Top 8 Bài văn cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác qua đoạn trích "Vào phủ Chúa Trịnh" (lớp 11) hay nhất
Những ghi chép của Lê Hữu Trác trong tác phẩm "Vào phủ Chúa Trịnh" không chỉ tái hiện chân thực khung cảnh xa hoa, lãng phí nơi phủ chúa mà thông qua những ghi chép...xem thêm ...
Bài văn cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác - mẫu 1
Lê Hữu Trác được biết đến là một danh y bậc nhất của thời trung đại. Ông không chỉ là một thầy thuốc giỏi mà còn là một nhà văn, nhà thơ tài ba. Tác phẩm nổi bật nhất ông để lại là “Thượng kinh kí sự”, với ngòi bút miêu tả sắc sảo, không chỉ phơi bày hiện thực cuộc sống xa hoa, tráng lệ nơi phủ chúa, mà đằng sau đó ta có thấy sáng lên tấm lòng, nhân đức cao đẹp của một con người đại tài.
“Thượng kinh kí sự” là tập kí sự được viết bằng chữ Hán, hoàn thành năm 1783. Tác phẩm ra đời nhân sự kiện chúa Trịnh Sâm cho mời Lê Hữu Trác ra kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Tác phẩm này đã phơi bày quang cảnh kinh đô, cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa quyền uy, đầy thế lực. Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” tuy chỉ là một trích đoạn ngắn ngủi nhưng đã phần nào nói lên nhân cách, vẻ đẹp trong tâm hồn tác giả: Coi thường lợi danh và là người thầy thuốc lương thiện, có y đức.
Khi đang ở quê nhà Hương Sơn – Hà Tĩnh, sáng sớm tinh mơ đã có người đến gõ cửa rất gấp triệu ông vào cung bắt mạch, kê đơn, chữa bệnh cho thế tử Cán, ông ăn vận chỉnh tề và theo họ đến kinh đô. Trước khung cảnh phủ chúa nguy nga, sa hoa khiến cho một người vốn “con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng đã từng biết” cũng phải ngỡ ngàng “bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của phủ chúa thực khác hẳn người thường”. Những gì ông thấy trên đường vào nơi thâm cung khiến ông không khỏi ngỡ ngàng, với cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, trăm hoa đua sắc ở khắp mọi nơi, quang cảnh thực khác thường. Không phải ngẫu nhiên mà Lê Hữu Trác lại có nhã hứng ngâm thơ, mà qua những vần thơ ấy ông thể hiện sự giàu sang khác thường, một điềm báo chẳng lành ở nơi phủ chúa: Cả trời nam sang nhất là đây. Bao nhiêu cổ vật, chân cầm dị thú đều tập trung cả ở nhà phủ chúa, khiến cho những con người “quê mùa” như tác giả không khỏi ngỡ ngàng:
“Quê mùa, cung cấm chưa quen
Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào”.
Sự ngỡ ngàng, bất ngờ đó ngày một tăng lên khi ông đi sâu vào trong phủ chúa, những cái điếm lớn, cột và bao lơn lượn vòng, kiểu cách xinh đẹp, hay những cái cây và hòn đá lạ lùng mà nhân gian chưa từng gặp đều tụ hội ở nơi phủ chúa. Những đồ vật được dùng trong phủ chúa đều là những đồ vật giá trị, sơn son thếp vàng: đồ nghi trượng, sập, võng điều,… cung cách sinh hoạt hết sức xa hoa. Nhìn những đồ vật đó tác giả “chỉ dám ngước mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi”. Hành động đó cho thấy tính cách coi thường danh lợi của tác giả. Trước sự sa hoa, quyền quý ở nơi phủ chúa ông không sợ hãi, không ham mê mà coi thường tất cả phường danh lợi đó. Ta có thể thấy trong đoạn trích này, giọng điệu mỉa mai, châm biếm của tác giả được ẩn giấu rất kĩ lưỡng, đó chỉ là cái cười khểnh rất nhẹ, rất kín đáo mà ta khó lòng nhận ra. Những lời nhận xét, bình luận mà dường như không phải: “Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường” hay “Tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”. Qua các lời nhận xét đó đã cho thấy thái độ coi thường danh lợi, một cách rất kín đáo Lê Hữu Trác đã cho người đọc thấy được cốt cách cao đẹp của bản thân.
Không chỉ vậy, ông còn là một người thẳng thắn, không sợ uy quyền. Trước khi trả lời câu hỏi của Quan Chánh đường, Lê Hữu Trác đã được quan Chánh đường rào đón trước về cách chữa bệnh nên “dùng thứ thuốc công phạt” để tác giả liệu điều kê thuốc theo đúng ý quan Chánh đường. Nhưng trước những lời nói đó, Lê Hữu Trác không hề sợ hãi, bằng sự chuẩn đoán của bản thân, ông vẫn kê đơn thuốc theo những gì mình cho là tốt nhất cho người bệnh: “Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế, sác. Thế là âm dương đều bị tổn hại, nay phải dùng thuốc thật bổ để bồi dưỡng tì và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm nguồn gốc cho cái hậu thiên….”. Sự bộc trực, thẳng thắn này một phần xuất phát từ sự coi thường danh lợi của tác giả, đồng thời cũng là từ tấm lòng y đức, lương thiện của ông.
Bên cạnh đó, qua đoạn trích này ta còn thấy Lê Hữu Trác là một người thầy thuốc có y đức, có lương tâm với người bệnh. Vốn không cầu danh lợi, ông rời xa chốn kinh thành về tận Hương Sơn – Hà Tĩnh để bốc thuốc chữa bệnh cho người dân, khi được triệu vào cung chữa bệnh ông cũng mang hết tài năng và kiến thức của bản thân để chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Nhưng sau khi khám xong, trong ông bị hai mâu thuẫn giằng xé, là chữa bệnh hay không chữa bệnh cho thế tử. Nếu chữa bệnh khỏi cho thế tử lại sợ “mình không ở lâu, nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không sao về núi được nữa. Chi bằng ta cứ dùng thứ phương thuốc hòa hoãn, nếu không trúng thì cũng không sai bao nhiêu”.
Nếu làm như vậy ông sẽ được thỏa mãn cái thú điền viên, được chữa bệnh cho người nghèo và không bị phường lợi danh cuốn vào. Nhưng với y đức vốn có của một người thầy thuốc liệu ông có thể làm được như vậy hay không? Rất nhanh sau đó ông đã tự đưa ra câu trả lời cho chính mình: “Cha ông mình đời đời chịu ơn của nước, ta phải dốc hết cả lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình mới được”. Trước hết ông đưa ra lý do muốn tiếp nối lòng trung của cha ông, tổ tiên để không phụ lại công ơn cha ông để lại, nhưng đằng sau đó còn là cả tấm lòng, là cả nhân cách y đức sáng ngời của ông. Trước người bệnh, không kể đó là ai ông chỉ có một lòng chữa và giúp họ khỏi bệnh. Tấm lòng cao cả, y đức hơn người đó đã giúp ông chiến thắng những mong muốn, nhu cầu của bản thân. Lê Hữu Trác quả là con người giàu lòng y đức và thương người.
Chỉ trong một trích đoạn ngắn, nhưng người đọc đã phần nào thấy được vẻ đẹp nhân cách và tâm hồn của Lê Hữu Trác. Ông là người coi thường danh lợi, phú quý, là một vị lương y tài giỏi, nhân đức.
Bài văn cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác - mẫu 2
Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác là tác phẩm đặc sắc, đánh dấu sự phát triển mới của thể loại kí Việt Nam thời trung đại. Với tác phẩm này, tác giả đã ghi lại những cảm nhận của bản thân trước hiện thực về cảnh vật và con người mà mình tận mắt chứng kiến từ lúc nhận được lệnh triệu về kinh đô chữa bệnh cho thế tử Cán đến lúc xong việc, về tới nhà ở Hương Sơn. Và có thể nói, đoạn trích "Vào phủ chúa Trịnh" là một trong số những đoạn trích tiêu biểu của tác phẩm, vẽ lại một cách chân thực cuộc sống nơi phủ chúa. Đặc biệt, qua đoạn trích còn giúp chúng ta thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác.
Trước hết, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác hiện lên là một con người coi thường danh lợi. Bước vào khung cảnh lộng lẫy, nguy nga, tráng lệ và nghiêm trang, cung kính nơi chốn phủ chúa với những gác tía, "Đại đường", "Quyển bồng" Lê Hữu Trác đã bộc lộ cảm xúc của mình một cách trực tiếp. "Mình vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng đã từng biết. Chỉ có những việc trong phủ chúa là mình chỉ mới nghe nói thôi. Bước chân đến nơi này mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường." Với những câu văn đã dẫn ở trên có thể thấy được thái độ ngỡ ngàng, bất ngờ của tác giả trước khung cảnh nơi phủ chúa. Tuy nhiên, ẩn sau cái thái độ ngỡ ngàng ấy, ông cũng gián tiếp lên tiếng phê phán cuộc sống xa hoa, hưởng lạc nơi phủ chúa. Thái độ phê phán ấy của ông thể hiện qua cách ông miêu tả quang cảnh nơi phủ chúa một cách chi tiết, tỉ mỉ, từ ngoài vào trong, từ xa đến gần, dường như ông đã dẫn người đọc đi chiêm ngưỡng hết mọi nơi trong phủ chúa và để rồi cuối cùng ông khép lại bằng một bài thơ miêu tả cảnh phủ chúa nhưng xét đến cùng chính là tiếng lòng của ông:
Quê mùa cung cấm chưa quen
Khác chi ngư phủ đào nguyên thuở nào!
Đồng thời, thái độ phê phán cảnh sống xa hoa nơi phủ chúa còn được thể hiện qua giọng điệu mỉa mai, giễu cợt khi ông nói về những đồ dùng trong phủ chúa lúc được mời ăn cơm: "Mâm vàng chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia". Như vậy, xét đến cùng, ẩn sau cách miêu tả tỉ mỉ quang cảnh xa hoa nơi phủ chúa và thái độ mỉa mai trong cách ghi chép, miêu tả chính là một Hải Thượng Lãn Ông coi thường danh lợi, tiền bạc, không đồng tình với cuộc sống xa hoa nhưng thiếu khí trời nơi chốn phủ chúa.
Không dừng lại ở đó, Lê Hữu Trác còn là một thầy thuốc tài giỏi, có kinh nghiệm trong nghề, giàu lương tâm, đức độ và luôn giữ cho mình một lối sống, một cốt cách thanh cao. Có thể nói, trước khi chữa bệnh cho thế tử Cán trong nội tâm Lê Hữu Trác có sự giằng co, mâu thuẫn giữa một bên là ông hiểu căn bệnh, biết cách chữa trị nhưng sợ chữa có hiệu quả ngay sẽ được chúa tin dùng, bị công danh trói buộc, không được về với núi rừng ẩn dật với một bên là muốn chữa cầm chừng nhưng lại sợ trái với lương tâm, y đức, sợ phụ lòng cha ông. Nhưng để rồi, đến cuối cùng, tấm lòng, lương y của người thầy thuốc cùng với việc ông luôn lấy việc nối tiếp lòng trung thành của cha ông làm tôn chỉ, làm lẽ sống đã chiến thắng tất cả mọi suy tư, trăn trở, mâu thuẫn trong ông, để rồi cuối cùng ông đưa ra phương pháp, cách thức chữa trị bệnh cho thế tử - căn bệnh mà nhiều thầy thuốc đã không tìm ra cách chữa trị.
Tuy nhiên, việc Lê Hữu Trác sợ chữa có hiệu quả ngay sẽ được chúa tin dùng, bị công danh trói buộc, không được về với núi rừng ẩn dật xét đến cùng là sự biểu hiện cho lòng yêu thích cuộc sống tự do, thanh đạm nơi quê nhà, không vướng bận vinh hoa phú quý của ông. Thêm vào đó, tài năng, kinh nghiệm trong nghề thầy thuốc của ông không chỉ được thể hiện trực tiếp ở việc chữa khỏi bệnh cho thế tử Cán mà còn ở lời nhận xét của Quan chánh đường "Phương thuốc và lập luận của cụ khác chúng ta nhiều."
Tóm lại, qua đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh giúp chúng ta thấy được rằng Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác bên cạnh là một thầy thuốc giỏi, giàu kinh nghiệm còn là một người giàu y đức, có tâm hồn và nhân cách cao đẹp - coi thường tiền bạc, vinh hoa, yêu thích cuộc sống tự do, thanh đạm. Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao đẹp của ông là tấm gương sáng cho lớp lớp thế hệ sau ngưỡng mộ và học tập, noi theo.
Bài văn cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác - mẫu 3
Lê Hữu Trác, hiệu Hải Thượng Lãn Ông là một danh y nổi tiếng thế kỉ XVIII. Ông không chỉ là một nhà y học tài năng mà còn là một nhà văn, nhà thơ rất đáng trân trọng của dân tộc ta. Ông đã để lại cho đời sau một sự nghiệp y học đồ sộ; bên cạnh đó ông còn có những tác phẩm văn chương rất quý giá.
Thượng kinh kí sự là tập kí viết bằng chữ Hán của Hải Thượng Lãn Ông. Tác phẩm ghi chép lại những điều ông mắt thấy tai nghe trong một chuyến đi từ Hương Sơn (Hà Tĩnh), nơi ông sống ẩn dật, đến kinh đô Thăng Long, vào phủ Chúa theo “Thánh chỉ” để chữa bệnh cho Thế tử Trịnh Cán. Tác phẩm cho ta thấy quang cảnh ở kinh đô, quyền uy thế lực của nhà Chúa, và cuộc sống xa hoa trong phủ Chúa Trịnh, đồng thời cũng cho thấy tâm hồn, nhân cách của một vị danh y tài cao, đức trọng. Đoạn trích “Vào phủ Chúa Trịnh” là một trong những đoạn văn thể hiện tập trung tư tưởng này.
Đoạn trích bắt đầu từ lúc tác giả đã đến Thăng Long, hiện ở đỉnh Trung Kiên trong phủ Chúa được triệu vào khám bệnh cho Thế tử. Thời gian được ghi rõ là ngày “mồng một tháng hai”, “sáng tinh mơ”; và nói rõ nguyên có sự việc “có Thánh chỉ triệu vào cung” – đó là đặc điểm của thể kí sự. Ở kinh đô được nhìn thấy cảnh giàu sang, xa hoa, Lê Hữu Trác đã tả lại quang cảnh ấy một cách chân thực bằng cái nhìn khách quan và tâm hồn giàu cảm xúc. Điều đáng lưu ý là cảnh vàng son nơi phủ Chúa hiện lên như một thiên đường: “Tôi ngẩng đầu lên đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương. Những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp. Người giữ cửa truyền báo rộn ràng”… Tâm hồn tác giả nhạy cảm, giàu tình yêu thiên nhiên, nhưng với cảnh giàu sang, xa hoa nơi phủ Chúa, Hải Thượng Lãn Ông vẫn có một giọng trào lộng. Tất cả tâm hồn, tình yêu thiên nhiên, cùng thái độ trào lộng ấy đều được thể hiện rõ nét trong việc miêu tả và tự thuật. Hải Thượng viết: “Tôi nghĩ: Mình vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng từng biết. Chỉ có những việc trong phủ Chúa… mới hay cái cảnh giàu sang của Vua Chúa thực khác hẳn người thường”. Rồi tác giả làm thơ miêu tả nói là “để ghi nhớ” cảnh này:
“Lính nghìn cửa vác đông nghiêm ngặt
Cả trời Nam sang nhất là đây!
Lầu từng gác vẽ chân mây,
Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ảnh vào…
Quê mùa cung cấm chưa quen,
Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào!”
Lời thơ mới đầu tưởng như là lời ngợi ca cảnh đẹp nơi phồn hoa, nhưng nghĩ cho kĩ thì tâm hồn tác giả rung cảm với vẻ đẹp thiên nhiên chỉ có một phần. Toàn bộ nội dung của bài thơ như có chất trào lộng, châm biếm, tuy Hải Thượng Lãn Ông không thể bộc bạch ra được. Cảnh cung đình hiện lên như ở cõi tiên với những “lầu son, gác tía”, “hiên ngọc, rèm châu”. Tác giả nói mình là “ngư phủ” lạc vào chốn “đào nguyên” theo tích trong Đào hoa nguyên kí của Đào Tiềm. Nói như vậy không rõ là để ngợi ca phủ Chúa hay là để mỉa mai? Rồi tác giả còn miêu tả cặn kẽ hơn các ngôi điếm và cảnh quan cũng theo giọng điệu nửa khen nửa chê ấy: “Điếm làm bên cái hồ, có những cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ. Trong điếm, cột và bao lơn lượn vòng, kiểu cách thật là xinh đẹp”. Trong lối diễn đạt ấy, tác giả đã khéo léo ngụ ý phê phán. Ông lên án cuộc sống xa hoa nơi phủ Chúa một cách kín đáo.
Là một người coi trọng chữ “đức”, lánh xa danh lợi, Hải Thượng Lãn Ông không coi trọng lối sống xa hoa. Hơn nữa, trên quan điểm vì con người, vì dân, Hải Thượng Lãn Ông thấy rõ nơi phủ Chúa là hiện thân của sự bóc lột, trái ngược với đời sống nhân dân. Ông diễn đạt điều này một cách khéo léo là “cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”. Tài năng của ông được người đời truyền tụng là làm thuốc hay, nổi tiếng như “sấm động bên tai”… Và việc ông được tiến cử chữa bệnh cho Thế tử là một cơ hội để tiếng tăm càng nổi hơn, và quan thái y là tước vị sẽ đến với ông chắc chắn. Song, với Hải Thượng Lãn Ông, tất cả những thứ danh lợi ấy chỉ là phù phiếm. Ông không muốn vướng vào vòng danh lợi, cũng như những bậc ẩn sĩ thời xưa mà Đào Tiềm là một tấm gương.
Quan niệm của các Nho gia, Đạo gia xưa kia đều không màng danh lợi. Đó là vì họ ham mê lý tưởng cao đẹp hơn, và quan trọng là phải giữ cho tâm hồn, cốt cách của mình được trong sạch. Cho nên, khi xem bệnh cho Thế tử, Hải Thượng Lãn Ông cuối cùng đã tìm cách để “hoà hoãn”, sao cho vừa giữ được mình khỏi tiếng “bất trung”, lại vừa tránh được việc phải ở lại làm quan. Cũng đã có sự đấu tranh tư tưởng diễn ra trong tâm trạng của Hải Thượng Lãn Ông. Nhưng đó không phải là sự đấu tranh giữa cái danh lợi với sự trong sạch của tâm hồn, mà là giữa đạo “trung” của kẻ bề tôi với lòng ham “về núi” của kẻ sĩ thời loạn. Và cuối cùng, ta thấy lòng ham “về núi” của kẻ sĩ thanh cao đã thắng: ông đã thật sự thoát được khỏi vòng danh lợi, dũng cảm và thông minh để từ chối việc chữa bệnh cho Trịnh Cán, một Thế tử trẻ con, ốm yếu, bệnh hoạn…
Sự phân tích y thuật của ông thể hiện sự am hiểu ý lý sâu sắc, khác hẳn với cách hiểu của bọn quan thái y, và làm cho bọn họ phải kính nể. Tuy nhiên, tài năng của Hải Thượng Lãn Ông không được sử dụng để phục vụ bọn vua chúa xa hoa, càng không phải để phục vụ việc mưu cầu lợi ích cho riêng mình, mà là để phục vụ nhân dân. Bằng ngòi bút kí sự chân thực sắc sảo, Lê Hữu Trác đã phản ánh được cuộc sống xa hoa nơi phủ Chúa và qua đó, ta thấy hiện lên tâm hồn và nhân cách của Hải Thượng Lãn Ông: đó là một tâm hồn trong sạch, một nhân cách lớn của một nhà y thuật tài ba và đạo đức. Tác phẩm Thượng kinh kí sự xứng đáng là viên ngọc quý của nền văn học trung đại Việt Nam.
Bài văn cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác - mẫu 4
Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác là một danh y tài năng, giàu y đức, sống vào cuối thế kỉ XVIII (thời vua Lê - chúa Trịnh). Ông còn là một nhà văn, nhà thơ đáng kính. Trong cuốn “Thượng kinh kí sự” (viết năm 1782), với ngòi bút kí sự chân thực và sắc sảo, ông đã vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh, về quyền uy, thế lực của nhà chúa, miêu tả kinh đô Thăng Long lúc bấy giờ nhân dịp ông được triệu vào kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” là một trong những đoạn thể hiện tập trung giá trị của tác phẩm kí sự này. Cũng qua đoạn trích, ta thấy được đôi nét về tâm hồn và nhân cách của Hải Thượng Lãn Ông.
Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” cũng như tập “Thượng kinh kí sự” đã khắc họa chân thực những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp Lãn Ông được triệu vào kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Qua đoạn trích, ta còn thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của ông: Đó là sự coi thường danh lợi, giữa cho nhân cách được trong sạch.
Lê Hữu Trác ngỡ ngàng trước quang cảnh kinh đô. Đó là bởi “cái cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”. Lê Hữu Trác, vốn con quan, sinh trường ở chốn phồn hoa cũng phải thốt lên rằng: “Cả trời Nam sang nhất là đây!” Bao nhiêu giàu sang phú quý đều tập trung ở phủ chúa. Những người dân bình thường có bao giờ được biết đến cái cảnh sang giàu này. Nhưng đó cũng mới chỉ là cái biểu hiện ban đầu. Bài thơ mà cụ Lê Hữu Trác ngâm đọc đường đi được kết thúc bằng câu:
“Quê mùa, cung cấm chưa quen
Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào!”
Câu kết thúc ấy đã phần nào phản ánh tâm tư của cụ. Cuộc sống bên ngoài và bên trong phủ chúa thật là khác nhau. Giống như người ngư phủ năm xưa lạc vào chốn thần tiên, huyền ảo, thơ mộng. Có một cảm giác xót xa lần quất ở đâu đây. Một sự phân vân, trăn trở trong tâm hồn người làm nghề y. Không phải ngẫu nhiên cụ Trác có hứng ngâm thơ chơi, mà đó là để ghi nhớ cái sự giàu sang khác thường trong phủ chúa. “Đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”. Được ngồi trên cáng để vào phủ mà “khổ không nói hết”. Chỉ với chi tiết ấy đã cho thấy tâm hồn Lê Hữu Trác không hợp với chốn này. Ông sinh ra không phải để dành cho những chốn “rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào”.
Sự ngỡ ngàng ngạc nhiên cũng được tăng dần qua từng nơi cụ đặt chân đến. “Những cái cây lạ lùng và những hòn đá kỳ lạ” chưa bao giờ thấy được đặt trong cái điểm ven hồ. Rồi những đồ dùng trong phủ chúa đều được sơn son thếp vàng, từ cái kiệu để vua chúa đi, đến các đồ nghi trượng, từ cái sập đến những cây cột... Bàn ghế thì toàn những đồ đạc “nhân gian chưa từng thấy”. Tác giả chỉ dám “ngước mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi”. Cái cử chỉ cúi đầu đi ấy chứng tỏ rằng Lê Hữu Trác không phải là người đam mê vinh hoa phú quý, ham tiền bạc hay lợi lộc. Đó là một nét đẹp trong nhân cách con người ông. Ông cảm thấy lạ lẫm và lạc lõng giữa cuộc sống xa hoa trong phủ chúa. Tất cả những điều đó đều bộc lộ qua ngòi bút kí sự đặc sắc, chân thực.
Nhân cách và tâm hồn danh y họ Lê còn được bộc lộ ngay trong suy nghĩ của ông khi kê đơn thuốc cho thế tử Trịnh Cán. Một đấu tranh quyết liệt trước tòa án lương tâm. Một bên là sự trói buộc của công danh, một bên là cái tâm của người thầy thuốc, cái đạo làm người, cái phận làm bề tôi. “Nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi ràng buộc, không làm sao về núi được…”. Nhưng rồi lại nghĩ: “Cha ông mình đời đời yêu nước, ta phải dốc hết lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình mới được”. Có thể thấy Lê Hữu Trác là người không màng công danh, không ham bổng lộc. Ngược lại ông còn đấu tranh với chính mình để thoát khỏi sự ràng buộc ấy, để được sống tự do cùng núi non để tâm hồn thanh thản.
Mặt khác ông cũng là người thầy thuốc có tâm huyết và giàu đức độ. Vì thế mà ông đã kê cho thế tử “phương thuốc hòa hoãn nếu không trúng thì cũng không sai bao nhiêu, vì lương tâm không cho phép. Nếu làm sai thì sẽ phải phỉ báng cái nghề y của mình, sẽ có lỗi với lòng mình; nếu làm đúng và tốt thì sẽ bị danh lợi ràng buộc. Dù thế nào cũng phải giữ được cho tâm hồn trong sạch, giữ cho nhân cách được trọn vẹn. Cách lí giải về bệnh tình của Trịnh Cán cũng như diễn biến suy nghĩ, tâm trạng của ông khi kê đơn cho thấy Lê Hữu Trác là người thầy thuốc có lương tâm.
Như vậy, từ cách nhìn của Lê Hữu Trác đối với đời sống nơi phủ chúa, đến sự suy nghĩ cân nhắc khi kê đơn cho thế tử đều cho thấy ông là người có tâm huyết với nghề và có nhân cách, giàu đức độ. Ông hoàn toàn coi thường tiền tài, danh lợi.
Tài năng ấy, tâm hồn ấy, nhân cách ấy của Lê Hữu Trác đã giúp cho ông sống mãi trong lòng người thầy thuốc nói riêng, người dân đất Việt nói chung. Ông xứng đáng được phong tặng danh hiệu ông tổ của nghề thuốc và được người đời sau nhắc đến với lòng thành kính nhất.
Bài văn cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác - mẫu 5
Nhắc đến Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là nhắc đến một nhà y giàu y đức, ông cũng là một nhà thơ, nhà văn lỗi lạc. Trong suốt cuộc đời, ông đã để lại vô vàn những tác phẩm, những cống hiến to lớn cho đất nước, và một trong số đó phải kể đến là cuốn “Thượng kinh kí sự” được viết năm 1782, là thành quả của chuyến đi đến kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Qua đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh”, ta thấy được cuộc sống xa hoa của bọn chúa phong kiến và nổi bật hơn hết là tâm hồn, nhân cách sáng ngời của một nhà y có tâm đức không ham tiền tài danh vọng.
Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” đã ghi lại chân thực toàn bộ những điều mà ông chính mắt thấy, tai nghe. Khi được tận mắt chứng kiến mọi thứ trong phủ chúa, ông lại không khỏi sững sờ, kinh ngạc bởi các vẻ quyền quý, cao sang. Mọi thứ còn hơn cả lời đồn mà ông đã nghe được ở bên ngoài.
Mở đầu tác phẩm ông đã lấy ngòi bút của mình để phác lại bức tranh rực rỡ ở phủ chúa. Từ ngoài vào trong không biết bao nhiêu kẻ hầu người hạ, những hàng cây um tùm nối đuôi nhau tít tắp, rồi có chỗ lại có những hòn đá hình thù kì lạ, nơi có những chiếc cột được dát vàng. Nghe tác giả kể mà ta như đi lạc vào một thế giới cổ tích nào đó, một thế giới sặc sỡ sắc màu và uy quyền không tưởng. Nhà y được đưa vào trong phủ bằng cửa sau, đi hết hành lang này đến hành lang kia rồi lại qua cửa lớn cửa nhỏ, bắt gặp những cung điện đài các nguy nga đến ngộp thở, đứng trước khung cảnh kiêu sa thế khiến cho ông trầm trồ nhưng cũng chỉ ngẩng đầu lên liếc vài cái rồi lại cúi gằm xuống đất. Dường như ngay từ khi bước chân vào trong phủ ông đã nhận ra đây không phải là thế giới dành cho mình, đó là cuộc sống đối nghịch với thực tại của hàng nghìn hàng vạn con người ngoài kia đang đầu sấp mặt tối chỉ mong có đủ cơm ăn, áo mặc. Có lẽ ông nhận ra đây là cái cao sang bất nhân, bất nghĩa có được bằng cách bóc lột, tước đoạt công sức của người khác.
Và con người nhân đức ấy cũng ngạc nhiên bởi cung cách sinh hoạt của phủ chúa. Trong phủ người hầu kẻ hạ tấp nập, lại thêm bữa ăn đầy sơn hào hải vị, của ngon vật lạ ở trên đời khiến ông ấn tượng không sao quên nổi. Đó là khi ông được mời một bữa cơm trong phủ, dù chỉ là cơm sẻ của quan nhưng với ông nó cũng quá xa xỉ, mâm vàng, chén bạc và mọi thứ tươm tất đến không tưởng. Đây chẳng còn là thế giới của con người mà là một thế giới thần tiên nào đó được tạo ra dành cho chúa trời.
Thật vậy, nhân cách sáng ngời của ông cũng bộc lộ rõ nét khi chuẩn bệnh cho thế tử. Đó là một đứa bé tầm năm, sáu tuổi bị mắc một căn bệnh mà nguyên nhân lại rất đơn giản. Đó là vì không vận động lại được ăn sung mặc sướng lâu ngày dẫn đến hại thân và mang bệnh. Sự phục vụ chu đáo của kẻ hầu người hạ khiến cho nó không phải động tay chân, mắc bệnh lâu ngày mà chưa khỏi khiến sinh khí khô héo, gầy guộc, gân xanh nổi lên khắp người. Chỉ cần nhìn sơ qua thôi, nhà y thông thái ấy cũng đã có thể chuẩn đoán ra được bệnh tình của đứa trẻ mang danh con trời kia nhưng rồi ông lại đắn đo, dằn vặt, đấu tranh tìm ra cách tốt nhất cho lựa chọn của mình.
Và cuối cùng sau bao trăn trở ông đã chọn phương thuốc hòa hoãn để chữa bệnh cho thế tử mặc dù có khả năng chữa khỏi ngay lập tức. Ông trăn trở vì sợ tiền tài danh vọng sẽ cướp mất tự do, tự tại của cuộc đời, sợ chữa bệnh khỏi nhanh quá sẽ bị giữ lại. Qua chi tiết trên, có thể thấy Lê Hữu Trác là người không ham mê danh vọng, điều ông coi trọng hơn ca là cái y đức, cái đạo đức lẽ sống của mình. Không có gì quý giá hơn tự do tự tại của cuộc đời, và ông đã quyết định tránh xa nơi thị phi ganh đua để sống an nhàn. Ông thà làm lang y bình thường chứ nhất định không trở thành con chim quý trong lồng lúc nào cũng phải khom lưng quỳ gối trước kẻ lãnh chúa tàn bạo.
Kẻ có tài luôn là người có tâm. Thật vậy từ xưa đến nay, đã có biết bao nhân tài chọn cách buông bỏ triều chính vì nhận ra được cái bản chất, cái bộ mặt thật sự của triều đình. Luật lệ được đặt ra để đàn áp con người nghèo khổ, nó là công cụ để cướp bóc một cách hợp pháp. Cả một đất nước rộng lớn bị bao phủ bởi bóng tối đặc kịt, những tiếng khóc, tiếng kêu van thảm thiết. Con người cứ chìm trong đau khổ còn bọn thống trị thì cứ nhởn nhơ hưởng thụ. Một xã hội thối nát và vô nhân đạo làm sao. Thế nhưng sau tất cả ta vẫn còn hy vọng, niềm tin vẫn được tiếp nối bởi xã hội vẫn còn những người có tâm có đức như Lê Hữu Trác, ông là một người có tài, có tâm và mang trong mình nhân cách cao đẹp.
Bài văn cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác - mẫu 6
Lê Hữu Trác, hiệu Hải Thượng Lãn Ông là một danh y có tâm huyết và đức độ. Đồng thời, ông cũng là một nhà văn, nhà thơ có những đóng góp đáng ghi nhận cho văn học nước nhà. Tiêu biểu trong số đó là đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” trích trong “Thượng kinh kí sự” đã để lại những giá trị hiện thực sâu sắc.
Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” nằm ở phần mở đầu tác phẩm kể về việc Lê Hữu Trác tới kinh đô được dẫn vào phủ để bắt mạch kê đơn cho chúa Trịnh Cán. Ở đây, ông đã chứng kiến được cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa. Hiện thực trong phủ chúa được ông miêu tả theo quang cảnh của phủ chúa từ ngoài vào trong, không những thế còn là những cuộc sống sinh hoạt nơi phủ chúa. Tất cả đều hiện lên vô cùng chân thực. Đồng thời qua việc miêu tả đó, ta cũng thấy được một nhân cách lớn.
Đầu tiên là quang cảnh trong phủ chúa. Từ khi bước chân vào phủ chúa, Lê Hữu Trác đã bắt đầu quan sát thật tỉ mỉ. Đi được vài trăm bước, qua mấy lần cửa mới đến cái điếm “Hậu mã quân túc trực”. “Điếm làm bên cái hồ, có những cái cây lạ lùng và những hòn đá kỳ lạ. Trong điếm cột và bao lơn lượn vòng, kiểu cách thật là xinh đẹp”. Rồi khi vào bên trong, tác giả lại càng bất ngờ bởi sự xa hoa hơn cả bên ngoài. “Qua dãy hành lang phía tây, đến một cái nhà lớn thật là cao và rộng. Hai bên là hai cái kiệu để vua chúa đi. Đồ nghi trượng đều sơn son thếp vàng. Ở giữa đặt một cái sập thếp vàng. Trên sập mắc một cái võng điều. Trước sập và hai bên, bày bàn ghế, những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy… Lại qua một cửa nữa, đến một cái lầu cao và rộng. Ở đây, cột đều sơn son thếp vàng.”
Nhưng thế đã là gì, cung cách sinh hoạt trong phủ chúa lại còn khiến ta thêm ngạc nhiên hơn nữa. Khi tác giả được cáng vào phủ: “tên đầy tớ chạy đằng trước hét đường và cáng chạy như ngựa lồng”, “người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi”. Mỗi lời lẽ nhắc đến chúa đều phải nhẹ nhàng, khuôn phép thể hiện sự cung kính và lễ độ. Bữa cơm sáng của chúa đầy những của ngon, vật lạ còn đồ dùng trên mân đều bằng vàng bằng bạc. Chúa Trịnh luôn có phi tần hầu chầu chực xung quanh.
Sau khi khắc họa toàn cảnh phủ chúa, Lê Hữu Trác đã đưa ra lời đánh giá về phủ chúa là nơi thiếu đi sinh khí. Cũng bởi vì sự thâm nghiêm kiểu mê cung làm tăng ám khí, lối sống cung cấm khiến con người dần trở nên: “Tính khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi, gân thòi xanh, chân tay gầy gò…”, “Thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi”. Lời đánh giá cho thấy một thái độ không đồng tình với cuộc sống cũng như sự dửng dưng với những cám dỗ vật chất xa hoa nơi phủ chúa, một con người không màng đến vật chất phù phiếm.
Vốn là một người thông minh, Lê Hữu Trác đắn đo rất kỹ trong cách chữa bệnh cho thế tử. Ý kiến của các thầy thuốc trong cung ông nghe chỉ để tham khảo. Từ thực trạng bệnh tình và thể lực của thế tử, ông phân tích, cân nhắc thiệt hơn rồi tìm ra cách chữa phù hợp nhất: “Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế, sác. Thế là âm dương đều bị tổn hại, nay phải dùng thuốc thật bổ để bổ dưỡng tỳ và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm nguồn gốc cho cái hậu thiên. Chính khí ở trong mà thắng thì bệnh ở ngoài sẽ tự nó tiêu dần, không trị bệnh mà bệnh sẽ mất”. Điều thú vị hơn cả là nếu suy ngẫm kĩ, chúng ta sẽ thấy nội dung tờ khai của danh y Lê Hữu Trác nói về cách chữa bệnh cho thế tử nhưng lại chứa đựng một nhận xét cực kì chính xác về thực trạng của triều đình phong kiến đương thời và đưa ra phương thức chữa trị những căn bệnh trầm kha của nó: “Chầu mạch, thấy sáu mạch tế, sác và vô lực, hữu quan yếu, hữu xích lại càng yếu hơn. Ấy là tỳ âm hư, vị hỏa quá thịnh, không giữ được khí dương, nên âm hoả đi càn.
Vì vậy bên ngoài thấy cổ trướng, đó là tượng trưng ngoài thì phù, bên trong thì trống. Nên bổ tỳ thổ thì yên…”. Sự phân tích y thuật của ông thể hiện sự am hiểu ý lý sâu sắc, khác hẳn với cách hiểu của bọn quan thái y, và làm cho bọn họ phải kính nể. Lê Hữu Trác cũng cảm thấy đầy mâu thuẫn khi chữa bệnh cho Thế tử. Nếu chữa khỏi bệnh cho Thế tử, ông sẽ được giữ lại trong triều - với chức quan to và bổng lộc cao. Một bên là y đức của người thầy thuốc một bên là tấm lòng không màng danh lợi, chỉ vui thú sống “ẩn dật qua ngày” - lựa chọn cái nào mới là đúng đắn?
Qua phân tích trên, có thể thấy nét đẹp trong con người của Lê Hữu Trác - một vị danh y đáng được người đời nể phục.
Bài văn cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác - mẫu 7
Vào khoảng thế kỷ 17-18, vua Lê ham vui, ham vui mà không màng đến việc nước, đời sống nhân dân cơ cực, các thế lực phong kiến nổi dậy khắp nơi. Bên cạnh ngụy quyền nhà Lê và phủ Chúa lộng lẫy, uy quyền, kinh thành còn tồn tại hai Hoàng cung cùng một lúc, chính sự rối ren và suy thoái này đã thúc đẩy nhiều nhà Nho chân chính trở về quê hương. nơi. Hữu Trác cũng không ngoại lệ, dù ở đâu cũng luôn hướng trái tim mình, lắng nghe những âm hưởng của những mảnh đời cơ cực của con người. Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh”, đã làm sáng tỏ vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác. Ông là một bác sĩ tài năng, chính trực thanh liêm, khinh thường danh lợi.
Hải Thượng Lãn Ông là một trong những nhà Nho có tấm lòng với đất nước. Ông là một lương y nổi tiếng không chỉ chữa bệnh mà còn viết sách và mở trường dạy y học truyền bá y học chuyên nghiệp, luôn nỗ lực hết mình. Đó là những bài thuốc hay, những trang viết đầy tâm huyết và hơn hết là nhân cách cao đẹp của một con người. Với tác phẩm Thượng kinh ký sự, Lê Hữu Trác đã thể hiện tài năng của mình với tư cách là một bác sĩ, một nhà sử học, một nhà văn, ông đã đưa thể loại biên niên sử lên một tầm cao mới. Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh”, là một đoạn trích đặc sắc và tiêu biểu trong tác phẩm, nó đã tái hiện một cách chi tiết và chính xác hơn hành trình của tác giả vào phủ chúa để tra hỏi thái tử, từ đó hé lộ từng chút một. chân lý và bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp của tác giả.
Lúc đầu, Lê Hữu Trác không khỏi ngỡ ngàng trước cảnh tượng ở kinh thành. Đó là một mê cung với những dãy hành lang uốn lượn nối liền nhau, là điếm canh ngựa làm nhiệm vụ, được xây dựng với kiến trúc cầu kỳ và đẹp đẽ trong một cái chòi hình cột và hình tròn, một đại sảnh, một chòi canh màu tím. , sách rất to, cao và đẹp. Tại đây các cột đều được sơn son thếp vàng, phía trước sập là hai bên bàn ghế, đồ đạc trong cung chưa từng thấy, bữa ăn trong cung dùng mâm vàng, chén đựng tiền, đồ ăn đều là đồ ngon, vật lạ. . Cảnh giàu sang của vua chúa thường khác hẳn với người thường. Hữu Trác vốn xuất thân làm quan, lớn lên ở chốn phồn hoa phải nói “sang chảnh bậc nhất trời Nam”, tác giả không phải là người ham danh lợi, giàu sang, danh vọng, địa vị, tiền tài, danh lợi. vận may. Cô ấy là một người đẹp, trong tính cách của cô ấy. Chính vì vậy mà đứng trước danh lợi, cảnh cơ cực, anh chỉ cảm thấy lạc lõng xa lạ.
Tiếp theo, chân dung của một vị bác sĩ xuất hiện chi tiết, quá trình khám bệnh cho con trai của Thái tử Trịnh, quá trình này rất nhanh, rất khẩn trương, phải tuân theo một loạt quy tắc, mọi hành động, cử chỉ đều phải bấm nút thông báo và được sự cho phép của cảnh sát giao thông được phép làm như vậy. Chính Hữu Trác bắt mạch, sau đó nhìn đến thái tử phi thân thể, lập tức liền giải được bệnh nguyên nhân, chính là cuộc sống quá vật chất, mà thiếu khí phách, hắn tin tưởng vững chắc khả năng bệnh khả năng, nhưng là tâm tình. là vô cùng khó xử. Tất cả những giằng xé giữa một bên là lương tâm của người bác sĩ và một bên là nô lệ của danh vọng, nơi tôi thích. Nếu không điều trị bệnh, sẽ không đúng với lương tâm của người thầy thuốc, cuối cùng thì ý chí, trách nhiệm nghề nghiệp, tấm lòng với cha ông cũng như phẩm chất lương thiện của một danh y đã thắng thế. sở thích cá nhân. Qua đó có thể thấy Lê Hữu Trác không chỉ là một nhà văn tài hoa, một danh y với kiến thức y học uyên bác, mà còn là một nhà y đức lớn, tâm huyết với nghề, thanh cao bất chấp danh lợi.
Thế kỷ 18, nền văn học Việt Nam phát triển rực rỡ, với sự ra đời của nhiều tác phẩm văn học có giá trị nghệ thuật cao, giàu giá trị nhân văn, “Chuyện bến Thượng Hải” của Lê Hữu Trác cũng góp một phần vào thành công này. Thành công của đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh”, trước hết phải kể đến giọng văn kể chuyện rất chân thật, mộc mạc của tác giả, đó là sự xen kẽ rất tự nhiên giữa lời kể, lời bình và lời thơ của Lê Hữu Trác. và các báo cáo sự cố. Nhưng cách kể và miêu tả này vừa kín đáo, vừa bộc lộ được tâm tư, tình cảm, thái độ của người viết. Ngòi bút tinh tế của tác giả dường như không chê vào đâu được, hình ảnh vị vua hiện lên trong tác phẩm với những cung điện kiêu sa, cầu kỳ, quyền uy tuyệt đối như chúa Trịnh Sâm, chính điện, các tiến sĩ nổi tiếng trong 6 phủ, hai. các viện, Thái tử Trinh lăn lộn, đều vô nghĩa như nhau do bệnh tật. Không ai thực sự đủ khả năng và bản lĩnh, từ đó người đọc có thể phần nào nhận ra được bộ mặt của xã hội phong kiến Việt Nam thời vua Lê, chúa Trịnh.
Hình tượng Lê Hữu Trác là tấm gương sáng cho nền y học nước nhà, tài năng làm thuốc và những phẩm chất tâm hồn tốt đẹp của ông sống mãi trong lòng dân tộc Việt Nam.
Bài văn cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác - mẫu 8
Vào khoảng thế kỷ thứ XVII, XVIII vua Lê mải ăn chơi, hưởng thụ không lo việc nước, cuộc sống của nhân dân vô cùng khổ cực, các thế lực phong kiến nổi loạn ở khắp nơi. Bên cạnh triều đình bù nhìn của nhà Lê và Phủ Chúa lộng lẫy đầy quyền, kinh thành một lúc tồn tại hai Hoàng cung, hiện thực rối ren và suy thoái ấy đã khiến nhiều nhà nho chân chính, có cốt cách thanh cao tìm về chốn xa xôi ở ẩn. Lê Hữu Trác cũng không ngoại lệ, nhưng dù ở đâu ông vẫn luôn hướng lòng mình, lắng nghe những âm thanh vang vọng từ cuộc sống lầm than của nhân dân. Đoạn trích “Vào phủ Chúa Trịnh”, đã làm rõ vẻ đẹp tâm hồn nhân cách của Lê Hữu Trác. Đó là một người thầy thuốc tài, đức vẹn toàn, coi thường danh lợi.
Hải Thượng Lãn Ông là một trong những nhà nho nặng lòng với đất nước, Ông là một danh y, không chỉ chữa bệnh mà còn soạn sách và mở trường dạy nghề thuốc để truyền bá y học, luôn luôn cố gắng hết sức mình để đóng góp cho sản phẩm thật đáng trân trọng. Đó là những bài thuốc hay, những trang văn tràn đầy tâm huyết và hơn hết đó là một nhân cách cao quý của một con người. Với tập ký “Thượng kinh ký sự”, Lê Hữu Trác đã thể hiện tài năng của mình với tư cách người thầy thuốc, nhà sử học và nhà văn, với tư cách là nhà văn, Ông đã đưa thể loại kí sự lên một tầm cao mới. Đoạn trích “Vào Phủ Chúa Trịnh”, là một đoạn trích đặc sắc, tiêu biểu của tác phẩm, nó đã tái hiện chi tiết và cụ thể hành trình của tác giả vào phủ chúa để khám bệnh cho thế tử, từ đó dần hé lộ những đức tính tốt đẹp của tác giả.
Đầu tiên, Lê Hữu Trác ngỡ ngàng trước cảnh kinh đô. Đó là một mê cung với những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp, điếm hậu mã quân túc trực, được xây dựng với kiến trúc cầu kỳ, xinh đẹp trong điếm có cột và bao lớn lượn vòng, đại đường, gác tía, quyển bồng rất lớn cao và đẹp. Ở đây cột đều sơn son thếp vàng, trước sập là hai bên bày bàn ghế, những đồ đạc nhân gian trước nay chưa từng thấy, bữa cơm trong phủ dùng mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon, vật lạ. Cái cảnh giàu sang của vua, chúa thường khác hẳn so với người thường. Lê Hữu Trác vốn con quan, sinh trưởng ở nơi phồn hoa cũng phải thốt lên “cả trời Nam sang nhất là đây”, tác giả không phải con người đam mê vinh hoa, phú quý, ham danh, chức, tiền bạc hay lợi lộc. Đó là một nét đẹp, trong nhân cách con người ông. Chính vì thế đứng trước danh lợi, cái cảnh giàu sang cực điểm ông chỉ cảm thấy lạ lẫm và lạc lõng mà thôi.
Tiếp theo chân dung của một người thầy thuốc hiện lên chi tiết, quá trình khám bệnh cho thế tử Trịnh cán, quá trình ấy diễn ra rất nhanh, rất gấp, phải tuân theo một loạt các phép tắc, từng hành động, cử chỉ đều phải bấm báo và được quan chánh đường, truyền lệnh thì mới được phép thực hiện. Lê Hữu Trác bắt mạch, rồi xem thân hình của thế tử, ngay lập tức ông đã vận giải được nguyên nhân của căn bệnh, đó là cuộc sống quá thừa về vật chất, mà thiếu khí trời, ông vô cùng tin tưởng vào khả năng của mình, thế nhưng tâm trạng thì vô cùng khó xử. Mọi sự đấu tranh quyết liệt giữa một bên là lương tâm của người thầy thuốc, một bên là sự trói buộc của công danh, nếu như chữa khỏi bệnh thì sẽ bị danh lợi ràng buộc, không thể tiếp tục cuộc sống tự do, tự tại mà mình yêu thích. Nếu không chữa bệnh sẽ không đúng với lương tâm của người thầy thuốc, cuối cùng ý đức, trách nhiệm nghề nghiệp, tấm lòng đối với cha ông cũng như phẩm chất trung thực của một danh y đã chiến thắng sở thích cá nhân. Từ đó cho ta thấy Lê Hữu Trác, không những là một nhà văn tài hoa và còn là một danh y có kiến thức y học uyên thông, là một người thầy thuốc y đức lớn, tâm huyết với nghề, cốt cách thành cao, coi thường danh lợi.
Thế kỉ thứ XVIII, văn học Việt Nam phát triển rực rỡ, với sự ra đời của nhiều tác phẩm văn học, có giá trị nghệ thuật cao và chứa đầy giá trị nhân văn “thượng kinh ký sự” của Lê Hữu Trác cũng góp phần làm nên thành công ấy. Thành công của đoạn trích “Vào phủ Chúa Trịnh”, trước hết phải kể đến giọng điệu kể chuyện rất chân thực, mộc mạc của tác giả, đó là sự xen kẽ rất tự nhiên của lời kể, lời bình và thơ Lê Hữu Trác chú ý đến việc tả cảnh và tường thuật sự việc. Nhưng chính cách kể và cách tả ấy lại kín đáo, bộc lộ tâm sự, tình cảm, thái độ của nhà văn. Ngòi bút tinh tế của tác giả, có vẻ ông không phê phán một điều gì cả, hình ảnh phủ chúa hiện lên trong tác phẩm với những cung điện kiêu xa, cầu kỳ, với những con người quyền uy tuyệt đối như Chúa Trịnh Sâm, quan chánh đường, các danh y của 6 cung, hai viện, thế tử Trịnh cán, tất cả như vô nghĩa bởi bệnh tật. Không một ai thực sự có năng lực, bản lĩnh, từ đó người đọc phần nào nhận ra được bộ mặt xã hội phong kiến Việt Nam thời kỳ vua Lê, Chúa Trịnh.
Hình ảnh Lê Hữu Trác là một tấm gương sáng cho nền y học nước nhà, tài năng y đức, phẩm chất tốt đẹp của tâm hồn ông sống mãi trong lòng người dân đất Việt.
Hãy đăng nhập để bình luận
Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .