Top 6 Bài văn chứng minh rằng: Với bài thơ ông đồ Vũ Đình Liên đã chạm được vào những rung cảm tâm linh của giống nòi nên nó còn tha thiết mãi (lớp 8) hay nhất
Thơ mới 1930 - 1945 ra đời trong hoàn cảnh Việt Nam có sự xâm lấn ồ ạt về văn hóa của các nước phương Tây và sự suy thoái của những giá trị văn...xem thêm ...
Bài văn chứng minh rằng: Với bài thơ ông đồ Vũ Đình Liên đã chạm được vào những rung cảm tâm linh của giống nòi nên nó còn tha thiết mãi - mẫu 1
Trước kia, vào những ngày Tết, trên bàn thờ tổ tiên, bên cạnh cặp bánh chưng, mâm ngũ quả là đôi câu đối Tết. Bởi chính vậy, những ông đồ già trên vỉa hè, phố xá rất đông khách thuê viết. Hình ảnh ông đồ đội khăn xếp, mặc áo the viết câu đối đã khắc ghi vào sâu trong tâm trí nhà thơ Vũ Đình Liên. Với bài thơ "Ông đồ", Vũ Đình Liên đã chạm được vào những dung cảm tâm linh của giống nòi nên nó còn tha thiết mãi đến những thế hệ sau này.
Nhà thơ viết lên bài với một tấm lòng yêu thương, trân trọng, ngợi ca những tài năng, sự đóng góp của những lớp người đi trước với nền văn hoá của dân tộc. Nhà thơ đã làm như vậy khi viết bốn câu thơ đầu:
"Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua".
"Một thời vang bóng" của lớp người đã được xã hội trọng vọng, lúc mà nền tảng Hán học đang có một địa vị vững chắc. Gắn liền với sự hưng thịnh đó là hình ảnh những ông đồ giữa phố phường đông vui đầy sắc màu. Màu thắm của hoa đào, màu đỏ của giấy, màu đen nhánh của mực tầu và mái tóc hoa râm của ông đồ. Tất cả đã hài hoà, quyện với nhau thành một tác phẩm tranh lộng lẫy, ngoạn mục giữa phố xá tấp nập. Một vẻ đẹp sao vui tươi quá vậy! Đây mới là những hình ảnh thoáng qua như gió xuân hây hẩy nhưng cũng đã đủ để gợi lên cài gì đó thật quen trong lòng người. Ở khổ tiếp theo, hình ảnh ông đồ vẫn không phai nhạt:
"Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay."
Quả thực, đến lúc này, tài năng của ông đồ đã được phô bầy trong không khí phố phường, lúc này mọi người chú ý và trân trọng tài năng đó. Cái tài năng "Phượng múa rồng bay" của ông đồ dưới một bàn tay đầy khéo léo nghệ thuật đã làm rạng danh cho nên Hán học. Những con người đi trước với nền văn hoá dân tộc. Những câu chữ thánh hiền ông viết đã tặng cho mọi người về làm quà đón xuân, trang trí ngôi nhà ấm cúng, tình cảm gia đình thật ấm áp hơn. Thật đáng buồn biết bao, một truyền thống đẹp của dân tộc đã bị mai một đi, một hình ảnh đầy sắc màu mùa xuân đã dần mất đi khi nền văn hoá phương Tây du nhập vào nước ta. Người ta quên lãng đi câu đối tết và thay vào đó những bức tranh màu sấc rất sặc sỡ.
"Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu."
Độc giả đã hụt hẫng, cảm xúc tươi vui đã bị mất đi khi đọc khổ thơ này. Trước sự tàn tạ, ra đi của ông đồ và lớp người xưa cũ, lòng thương người của nhà thơ Vũ Đình Liên được biểu hiện ở sự cảm thông, nỗi xót xa và niềm tiếc nuối khôn nguôi. Ở 2 câu thơ:
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Ta như thấy nhà thơ bâng khuâng đi tìm lại bóng dáng của lớp người xưa cũ. Giọng thơ xót xa khi những con người tài hoa đã bị đẩy ra ngoài lề đường. Trong bối cảnh ấy, tình cảnh ông đồ dần trở nên buồn chán. Người thuê viết giảm đi theo thời gian và năm tháng "mỗi năm mỗi vắng". Hình ảnh ông đồ giữa đường phố đông vui chỉ còn là một thứ bóng mờ xa xôi. Nỗi xót thương của nhà thơ được bộc lộ rõ nét khi ông đồ và lớp người xưa cũ dần mất đi:
"Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu."
Người buồn, nên những vật dụng từng gắn bó thân thiết với ông cũng sầu đạm theo: giấy không đỏ như xưa, mực trong nghiên cũng sầu não theo. Có lẽ, giấy, nghiên mực không có tâm trạng, nhưng cái bi kịch tâm trạng của giấy, mực mà nhà thơ Vũ Đình Liên nhìn thấy chính là những nỗi xót xa, bẽ bàng của ông đồ nói riêng và lớp người xưa cũ nói chung. Nỗi buồn ấy không chỉ thấm vào phương tiện mưu sinh mà còn thấm đẫm vào cảnh vật thiên nhiên, cảnh vật đã làm cho không gian thêm hiu quạnh và hoang vắng.
"Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay."
Cho dù, ông đồ vẫn ngồi đấy nhưng đã bị mọi người quên lãng, ông chỉ còn là một di tích tiều tuỵ đáng thương của "một thời tàn'". Và có lẽ từ đó, ông vĩnh viễn vắng bóng. Đây âu cũng là sự dĩ nhiên, phũ phàng. Một Tết nào đó, khi hoa đào lại nở, người đời đã thảng thốt nhận ra sự vắng bóng của ông đồ trước cảnh nhộn nhịp của chốn phố phường. Một tiếng gọi tha thiết vang lên:
"Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?"
Ở hai khổ thơ đầu gợi lên cho độc giả niềm phấn chấn, tươi vui thì ba khổ thơ sau là một hình ảnh buồn bã, xót thương, sắc màu cũng phai nhạt theo. Giờ đây, ông đồ và lớp người xưa cũ đã trở nên vô nghĩa giữa cuộc đời. Bài thơ khép lại bằng những hình ảnh, câu thơ mang nặng nỗi buồn tha thiết của tác giả Vũ Đình Liên.
Đọc bài thơ "Ông đồ" xong, ta thấy Vũ Đình Liên đã diễn tả được tình yêu thương con người sâu sắc trước số phận hẩm hiu của ông đồ, nhưng nó đẹp biết bao. Bài thơ còn thể hiện một tâm Hồn cao cả và nhân hậu, một con người rất giàu tình yêu thương sâu đậm, ngợi ca những tài năng của người xưa và khuyên răn chúng ta hãy sống để giữ gìn và phát huy những tinh hoa văn hoá của dân tộc. Nền văn hoá đó xứng với một tầm cao mới.
Bài văn chứng minh rằng: Với bài thơ ông đồ Vũ Đình Liên đã chạm được vào những rung cảm tâm linh của giống nòi nên nó còn tha thiết mãi - mẫu 2
Giá trị của một bài thơ không phải được quyết định bằng giá trị của nó ở hiện tại mà là em xét khả năng dư vang của nó đến quá khứ và tương lai. Một bài thơ có thể gom góp hết giá trị của một quá khứ huy hoàng và gửi nó đến tương lai thì là một bài thơ đáng được mãi in sâu trong lòng người. Và "với bài thơ ông đồ Vũ Đình Liên đã chạm được vào những rung cảm tâm linh của giống nòi nên nó còn tha thiết mãi". Trước tiên, bài thơ "Ông đồ" đã chạm được vào những rung cảm tâm linh của giống nòi với cảm xúc luyến lưu xót xa cho những giá trị truyền thống dân tộc đang bị mai một:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực Tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Hoa đào là loài hoa biểu tượng cho mùa xuân ở miền Bắc. Hoa đào nở gợi nhắc ta về một không khí tết, một ngày đầu xuân mà mỗi năm đều có theo quy luật muôn đời của tạo hóa. Trong khung cảnh thiên nhiên ấy, ông đồ xuất hiện là biểu tượng của một phong tục truyền thống đó là tục cho chữ ngày tết. Vào mỗi dịp tết đến xuân về, mọi người đều có thói quen đi xin câu đối đỏ, chữ Nho viết trên giấy đỏ với mong ước về một năm mới bình an. Khi ấy, ông đồ là một nhân vật rất được trọng vọng:
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài:
"Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay"
Với bài thơ Ông đồ, Vũ Đình Liên đã chạm được vào những rung cảm tâm linh của giống nòi. Công việc của ông chính là công việc sáng tạo của một người nghệ sĩ, chữ mà ông viết ra được ví như là phượng múa rồng bay vừa đẹp, vừa cao quý. Viết những dòng này với giọng thơ giàu cảm hứng, ta có thể cảm nhận đươc tình cảm của nhà thơ đối với phong tục này. Nhưng chuyện ấy không giữ được mãi mãi:
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu...
Đoạn thơ thứ ba giọng thơ chùng lại có lẽ đó là do tâm trạng của người người viết đang chùng lại. Câu hỏi tu từ "người thuê viết nay đâu như xoáy sâu vào lòng người đọc, câu nghi vấn của nhà thơ đâu chỉ đơn thuần là đang hỏi về những người thuê viết. Sự tấp nập của những người thuê viết chữ khi xưa chính là hiện thân của tình cảm của con người với một thời đại trọng đạo Nho truyền thống nói chung và những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc nói chung, nay đã vắng bóng, tức là con người đã không còn thiết tha với truyền thống dân tộc, liệu có phải là sự đau lòng ám chỉ về sự mai một của những giá trị văn hóa truyền thống ngày nào. Biện pháp nhân hóa "giấy đỏ buồn"- "mực sầu" đã cụ thể hóa nỗi sầu nơi con người, phải chăng, với từ "buồn", từ "sầu", nhà thơ như để người đọc cảm nhận được rằng, vì người đời đã thờ ơ nên giấy cũng "buồn" mà trở nên không còn tươi như trước, mực vì sầu mà cũng không buồn nhấc mình, cứ đọng lại trong nghiêng. Nỗi buồn của ông đồ hay là của nhà thơ đã thấu sang cảnh vật? Chữ cao quý là dùng để cho, vậy mà ông đồ phải bán chữ đã là dấu hiệu của sự suy đồi về giá trị văn hóa, ấy vậy mà thậm chí khi đem ra bán, cũng không còn ai mua, đó là một điều hết sức chua xót cho một nền văn hóa Nho học cổ truyền.
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay
Một ông đồ năm xưa được trọng vọng, được ngưỡng mộ là thế mà nay như một người bị gạt ra khỏi lề xã hội. Ông vẫn như năm nào, trung thành với cây bút "vẫn ngồi đấy" chỉ có điều rằng nhân tình đã đổi thay, không còn ai chú ý đến ông, sư tồn tại của ông không hề có dấu vết. Có lẽ nỗi buồn đã tới mức có chiếc lá vàng rơi trên trang giấy cũng không còn buồn nhặt, mà có lẽ đó là lá vàng của một mùa thu sắp tàn của thời đại Nho Học. Vào cái thời buổi gió Á mưa Âu tấp nập thổi vào mảnh đất quê hương, con người dường như để bản thân bị luồng gió độc ấy cuốn đi mà bỏ rơi những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc khiến cho chúng ngày một tàn phai mai một, khi ấy cả hồn dân tộc nhuốm một màu buồn sầu lê thê như những đoạn mưa bụi không bao giờ dứt.
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Câu hỏi "Hồn ở đâu bây giờ" cứ vậy mà văng vẳng trong tâm thức người đọc. Câu hỏi như chứa cả sự đau đớn của tác giả khi nhìn thấy sự đổi thay của lòng người, sự mai một dần của các giá trị văn hóa truyền thống đồng thời đó là lời chiêu hồn đất nước, gióng lên hồi chuông cảnh báo về sự một đi không trở lại của các giá trị truyền thống. Bài thơ đã đặt ra một vấn đề muôn thủa đó là làm thế nào trước sự đổi thay của thời cuộc, ta vẫn giữ được tâm hồn dân tộc? Và câu hỏi ấy còn giá trị mãi về sau, nó chạm đến tâm linh hồn cốt dân tộc và vì vậy, tác phẩm sẽ sống trong lòng người đọc mãi mãi.
"Ông đồ" sẽ còn mãi chỗ đứng trong lòng độc giả và trong cả nền văn học nước nhà bây giờ và mãi mãi về sau.
Bài văn chứng minh rằng: Với bài thơ ông đồ Vũ Đình Liên đã chạm được vào những rung cảm tâm linh của giống nòi nên nó còn tha thiết mãi - mẫu 3
Pôn-ê-luya từng nói: thơ ca phải đi từ chân trời của một người đến chân trời của muôn người. đúng như vậy, một tác phẩm chân chính phải vượt qua mọi bờ cõi, và giới hạn, nó chạm được vào những rung cảm sâu xa nhất của tâm hồn con người-mẫu số chung của giống nòi, như thế mới mông làm bạn với ocn người cho đến ngày tận thế, mới mong còn tha thiết mãi trong lòng bạn đọc. Và, với bài thơ "Ông đồ" Vũ Đình Liên đã chạm được vào những rung cảm tâm linh của giống nòi nên nó còn tha thiết mãi.
Vũ Đình Liên viết Ông Đồ trong giai đoạn thơ Mới, chính điều này đã chi phối một nét trong giọng điệu và cảm hứng nghệ thuật của ông, đó là cái đẹp bao giờ cũng buồn. Buồn thương, đó là điệu cảm xúc chủ đạo của các thi sĩ thơ Mới. do bất hào, bất lực, bất mãn với thực tại dân tộc, họ trốn tránh và không tìm được lối thoát nên mất sợi dây liên kết với cuộc đời, do vậy luôn trong tâm trạng bơ vơ bế tắc. Mỗi thi sĩ tìm một cách thoát ly riêng. Nếu Xuân Diệu trốn vào tình yêu, Thế Lữ thoát lên tiên, Lưu Trọng Lư mơ màng trong cõi mộng, Huy Cận tìm cái xa trong không gian thì đây, Vũ Đình Liên tìm cái xưa trong thời gian, đó là vẻ đẹp của một thời vang bóng, vẻ đẹp của một nét đẹp văn hóa cổ truyền dân tộc: chữ Nho.
Việc mở cửa, giao lưu, đồng thời do hoàn cảnh đất nước mà chữ Nho không còn ưu thời như trước kia. Nếu xưa kia ông Đồ:
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay".
Ông đồ mang đến cảm xúc hoài cổ về những giá trị truyền thống của dân tộc. Thì nay, thời thế đổi thay, ông Đồ chỉ còn là cái di tích tiều tụy đang thương của một thời tàn.
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu...
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay.
Ông đồ rơi vào tình cảnh một nghệ sĩ hết công chúng, một cô gái hết nhan sắc. Còn duyên kể đón người đưa, Hết duyên đi sớm về trưa một mình. Ông đồ vẫn ngồi đấy mà không ai hay. Ông Đồ giữa dòng đời vội vã của những con người hiện đại chỉ như một ốc đảo trơ trọi, cô đơn lạnh giá. Cái hiện thực ngoài đời là thế và chỉ có thế, nó là sự ế hàng. Nhưng ở thơ, cùng với cái hiện thực ấy còn là nỗi lòng tác giả nên giấy đỏ như nhạt đi và nghiên mực hóa sầu tủi. Biện pháp nhân hóa được sử dụng rất đắt đã khiến những vật dụng vô tri như mang nặng một linh hồn, như càng thêm ám ảnh trong tâm trí người đọc. Hay nhất là cộng hưởng vào nỗi sầu thảm này là cảnh mưa phùn gió bấc. Là mưa của đất trời giăng giăng hay là nỗi giá rét và buốt lặng trong tâm hồn con người. không biết nữa, chỉ biết rằng có một di tích tiều tụy đáng thương ngồi đấy, trong dáng ngồi bất động, giữa làn mưa bụi bay. Mùa xuân lại có lá vàng, quả là một sự đối nghịch, nhưng cái nghịch lí để lí giải sự có lí của tình cảm:
"Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bào giờ?".
Để rồi vọng lên một lời xót xa đến quặn thắt đáy lòng:
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Ông đồ đã bị hất tung ra khỏi ngoài rìa xa hội, một mình ôm bút nghiên giấy mực lặng lẽ về với mảnh đất của mình. Ông đã cố bám lấy xã hội hiện đại, lũ người hiện đại chúng ta đã nhìn thấy sự cố sức của ông, đã thấy ông chới với, nhưng chúng ta đã không làm gì, để đến bây giờ quay nhìn lại, mới biết ông đã bị buông rơi tự bao giờ. Bóng dáng ông đâu phải bóng dáng của một người, của một nghề, mà là dáng của cả một thời đại, bóng dáng kí ức của chính tâm hồn chúng ta. Đến bây giờ chúng ta mới thấy luyến tiếc, nhưng quá muộn rồi. Hỏi trời, hỏi đất, hỏi người, hỏi cả một xã hội. rằng thế hệ chúng ta đã làm gì với một nét đẹp văn hóa của dân tộc, đã cuốn phăng đi có lẽ nào là cả chính mình trong xã hội nhỡn tiền. hôm nay ngoảnh đầu nhìn lại, thảng thốt bỗng nhớ cái gọi là "ngày xưa". Hỏi hay khấn khứa tưởng niệm, hay ân hận sám hối. đó đâu chỉ là câu hỏi, mà là lời day dứt, là tiếng nấc nghẹn của nhà thơ khi chứng kiến cảnh tượng ấy của văn hóa dân tộc. Hai câu thơ hàm súc nhất của bài, chúng ta đọc ở đấy số phận của ông đồ và nhất là đọc được thái độ, tình cảm của cả một lớp người đối với những gì thuộc về dân tộc, về ngữ pháp câu thơ này rất lạ, nhưng không ai thấy cộm: Những người muôn năm cũ. Muôn năm, thật ra chỉ là vài ba năm, nhưng nói muôn năm mới đúng, thời ông đồ đã xa lắc rồi, đã lẫn vào với những bút, những nghiên rất xa trong lịch sử. Chữ muôn năm cũ của câu trên dội xuống chữ bây giờ của câu dưới càng gợi bâng khuâng luyến nhớ.
Rõ ràng, trong xã hội kim tiền, nhờ một cơn gió lạ từ phương xa thổi tới đã hất tung những gì bấy lâu nay thời đại ta có, mà không tránh khỏi sự hào nhập mà không hòa tan. Không cầm súng đấu tranh trên mặt trận chính trị, nhưng trên mặt trận tư tưởng, ông Đồ của Vũ Đình Liên đã kín đáo bày tỏ một tấm lòng yêu nước thầm kín, đó là sự xót xa cho việc đánh mất những nét bản sắc, văn hóa truyền thống của dân tộc, kêu gọi và thức tỉnh mọi người hãy quy trở về với con người của ta một thuở. Như thế, vấn đề bản sắc đã chạm được vào những rung động tâm linh của giống nòi. Bởi đó là vấn đề muôn thuở. Qua đó, kín đáo bày tỏ một trái tim yêu nước, một ruột thơ đau đời không tránh khỏi bế tắc, bi quan. Nhưng trên tất cả, với bài thơ "Ông đồ" Vũ Đình Liên đã chạm được vào những rung cảm tâm linh của giống nòi nên nó còn tha thiết mãi.
Bài văn chứng minh rằng: Với bài thơ ông đồ Vũ Đình Liên đã chạm được vào những rung cảm tâm linh của giống nòi nên nó còn tha thiết mãi - mẫu 4
Vũ Đình Liên là một trong những nhà thơ thuộc lớp đầu tiên của phong trào thơ Mới. Thơ ông mang nặng lòng thương người và niềm hoài cổ. Với bài thơ "Ông đồ" được sáng tác năm 1935-1936 đã chạm được vào những rung cảm tâm linh của giống nòi nên nó còn tha thiết mãi.
Hai khổ thơ đầu là cảm nhận của nhà thơ về hình ảnh ông đồ thời huy hoàng. Mở đầu bài thơ nhà thơ đưa chúng ta về với không gian của những ngày Tết cổ truyền:
"Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua"
Ở đó có màu sắc tươi thắm của hoa đào song có lẽ nổi bật nhất trong bức tranh đầy màu sắc ấy là hình ảnh "ông đồ già, bày mực tàu giấy đỏ, bên phố đông người qua". Sự có mặt của ông cùng mực tàu giấy đỏ như góp vào cái đông vui, náo nhiệt của phố phường. Các từ ngữ "mỗi năm, lại thấy" ở đầu hai câu thơ chứng tỏ hình ảnh ông đồ ngồi viết thuê câu đối bên lề phố đã trở thành thân quen như không thể thiếu mỗi dịp Tết đến xuân về. Sự xuất hiện của ông đã trở thành trung tâm sự chú ý của mọi người:
"Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay"
Người ta xúm xít quanh ông để thuê ông viết, để chiêm ngưỡng tài năng viết chữ đẹp như phượng múa rồng bay và không ngớt lời tấm tắc ngợi khen. Những câu thơ với nhịp điệu dồn dập như một tiếng reo vui khiến người đọc cảm nhận được niềm hạnh phúc bình dị mà tràn đầy của ông đồ. Lúc này ông trở thành người nghệ sĩ trổ tài trước công chúng và quan trọng hơn là được góp mặt trong cuộc đời, được có ích cho mọi người. Như vậy với những hình ảnh thơ bình dị, gợi cảm hai khổ thơ đã tái hiện một thời vàng son của ông đồ, của một thế hệ nhà nho. Qua đó nhà thơ cũng đã kín đáo bộc lộ niềm tự hào của mình về một giá trị văn hóa của dân tộc- văn hóa chứ nho. Khổ thơ thứ ba là cảm nhận sâu sắc của nhà thơ về thời tàn tạ, đáng thương của ông đồ và là niềm cảm thương chân thành của tác giả:
"Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu"
Vẫn hiện lên hình ảnh ông đồ với mực tàu giấy đỏ bên lề phố ngày Tết nhưng tất cả đã khác xưa, hoàn toàn đối lập với những ngày đã qua. Điệp từ "mỗi" cùng câu hỏi tu từ gợi lên ám ảnh: theo thời gian người thuê viết cứ thưa vắng dần để lại nỗi hẫng hụt, bàng hoàng, buồn tủi trong lòng người viết thuê và khơi sâu vào nỗi xa vắng, ngậm ngùi, xót xa, nuối tiếc. Đọc câu thơ, ta dễ dàng tưởng tượng ra cảnh: bên lề phố, một con người già nua, đơn độc đang ngơ ngác kiếm tìm trong dòng người tấp nập đi sắm tết xem có còn ai biết đến sự có mặt của mình. Ông đồ ngồi lặng lẽ buồn trong cảnh vắng vẻ. Nỗi buồn tủi dường như thấm vào cả những vật vô tri vô giác. Màu giấy điều vốn đỏ thắm giờ vẫn đỏ mà không thắm lên được vì chẳng ai động đến nên trở thành vô duyên, bẽ bàng. Nghiên mực không hề được chiếc bút lông thấm vào nên mực đọng lại bao sầu tủi. Biện pháp nhân hóa "giấy buồn, nghiên sầu" đã đem nỗi buồn tủi của con người phú cho giấy mực làm cho nỗi buồn càng sâu sắc, thấm thía. Tóm lại, những câu thơ bình dị, hình ảnh thơ chắt lọc, hàm súc không chỉ tái hiện tình cảnh đáng thương của ông đồ mà qua mỗi chữ mỗi lời nhà thơ đã gửi vào đó viêta bao ngậm ngùi, thương cảm trước một lớp người sinh ra không gặp thời nên bị lạnh nhạt, lãng quên. Khổ thơ thứ tư là cảm nhận sâu sắc và niềm thương cảm chân thành của nhà thơ về số phận tàn tạ của ông đồ trong buổi nho học suy tàn.
"Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay"
Hai câu thơ đầu có sự đối lập xót xa giữa cái không thay đổi và cái đã đổi thay: ông đồ vẫn ngồi đấy như xưa nhưng cuộc đời đã khác xưa. Đường phố vẫn đông người qua lại nhưng không ai biết đến sự có mặt của ông mặc dù ông vẫn kiên trì cố bám lấy cuộc sống, vẫn muốn có mặt với cuộc đời. Ông đồ ngồi giữa phố đông mà trong lòng là cả một tấn bi kịch, một sự sụp đổ bởi ông đã bị cuộc đời, bị mọi người lãng quên. Lòng ông trống vắng, sụp đổ nên trời đất cũng lạnh lẽo, thê lương. Hai câu thơ tả cảnh nhưng chính là tả nỗi lòng. Trước mắt người đọc hiện lên hình ảnh ông đồ ngồi bó gối trên vỉa hè, lá vàng rơi trên giấy đỏ mà không buồn nhặt, mặt ngơ ngác buồn rầu nhìn ra màn mưa bụi mịt mờ. Lá vàng rơi bao giờ cũng gợi lên cảm giác buồn bã, tàn lụi cũng như vận ông đồ đã đến lúc tàn suy. Mưa bụi nhẹ bay lất phất ngoài trời gợi sự ảm đạm, lạnh lẽo hay là mưa trong cõi lòng ông tan nát. Giọng thơ trầm lắng, ngậm ngùi, hình ảnh hơ gợi cảm cùng với lòng cảm thương chân thành của nhà thơ đối với một lớp người sinh ra không gặp thời đã cho ra đời những câu thơ có cánh đậu nhẹ vài tâm hồn người để rồi càng đọc càng thấy bâng khuâng, ngậm ngùi, thương cảm. Khổ thơ cuối cùng là sự vắng bóng của ông đồ và bộc lộ trực tiếp tình cảm nhà thơ:
"Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?"
Tứ thơ "cảnh cũ người đâu" cái còn gợi nhớ về cái mất tạo nên cảm giác hẫng hụt, chơi vơi, xót xa, thương cảm. Bài thơ khép lại bằng một câu hỏi bâng khuâng, tiếc nhớ đã trực tiếp bày tỏ tâm tư của nhà thơ. Những từ "xưa, muôn năm cũ" khơi sâu vào nỗi xa vắng, ngậm ngùi. Từ sự vắng bóng của ông đồ xưa, nhà thơ xót xa nghĩ đến bao thế hệ nhà nho đã bị vùi sâu vài quên lãng trong buổi nho học suy tàn. Trong tâm sự của nhà thơ có niềm cảm thương chân thành trước những số phận hẩm hiu, bất hạnh, có niềm hoài cổ, ngưỡng mộ và tiếc nhớ một nét đẹp trong quá khứ. Nhà thơ không phải bảo thủ đến mức cứ khư khư với mực tàu, giấy đỏ mà điều chủ yếu là nhà thơ biết gắn bó và trân trọng một lớp người đáng kính, một nét đẹp văn hóa đã ăn sâu vào tiềm thức mỗi người Việt Nam- một tình cảm một thái độ giàu chất nhân văn. Chính vì vậy, nhà thơ chạm vào những rung động tâm linh của giống nòi nên tác phẩm sẽ bất diệt mãi với thời gian.
Bài văn chứng minh rằng: Với bài thơ ông đồ Vũ Đình Liên đã chạm được vào những rung cảm tâm linh của giống nòi nên nó còn tha thiết mãi - mẫu 5
Vào những dịp Tết xưa của dân tộc, trong mỗi gia đình Việt không thể thiếu cặp câu đối đỏ treo trong nhà tượng trưng cho may mắn và bình an trong một năm mới. Chính vì vậy mà ngày ấy những ông đồ viết chữ trên các hè phố là một hình ảnh rất quen thuộc, đi sâu vào tâm trí mỗi người. Nhà thơ Vũ Đình Liên đã bằng chính tấm lòng chân thành của mình viết nên bài thơ “Ông đồ”, bài thơ đã chạm được vào những rung cảm tâm linh của giống nòi nên nó còn tha thiết mãi.
Bài thơ được viết bằng chính tấm lòng yêu thương, trân trọng và ngợi ca tài năng, sự đóng góp của lớp người đi trước cho nền văn hóa dân tộc mà trong đó có những người như ông đồ:
“Mỗi năm hoa đào nở…
Bên phố đông người qua”
Một thời hưng thịnh của Nho giáo, những người như ông đồ rất được xã hội trọng vọng, hình ảnh của ông đồ rất nổi bật trong đoạn thơ trên. Màu tươi thắm của hoa đào, màu đỏ tươi của giấy và màu đen nhánh của mực tàu, tất cả đều hài hòa, tạo nên một bức tranh nổi bật, vẻ đẹp vui tươi, nhộn nhịp. Những hình ảnh thoáng qua đó đã gợi lên sự thân quen, gần gũi trong lòng người.
“Bao nhiêu người thuê viết…
Như phượng múa rồng bay”
Đến khổ thơ này, tài năng của ông đồ đã được bộc lộ, phô diễn ra trong không khí của phố phường tấp nập, từng hàng người nối nhau chờ tới lượt được thuê viết. Người ta trân trọng và yêu kính cái tài năng đó, cái giá trị trong chữ của ông đồ. Dưới bàn tay khéo léo đầy nghệ thuật của ông, từng nét chữ như “phượng múa rồng bay” đã làm rạng danh cho nền Hán học, góp phần làm dày hơn nền văn hóa dân tộc. Những câu đối ông viết cho từng nhà, từng người làm quà đón xuân, trang trí cho ngôi nhà thêm phần ấm cúng, đủ đầy và tình cảm gia đình ấm áp. Thế nhưng thật đáng buồn làm sao khi nét đẹp văn hóa truyền thống ấy lại đang dần bị mai một khi ảnh hưởng từ văn hóa phương Tây du nhập. Người ta đã quên đi những câu đối tết mà thay vào đó là các bức tranh rực rỡ sắc màu:
“Nhưng mỗi năm mỗi vắng…
Mực đọng trong nghiên sầu”
Không thể tránh khỏi cảm xúc hụt hẫng, mất mát trong khổ thơ này, sự mờ nhạt trong bóng dáng ông đồ chính là sự ra đi của lớp người xưa cũ, nhà thơ đã bày tỏ niềm cảm thông, nỗi xót xa và tiếc nuối khôn nguôi:
“Ông đồ vẫn ngồi đấy…
Ngoài trời mưa bụi bay”
Bóng dáng ông đồ vẫn còn đấy nhưng người ta không còn chú ý đến nữa, họ đã quên lãng, coi ông như một di tích tiều tụy, đáng thương của một thời suy tàn.
“Năm nay hoa đào nở…
Hồn ở đâu bây giờ”
Giờ đây ông đồ cùng với lớp người xưa cũ đã trở nên vô nghĩa với con người hiện đại, giữa phố phường nhộn nhịp đã vắng đi bóng của ông đồ, bài thơ khép lại bằng những hình ảnh, câu thơ mang nặng nỗi buồn xót thương da diết của tác giả.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, bài thơ “Ông đồ” cũa Vũ Đình Liên đã diễn tả được tình yêu thương, niềm xót xa trước số phận hẩm hiu thời thế của ông đồ, thể hiện một tâm hồn cao cả, ca ngợi tài năng của lớp người xưa, khuyên răn chúng ta nên gìn giữ và trân trọng những tinh hoa văn hóa của dân tộc.
Bài văn chứng minh rằng: Với bài thơ ông đồ Vũ Đình Liên đã chạm được vào những rung cảm tâm linh của giống nòi nên nó còn tha thiết mãi - mẫu 6
Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên đi sớm, về trưa mặc lòng.
Không hiểu sao, đến với bài thơ ông đồ của Vũ Đình Liên tôi lại bị ám ảnh đến day dứt bởi câu hát xa xôi vùng quan họ. Nhưng câu chuyện còn duyên, hết duyên ở đây lại là chuyện khác, chuyện còn và mất của một lớp người một thời đã qua đi không trờ lợi, thông qua hình tượng trung tâm: ông đồ, nói như chính tác giả thì đó là di tích tiều tuỵ, đáng thương của một thời tàn.
Bài thơ ngũ ngôn gồm 5 khổ, khắc hoạ trọn vẹn một chỉnh thể nghệ thuật: ông đồ, trên trục thời gian tuyến tính, từ quá khứ đến hiện tại, từ còn đến mất, từ thời khắc hoàng kim cho đến khi chỉ còn vang bóng. Nếu coi bài thơ là một bức hoạ về hình ảnh về chân dung ông đồ thì ở góc nhìn thứ nhất là ông đồ – người nghệ sỹ tài hoa thuở còn duyên. Sự xuất hiện của ông đồ gắn liền với vòng quay đều đặn của thời gian, cứ thế không thể khác:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay”.
Thời gian được tính bằng hoa đào nở y tín hiệu báo xuân, sắc màu được dệt nên bởi sắc đào tươi thắm, giấy đỏ rực rỡ, nhịp sống được tính bằng phố đông người qua, tình cảm của người đời được biểu hiện bằng hình ảnh: Bao nhiều người thuê viết, tấm tắc ngợi khen tài. Nổi bật trên phông nền rực rỡ, tươi vui đó là chân dung ông đồ, người nghệ sỹ trong niềm thán phục, ngưỡng mộ của mọi người:
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay.
Hoa đào đến đây đã nhường chỗ cho hoa tay y bàn tay tài hoa của ông đồ đưa đến đâu mà như gấm hoa nở ra đến đó. Nét chữ từ bàn tay như có phép tiên của ông được so sánh như phượng múa rồng bay. Đây là hình ảnh so sánh đẹp, giàu giá trị tạo hình, nét thăng hoa trong ngôn ngữ của Vũ Đình Liên gợi tả nét chữ mềm mại mà linh thiêng, phóng khoáng mà cao nhã, có hồn như phượng múa, rồng bay. Nét chữ ấy dường như cũng chấp chới bay lên giữa hào quang của trời xuân, của sắc đào tươi thắm. Đây là một nét vẽ đẹp, ngợi ca ông đồ, một tài năng nghệ thuật.
Ta nhớ tới cây bút thần của Lê Mã Lương trong một câu chuyện cổ Trung Quốc, nét bút đưa đến đâu, vạn vật như có thần sống dậy, sinh sôi đến đó, vẽ chim, chim cất cánh bay, vẽ công, công xoè ra múa lượn... Bao nhiêu tài năng, tâm huyết của ông đồ được gửi gắm trong nét chữ tài hoa đó. Đây là thời kỳ đắc ý nhất của ông: cái đẹp lên ngôi, tài năng được trân trọng. Nhưng thời kỳ hoàng kim đó của ông chỉ thoáng qua như một ảo ảnh, theo dòng hồi tưởng của nhà thơ, một hiện thực đau lòng đã xảy ra:
Nhưng mỗi năm, mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm!
Mực đọng trong nghiên sầu...
Ông đồ vẫn ngồi đấy,
Qua đường không ai hay,
Lá vàng rơi trên giấy!
Ngoài giời mưa bụi bay.
Góc nhìn thứ hai, ông đồ – người sinh bất phùng thời, lúc hết duyên. Hai khổ ba, bốn với giọng kể và lời thơ miêu tả hiện lên ảnh hình ông đồ vẫn ngồi đấy nhưng cảnh vật quanh ông đã khác xưa: Ngày xuân trước, là phố đông với bao nhiêu người thuê viết thì nay đã vắng, đông giờ đã vắng. Ngày trước, họ tấm tắc ngợi khen tài thì bây giờ vẫn những con người đó nhưng qua đường không ai hay; thân quen thành xa lạ. Ngày trước, họ trầm trồ thán phục nay họ dửng dựng lạnh nhạt, tình thế đã đảo ngược, tình đời đã đổi thay. Ông đồ bỗng trở nên đơn côi, lạc lõng đến tội nghiệp giữa cái xô bồ, ồn ào của nền văn minh lạnh lùng kiểu đô thị dù ông vẫn muôn có mặt với đời. Ông đồ vẫn ngồi đấy, ông vẫn kiên gan bám lấy cuộc đời, ông càng lẻ loi, lạc bước: nên đã trở thành người sinh bất phùng thời. Xót xa thay, nét chữ như phượng múa, rồng bay ngày trước, giờ ngậm ngùi vì bị chôn vùi trong lãng quên nên:
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu.
Giấy đỏ, nghiên mực, hành trang gắn liền với kẻ sĩ trên hành trình sáng tạo ra cái đẹp nhưng giờ đây cũng lặng lẽ, ủ ê trong nỗi buồn ế khách của ông đồ. Giấy bẽ bàng, buồn tủi, đỏ mà cứ phai dần, nhạt nhẽo không thắm lên được, mực không được bút lòng chấm vào, mực cũng đọng lại như giọt lệ khóc. Với thủ pháp nhân hoá giàu sức gợi, Vũ Đình Liên đã diễn tả thật tinh tế nỗi buồn không nói không cất lên được, từ lòng người đã thấm cả vào những vật vô tri khiến mực tàu, giấy đỏ cùng trĩu nặng nỗi buồn.
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Người buồn, cảnh cũng buồn theo. Nỗi buồn của ông đồ không chỉ chiếu lên nghiên mực, giấy đỏ mà còn lan toả, mênh mang khắp không gian, khiến bức tranh xuân năm ấy mang gam màu xám lạnh, u buồn:
Lá vàng rơi trên giấy!
Ngoài trời mưa bụi bay.
Lá vàng rơi không nghe tiếng, mưa bụi bay không ướt áo ai, mà nghe như có từng thu chết, từng thu chết cuốn ra đi theo hình bóng một lớp người. Quá khứ vàng son của ông đồ nay đâu còn nữa. Ông và những người như ông dường như đang lỡ nhịp, lậc bước giữa mênh mông, gió cuốn, sóng xô của cơn bão táp đô thị hoá. Ông chỉ là cái bóng vô hồn, tiều tuỵ đáng thương của một thời tàn.
Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Năm nay đào lại nở mùa xuân tuần hoàn trở lại hoa đào vẫn cười với gió đông như cũ nhưng không thấy ồng đồ xưa. Cảnh vẫn như cũ nhưng người dã không còn. Ông đồ già đã thành ông đồ xưa ông đã nhập vào những người muôn năm cũ ông đã thuộc về những gì quá khứ xa xôi, chỉ còn vương vấn hồn ở đâu bây giờ. Với kiểu kết cấu đầu cuối tương ứng mỗi năm hoa đào nở năm nay đào lại nở...9 bài thơ như sự nối kết hai mảng thời gian quá khứ và hiện tại. Hình ảnh ông đồ cứ mờ dần, mờ dần rồi mất hút trên con đường vô tận của thời gian. Cái bóng của ông không còn, địa chỉ của ông cũng không còn nữa bởi vì nhan nhản trên phố phường ngày ấy là lớp người hãnh tiến kiểu đô thị chẳng kỷ, không thông cũng cậu bồi. Chính vì thế hai câu kết khép lại bài thơ giống như tiếng gọi hồn cất lên thăm thẳm, day dứt:
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Ông đồ không còn nhưng hồn có nghĩa là linh hồn ông vẫn còn phảng phất đâu đây. Hồn, cách gọi đến chính xác lạ lùng những gì đã qua không thể mất, hồn là bất tử vì thác là thể phách, còn là tinh anh. Hồn có lẽ cũng cổ thể hiểu là vẻ đẹp tâm hồn Việt, văn hoá Việt chỉ có thăng trầm chứ không bao giờ mất. Bài thơ đã chạm đến những rung cảm sâu xa nhất thuộc về tâm linh của giống nòi nên còn tha thiết mãi.
Hãy đăng nhập để bình luận
Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .