được viết theo thể tám chữ sáng tạo, kết hợp khéo léo chất tự sự và trữ tình. Ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc, đậm chất Nam Bộ đồng thời sử dụng những hình ảnh thơ chân thực gợi nhiều trường liên tưởng. Đặc biệt, sử dụng thành công các biện pháp nói giảm, nói tránh, ẩn dụ, hoán dụ, điệp từ...Từ đó thể hiện cảm xúc đau đớn xót thương, nỗi nhớ và tình cảm thiết tha, sự biết ơn thành kính với Bác Hồ kính yêu. Bài thơ dễ dàng khơi gợi cảm xúc trong lòng độc giả, là nén tâm hương kính dâng lên Người.
Với bài thơ “Viếng lăng Bác” Viễn Phương đã đóng góp không nhỏ cho thi ca đề tài về Bác. Dù bao năm qua đi, bài thơ mãi mãi là tác phẩm đầy xúc cảm gửi gắm những giá trị tốt đẹp vĩnh cửu mà nhà thơ và toàn thể dân tộc dành cho Bác.
Bài văn cảm nhận về bài thơ "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương - mẫu 7
Viễn Phương là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng Văn nghệ giải phóng miền Nam trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước. Năm 1976, sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Hà Nội cũng vừa được khánh thành. Viễn Phương nhân dịp này ra thăm miền Bắc và vào lăng viếng Bác Hồ. Ông đã sáng tác bài thơ “Viếng lăng Bác” để bộc lộ lòng thành kính, biết ơn với chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam.
Đến với khổ thơ đầu tiên, nhà thơ đã khác họa đôi nét về hình ảnh thiên nhiên bên ngoài lăng Bác:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng.”
Câu thơ mở đầu là lời giới thiệu đầy thân tình: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Cách xưng “con” - gọi “bác” cho thấy sự thân thương, ngọt ngào và đậm chất Nam Bộ. “Con” ở miền Nam xa cách, vượt trăm ngàn cây số đến đây với mong muốn được gặp Bác Hồ - người cha già đáng kính. Tác giả dùng từ “thăm” thay vì từ “viếng” nhằm giảm nhẹ nỗi đau thương, mất mát nhưng vẫn chẳng thể che giấu được sự ly biệt. Hình ảnh đầu tiên mà “con” nhìn thấy là “hàng tre bát ngát”. Cây tre vốn là loài cây quen thuộc, đã trở thành biểu tượng cho những đức tính, phẩm chất của người Việt Nam. Khi kết hợp với hình ảnh “bão táp mưa sa” - ẩn dụ cho sự khó khăn gian khổ trong cuộc đời. Tác giả muốn khẳng định phẩm chất của con người Việt Nam cũng giống như cây tre, dù trải qua giông bão vùi dập vẫn “đứng thẳng hàng” - vẫn ngay thẳng, hiên ngang và luôn tràn đầy sự sống. Đến khổ thơ tiếp theo, nhà thơ đã khắc họa hình ảnh đoàn người vào lăng viếng Bác:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…”
Hai câu thơ đầu được tạo nên bởi hai hình ảnh “mặt trời”. “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng” - đó là mặt trời của tự nhiên chuyển động theo quy luật tuần hoàn của thời gian. “Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ” - hình ảnh ẩn dụ, ví Bác như “mặt trời” có sức lan tỏa, soi sáng cuộc đời của người dân Việt Nam. Bác đã đem lại cuộc sống tự do cho nhân dân ta, đưa nhân dân ta thoát khỏi ách nô lệ. Chẳng thể nào nói hết được lòng biết ơn vô hạn của nhân dân dành cho vị lãnh tụ đáng kính của dân tộc. Hai câu thơ tiếp theo là sự liên tưởng đến hình ảnh dòng người đang nối dài vô tận, cũng giống như nỗi nhớ dành cho Người. Cụm từ “ngày ngày” được điệp lại hai lần tạo nên một ước muốn về một cõi bất tử. “Tràng hoa” là hình ảnh ẩn dụ cho những người con từ khắp mọi miền tổ quốc đang hội tụ về đây, vào trong lăng viếng Bác. Ngày qua ngày, từng dòng người vẫn nối tiếp nhau vào trong lăng viếng Bác. Dù đã ra đi, nhưng Người đã để lại cho nhân dân một niềm tiếc thương vô hạn, một nỗi nhớ khó có thể nguôi ngoai. Và rồi không gian và thời gian như ngừng chuyển động trước hình ảnh của Người:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!”
Cuộc đời của Hồ Chủ tịch chưa lúc nào yên giấc khi mà đất nước, nhân dân đang chịu sự cai trị của kẻ thù xâm lược. Đến nay, khi đã giành được độc lập, hai miền Nam - Bắc về chung một nhà, thì Bác lại ra đi mãi mãi. Điều ấy đã để lại niềm tiếc thương vô hạn. Nhà thơ dường như muốn tạm quên đi sự ra đi ấy: “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên”. Dường như Bác chỉ đang nằm trong một giấc ngủ dài vô tận thôi. Với lòng yêu thương, ngưỡng mộ, khổ thơ thứ ba là lời thương xót và ước nguyện của nhà thơ. Bác như “vầng trăng sáng dịu hiền” - hình ảnh biểu tượng cho vẻ đẹp của Bác lúc này vô cùng thanh thản, bình yên. Người quả thật không mất đi mà chỉ đang ngủ thôi, Người vẫn còn sống với nhân dân, với đất nước. Mạch cảm xúc của bài thơ bỗng nhiên lắng xuống ở hai câu thơ cuối. Dẫu biết rằng trời xanh là mãi mãi - trời xanh là biểu tượng cho sự trường tồn bất tử của Bác. Bác vẫn còn sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam. Dẫu biết vậy, mà sao vẫn “nghe nhói ở trong tim” - vẫn cảm thấy xót xa, tiếc nuối vô cùng.
Và lời cuối cùng trước khi trở về, Viễn Phương đã bộc lộ niềm mong muốn:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”
Đó là lời hứa mà nhà thơ trước khi trở về miền Nam. Nhà thơ muốn “làm con chim hót quanh lăng Bác”, “đóa hoa tỏa hương đâu đây”, “cây tre trung hiếu chốn này”. Dù muốn trở thành gì, nhà thơ đều muốn được gần bên Bác, tận trung tận hiếu với Người.
Quả thật, khi đọc bài thơ “Viếng lăng Bác” của nhà thơ Viễn Phương, người đọc mới thấy được tình cảm sâu nặng mà nhân dân Việt Nam dành cho Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mà nhà thơ chỉ là người nói thay tấm lòng ấy.
Bài văn cảm nhận về bài thơ "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương - mẫu 8
Nhắc đến nhà thơ Viễn Phương là nhắc đến một thi sĩ với hồn thơ nhẹ nhàng, man mác, bâng khuâng. Thơ ông lay động lòng người bởi sự tinh tế trong cách diễn đạt cảm xúc, hình ảnh thơ giản dị mà sâu sắc. Bài thơ Viếng lăng Bác là một bài thơ như thế, bằng tình cảm chân thành bình dị của một người con miền Nam, Viễn Phương đã viết nên những vần thơ thiết tha bày tỏ niềm thành kính và nỗi xúc động khi được ra thăm lăng Bác.
"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát"
Lời xưng hô thân mật, gần gũi, như tình cảm của một đứa con thân yêu dành cho người cha đáng kính. Sau bao khát khao mong ước, hôm nay người con ấy có cơ hội được viếng lăng Bác, nỗi xúc động, nghẹn ngào thốt lên thành tiếng như thỏa lòng mong mỏi gặp Bác bấy lâu. Nơi miền Nam xa xôi, người con ấy mang cả trái tim của hàng triệu đồng bào miền Nam đang dõi theo người, ấm áp biết bao. Đứng trước lăng là hàng tre xanh bát ngát trong sương mai buổi sớm, hàng tre ấy vẫn hiên ngang, đứng bên người, chở che cho người.
"Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng"
Từ cảm xúc khi đứng trước lăng, tác giả bồi hồi nghĩ về con dân đất Việt. Những con người Việt Nam anh dũng, kiên trung, cây tre là biểu tượng là hồn cốt của dân tộc Việt. Người Việt Nam vẫn luôn sáng ngời bởi sự gắn bó bền chặt, ý chí kiên cường, dẫu bão táp mưa sa, dẫu đất cằn sỏi đá vẫn hiên ngang, ngạy thẳng, thủy chung. Hàng tre xanh xanh ấy là sức sống bền bỉ, sự trường tồn của đất nước, dân tộc. Theo dòng người, vào viếng lăng Bác, tác giả lại càng thương nhớ xúc động hơn bao giờ hết.
"Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ"
Nếu ánh mặt trời của thiên nhiên ngày ngày vẫn miệt mài "đi" bên Bác, vẫn dõi theo người, ánh mặt trời ấy mang sự sống, mang nguồn ánh sáng rực rỡ cho muôn loài trên thế gian. Thì Bác cũng như ánh mặt trời ấy, diệu kì và đẹp đẽ biết bao, Bác mang nguồn sáng của cách mạng soi rọi con đường giải phóng của dân tộc, là ánh sáng ấm áp trong mỗi trái tim chúng con. Đó là một hình ảnh rất đẹp, rất thơ, chứa chan niềm tôn kính của nhà thơ tới Bác Hồ - vị cha già kính yêu của dân tộc.
"Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân".
Bác vẫn ở đấy thôi, chúng con từ khắp mọi miền đến bên người. Ngày ngày những dòng người vào thăm Bác trong niềm xúc động, nhớ thương khôn nguôi. Niềm yêu thương ấy kết thành những tràng hoa đẹp nhất, rực rỡ nhất dâng lên người. Cuộc đời dân tộc nở hoa dưới nhân cách và công lao vĩ đại của Người. Bác đã hiến trọn bảy mươi chín mùa xuân đẹp đẽ nhất cho dân tộc cho cách mạng, Bác đã làm nên mùa xuân mới cho đất nước, cho muôn dân. Càng vào trong lăng, nỗi nghẹn ngào lại càng khó tả, càng mãnh liệt khôn nguôi khi bắt gặp hình ảnh người:
"Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên
…
Mà sao nghe nhói ở trong tim".
Bác đang yên nghỉ giấc ngủ ngàn thu giữa một vầng trăng hiền dịu, ánh trăng như Bác vậy, luôn ấm áp và dịu dàng, là kẻ tri âm tri kỉ với Người. Ánh trăng sáng trong ấy như nhân cách vĩ đại của người, cao đẹp, gần gũi mà thân thương. Dẫu biết rằng Bác như bầu trời xanh kia vậy, luôn mãi mãi trường tồn, khắc sâu trong trái tim của muôn người, nhưng thực tại cũng khiến tác giả không khỏi đau lòng được.
Không buồn sao được, không thổn thức, tiếc thương sao được khi bầu trời xanh của dân tộc đã ra đi mãi mãi. Tiếng thơ cất lên sao mà nhói lòng, mà thổn thức đến vậy. Càng bên Bác, tình cảm lại càng dạt dào, càng bứt rứt, quyến luyến chẳng muốn rời xa. Từng phút giây thiêng liêng được bên Người là khoảnh khắc quý báu và đáng trân trọng nhất, khi nghĩ đến việc phải xa Người lại không thể ngăn được những dòng nước mắt nuối tiếc, bịn rịn.
"Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Ước nguyện giản dị nhưng chất chứa tình cảm lớn lao của người con gửi đến Người. Từ “muốn làm” lặp đi lặp lại như diễn tả nỗi khát khao khôn nguôi được ở lại với Người, được bên Người thật lâu. Là con chim cất cao tiếng hót giữa bầu trời thanh bình, là đóa hoa tỏa hương ngào ngạt, là cây tre trung hiếu canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người. Mong ước ấy đâu chỉ riêng của Viễn Phương mà còn là tiếng lòng, là khát khao, ước nguyện của tất cả mọi người còn trên đất nước này gửi đến Bác.
"Bác Hồ - người là niềm tin thiết tha nhất trong lòng dân và trong trái tim nhân loại", hình ảnh Bác luôn mãi sắt son và trường tồn theo thời gian. Bài thơ thật đẹp, thật đáng quý, đáng yêu bởi những cảm xúc tự tận đáy lòng được viết ra của tác giả. Không cầu kỳ, hoa mỹ, không lộng lẫy, phô trương. “Viếng lăng Bác” kết tinh những tình cảm lớn trong một trái tim bình dị đã chạm đến cảm xúc người đọc một cách tự nhiên như thế.
Bài văn cảm nhận về bài thơ "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương - mẫu 9
Bác Hồ - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, người đã hiến dâng cả cuộc đời mình vì dân vì nước. Người không một giây, một phút nào ngừng nghĩ về dân tộc, về sự ấm no và hạnh phúc của nhân dân... Để rồi khi Người ra đi đã để lại một nỗi buồn vô hạn, một tình yêu thương tha thiết của nhân dân cả nước. Để rồi có biết bao nhiêu bài thơ, bài văn hay về Bác, nổi bật trong đó có lẽ là "Viếng lăng Bác" của nhà thơ Viễn Phương. Đọc từng dòng thơ ta nghe như sóng trào cảm xúc, lời thơ giản dị mà tình cảm chân thành, rất đỗi đẹp đẽ của nhà thơ nói chung và của miền Nam nói riêng dành cho vị cha già kính yêu của dân tộc.
Sau ngày đất nước hòa bình, Bắc Nam đã sum họp một nhà, Tổ quốc thống nhất, độc lập. Năm 1976, Viễn Phương may mắn được ra viếng thăm lăng Bác, lòng rất đỗi tự hào và vui mừng khôn xiết biết bao:
"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác"
Nhà thơ xúc động cất lên tiếng "con" đầy tha thiết và chứa chan niềm yêu thương. Đó là sự kính yêu, hết mực trân trọng, là tấm lòng của một người con gửi đến người cha thân yêu, qua đó cũng nói lên được sự gần gũi của nhân dân với Bác như tình ruột thịt gắn bó keo sơn. Một sớm mai giữa bầu trời thủ đô, đến bên Người, ai cũng mang trong mình những tình cảm thật lớn lao, ai cũng mong được đứng thật lâu trước lăng Chủ tịch để cảm nhận.
"Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng"
Đó là hàng tre xanh thân thuộc đứng hiên ngang, vững chãi trước bão táp mưa sa cũng chính như những người dân đất Việt, mạnh mẽ, kiên cường, ngay thẳng, kiên trung. Dẫu có mưa bom bão đạn, dẫu có nắng cháy, mưa sa, có thách thức, gian khổ, họ vẫn cần cù, chịu thương, chịu khó. Bao sóng gió, họ vẫn hiên ngang, đứng thẳng, ngẩng cao đầu chân chính bước tới vinh quang của tự do, độc lập. Gặp gỡ những điều bình dị ấy, trong tác giả dâng lên niềm tự hào khôn nguôi về nhân dân nước Việt. Những cây tre xanh tượng trưng cho những người con của dân tộc luôn bên cạnh Bác, song hành cùng Bác dù Bác đã đi xa, chở che, tỏa bóng mát dịu nhẹ xuống nơi Người an nghỉ. Dường như, tất cả mọi thứ nơi đây đều quá đỗi cao đẹp và thiêng liêng:
"Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân"...
Hai vầng mặt trời sáng ngời bao vẻ đẹp. Mặt trời của thiên nhiên rực rỡ, sáng soi, mang ánh sáng diệu kỳ, vô tận. Ánh sáng ấy mang lại bao sự sống cho muôn loài. Ánh "mặt trời trong lăng" là hình ảnh ẩn dụ cho ánh mặt trời của dân tộc - Bác Hồ kính yêu. Bác mãi bất tử với non sông, với dân tộc, sự nghiệp cách mạng chói ngời và vẻ vang của người đã soi sáng cho con đường chiến đấu phía trước của dân tộc để đi đến thống nhất ngất hôm nay. Đó còn là ánh mặt trời của tình thương, lòng bác ái mà Bác đã dành trọn cho nhân dân. Và có lẽ vì vậy, mà người người luôn mang trong mình tình cảm, lòng kính yêu đối với Bác. Giây phút lặng lẽ thiêng liêng từng dòng người đến viếng Bác, kết dâng tràng hoa tươi đẹp nhất, những tình cảm thiết tha nhất, nồng hậu nhất kết tinh gửi đến Người. Nhân dân muôn nơi đến viếng thăm, như những tràng hoa tươi đẹp của cuộc đời được nuôi dưỡng dưới ánh mặt trời rực rỡ của Người. Bảy mươi chín mùa xuân ấy là bảy mươi chín mùa xuân tươi đẹp của cuộc đời, sống trọn vẹn, cống hiến, hy sinh cho non sông, dân tộc.
"Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!"...
Bác nằm an nghỉ một giấc ngủ ngàn thu, ung dung, bình thản giữa vầng trăng dịu nhẹ. Khoảng không gian rất đỗi bình yên và lắng đọng. Vầng trăng như tâm hồn Bác vậy, bao la và đầy cao đẹp. Dẫu biết rằng, Bác cũng như trời xanh kia, luôn tồn tại mãi trong tim mỗi người. Nhưng sự thật khiến trái tim ta vẫn không thể nguôi ngoai nỗi đau khi mất Bác "Mà sao nghe nhói ở trong tim". Theo dòng cảm xúc, lời thơ tuôn trào bao xúc động, khiến ta không khỏi nghẹn ngào:
"Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này"
Cảm xúc dâng trào mãnh liệt, tác giả vừa tiếc thương vừa lưu luyến khi phải rời xa Người để trở về miền Nam. Khao khát muốn làm đóa hoa để tỏa hương, cây tre kiên trung hay tiếng chim ca hát để được ở bên Người. Tình cảm tuyệt vời đó không chỉ là của riêng nhà thơ mà là tấm lòng yêu kính của những người con miền Nam dành cho Bác.
Cuộc đời Bác sống thanh cao, giản dị, không cầu kì. Có lẽ vì vậy mà những vần thơ Việt về người vẫn luôn bình dị và chân chất như thế. Hình ảnh quen thuộc, gần gũi nhưng bằng những phép ẩn dụ, nhân hóa đặc sắc tác giả đã bày tỏ lòng thành kính tới Bác. Dù chưa được một lần gặp Người, nhưng qua những vần thơ như thế, ta càng thêm kính yêu và tự hào về Người, mãi khắc ghi công ơn biển trời mà Bác đã dành cho dân tộc.
Bài văn cảm nhận về bài thơ "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương - mẫu 10
Bác Hồ - người anh hùng, một người con vĩ đại của dân tộc. Cả cuộc đời người đã cống hiến hết sức mình vì nhân dân,vì đất nước… Để rồi khi người ra đi, đã để lại cho nhân dân sự tiếc thương vô hạn. Bác ra đi là điều mất mát lớn nhất của dân tộc, là nỗi đau của hàng vạn trái tim Việt Nam. Những bài thơ, lời hát ra đời viết về nỗi thương nhớ, xót xa Người gây niềm xúc động mãnh liệt. Nổi bật hơn cả có lẽ là thơ "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương. Nhà thơ đã bày tỏ sự kính trọng, biết ơn và nỗi niềm thương tiếc, đau xót qua từng dòng thơ.
Mở đầu bài thơ là lời thông báo của nhà thơ:
"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác"
Viễn Phương đã xưng "con" đầy thân thương mà gần gũi, tha thiết. Nhà thơ đã dùng từ "thăm" để giảm đi sự đau buồn nhưng ta vẫn thấy sự đau buồn của cảnh sinh li tử biệt. Phải yêu thương, kính trọng biết bao mới xưng hô thân thiết như thế. Qua đó ta thấy được sự gần gũi, tình cảm của Bác với nhân dân như ruột thịt.
"Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam Nam
Bão táp mưa sa vẫn thẳng hàng"
Màu tre xanh là hình ảnh thân thuộc của làng quê Việt Nam, trên xanh dũng cảm, kiên cường, dẫu đất cằn sỏi đá vẫn vươn mình cứng cỏi. Hình ảnh "bão táp mưa sa" vẫn thẳng hàng" đã cho ta thấy được sự kiên cường, anh dũng, thanh cao của chính con người Việt Nam trước khó khăn, giông bão. Quanh lăng Bác là những hàng tre "xanh xanh","bát ngát" như những đứa con của dân tộc Việt Nam đang bảo vệ, canh giữ cho Người. Dù là lúc sống hay khi đã mất thì những người con Việt Nam vẫn luôn ở bên Người. Ở khổ thơ thứ hai, nhà thơ thể hiện cảm xúc của mình trước đoàn người vào lăng:
"Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...."
Ở hai câu thơ đầu có hai hình ảnh của mặt trời. Mặt trời thứ nhất là mặt trời tả thực của thiên nhiên. Mặt trời thứ hai là hình ảnh ẩn dụ cho Bác Hồ. Mặt trời rất đỏ tượng trưng cho sự sáng chói, sống mãi của Người. Bác là Người đã soi lối, chỉ đường đưa dân tộc đến với độc lập, tự do. Bằng hình ảnh mặt trời ở cả hai câu thơ, tác giả muốn nói: "Bác Hồ là mặt trời đẹp nhất và luôn sống mãi trong tim của người dân Việt Nam". Qua đó, phải chăng con đường cách mạng của Người như chính ánh mặt trời đẹp đẽ, rực rỡ mang lại cả nguồn sống cho dân tộc. Đồng thời, bày tỏ tấm lòng thành kính, trân trọng của nhà thơ, của nhân dân với sự cao quý của Người. Ngày ngày, luôn có những dòng người lần lượt vào thăm Bác. Hình ảnh dòng người viếng lăng Bác được ví như tràng hoa dâng lên tặng Người, dâng lên Bác tình yêu, sự biết ơn và kính trọng những gì xinh đẹp nhất, tươi tắn nhất. "Bảy mươi chín mùa xuân" là hình ảnh hoán dụ đầy đẹp đẽ, Bác đã sống cuộc đời 79 mùa xuân cống hiến và hi sinh hết mình vì dân, vì nước. Một cuộc đời thật đẹp đẽ và ý nghĩa, một cuộc đời vì mọi cuộc đời. Khi vào trong lăng viếng Bác, cảm xúc của tác giả lên tới cao trào:
"Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Tác giả sử dụng biện pháp nói giảm nói tránh đã giúp giảm đi sự đau thương mất mát của nhân dân cả nước: "Vầng sáng dịu hiền" như chính tâm hồn cao đẹp, trong sáng của Người, như chính trái tim bao dung, nhân ái của Người. Trong trái tim mỗi người Việt Nam, Bác mãi mãi là "trời xanh", là nguồn sống, niềm tin bất diệt. Dù biết Bác sẽ mãi sống trong trái tim mỗi người nhưng vẫn mất mát, đau thương trước sự ra đi của Người. Câu thơ "mà sao nghe nhói ở trong tim" đã cho ta thấy được tình cảm sâu sắc, đau đớn của tác giả nói riêng và cả dân tộc nói chung. Nếu như ở cả ba khổ thơ đầu, tác giả cố kìm nén cảm xúc nơi sâu thẳm đáy lòng thì đến với khổ thơ cuối, khi sắp phải chia xa người, lòng lại nặng trĩu, cảm xúc chợt tuôn trào:
"Mai về miền Nam dâng trào nước mắt"
Xa Bác, làm sao không buồn, không luyến tiếc cơ chứ. Vừa mới đến với Bác thôi nhưng vì một lẽ nào đó mà phải chia tay, cảm giác thật bịn rịn khó tả. Tác giả còn bộc bạch niềm mong muốn, khát vọng của mình:
"Muốn là con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này."
Điệp ngữ "muốn làm" được nhắc tới ba lần vừa thấy được sự gấp gáp, sự khát khao mãnh liệt của nhà thơ. Chỉ muốn làm con chim nhỏ để cất tiếng hót quanh Bác mỗi ngày, muốn làm đóa hoa để tỏa hương thơm ngát, để tô sắc thắm cho nơi đây. Và lời ước nguyện cuối cùng của tác giả:
"Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này"
Mỗi người là một cây tre trung hiếu với Bác, thì cả hàng tre là cả dân tộc trung hiếu với Người. Nguyện trung thành và hiếu kính với Người suốt một đời. Luôn học tập và đi theo con đường lí tưởng cách mạng của Người. Ước nguyện đâu phải chỉ của riêng mình Viễn Phương đâu mà còn là ước nguyện của con dân miền Nam, là ước nguyện của cả dân tộc.
Đọc bài thơ em càng trân trọng biết bao công lao của Bác, trân quý biết bao nhân cách của Người. Và em cũng hiểu được rằng, mỗi tác phẩm văn học thành công không phải được tạo nên từ những lấp lánh, huyền ảo, cao sang của thực tại mà đến từ những điều bình dị, giản đơn nhất. Hơn hết, một tác phẩm thành công phải được xuất phát từ sự chân thành, từ tấm lòng tha thiết của người nghệ sĩ, "Viếng lăng Bác" xứng đáng với thành công ấy.
Bài văn cảm nhận về bài thơ "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương - mẫu 11
Trong các bài thơ viết về Bác Hồ, Viếng lăng Bác của Viễn Phương là một bài thơ đặc sắc, gây cho em nhiều xúc động nhất. Bao trùm toàn bài thơ là niềm thương cảm vô hạn, lòng kính yêu và biết ơn sâu sắc của nhà thơ đối với Bác Hồ vĩ đại.
Câu thơ mở đầu "Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác" như một lời nói nghẹn ngào của đứa con đi xa trở về thăm viếng hương hồn Bác Hồ kính yêu. Tình cảm ấy là tình cảm chung của đồng bào và chiến sĩ miền Nam đối với lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.
Nhà thơ đứng lặng đi, trầm ngâm từ phía xa nhìn lăng Bác. Hàng tre để lại cho anh nhiều cảm xúc và liên tưởng thấm thía. Màu tre xanh thân thuộc của làng quê Việt Nam luôn luôn gắn bó với tâm hồn của Bác. Bác đã "đi xa "nhưng tâm hồn Bác vẫn gắn bó thiết tha với quê hương xứ sở:
“Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.”
Cây tre, "hàng tre xanh xanh"... "đứng thẳng hàng" ẩn hiện thấp thoáng trước lăng Bác. Cây tre đã được nhân hóa như biểu tượng ca ngợi dáng đứng của con người Việt Nam: kiên cường, bất khuất, mộc mạc, thanh cao... Hình ảnh cây tre trong lời thơ của Viễn Phương biểu thị niềm tự hào dân tộc làm cho mỗi chúng ta cảm nhận sâu sắc về phẩm chất cao quý của Bác Hồ cũng như của con người Việt Nam trong bốn nghìn năm lịch sử.
Trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại có nhiều bài thơ nói đến hình ảnh mặt trời: "Mặt trời chân lí chói qua tim "( Từ ấy - Tố Hữu). "Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi - Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng" (Nguyễn Khoa Điềm). Viễn Phương có một lối nói rất hay và sáng tạo, đem đến cho em nhiều liên tưởng thú vị:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng,
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”.
Ở đây "mặt trời... rất đỏ" là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho đạo đức, lòng yêu nước, tinh thần cách mạng sáng ngời của Bác. Mặt trời thiên nhiên thì vĩnh hằng cũng tựa như tên tuổi và sự nghiệp cách mạng của Bác Hồ đời đời bất tử. Viễn Phương đã ví dòng người vô tận đến viếng lăng Bác như "Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân ". Mỗi người Việt Nam đến viếng Bác với tất cả tấm lòng kính yêu và biết ơn vô hạn. Ai cũng muốn đến dâng lên Người những thành tích tốt đẹp, những bông hoa tươi thắm nảy nở trong sản xuất, chiến đấu và học tập. Hương hoa của hồn người, hương hoa của đất nước kính dâng Người. Cách nói của Viễn Phương rất hay và xúc động: lòng thương tiếc, kính yêu Bác Hồ gắn liền với niềm tự hào của nhân dân ta - nhớ Bác và làm theo Di chúc của Bác.
Khổ cuối, cảm xúc thơ dồn nén, sâu lắng, làm xúc động lòng em. Lời hứa thiêng liêng của nhà thơ đối với hương hồn Bác trước khi trở lại miền Nam thật vô cùng chân thành. Câu mở đầu nhà thơ viết: "Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác"... đến đây, anh lại nghẹn ngào nói: "Mai về miền Nam thương trào nước mắt"... Biết bao lưu luyến, buồn thương! Ra về trong muôn dòng lệ "thương trào nước mắt". Xúc động tột cùng, nhà thơ muốn hóa thân làm "con chim hót", làm "đóa hoa tỏa hương", làm "cây tre trung hiếu" để được đền ơn đáp nghĩa, để được mãi mãi sống bên Người. Ba lần nhà thơ nhắc lại hai chữ "muốn làm" như thế giọng thơ trở nên thiết tha, cảm động. Những câu thơ của Viễn Phương vừa giàu hình tượng vừa dào dạt biểu cảm, đã khơi gợi trong tâm hồn em bao tình thương tiếc và biết ơn vô hạn đối với Bác Hồ kính yêu. Trong câu thơ của Viễn Phương tuy có tiếng khóc nhưng không làm cho chúng ta bi lụy, yếu mềm, trái lại, nó đã nâng cánh tâm hồn chúng ta:
“Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi
Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn"
(Bác ơi - Tố Hữu)
Ai cũng cảm thấy phải sống xứng đáng, phải sống đẹp để trở thành "cây tre trung hiếu" của đất nước quê hương:
“Mai về miền Nam, thương trào nước mắt,
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác,
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây,
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”
"Cây tre trung hiếu" là một hình ảnh ẩn dụ đầy sáng tạo, thể hiện đạo lí sáng ngời của con người Việt Nam tận trung với nước, tận hiếu với dân, đời đời trung thành với sự nghiệp cách mạng của Bác.
Bác Hồ đã đi xa, nhưng hình ảnh Bác, sự nghiệp cách mạng và công đức của Bác vẫn sống mãi trong tâm hồn dân tộc. Bài thơ của Viễn Phương đã thể hiện rất hay và chân thành tình cảm của hàng triệu con người Việt Nam đối với lãnh tụ Hồ Chí Minh.
Bài văn cảm nhận về bài thơ "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương - mẫu 12
Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại, người cha già muôn vàn kính yêu của dân tộc Việt Nam. Người ra đi để lại niềm tiếc thương vô hạn cho toàn thể nhân dân. Để rồi 7 năm sau, tháng 9 năm 1969, nhà thơ Viễn Phương vẫn bồi hồi thương nhớ Người và sáng tác lên bài thơ “Viếng lăng Bác”. Bài thơ thể hiện niềm kính yêu, sự xót thương và lòng biết ơn sâu sắc của tác giả nói riêng, của toàn thể đồng bào Việt nói chung với vị lãnh tụ của dân tộc.
“Viếng lăng Bác” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ Viễn Phương. Bài thơ được in trong tập “Như mây mùa xuân” xuất bản năm 1976, gây ấn tượng bởi những cảm xúc chân thành và niềm thành kính, biết ơn của nhà thơ, của đồng bào miền Nam và nhân dân cả nước dành cho Bác. Mở đầu bài thơ, người đọc cảm nhận được niềm xúc động và tự hào của nhà thơ khi được đến thăm lăng Bác sau 7 năm kể từ ngày Người ra đi:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Câu thơ đầu tiên vang lên như một lời chào, lời giới thiệu đầy cảm xúc về hành trình của những đứa con từ miền Nam ra thủ đô thăm Bác. Viễn Phương xưng hô “con -Bác” gợi cảm giác gần gũi thân thương, gợi mối quan hệ gắn bó như cha con ruột thịt. Nhà thơ trong đó giống như một người con xa nhà, lâu ngày mới có dịp trở về thăm hỏi người cha già kính yêu. Đồng thời, động từ “thăm” được sử dụng như cách nói giảm nói tránh cho sự ra đi của Bác để nén lại bớt cảm xúc mất mát đau thương chưa thể nguôi ngoai của cả dân tộc.
Hình ảnh “hàng tre bát ngát” ẩn hiện trong làn sương sớm mờ ảo trên đường đến thăm Bác chính là hình ảnh tả thực mang dáng hình quê hương đất nước thân yêu, bình dị. Nó cũng là biểu tượng cho con người Việt Nam kiên cường bất khuất, vượt qua “bão táp mưa sa” muôn vàn gian khổ để thống nhất đất nước theo di ngôn của Người, rồi trở về nghiêng mình kính cẩn trước anh linh của Người. Những hình ảnh gợi tả gợi cảm kết hợp với nhau đã tạo nên một trường liên tưởng độc đáo, thú vị. Lăng Bác hiện lên dưới ngòi bút nhà thơ như một làng quê yên bình.
Tác giả bước theo dòng người chầm chậm vào lăng, tâm hồn trào dâng niềm thành kính, biết ơn và ngưỡng mộ sâu sắc:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một Mặt Trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Đến đây, nhà thơ tiếp tục sáng tạo những hình ảnh thơ vô cùng độc đáo. Hình ảnh “Mặt trời đi qua trên lăng” miêu tả mặt trời của thiên nhiên, vũ trụ, ngày ngày tỏa ánh sáng đem đến sự sống cho vạn vật. Trong lăng Bác – nơi Bác yên nghỉ lại có một “mặt trời” khác “rất đỏ”. “mặt trời trong lăng” chính là hình ảnh ẩn dụ tuyệt đẹp chỉ Bác Hồ kính yêu, thể hiện niềm biết ơn thành kính với vị lãnh tụ như vầng thái dương soi sáng đường đi, chở che cho cả dân tộc.
Từ “ngày ngày” khẳng định quy luật thời gian bất biến của tự nhiên lẫn con người, diễn tả hiện thực dòng người nối dài vô tận, lặng lẽ trang nghiêm mỗi ngày tiến vào lăng Bác để bày tỏ tình cảm với người cha già muôn vàn kính yêu. Họ là đại diện cho người Việt Nam từ ba miền Bắc Trung Nam, từ 54 dân tộc anh em trên khắp mọi miền Tổ Quốc. Họ kết thành hình ảnh ẩn dụ “tràng hoa” biểu tượng cho những gì tinh túy, đẹp đẽ nhất của đất nước và con người Việt Nam kính dâng lên Bác.
Ngoài ra, tác giả cũng sáng tạo hình ảnh hoán dụ “bảy mươi chín mùa xuân” diễn tả bảy mươi chín năm tuổi đời của Bác là bảy mươi chín mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy ý nghĩa. 79 mùa xuân ấy đã hy sinh để đem đến cho dân tộc ta một mùa xuân độc lập, tự do và hạnh phúc vĩnh hằng. Để rồi khi đứng trước di hài của Bác, trái tim nhà thơ trào dâng cảm xúc nghẹn ngào không thể kìm nén, lay động trái tim của hàng triệu người:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Viễn Phương vẫn tiếp tục dùng phép nói giảm, nói tránh “giấc ngủ bình yên” như muốn cố gắng giảm bớt sự thật đau đớn về sự ra đi của Bác. Nhà thơ tái hiện trước mắt người đọc khung cảnh chân thực đầy xúc động: Bác nằm trong lăng, gương mặt thân thương của Bác trở nên hồng hào, dịu hiền như vầng trăng dưới ánh đèn hồng mờ ảo. Hình ảnh “trời xanh” và “ánh trăng” là hình ảnh thực thể hiện sự trường tồn vĩnh cửu của thiên nhiên đồng thời cũng là hình ảnh ẩn dụ cho tình cảm của nhân dân với Bác. Nó kết hợp với cặp quan hệ từ “vẫn biết – mà sao” diễn tả cảm xúc nghẹn ngào trào dâng. Biết rằng Người sẽ luôn sống mãi trong lòng dân tộc nhưng sự thật Bác đã ra đi mãi mãi vẫn khiến nhà thơ “nghe nhói ở trong tim”.
Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “nghe nhói” nhấn mạnh niềm đau xót tột cùng của nhà thơ trước thực tại Bác không con nữa. Rồi nghĩ đến ngày mai phải trở về, xa Bác, nỗi xúc động của tác giả cũng như những người con miền Nam bật lên thành tiếng nấc vỡ òa:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…
Những giọt nước mắt tiếc thương, nhung nhớ Bác đến giây phút này đã không thể kìm nén. Lời thơ vang lên đầy nức nở, nghẹn ngào. Niềm khát khao chân thành muốn ở gần Bác của ông được bộc lộ mãnh liệt bằng một loạt động từ “muốn làm”. Viễn Phương muốn làm con chim để hiến dâng tiếng hót lên lăng Bác, làm cây tre thành kính, tôn nghiêm như người lính canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người. Đó đều là những hình ảnh ẩn dụ chỉ những gì tinh túy tốt đẹp của thiên nhiên, thể hiện ước nguyện xúc động của nhà thơ và toàn thể dân tộc: Muốn ở bên, canh giữ cho giấc ngủ bình yên của Người.
Đặc biệt, bài thơ kết thúc bằng hình ảnh “cây tre trung hiếu” tạo kết cấu đầu cuối tương ứng, khẳng định tấm lòng chung thủy, sắt son vô hạn với Đảng, với Bác Hồ của đồng bào miền Nam, của cả dân tộc.
Trải qua bao dòng chảy thời gian, bài thơ vẫn chạm đến trái tim người đọc bởi nội dung và nghệ thuật đặc sắc. Bài thơ được viết theo thể tám chữ sáng tạo, kết hợp khéo léo chất tự sự và trữ tình. Ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc, đậm chất Nam Bộ đồng thời sử dụng những hình ảnh thơ chân thực gợi nhiều trường liên tưởng. Đặc biệt, sử dụng thành công các biện pháp nói giảm, nói tránh, ẩn dụ, hoán dụ, điệp từ...Từ đó thể hiện cảm xúc đau đớn xót thương, nỗi nhớ và tình cảm thiết tha, sự biết ơn thành kính với Bác Hồ kính yêu. Bài thơ dễ dàng khơi gợi cảm xúc trong lòng độc giả, là nén tâm hương kính dâng lên Người.
Với bài thơ “Viếng lăng Bác” Viễn Phương đã đóng góp không nhỏ cho thi ca đề tài về Bác. Dù bao năm qua đi, bài thơ mãi mãi là tác phẩm đầy xúc cảm gửi gắm những giá trị tốt đẹp vĩnh cửu mà nhà thơ và toàn thể dân tộc dành cho Bác.
Hãy đăng nhập để bình luận
Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .