Top 8 Bài văn nêu cảm hứng nhân đạo và ký ức tuổi thơ qua đoạn trích "Trong lòng mẹ" (Ngữ văn 6 - SGK Cánh diều) hay nhất
"Những ngày thơ ấu" của Nguyên Hồng thực sự đã trở thành một món ăn tinh thần cho những người yêu văn học, là bài học về trách nhiệm của những người làm cha làm...xem thêm ...
Bài văn nêu cảm hứng nhân đạo và ký ức tuổi thơ qua đoạn trích "Trong lòng mẹ" - mẫu 1
Tuổi thơ thường để lại nhiều kỉ niệm không bao giờ phai. Đó là ngày đầu tiên đi học (Thanh Tịnh) hay thời kì cùng vui chơi, chung “sống với đồng, với sông rồi với bể” (Nguyễn Duy). Nhưng sâu đậm nhất đối với mọi ký ức bao giờ cũng là hình ảnh người mẹ. Thể hiện những tình cảm sâu sắc của tình mẫu tử thiêng liêng, văn bản “Trong lòng mẹ” trích từ “Những ngày thơ ấu” (Nguyên Hồng) đã để lại nhiều xúc động mạnh mẽ cho bạn đọc. Cảm hứng nhân đạo của tác giả thấm đậm trong từng câu văn.
Nguyên Hồng đã “lôi kéo” chúng ta cùng sống lại với thời thơ ấu cay cực. Đó là những trang hồi ký đầy nước mắt, là tiếng lòng thổn thức xót xa của một trái tim khao khát tình thương. Từ nỗi niềm ấy, người đọc nhận ra ý nghĩa thiêng liêng của tình mẫu tử - động lực giúp mọi người vượt qua khó khăn,chiến thắng bất hạnh.
Đoạn trích Trong lòng mẹ là câu chuyện chân thực và cảm động về tình cảm của một cậu bé đối với người mẹ đáng thương phải chạy trốn hủ tục khắt khe và bao định kiến nghiệt ngã. Từ tâm hồn nhạy cảm, trong trắng, thơ ngây luôn luôn khát khao tình mẹ của nhân vật “tôi”, chúng ta hiểu thêm hồn văn giàu lòng nhân ái của Nguyên Hồng.
Sinh ra trong một gia đình, sa sút, bất hạnh ở Nam Định, bé Hồng là kết quả của cuộc hôn nhân không tình yêu. Bố bé Hồng nghiện ngập rồi chết mòn chết mỏi bên bàn đèn thuốc phiện để lại sự túng quẫn. Mẹ bé Hồng phải mang đứa con nhỏ vào Thanh Hóa cam chịu cảnh “tha phương cầu thực”. Sống với gia đình bên nội nhưng Hồng bị hắt hủi, ghẻ lạnh đến cay nghiệt. Hàng ngày, cậu phải nghe bà cô buông lời nói xấu mẹ. “Bà cô bên chồng” luôn luôn bộ lộ thái độ khinh bỉ chị dâu. Chỉ có bé Hồng hiểu mẹ và yêu mẹ hơn tất cả. Số phận thật trớ trêu - trong gia đình của mình mà bé Hồng không được vòng tay yêu thương của mẹ chăm sóc. Nếu bà cô là hiện thân của hủ tục, định kiến về người phụ nữ trẻ goá bụa thì bé Hồng tiêu biểu cho những trẻ em giàu tình thương yêu, kính trọng mẹ. Bà cô thật ích kỷ, nhẫn tâm cố ý làm tổn thương tâm hồn đứa cháu ruột. Mụ ta gieo rắc vào đầu bé Hồng bao nỗi hoài nghi. Hồng không thể quên được giọng nói, “nụ cười rất kịch” của bà cô. Bị con người độc địa ấy đầu độc hàng ngày, bé Hồng vẫn giữ được nguyên vẹn lòng thương yêu, kính mến mẹ. Điều này khẳng định tình cảm mẹ con thật bền chặt, không gì chia cắt được.
Không thiếu thốn vật chất như những đứa trẻ lang thang cơ nhỡ, điều day dứt bé Hồng là ở chỗ không nhận được tình thương từ họ hàng, người thân. Hơn thế nữa, một chút tình dành cho mẹ cũng đang bị người khác tước đoạt mất. Bé Hồng bị đầy đọa bởi sự ghen ghét, đố kị của nhiều người thân. Là đứa trẻ vô tư, nhưng bé Hồng đã già trước tuổi khi căm tức hủ tục, quyết tâm bảo vệ mẹ đến cùng. Và nhất là cố chống chọi lại sự xâm nhập của cái xấu.
Tuy vậy, sức chịu đựng của trẻ cũng chỉ có hạn. Bà cô đã phần nào đạt được mục đích khi xoáy sâu vào vết thương lòng của đứa cháu mồ côi. Những giọt nước mắt “ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hoà đầm đìa ở cằm và cổ” là hiện thân của tủi nhục và mặc cảm. Hồng “im lặng cúi đầu xuống đất”, lòng thắt lại, khoé mắt cay cay. Giọt nước mắt ấy lay động bao tấm lòng trắc ẩn.
Thế rồi, trên đường đi bất ngờ gặp một người giống mẹ, bé Hồng bật tiếng gọi : “Mợ ơi… mợ ơi… mợ ơi!”, Những lời thống thiết ấy lay động không gian. Tiếng kêu vội vã, kéo dài thể hiện nỗi khát khao tình thương. Cất tiếng gọi nhưng bé vẫn lo lắng, hồi hộp vì sợ nhận nhầm. Không có xúc cảm mãnh liệt thôi thúc không thể cất lên tiếng gọi như thế. Nhưng sự “ngờ ngợ” ấy đã không còn mơ hồ nữa, người phụ nữ dừng xe và bé Hồng nhanh chóng nhận ra mẹ sau bao ngày xa cách. Mẹ về trong niềm vui, hân hoan và hạnh phúc . Một lần nữa, bé Hồng lại khóc. “Mẹ tôi vừa kéo tay tôi, xoa đầu … thì tôi oà lên khóc rồi cứ thế nức nở”. Nếu những lần trước là tiếng khóc kìm nén thì giờ đây tiếng nức nở làm vơi đi bao uất ức, tủi cực. Tiếng khóc không xót xa mà tràn trề hạnh phúc. Nước mắt bé Hồng và mẹ trong giây phút này, là hiện thân của tình mẫu tử.
Qua đôi mắt của bé Hồng, mẹ vẫn đẹp một cách lạ lùng. Vẻ đẹp ấy không rực rỡ mà giản dị và vô cùng thân thương. Bởi trong cái nhìn của Hồng, mẹ bao giờ cũng là người đẹp nhất! Từ đó, đoạn văn đánh thức niềm ước mơ của bao người con khi đứng trước mẹ. Ai cũng muốn bé lại để lăn vào lòng người mẹ, “áp mặt vào bầu sữa nóng của mẹ, để mẹ “vuốt ve từ trán xuống cằm và gãi rôm ở sống lưng cho…” Từng chữ, từng câu đều đầy ắp cảm xúc êm ái. Cuộc gặp gỡ bất ngờ mãi mãi để lại niềm hạnh phúc trong trái tim nhân vật và người đọc. Không bi thảm như truyện “Lão Hạc”, kết cục có hậu của đoạn văn là sự bù đắp cho tâm hồn thánh thiện của người con hiếu thảo.
Trang hồi kí đã thể hiện những số phận cơ cực, đặc biệt là hai mẹ con một người phụ nữ bị ràng buộc bởi hủ tục phong kiến. Từ nội dung trên, tác giả phản ánh bộ mặt xấu xa của xã hội đương thời, lên tiếng bảo vệ những người bất hạnh. Đoạn văn thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả. Từng câu chữ, hình ảnh đều khắc họa sâu sắc tình mẫu tử thiêng liêng. “Trong lòng mẹ” tiêu biểu cho phong cách “văn nóng” (văn giàu cảm xúc) của Nguyên Hồng.
Trước chông gai, nhiều tình cảm mặn nồng cũng đổ vỡ. Nhưng tình mẫu tử thiêng liêng của bé Hồng đã không hề thay đổi. Đó là sự nhắc nhở chúng ta phải biết luôn luôn thương yêu kính trọng mẹ . Trong lòng mẹ nói riêng Những ngày thơ ấu nói chung sẽ mãi mãi trường tồn. Bạn đọc muôn đời không chỉ tìm thấy ở đó những tình cảm nhân đạo sâu sắc mà còn nhận được một bài học triết lí về giá trị tình mẫu tử - chất thơ giữa cuộc đời còn nhiều cay cực.
Bài văn nêu cảm hứng nhân đạo và ký ức tuổi thơ qua đoạn trích "Trong lòng mẹ" - mẫu 2
Tuổi thơ trong ký ức của mỗi con người bao giờ cũng chất chứa biết bao điều kỳ diệu: nhiều khi là cánh diều chao giữa tầng không với muôn ngàn sắc màu rực rỡ; lắm lúc lại là cánh cò trắng chập chờn bay vào những giấc mơ; và thỉnh thoảng là chị Hằng Nga sống trên cung trăng bên chú Cuội… Nhưng hình ảnh ta đều bắt gặp trong mọi ký ức tuổi thơ lại chính là Mẹ – quen thuộc và gần gũi nhất. Trong lòng mẹ trích Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng là đoạn trích đã gây nhiều xúc động mạnh mẽ cho người đọc khi thể hiện gần như trọn vẹn những tình cảm sâu sắc của tình mẫu tử thiêng liêng chất chứa trong từng câu chữ.
Đến với tác phẩm của Nguyên Hồng, người ta không phải là thưởng thức những câu chuyện được dựng xây bằng tưởng tượng mà Nguyên Hồng đã “lôi kéo” con người cùng sống chung với cuộc đời số phận của nhà văn – chứ không còn là nhân vật. Bởi lẽ Những ngày thơ ấu là một phần kỷ niệm được rút ra trong tuổi thơ cay cực của chính nhà văn. Nó là những trang hồi ký chứa đầy nước mắt, thổn thức xót xa của một trái tim sớm phải nếm vị đắng cuộc đời, thiếu vắng tình thương và luôn khát khao tình yêu của mẹ. Niềm khát khao ấy cháy bỏng, mãnh liệt như muốn phá tung tất cả để tìm đến tình thương, tìm đến người mẹ. Và cũng chính từ tình cảm ấy, người đọc nhận ra ý nghĩa thiêng liêng của tình mẫu tử. Đó là động lực để giúp những đứa trẻ vượt lên khó khăn, vượt lên hoàn cảnh bất hạnh để tìm đến một tương lai rạng ngời. Đó cũng là nguồn sức mạnh vô hình an ủi và chở che cho những trái tim run rẩy.
Cảnh đời thực của những số phận con người, đặc biệt là người phụ nữ vẫn còn bị ràng buộc bởi hủ tục phong kiến khắt khe đã được ghi lại đầy đủ đậm nét bằng những trang hồi ký nóng hổi niềm thương cảm của chính tác giả. Nhằm phản ánh một xã hội bất công, đồng thời lên tiếng bảo vệ cho con người bất hạnh, tác phẩm đã thể hiện một tinh thần nhân đạo cao cả. Gắn với tình cảm chân thành của nhà văn là sự chuyển tải nỗi xúc động trong từng câu chữ hình ảnh đã khắc họa sâu sắc giá trị tình cảm thiêng liêng trong gia đình: tình mẫu tử.
Trong lòng mẹ cũng là tiêu biểu cho phong cách “văn nóng” của Nguyên Hồng. Có những tình cảm dễ dàng đổ vỡ trước chông gai nhưng tình mẫu tử thiêng liêng của bé Hồng đã không hề thay đổi. Đó cũng là sự nhắc nhở cho mỗi con người phải biết thương yêu kính trọng mẹ với tất cả tình cảm của mình. Có những tác phẩm đã mau chóng bị lãng quên nhưng giá trị Trong lòng mẹ cũng như Những ngày thơ ấu sẽ mãi mãi trường tồn bởi nó không những chứa đựng một tình cảm nhân đạo sâu sắc mà còn là một triết lí về giá trị tình cảm gia đình, thấm đượm chất thơ giữa cuộc đời nhiều cay cực.
Bài văn nêu cảm hứng nhân đạo và ký ức tuổi thơ qua đoạn trích "Trong lòng mẹ" - mẫu 3
Trong mỗi chúng ta có lẽ “tình mẫu tử” vẫn là thứ tình cảm đẹp đẽ và thiêng liêng nhất. Bởi hình ảnh người mẹ đã in sâu trong tâm trí mỗi đứa con. Ta bắt gặp tình cảm thiêng liêng ấy trong đoạn trích Trong lòng mẹ của nhà văn Nguyên Hồng. Đọc đoạn trích người đọc không khỏi xúc động trước tình yêu thương của chú bé Hồng dành cho người mẹ đáng thương của mình. Hồng đã trải qua những thử thách không kém phần đau đớn để giữ trọn vẹn tình cảm yêu thương mẹ trong sự khinh bỉ, xoi mói độc địa của những người họ hàng giàu có. Cuối cùng, bao tháng ngày chờ mong, khát khao cũng được đền đáp, Hồng đã ở “trong lòng mẹ”.
Chú bé Hồng – nhân vật chính của truyện lớn lên trong một gia đình sa sút. Người cha sống u uất, trầm lặng, rồi chết trong nghèo túng, nghiện ngập. Người mẹ có trái tim khao khát yêu đương đành chôn vùi tuổi thanh xuân trong cuộc hôn nhân không có hạnh phúc. Sau khi chồng chết, người phụ nữ đáng thương ấy vì quá túng quẫn phải bỏ con đi tha hương cầu thực và bị người đời gán cho cái tội “chưa đoạn tang chồng mà đã chửa đẻ với người khác”. Hồng phải sống cuộc sống mồ côi cha, thiếu vắng tình thương của người mẹ, sống nhờ người họ hàng giàu có nhưng cay nghiệt. Hồng chịu cảnh cô đơn, bị hắt hủi.
Trái lại với thái độ căm thù và trách móc, Hồng thương mẹ và nhớ mẹ vô cùng. Em nuốt những giọt nước mắt đau đớn vào lòng khi luôn phải nghe những lời mỉa mai, bêu rếu xấu xa về mẹ của bà cô độc địa. Đoạn trò truyện của Hồng với bà cô là một màn đối thoại đầy kịch tính đẩy tâm trạng em đến những diễn biến phức tạp, căng thẳng đến cao độ.
– Hồng, mày có muốn vào Thanh Hoá chơi với mẹ mày không?
Câu hỏi đầy ác ý ấy xoáy sâu vào tâm can của Hồng. Hồng hình dung vẻ mặt rầu rầu và sự hiền lành của mẹ, lại nghĩ tới những đêm thiếu thốn tình mẹ khiến Hồng phải khóc thầm thì Hồng muốn trả lời cô là: “có”. Nhưng cậu bé đã nhận ra ý nghĩ cay độc qua cách cười “rất kịch” của cô, cô chỉ cố ý gieo rắc vào đầu óc Hồng những mối hoài nghi về mẹ cậu. Hồng đã cúi mặt không đáp, sau đó Hồng nở nụ cười thật chua xót.
Hồng hiểu mẹ, hiểu được vì hoàn cảnh mà mẹ Hồng phải ra đi. Em đã khóc vì thương mẹ bị lăng nhục, bị đối xử bất công. Em khóc vì thân trẻ yếu đuối, cô đơn không sao bênh vực được mẹ. Càng thương mẹ, em càng căm ghét những hủ tục phong kiến vô lí, tàn nhẫn đã đầy đọa, trói buộc mẹ em: “Giá như những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thuỷ tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ ngay lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kỳ nát vụn mới thôi”.
Chính tình thương mẹ đã khiến cho Hồng nhận ra đâu là lẽ phải, đâu là những con người, những tập tục đáng phê phán.
Tình thương ấy còn được biểu hiện rất sinh động, rất cụ thể trong lần gặp mẹ. Thoáng thấy bóng một người trên xe rất giống mẹ, Hổng liền chạy, đuổi theo bối rối gọi: ”Mợ ơi! Mợ ơi! Mợ… ơi!”. Những tiếng gọi ấy bật ra từ lòng khát khao được gặp mẹ của chú bé bấy lâu nay bị dồn nén. Sự thổn thức của trái tim thơ trẻ bật thành tiếng gọi. Khi đuổi theo được chiếc xe đó, Hồng được lòng bàn tay dịu hiền của người mẹ xoa lên đầu. Hồng oà khóc. Trong tiếng khóc ấy có cả niềm hạnh phúc được gặp mẹ, cả nỗi tủi thân bởi lâu quá không được gặp mẹ, bởi bao niềm cay đắng bị lăng nhục tàn nhẫn cùng những uất ức dồn nén được giải toả.
Mải mê ngắm nhìn và suy nghĩ về mẹ, mải mê say sưa tận hưởng những cảm giác êm dịu khi được ngồi trong lòng mẹ để bàn tay người mẹ vuốt ve. Trong giây phút này, Hồng như sống trong “tình mẫu tử” hạnh phúc ấy Hạnh phúc trong lòng mẹ không chỉ là hạnh phúc, là niềm khao khát của riêng Hồng mà là khao khát, là mong muốn của bất kỳ đứa trẻ nào. Từ lúc lên xe đến khi về nhà, Hồng không còn nhớ gì nữa. Cả những lời mẹ hỏi, cả những câu trả lời của cậu và những câu nói của người cô bị chìm ngay đi – Hồng không nghĩ đến nó nữa…
Sự xúc động của bé Hồng khi gặp mẹ càng chứng tỏ tình thương mẹ của Hồng là sâu đậm, là nồng thắm, là nguyên vẹn. Bất chấp tất cả sự ngăn cách của rào cản lễ giáo phong kiến hà khắc đối với người phụ nữ nói chung và đối với mẹ Hồng nói riêng.
Tình mẫu tử trong đoạn trích thật đẹp đẽ, thiêng liêng, xúc động. Nguyên Hồng đã mở ra trước mắt chúng ta một thế giới tâm hồn phong phú. Thế giới ấy luôn làm chúng ta ngạc nhiên vì ánh sáng nhân đạo lấp lánh của tình người.
Bài văn nêu cảm hứng nhân đạo và ký ức tuổi thơ qua đoạn trích "Trong lòng mẹ" - mẫu 4
Nói đến Nguyên Hồng, người ta nhớ ngay một giọng văn như trút cả bao xúc động đắng đót vào trong những câu chuyện của ông. Hồi ký “Những ngày thơ ấu” là kỷ niệm xót xa của cậu bé Hồng, mang theo cái dư vị đắng chát của tuổi thơ khát khao tình mẹ.
Cho đến tận bây giờ, khi đọc lại những trang viết này, người đọc vẫn lây lan cảm giác của cậu bé sớm phải chịu thiếu thốn tình cảm, để rồi chợt nhận ra: tình mẫu tử là nguồn sức mạnh thiêng liêng và diệu kỳ, là nguồn an ủi và chở che giúp cho đứa trẻ có thể vượt lên bao đắng cay tủi nhục và bất hạnh.
Đoạn trích Trong lòng mẹ là hồi ức đan xen cay đắng và ngọt ngào của chính nhà văn – cậu bé sinh ra trong một gia đình bất hạnh: người cha nghiện ngập rồi chết mòn, chết gục bên bàn đèn thuốc phiện, người mẹ cùng túng phải đi tha phương cầu thực, cậu bé Hồng đã phải sống trong cảnh hắt hủi ghẻ lạnh đến cay nghiệt của chính những người trong họ hàng. Cậu bé phải đối mặt với bà cô cay nghiệt, luôn luôn “tươi cười” – khiến hình dung đến loại người “bề ngoài thơn thớt nói cười – mà trong nham hiểm giết người không dao”. Đáng sợ hơn, sự tàn nhẫn ấy lại dành cho đứa cháu ruột vô tội của mình. Những diễn biến tâm trạng của bé Hồng trong câu chuyện đã được thuật lại bằng tất cả nỗi niềm đau thắt vì những ký ức hãi hùng kinh khiếp của tuổi thơ. Kỳ diệu thay, những trang viết ấy lại giúp chúng ta hiểu ra một điều thật tự nhiên giản dị: Mẹ là người chỉ có một trên đời, tình mẹ con là mối dây bền chặt không gì chia cắt được.
Trước khi gặp mẹ: Nói một cách công bằng, nếu chỉ nhìn vào bề ngoài cuộc sống của cậu bé Hồng, có thể nói cậu bé ấy vẫn còn may mắn hơn bao đứa trẻ lang thang vì còn có một mái nhà và những người ruột thịt để nương tựa sau khi cha mất và mẹ bỏ đi. Nhưng liệu có thể gọi là gia đình không khi chính những người thân – mà đại diện là bà cô ruột lại đóng vai trò người giám hộ cay nghiệt. Tấm lòng trẻ thơ ấy thật đáng quí. Đối với bé Hồng, bao giờ mẹ cũng là người tốt nhất, đẹp nhất. Tình cảm của đứa con đã giúp bé vượt qua những thành kiến mà người cô đã gieo rắc vào lòng cậu.
“Vì tôi biết rõ, nhắc đến mẹ tôi, cô chỉ có ý gieo rắc vào đầu óc tôi những hoài nghi để tôi khinh miệt và ruồng rẫy mẹ tôi, một người đàn bà đã bị cái tội là góa chồng, nợ nần cùng túng quá, phải bỏ con cái đi tha phương cầu thực. Nhưng đời nào lòng thương yêu và lòng kính mến mẹ tôi lại bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến…”
Nhưng ta cũng nhận ra những vết thương lòng đau nhói mà bé Hồng đã sớm phải gánh chịu. Sự tra tấn tinh thần thật ghê gớm. Sức chịu đựng của một cậu bé cũng có chừng mực. Ta chứng kiến và cảm thương cho từng khoảnh khắc đớn đau, cậu đã trở thành tấm bia hứng chịu thay cho mẹ những ghẻ lạnh, thành kiến của người đời: “Tôi lại im lặng cúi đầu xuống đất: lòng tôi thắt lại, khoé mắt tôi đã cay cay”
Dù đã kìm nén hết mức nhưng những lời độc ác kia vẫn đạt được mục đích khi đã lấy được những giọt nước mắt tủi nhục của một đứa trẻ không đủ sức tự vệ . Ta chợt ghê sợ trước loại người như bà cô – họ vẫn lẩn quất đâu đó quanh ta, với trò tra tấn gặm nhấm dần niềm tin con trẻ. Liệu ta có hoà chung giọt nước mắt này chăng: “Nước mắt tôi ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hoà đầm đìa ở cằm và cổ”.
Càng thương cho cậu bé Hồng, ta lại càng căm uất sự ghẻ lạnh của người đời trước những số phận bất hạnh. Từ nhận thức non nớt, cậu bé ấy cũng đã kiên quyết bảo vệ mẹ mình, bất chấp những thành kiến ác độc: “Chỉ vì tôi thương mẹ tôi và căm tức sao mẹ tôi lại vì sợ hãi những thành kiến tàn ác mà xa lìa anh em tôi, để sinh nở một cách giấu giếm… Tôi cười dài trong tiếng khóc”. Dường như khoảnh khắc cười dài trong tiếng khóc kia chứa chất sự phẫn nộ và khinh bỉ không cần giấu giếm Trong thâm tâm, liệu rằng cậu bé ấy có khi nào oán trách mẹ mình đã nhẫn tâm bỏ con không? Có lẽ không bao giờ, bởi lẽ niềm khao khát được gặp lại mẹ lúc nào cũng thường trực trong lòng cậu bé.
Ta xúc động biết bao nhiêu trước khoảnh khắc hồi hộp lo lắng của cậu bé khi sợ mình nhận nhầm mẹ. Linh cảm và tình yêu dành cho mẹ đã không đánh lừa cậu, để đền đáp lại là cảm giác của đứa con trong lòng mẹ – cảm giác được chở che, bảo bọc, được thương yêu, an ủi. Hình ảnh mẹ qua những trang viết của nhà văn thật tươi tắn sinh động, là sự diệu kỳ giúp cậu bé vượt lên nỗi cay đắng của những ngày xa mẹ. Mỗi khi đứng trước mẹ, có lẽ mỗi một người trong chúng ta cũng sẽ cảm nhận được tình mẹ giống như cậu bé Hồng: “Mẹ tôi vừa kéo tay tôi, xoa đầu tôi hỏi thì tôi oà lên khóc rồi cứ thế nức nở”. Không khóc sao được, khi những uất ức nén nhịn có dịp bùng phát, khi cậu bé có được cảm giác an toàn và được chở che trong vòng tay mẹ. Thật đẹp khi chúng ta đọc những câu văn, tràn trề cảm giác hạnh phúc:“Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người mẹ, để người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm, và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy mẹ có một êm dịu vô cùng”. Mẹ đã trở về cùng đứa con thân yêu, để cậu bé được thỏa lòng mong nhớ và khát khao bé nhỏ của mình. Có lẽ không cần phải bình luận thêm nhiều, khi tất cả tình yêu với mẹ đã được nhà văn giãi bày trên trang giấy.
Một đoạn trích ngắn, một tình yêu vô bờ bến nhà văn dành cho mẹ đã khiến cho bao trái tim trẻ thơ thổn thức. Điều quan trọng hơn, nhà văn đã đem đến cho ta những giờ phút suy ngẫm về vai trò Người Mẹ. Có lẽ vì những ngày thơ ấu in đậm trong hoài niệm đã làm nên một hồn văn nhân ái Nguyên Hồng sau này chăng?
Bài văn nêu cảm hứng nhân đạo và ký ức tuổi thơ qua đoạn trích "Trong lòng mẹ" - mẫu 5
Nguyên Hồng - nhà văn của phụ nữ và trẻ em. Văn của ông luôn mang giá trị nhân đạo sâu sắc, bày tỏ tình yêu thương và sự kính trọng đối với những mảnh đời bất hạnh, thấp cổ bé họng trong xã hội. "Trong lòng mẹ" là đoạn trích từ tập truyện "Những ngày thơ ấu", như một cuốn tự sự về cuộc đời nhà văn. Giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện qua tình mẫu tử thiêng liêng, cao cả giữa hai mẹ con bé Hồng.
Sinh ra và lớn lên trong một xóm nghèo, sống cùng những người dân lao động quanh năm đầu tắt mặt tối, với một trái tim nhạy cảm, giàu tình yêu thương, Nguyên Hồng luôn tìm thấy cái tốt đẹp, cao thượng bên trong những thân xác cục mịch, xồ xề. Văn chương của ông luôn hướng tới giá trị tinh thần, vẻ đẹp cốt lõi bên trong mỗi người. Viết "Những ngày thơ ấu", tác giả lấy chất liệu văn học từ chính tuổi thơ bất hạnh của mình, tái hiện lại quãng thời gian mồ côi bố, sống xa mẹ, ở với những người họ hàng luôn miệt thị, ruồng bỏ gia đình mình. Đoạn trích "Trong lòng mẹ" đã tái hiện chân thực về số phận người phụ trong xã hội xưa, chồng mất sớm do nghiện ngập, vì không chịu nổi miệng lưỡi người đời mà phải bỏ nhà bỏ cửa đi tha hương cầu thực. Tác giả bày tỏ sự xót xa, thương cảm cho người phụ nữ và em bé vô tội, đồng cảm với tình mẫu tử thiêng liêng mà hai mẹ con dành cho nhau.
Giá trị nhân đạo thể hiện ở sự cảm thông mà nhà văn dành cho nhân vật. Xây dựng hình ảnh người phụ nữ chồng mất sớm, tuổi thanh xuân chôn vùi bên người chồng nghiện ngập, chấp nhận một cuộc hôn nhân không có tình yêu. Khi người chồng mất đi, gia cảnh sa sút phải chấp nhận bỏ lại con đi tha hương cầu thực, lại bị họ hàng nói xấu, tiêm nhiễm vào đầu đứa con thơ ở nhà những câu chuyện bịa đặt về mẹ mình. Với đứa bé, là kết cục của một cuộc hôn nhân lầm lỡ không có tình yêu đã là điều vô cùng bất hạnh, lại sớm mồ côi, thiếu thốn tình yêu thương của mẹ, cậu lớn lên bằng những lời dè bỉu, miệt thị từ bà cô. Biết được nỗi đau của cậu, biết cậu nhớ mẹ, thương mẹ, bà cô luôn tìm cách chọc ngoáy, khinh miệt, nhắc đến mẹ cậu với giọng nói cay độc và "nét mặt khi cười rất kịch", luôn "gieo rắc vào đầu" câu bé "những hoài nghi" để lôi kéo cậu ruồng rẫy chính mẹ của mình. Một tâm hồn non nớt đầy tổn thương, còn nhỏ mà phải chịu biết bao đắng cay, khổ cực. Nhà văn bày tỏ sự thương xót, cảm thông với mẹ con họ qua chính lời của nhân vật bé Hồng, "tôi thương mẹ tôi", "nhưng đời nào tình thương yêu và lòng kính mến mẹ tôi lại bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến". Trái ngược với sự cay độc, dè bỉu, chà đạp con người trong xã hội đương thời, nhà văn luôn tìm thấy vẻ đẹp tiềm tàng trong tâm hồn để yêu thương, trân trọng, thấu cảm cho nỗi đau đớn, mất mát của họ. Tinh thần nhân đạo ở đây chính là tình người, tình yêu với những số phận kém may mắn.
Giá trị nhân đạo của đoạn trích thể hiện ở những bản chất, phẩm giá tốt đẹp trong cốt cách con người. Người phụ nữ mẹ bé Hồng có cuộc đời bất hạnh, khổ đau là thế, nhưng với bản năng làm mẹ, cô vẫn bỏ mặc tất cả để về thăm con. Ôm con trong vòng tay, cô "kéo tay", "xoa đầu" con, sụt sùi theo tiếng khóc của con mà nhẹ nhàng an ủi: "Con nín đi! Mợ đã về với các con rồi mà", "lấy vạt áo nâu thấm nước mắt", "xốc nách" con lên xe. Cảm giác của một người làm mẹ lâu ngày mới được gặp lại con khiến người đọc vô cùng xúc động. Trong khi ấy, bé Hồng không bình tĩnh được như mẹ. Câu cuống cuồng, vội vã, vì lâu lắm rồi, cậu không được vùi đầu trong cái hơi ấm thân quen ấy. Tiếng gọi bối rối: "Mợ ơi! Mợ ơi! Mợ ơi!" cậu cất giữ bấy lâu nay như vỡ òa. Cậu lo sợ rằng đã nhận nhầm người, người phụ nữ ngồi trên xe kia nếu không phải mẹ cậu thì cậu sẽ trở thành trò cười cho chúng bạn. Gặp lại mẹ ngần ấy thời gian xa cách, cậu "ríu cả chân lại", "òa lên khóc rồi cứ thế nức nở", ngồi cạnh mẹ, "đùi áp đùi mẹ, đầu ngả vào cánh tay mẹ", "cảm giác ấm áp đã bao lâu mất đi bỗng mơn man khắp da thịt. "Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người, để bàn tay mẹ vuốt từ trên trán xuống cằm và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy người mẹ có một sự êm dịu vô cùng".
Những dòng văn miêu tả chân thực và cảm động cảnh hai mẹ con bé Hồng gặp lại nhau, nhóm lên trong lòng độc giả một cảm xúc vừa mừng và tủi. Mừng vì cuối cùng, sau bao khó khăn, tình mẫu tử thiêng liêng ấy vẫn chiến thắng những hủ tục lạc hậu. Tủi vì thương, vì xót, đáng ra việc hai mẹ con gặp gỡ, mẹ đón con sau giờ học là điều hiển nhiên trong tuổi thơ mỗi người thì ở đây, cuộc gặp gỡ của họ lại thấm đẫm nước mắt. Giá trị nhân đạo ở đây chính là sự yêu thương, trân quý những con người "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn", sống trong xã hội tàn ác, độc đoán nhưng vẫn giữ trọn tấm lòng chân thành, lương thiện.
Cuối cùng, tác giả gửi gắm giá trị nhân đạo vào đoạn trích qua quan điểm cá nhân, lên án những hủ tục lỗi thời, lạc hậu đã bóp méo suy nghĩ và tư tưởng của đại bộ phận người dân bấy giờ, đày đọa biết bao số phận bất hạnh. Là nạn nhân của cuộc hôn nhân không tình yêu, tác giả khéo léo phản ánh tình trạng cưới ép, cưới theo sự sắp đặt của gia đình, một hủ tục cực kì phổ biến trong xã hội Việt Nam. Người Việt cho rằng, hôn nhân cần dựa trên sự tương đồng về xuất thân, gia phả, kinh tế. Vì vậy, không ít đôi lứa yêu nhau đã phải chấp nhận buông bỏ, lập gia đình với những người thậm chí mình không hề biết mặt. Bên cạnh đó, tác giả đặc biệt chú trọng bày tỏ cảm xúc qua nhân vật chú bé Hồng, thể hiện sự phẫn uất và căm tức những lề thói lỗi thời ngày xưa. Ý thực được mẹ mình bị mang tiếng, "một người đàn bà đã bị cái tội là góa chồng, nợ nần cùng túng quá, phải bỏ con cái đi tha hương cầu thực", khi nghe những lời cay nghiệt từ bà cô, cậu bé đã nảy sinh suy nghĩ: "Giá những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thủy tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kì nát vụn mới thôi". Hàng loạt động từ mạnh được sử dụng đã nhấn mạnh sự căm tức và nỗi khát khao phá bỏ những cổ tục ăn mòn vào tâm trí nhân dân. Giá trị nhân đạo của đoạn trích được thể hiện rõ nét, trên một phương diện mới mẻ, xót thương cho phận người phụ nữ trong xã hội thực dân nửa phong kiến, phải chống chọi với miệng lưỡi người đời độc ác, xấu xa.
Bằng nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật sắc sảo, mượn lời của nhân vật bé Hồng để bày tỏ quan điểm cá nhân, tác giả đã rất thành công trong việc bồi đắp giá trị nhân đạo cho đoạn trích. Qua "Trong lòng mẹ", người đọc thấy được một trái tim nhân hậu, lương thiện, tình yêu thương đối với phụ nữ, trẻ em và giọng điệu đanh thép, kiên quyết lên án những hủ tục bất công trong xã hội.
Bài văn nêu cảm hứng nhân đạo và ký ức tuổi thơ qua đoạn trích "Trong lòng mẹ" - mẫu 6
Như một mầm non tí tách nhú chồi, như một nõn lá xanh non chưa bị thời gian nhuốm bụi, như một giọt sương mai tinh khiết – đó là tuổi thơ – trong sáng và thánh thiện biết bao. Tuổi thơ là tuổi thần tiên, không có thành kiến và định kiến. Tuổi thơ phải được vui chơi và sống giữa tình thương của cha mẹ. Nhưng có những em bé thì ngay tuổi thơ đã phải chịu nhiều đau khổ. Hồng (Những ngày thơ ấu – Nguyên Hồng) là một em bé như vậy. Em phải chịu mọi sự thành kiến của họ hàng và những lời lẽ cay độc của bà cô với một tấm lòng yêu thương và khát khao tình mẹ. Có lẽ vì thế mà khi nhận định về tác phẩm Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, Thạch Lam đã nói: “Những ngày thơ ấu là sự rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại”.
Đoạn trích Trong lòng mẹ được rút ra từ tác phẩm Những ngày thơ ấu của nhà văn Nguyên Hồng. Đây là tập hồi kí về tuổi thơ đau thương, tủi cực của chính nhà văn. Bởi vậy, “những rung động cực điểm” của Hồng cũng chính là của nhà văn.
Hồng sinh ra trong một gia đình không hạnh phúc. Bố nghiện ngập và chết sớm. Mẹ tha phương cầu thực. Xã hội không dung nạp em. Hồng trở thành một em bé mồ côi, lạc lõng giữa dòng người. Cuộc đời của Hồng là một chuỗi ngày dài đong đầy nước mắt. Em bị họ hàng xa lánh. Tuổi thơ Hồng đã phải chịu biết bao nhiêu cay đắng, khổ đau. Cuộc đời đã không mang lại cho em nhiều may mắn. Em phải sống với bà cô đầy cay nghiệt, bà đã dùng những lời độc địa để nói về mẹ em – người phụ nữ mà mọi người coi là không đoan chính. Hồng đã khóc. Em khóc vì tủi thân, khóc vì thương mẹ. Em bất lực trước những thành kiến mà xã hội “dành tặng” cho mẹ. Em thương và yêu mẹ vô cùng.
Như người ta thường nói: Khi đau khổ thì ta khóc. Hồng cũng vậy. Có thể nói, những đau khổ mà cuộc đời “đem lại” cho em đã tràn ngập trong tâm hồn bé nhỏ. Những đau khổ ấy đã lên đến cực điểm. Tại sao người ta lại dành cho mẹ em những lời lẽ độc ác như vậy? Tại sao người ta lại không hiểu rằng mẹ em đã phải chôn vùi tuổi xuân và sức sống của mình trong một cuộc hôn nhân không hạnh phúc? Cuộc đời mẹ đã phải chịu quá nhiều vất vả, khổ đau. Từ chỗ im lặng không nói đến lúc rơm rớm nước mắt rồi oà khóc nức nở, Hồng đã phải cố ghìm nén nỗi đau. Tiếng khóc ấy lẽ ra đã phải được bật ra từ lâu, bởi Hồng không đáng bị đối xử như thế. Dù sao em vẫn là một đứa trẻ và em có quyền được vui chơi, được hưởng hạnh phúc. Không phải ngẫu nhiên mà em khóc, cũng không phải ngẫu nhiên mà Hồng ý thức được cái ý đồ thâm độc của bà cô. Chỉ tình thương yêu của mẹ đã giúp em có được những điều đó. Đây chính là sự rung động mãnh liệt trong trái tim em. Tinh cảm yêu thương mẹ càng được nhân lên khi em biết được tất cả những nỗi tủi cực của mẹ cũng như của những người phụ nữ khác đều do những hủ tục xã hội gây nên. Càng yêu mẹ bao nhiêu em càng căm thù xã hội bấy nhiêu: “Giá những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thuỷ tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiền cho kì nát vụn mới thôi”.
Nhưng khát vọng được gặp mẹ, được nhìn thấy mẹ luôn luôn thôi thúc, trào dâng trong lòng Hồng. Nỗi niềm thương nhớ người mẹ tích tụ, nung nấu qua bao tháng ngày khiến tình cảm đứa con dành cho mẹ giống như một tín ngưỡng, thành kính, thiêng liêng. Trái tim của Hồng như đang rạn nứt, đang rớm máu vì thiếu mẹ. Cho nên, lòng khao khát gặp mẹ, được sống với mẹ của em càng lên cao tới tột điểm. Mẹ của em đã trở về. Bằng linh cảm cực nhạy của đứa con khao khát tình mẫu tử, Hồng nhận ra mẹ ngay. Em vui mừng cất tiếng gọi mẹ – cái tiếng mà bấy lâu nay em cất giấu trong lòng – cái tiếng mà em hãnh diện, tôn thờ. Còn hạnh phúc nào bằng hạnh phúc được lăn xả vào lòng mẹ, được mẹ âu yếm, vỗ về. Hồng yêu mẹ biết bao, em gặp mẹ ví như “người bộ hành giữa sa mạc tìm được bóng râm và nước mát”. Và em nghĩ rằng, nếu đó không phải là mẹ thì đối với em đó là một sự thất vọng ghê gớm: bóng râm và nước mát chỉ còn là ảo ảnh.
Và khi mẹ con nhận ra nhau thì bé Hồng oà lên khóc nức nở. Bao nhiêu côi cút, bao nhiêu chờ đợi bỗng vỡ oà trong nước mắt. Dường như những giọt nước mắt của Hồng là những giọt tình cảm mà em dành cho mẹ. Tất cả, tất cả như lan chiếm hết trái tim em. Phải chăng đây chính là cao điểm của những rung động trong tâm hồn trẻ dại của Hồng? Hồng muốn căng hết tất cả mọi giác quan để thâu nhận cho hết, cho hả cái tình mẹ con sau bao năm xa cách. Phút giây gặp lại mẹ đối với Hồng là những phút “rạo rực” bởi Hồng yêu mẹ, tin mẹ và khao khát gặp mẹ. Em cảm nhận được tình thương của mẹ từ bàn tay, từ hơi ấm lòng mẹ toả ra. Tình cảm mẹ con vô cùng thiết tha, sâu nặng. Và bé Hồng thực sự phải được hưởng niềm hạnh phúc lớn lao ấy bởi con người, tâm hồn em là một vì sao nhỏ bé nhưng sáng chói giữa bầu trời bao la.
Hồng đã phải chịu những khổ đau, tủi cực xen lẫn niềm hạnh phúc. Chính vì vậy, những rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại là tình cảm chân thành, tình yêu thương cháy bỏng, sự căm ghét tận cùng xuất phát từ chính trái tim tác giả – nhân vật bé Hồng. Tất cả những tình cảm ấy đã lên đến đỉnh điểm.
Nếu như tâm hồn trẻ thơ là dây đàn muôn điệu thì sợi dây đàn trong tâm hồn bé Hồng đã biết gạt bỏ những thành kiến xấu xa của xã hội để ngân rung lên khúc ca đầy yêu thương, nhân ái và bao dung.
Bài văn nêu cảm hứng nhân đạo và ký ức tuổi thơ qua đoạn trích "Trong lòng mẹ" - mẫu 7
Nói đến Nguyên Hồng, người ta nhớ ngay một giọng văn như trút cả bao xúc động đắng đót vào trong những câu chuyện của ông.
Hồi ký “Những ngày thơ ấu” là kỷ niệm xót xa của cậu bé Hồng, mang theo cái dư vị đắng chát của tuổi thơ khát khao tình mẹ. Cho đến tận bây giờ, khi đọc lại những trang viết này, người đọc vẫn lây lan cảm giác của cậu bé sớm phải chịu thiếu thốn tình cảm, để rồi chợt nhận ra: tình mẫu tử là nguồn sức mạnh thiêng liêng và diệu kỳ, là nguồn an ủi và chở che giúp cho đứa trẻ có thể vượt lên bao đắng cay tủi nhục và bất hạnh.
Đoạn trích Trong lòng mẹ là hồi ức đan xen cay đắng và ngọt ngào của chính nhà văn – cậu bé sinh ra trong một gia đình bất hạnh: người cha nghiện ngập rồi chết mòn, chết rục bên bàn đèn thuốc phiện, người mẹ cùng túng phải đi tha phương cầu thực, cậu bé Hồng đã phải sống trong cảnh hắt hủi ghẻ lạnh đến cay nghiệt của chính những người trong họ hàng. Cậu bé phải đối mặt với bà cô cay nghiệt, luôn luôn “tươi cười” – khiến hình dung đến loại người “bề ngoài thơn thớt nói cười – mà trong nham hiểm giết người không dao”. Đáng sợ hơn, sự tàn nhẫn ấy lại dành cho đứa cháu ruột vô tội của mình. Những diễn biến tâm trạng của bé Hồng trong câu chuyện đã được thuật lại bằng tất cả nỗi niềm đau thắt vì những ký ức hãi hùng kinh khiếp của tuổi thơ. Kỳ diệu thay, những trang viết ấy lại giúp chúng ta hiểu ra một điều thật tự nhiên giản dị: Mẹ là người chỉ có một trên đời, tình mẹ con là mối dây bền chặt không gì chia cắt được.
Trước khi gặp mẹ: Nói một cách công bằng, nếu chỉ nhìn vào bề ngoài cuộc sống của cậu bé Hồng, có thể nói cậu bé ấy vẫn còn may mắn hơn bao đứa trẻ lang thang vì còn có một mái nhà và những người ruột thịt để nương tựa sau khi cha mất và mẹ bỏ đi. Nhưng liệu có thể gọi là gia đình không khi chính những người thân – mà đại diện là bà cô ruột lại đóng vai trò người giám hộ cay nghiệt. Tấm lòng trẻ thơ ấy thật đáng quí. Đối với bé Hồng, bao giờ mẹ cũng là người tốt nhất, đẹp nhất. Tình cảm của đứa con đã giúp bé vượt qua những thành kiến mà người cô đã gieo rắc vào lòng cậu: “Vì tôi biết rõ, nhắc đến mẹ tôi, cô chỉ có ý gieo rắc vào đầu óc tôi những hoài nghi để tôi khinh miệt và ruồng rẫy mẹ tôi, một người đàn bà đã bị cái tội là goá chồng, nợ nần cùng túng quá, phải bỏ con cái đi tha phương cầu thực. Nhưng đời nào lòng thương yêu và lòng kính mến mẹ tôi lại bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến…”
Nhưng ta cũng nhận ra những vết thương lòng đau nhói mà bé Hồng đã sớm phải gánh chịu. Sự tra tấn tinh thần thật ghê gớm. Sức chịu đựng của một cậu bé cũng có chừng mực. Ta chứng kiến và cảm thương cho từng khoảnh khắc đớn đau, cậu đã trở thành tấm bia hứng chịu thay cho mẹ những ghẻ lạnh, thành kiến của người đời: “Tôi lại im lặng cúi đầu xuống đất: lòng tôi thắt lại, khoé mắt tôi đã cay cay”
Dù đã kìm nén hết mức nhưng những lời độc ác kia vẫn đạt được mục đích khi đã lấy được những giọt nước mắt tủi nhục của một đứa trẻ không đủ sức tự vệ . Ta chợt ghê sợ trước loại người như bà cô – họ vẫn lẩn quất đâu đó quanh ta, với trò tra tấn gặm nhấm dần niềm tin con trẻ. Liệu ta có hoà chung giọt nước mắt này chăng: “Nước mắt tôi ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hoà đầm đìa ở cằm và cổ”.
Càng thương cho cậu bé Hồng, ta lại càng căm uất sự ghẻ lạnh của người đời trước những số phận bất hạnh. Từ nhận thức non nớt, cậu bé ấy cũng đã kiên quyết bảo vệ mẹ mình, bất chấp những thành kiến ác độc: “Chỉ vì tôi thương mẹ tôi và căm tức sao mẹ tôi lại vì sợ hãi những thành kiến tàn ác mà xa lìa anh em tôi, để sinh nở một cách giấu giếm… Tôi cười dài trong tiếng khóc”. Dường như khoảnh khắc cười dài trong tiếng khóc kia chứa chất sự phẫn nộ và khinh bỉ không cần giấu giếm Trong thâm tâm, liệu rằng cậu bé ấy có khi nào oán trách mẹ mình đã nhẫn tâm bỏ con không? Có lẽ không bao giờ, bởi lẽ niềm khao khát được gặp lại mẹ lúc nào cũng thường trực trong lòng cậu bé.
Ta xúc động biết bao nhiêu trước khoảnh khắc hồi hộp lo lắng của cậu bé khi sợ mình nhận nhầm mẹ. Linh cảm và tình yêu dành cho mẹ đã không đánh lừa cậu, để đền đáp lại là cảm giác của đứa con trong lòng mẹ – cảm giác được chở che, bảo bọc, được thương yêu, an ủi. Hình ảnh mẹ qua những trang viết của nhà văn thật tươi tắn sinh động, là sự diệu kỳ giúp cậu bé vượt lên nỗi cay đắng của những ngày xa mẹ. Mỗi khi đứng trước mẹ, có lẽ mỗi một người trong chúng ta cũng sẽ cảm nhận được tình me giống như cậu bé Hồng: “Mẹ tôi vừa kéo tay tôi, xoa đầu tôi hỏi thì tôi oà lên khóc rồi cứ thế nức nở”. Không khóc sao được, khi những uất ức nén nhịn có dịp bùng phát, khi cậu bé có được cảm giác an toàn và được chở che trong vòng tay mẹ. Thật đẹp khi chúng ta đọc những câu văn, tràn trề cảm giác hạnh phúc:“Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người mẹ, để người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm, và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy mẹ có một êm dịu vô cùng”. Mẹ đã trở về cùng đứa con thân yêu, để cậu bé được thoả lòng mong nhớ và khát khao bé nhỏ của mình. Có lẽ không cần phải bình luận thêm nhiều, khi tất cả tình yêu với mẹ đã được nhà văn giãi bày trên trang giấy.
Một đoạn trích ngắn, một tình yêu vô bờ bến nhà văn dành cho mẹ đã khiến cho bao trái tim trẻ thơ thổn thức. Điều quan trọng hơn, nhà văn đã đem đến cho ta những giờ phút suy ngẫm về vai trò Người Mẹ. Có lẽ vì những ngày thơ ấu in đậm trong hoài niệm đã làm nên một hồn văn nhân ái Nguyên Hồng sau này chăng?
Bài văn nêu cảm hứng nhân đạo và ký ức tuổi thơ qua đoạn trích "Trong lòng mẹ" - mẫu 8
Tuổi thơ trong ký ức của mỗi con người bao giờ cũng chất chứa biết bao điều kỳ diệu: nhiều khi là cánh diều chao giữa tầng không với muôn ngàn sắc màu rực rỡ; lắm lúc lại là cánh cò trắng chập chờn bay vào những giấc mơ; và thỉnh thoảng là chị Hằng Nga sống trên cung trăng bên chú Cuội… Nhưng hình ảnh ta đều bắt gặp trong mọi ký ức tuổi thơ lại chính là Mẹ – quen thuộc và gần gũi nhất. Trong lòng mẹ trích Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng là đoạn trích đã gây nhiều xúc động mạnh mẽ cho người đọc khi thể hiện gần như trọn vẹn những tình cảm sâu sắc của tình mẫu tử thiêng liêng chất chứa trong từng câu chữ.
Đến với tác phẩm của Nguyên Hồng, người ta không phải là thưởng thức những câu chuyện được dựng xây bằng tưởng tượng mà Nguyên Hồng đã “lôi kéo” con người cùng sống chung với cuộc đời số phận của nhà văn – chứ không còn là nhân vật. Bởi lẽ Những ngày thơ ấu là một phần kỷ niệm được rứt ra trong tuổi thơ cay cực của chính nhà văn. Nó là những trang hồi ký chứa đầy nước mắt, thổn thức xót xa của một trái tim sớm phải nếm vị đắng cuộc đời, thiếu vắng tình thương và luôn khát khao tình yêu của mẹ, được một lần nằm yên bình trong lòng mẹ. Niềm khát khao ấy cháy bỏng, mãnh liệt như muốn phá tung tất cả để tìm đến tình thương, tìm đến người mẹ. Và cũng chính từ tình cảm ấy, người đọc nhận ra ý nghĩa thiêng liêng của tình mẫu tử. Đó là động lực để giúp những đứa trẻ vượt lên khó khăn, vượt lên hoàn cảnh bất hạnh để tìm đến một tương lai rạng ngời. Đó cũng là nguồn sức mạnh vô hình an ủi và chở che cho những trái tim run rẩy.
Đoạn trích Trong lòng mẹ là câu chuyện chân thực và cảm động về một người mẹ đáng thương phải chạy trốn những hủ tục khắt khe của xã hội, những định kiến nghiệt ngã của người đời trói buộc, đọa đày người phụ nữ. Cũng như đó là một tâm hồn nhạy cảm, trong trắng, thơ ngây của một trái tim luôn tôn thờ người mẹ – bé Hồng. Hoà chung những giọt nước mắt nóng hổi của cậu bé là giọt nước mắt cảm thương trước những kỷ niệm sâu sắc tuổi thơ còn buốt nhói trong lòng người đọc để người đọc nhận ra: đó là một phần hình thành nên hồn văn nhân ái Nguyên Hồng.
Sinh ra trong gia đình bất hạnh, bé Hồng là kết quả của cuộc hôn nhân không có tình yêu, lại càng gánh bất hạnh nhiều hơn nữa. Một ông bố nghiện ngập rồi chết mòn chết rục bên bàn đèn thuốc phiện để lại cho người mẹ tất cả những cùng túng của gia đình, cuối cùng phải ly hương kiếm sống. Thế là chỉ còn một mình bé Hồng phải sống với gia đình họ nội, hứng chịu tất cả sự hắt hủi ghẻ lạnh đến cay nghiệt, lắng nghe tất cả những gièm pha về người mẹ đi tha phương cầu thực. Trong những câu chuyện được thêu dệt bởi “bà cô bên chồng”, người mẹ luôn bị khinh khi, chửi mắng thậm tệ nhưng nào ai hiểu rằng nỗi khổ tâm lớn nhất là cảnh xa con? Chỉ mỗi bé Hồng hiểu mẹ và yêu mẹ hơn tất cả. Những dấu ấn thành kiến của xã hội cay nghiệt ghi đậm dấu ấn trong tâm hồn non nớt của bé Hồng, tạo nên những suy nghĩ già trước tuổi nhưng không thể nào xoá được những tình cảm kính yêu tôn thờ người mẹ.
Số phận trớ trêu đã diễn ra ngay trong những mối quan hệ gia đình là nỗi bất hạnh của đứa trẻ không được sống trong vòng tay yêu thương chăm sóc của mẹ. Bé Hồng đặt ngay giữa ranh giới của thành kiến và tình thương. Nếu bà cô là hiện thân của một xã hội đầy cổ tục để phê phán, đem đến những định kiến cho chị dâu goá bụa trẻ trung thì bé Hồng lại hiện lên với tất cả tình thương, sự bao dung tha thứ. Thiếu sự nhân ái, độ lượng đã đành, bà cô lại càng ích kỷ nhẫn tâm hơn khi cố tình làm tổn thương tâm hồn thơ trẻ của chính đứa cháu ruột của mình bằng cáh “gieo rắc vào đầu óc tôi những hoài nghi để tôi khinh miệt và ruồng rẫy mẹ tôi, một người đàn bà bị cái tội goá chồng, nợ nần cùng túng quá phải bỏ con cái đi tha phương cầu thực”. Với bé Hồng, trong ký ức hãi hùng kinh khiếp của tuổi thơ, ấn tượng của giọng nói và nụ cười rất kịch là hình ảnh không thể xoá mờ.
Ta nhận ra, đàng sau lời nói nhẹ nhàng thản nhiên như không kia là cả một “tâm xà” mù quáng và thù hận. Nhưng dù hàng ngày phải đối mặt với con người độc địa ấy, chú bé Hồng vẫn không “đời nào lòng thương yêu và lòng kính mến mẹ tôi lại bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến”. Chỉ một câu nói thôi nhưng chứa đựng một lời khẳng định chắc nịch cho một điều tưởng chừng thật giản dị, tình cảm mẹ con đã là một mối dây bền chặt mà không gì có thề chia cắt được.
Mặc dù được sống trong một hoàn cảnh vật chất có phần sung sướng hơn những đứa trẻ lang thang không có mái nhà nhưng đối với bé Hồng có lẽ hoàn cảnh ấy lại càng đáng thương hơn. Vốn dĩ đã không nhận đuợc một chút tình thương từ họ hàng, ấy vậy mà tình thương dành cho mẹ lại đang bị người khác tước đoạt mất. Bé Hồng bị bao bọc bởi lòng ganh ghét đố kị, một cuộc sống căng thẳng vây lấy tâm hồn vì luôn phải chịu đựng áp lực từ chính người thân. Nỗi đau đó lại càng đau hơn gấp ngàn lần so với sự thiếu thốn về vật chất. Nhưng dù sống trong hoàn cảnh như vậy, tình cảm bé Hồng đối với mẹ vẫn không hề mai một. Tâm hồn trẻ thơ thánh thiện ấy đáng quí biết dường nào! Vẫn là một đứa trẻ vô tư, nhưng bé Hồng đã già trước tuổi khi biết căm tức thành kiến tàn ác, quyết tâm bảo vệ mẹ đến cùng, cố chống lại sự xạm nhập của những tư tưởng xấu xa. Nhưng trong những hành động ấy là cả một tâm hồn hiếu thảo có sự đứng đắn của người đàn ông thực thụ muốn che chở cho người mình yêu thương và cả sự dễ thương của tâm hồn thơ trẻ không muốn cho ai bắt nạt mẹ mình.
Tuy vậy, dưới sự tra tấn về mặt tinh thần quá nặng nề, những lời nói độc ác vẫn tuôn ra không ngớt, sức chịu đựng của một đứa trẻ cũng chỉ có hạn mà thôi nên bà cô đã đạt được mục đích của mình khi xoáy sâu vào lòng đứa cháu trai những vết thương lòng. Giọt nước mắt tủi buồn “ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hoà đầm đìa ở cằm và cổ” là giọt nước mắt mang đầy mặc cảm thân phận của tâm hồn tinh tế, dễ tủi thân và giàu xúc động. Lời văn mô tả vào diễn biến tâm trạng bé Hồng một cách cụ thể từ một nụ cười tin tưởng thơ ngây cho đến cười dài trong tiếng khóc. Khoảnh khắc hứng chịu lời xỉa xói của bà cô thay cho mẹ đau đớn đến quặn lòng: “Tôi lại im lặng cúi đầu xuống đất, lòng tôi thắt lại, khoé mắt tôi đã cay cay”. Giọt nước mắt nóng hổi trên gương mặt kia đã đánh động lòng trắc ẩn trong tâm tư người đọc. Rồi tiếng cười dài bật ra trong tiếng khóc nức nở đã vỡ bung những xúc cảm đè nén bấy lâu để sau đó lại “nghẹn ứ khóc không ra tiếng”. Đây là đỉnh cao trong tâm trạng, sự phẫn nộ lên đến tột bậc để hiện ra nguyên vẹn là tình cảm chân thực dành cho mẹ không hề giấu giếm.
“Mợ ơi… mợ ơi… mợ ơi!”, tiếng gọi thống thiết của bé Hồng đã khuấy động cả không gian. Tiếng kêu vội vã, kéo dài mà mơ hồ có một sự sợ hãi đã diễn giải đầy đủ những khát khao trong tâm hồn đứa trẻ thiếu thốn tình thương. Thật xúc động biết bao trước giây phút lo lắng hồi hộp khi sợ nhận nhầm người mà mình gọi là “mợ”. Điều đó lại càng khẳng định cho niềm mong mỏi được gặp mẹ của bé Hồng. Bởi không phải những xúc cảm mãnh liệt thôi thúc thì tiếng nói cất lên sẽ rất e dè,thận trọng, thậm chí không dám cất lên khi chưa chắc chắn. Nhưng dẫu cho có sự mơ hồ, tình mẫu tử thiêng liêng, nỗi nhớ nhung khắc khoải trong bao năm xa cách, tiếng gọi đã vang lên đến độ đã níu kéo được chân người, xé toạc không gian. Nhưng sự “ngờ ngợ” ấy đã không còn mơ hồ nữa, khi người thiếu phụ dừng xe lại và bé Hồng nhận ra đích thị là mẹ. Người mẹ trở về trong niềm vui, hân hoan và hạnh phúc của đứa con trai bé bỏng. Lần nữa, bé Hồng lại cất tiếng khóc khi được đón nhận sự chở che, thương yêu, bảo bọc: “Mẹ tôi vừa kéo tay tôi, xoa đầu tôi hỏi thì tôi oà lên khóc rồi cứ thế nức nở”. Nếu những lần trước là tiếng khóc kìm nén, những giõt nước mắt rưng rưng không tràn ra được thì giờ đây lại là những tiếng nức nở làm vơi đi nỗi uất ức, tủi cực trong lòng. Tiếng khóc vang vọng hơn không còn chất chứa nỗi niềm xót xa mà tràn trề niềm hạnh phúc. Giọt nước mắt hôm nay hoà chung giữa hai con người, là sự oà vỡ của cả hai tâm hồn mẹ – con làm nên tình mẫu tử.
Hình ảnh người mẹ được diễn tả bằng những nét tươi tắn sinh động trong đôi mắt nhìn của đứa con, mẹ vẫn đẹp một cách lạ lùng. Vẻ đẹp ấy không cần rực rỡ mà nó chỉ giản dị và vô cùng thân thương. Bởi trong cái nhìn của bé Hồng bằng tất cả sự xúc động và tình thương vô bờ bến thì mẹ bao giờ chẳng là người đẹp nhất! Từ đó, gợi đến niềm ước mơ mà bất kỳ đứa con nào cũng khát khao khi đứng trước mẹ “Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người mẹ, để người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy mẹ có một êm dịu vô cùng”
Dường như,đoạn văn đã ắp đầy những cảm xúc êm ái lan toả toàn bộ không gian và thời gian. Phút giây gặp gỡ ấy như ngưng đọng mãi niềm hạnh phúc trong trái tim nhân vật cũng như người đọc. Không giống như Mợ Du hay Huệ Chi trước lễ cưới kết thúc là một cái chết khiến người đọc đau đớn đến sửng sốt, mặc dù vẫn là những cảm xúc về mẹ nhưng ở đây lại là một kết cục có hậu như là sự bù đắp cho tâm hồn thánh thiện của người con hiếu thảo.
Cảnh đời thực của những số phận con người, đặc biệt là người phụ nữ vẫn còn bị ràng buộc bởi hủ tục phong kiến khắt khe đã được ghi lại đầy đủ đậm nét bằng những trang hồi ký nóng hổi niềm thương cảm của chính tác giả. Nhằm phản ánh một xã hội bất công, dồng thời lên tiếng bảo vệ cho con người bất hạnh, tác phẩm đã thể hiện một tinh thần nhân đạo cao cả. Gắn với tình cảm chân thành của nhà văn là sự chuyển tải nỗi xúc động trong từng câu chữ hình ảnh đã khắc hoạ sâu sắc giá trị tình cảm thiêng liêng trong gia đình: tình mẫu tử. Trong lòng mẹ cũng là tiêu biểu cho phong cách “văn nóng” của Nguyên Hồng.
Có những tình cảm dễ dàng đổ vỡ trước chông gai nhưng tình mẫu tử thiêng liêng của bé Hồng đã không hề suy xuyển. Đó cũng là sự nhắc nhở cho mỗi con người phải biết thương yêu kính trọng mẹ với tất cả tình cảm của mình. Có những tác phẩm đã mau chóng bị lãng quên nhưng giá trị Trong lòng mẹ cũng như Những ngày thơ ấu sẽ mãi mãi trường tồn bởi nó không những chứa đựng một tình cảm nhân đạo sâu sắc mà còn là một triết lí về giá trị tình cảm gia đình, thấm đượm chất thơ giữa cuộc đời nhiều cay cực.
Hãy đăng nhập để bình luận
Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .