Top 6 Bài văn phân tích đoạn 1 của Đại cáo bình Ngô (Bình Ngô đại cáo) (Ngữ văn 10) hay nhất

6257

Trong lịch sử Việt Nam, Nguyễn Trãi là một nhân vật lịch sử có tên tuổi, được biết đến với trí võ song toàn. Trí tuệ, tài năng và phẩm chất của ông là ánh...xem thêm ...

Top 0
(có 0 lượt vote)

Bài tham khảo số 1

Sinh ra trong một gia đình vốn có truyền thống yêu nước và văn học, Nguyễn Trãi đã sớm được tiếp xúc và thấu hiểu những tư tưởng nền tảng của Nho giáo. Nguyễn Trãi không chỉ là nhà Nho, bậc kì tài về chính trị và quân sự mà ông còn là nhà văn, nhà thơ nổi tiếng của thời đại. Những sáng tác của Nguyễn Trãi luôn lấp lánh chủ nghĩa yêu nước sâu sắc và tác phẩm "Bình Ngô đại cáo" là một trong số những tác phẩm như thế. Đặc biệt, đoạn mở đầu tác phẩm "Bình Ngô đại cáo" đã nêu lên một cách rõ nét luận đề chính nghĩa làm tiền đề tư tưởng cho toàn bộ bài cáo.


Trước hết, đoạn mở đầu tác phẩm đã nêu lên tư tưởng nhân nghĩa sâu sắc, độc đáo.


Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.


Như chúng ta đã biết, từ ngàn đời nay, trong hệ thống quan niệm tư tưởng của Nho giáo, "nhân nghĩa" là một quan niệm tư tưởng cốt lõi, nó thể hiện mối quan hệ tốt đẹp, gắn bó giữa con người với con người trên cơ sở của tình thương và đạo lí. Xuất thân là một nhà nho, vì thế, có lẽ hơn ai hết, Nguyễn Trãi thấu hiểu sâu sắc quan điểm này của Nho giáo và lựa chọn nó làm nền tảng tư tưởng cốt lõi, xuyên suốt toàn bộ bài cáo. Nhưng hết thế, với Nguyễn Trãi, nền tảng cốt yếu của "nhân nghĩa" chính là yên dân, là đem đến cho nhân dân cuộc sống bình yên, ấm êm và hạnh phúc. Đồng thời, ông cũng chỉ ra rằng, để dân được yên thì việc quan trọng cần phải làm đó chính là "trừ bạo", là đánh đuổi những kẻ tàn bạo đang xâm lược nước ta và cả những kẻ tham tàn trong nước đã đẩy nhân dân vào cuộc sống cơ cực, khốn khó, lầm than. Như vậy, có thể thấy, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi luôn gắn liền với nhân dân, lấy dân làm gốc, làm nền tảng và vì nhân dân mà đánh tan quân tàn ác.


Không chỉ nêu lên tư tưởng nhân nghĩa làm nền tảng chân lí vững chắc, trong phần mở đầu của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi còn nêu lên chân lí độc lập của dân tộc ta từ ngàn đời nay.


Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có.


Chỉ bằng những câu thơ ngắn gọn nhưng có lẽ cũng đủ để Nguyễn Trãi điểm lại một cách đầy đủ và rõ nét những truyền thống từ lâu đời của dân tộc, đó cũng chính là chân lí độc lập khách quan mà ông muốn đề cập tới. Nước Đại Việt cũng như bao dân tộc khác có nền văn hiến từ lâu đời, có lãnh thổ riêng đã được phân định rõ ràng và cùng với đó mỗi vùng miền đều có những nét phong tục, tập quán riêng, mang bản sắc riêng của dân tộc Đại Việt. Thêm vào đó, với thủ pháp đối lập, tác giả Nguyễn Trãi còn đặt các triều đại của nước Đại Việt sánh ngang với các triều đại phong kiến phương Bắc, điều đó không chỉ khẳng định nền độc lập của dân tộc mà qua đó còn thể hiện niềm tự hào về những truyền thống, về lịch sử ngàn năm của dân tộc.


Thêm vào đó, trong những câu thơ kết thúc đoạn mở đầu của tác phẩm, tác giả Nguyễn Trãi đã khéo léo điểm lại những chiến thắng lịch sử huy hoàng, vang dội của quân và dân ta trong lịch sử.


Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cứ còn ghi.


Tác giả đã đưa ra những chứng cứ, những sự việc đã xảy ra trong lịch sử với sự thất bại thảm hại của quân giặc - Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã như một lời khẳng định về sức mạnh, về sự chiến thắng tất yếu dành cho những con người, những dân tộc luôn đứng trên nền tảng của chính nghĩa để đấu tranh.


Tóm lại, có thể thấy, đoạn mở đầu của tác phẩm "Bình Ngô đại cáo" với giọng văn hào hùng, tràn đầy niềm tự hào dân tộc, tác giả Nguyễn Trãi đã làm bật nổi tư tưởng chính nghĩa và chân lí độc lập khách quan của dân tộc. Chính điều đó là nền tảng tư tưởng vững chắc xuyên suốt toàn bộ tác phẩm.

Hình minh hoạ ảnh 1
Hình minh hoạ
Top 1
(có 0 lượt vote)

Bài tham khảo số 2

Sau thời gian cầm cự và tạm hoà hoãn, từ năm 1424, Lê Lợi đã chuyển sang thời kì tổng phản công. Đến cuối năm 1427, khi 15 vạn quân tiếp viện của giặc tan tành, buộc Vương Thông phải giảng hoà. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã kết thúc thắng lợi. Đất nước ta bước vào thời kì mới. Trong không khí tưng bừng của toàn dân tộc đón mừng xuân chiến thắng, đầu năm 1428 Nguyễn Trãi đã thay Lê Lợi thảo bài Cáo này để tuyên bố với nhân dân cả nước biết: Cuộc kháng Minh đã thành công rực rỡ, đất nước trở lại thanh bình.


Mở đầu bài Cáo, tác giả khẳng định lập trường chính nghĩa của ta trên cơ sở đạo lý:


Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo


Nhân nghĩa là quan niệm tư tưởng nhân sinh của Nho giáo. Nhân nghĩa là mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người trên cơ sở tình thương và đạo lí. Và cũng theo quan niệm của nho giáo, nhân nghĩa là cái gốc của sự việc. Trong thư số 8 trả lời Phương Chính, Nguyễn Trãi đã từng nói: “Phàm mưu đồ việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, làm nên công lớn phải lấy nhân nghĩa làm đầu”. Nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi nói đến trong bài Cáo là “cốt ở yên dân”. Và vì thế muốn thực hiện được nó ta phải “trước lo trừ bạo”. Bằng hai câu mở đầu, không chỉ nêu nên tư tưởng nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi còn nhấn mạnh mục đích và phương tiện để thực hiện tư tưởng nhân nghĩa đó. Nhân nghĩa phải biết tiêu trừ tham tàn bạo ngược, bảo vệ cuộc sống yên ổn cho nhân dân.

Nhân nghĩa mà tác giả nói tới là nhân nghĩa chân chính, chứ không phải giả nhân giả nghĩa như bọn giặc vẫn huênh hoang

Và cũng bằng cách vào đề lý luận khái quát, tác giả đã gây được không khí trang trọng thích hợp cho bài cáo và đồng thời xác định rõ lập trường chính nghĩa của cuộc kháng chiến. Dân tộc ta chiến đấu chống xâm lược là nhân nghĩa là phù hợp với đạo lí của thời đại thì sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của dân tộc Việt Nam là một chân lí khách quan.


Sau khi khẳng định lập trường chính nghĩa của cuộc kháng chiến về mặt đạo lý, Nguyễn Trãi tiếp tục khẳng định tính thực tế của đạo lí đó. Mà trước hết ông khẳng định sự tồn tại của nước Đại Việt như một chân lý khách quan:

Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Sông núi bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác


Nền văn hóa Đại Việt, nền văn hóa Thăng Long được hình thành, xây dựng và phát triển qua một quá trình lịch sử “đã lâu”, đã có “từ trước” đằng đẵng mấy nghìn năm. Đại Việt không chỉ có lãnh thổ chủ quyền “sông núi bờ cõi”, mà còn có thuần phong mỹ tục mang bản sắc riêng, có lịch sử riêng, chế độ riêng “bao đời gây nền độc lập”, đã từng “xưng đế một phương, có nhiều nhân tài hào kiệt…”


Khác với ý trong bài Hịch, Tổ Quốc ở đây không phải được hình dung bằng thái ấp, bổng lộc, gia quyến, vợ con, tông miếu phần mộ…mà với Nguyễn Trãi, Tổ Quốc được định nghĩa bằng những khái niệm trừu tượng được rằng nước ta là một nước có cương vực lãnh thổ, có quá trình độc lập, có quốc hiệu, có văn hoá phong tục chứ không phải là một quận, một huyện của Trung Quốc, cũng không phải là một bộ lạc man di mọi rợ. Đến đây, giọng điệu câu văn ngắn gọn, khoẻ, chắc, cách lập luận chặt chẽ như một lời tuyên bố đanh thép, tác giả đã nêu bật được sự tồn tại của một quốc gia nhỏ bé bên cạnh một quốc gia lớn trong không gian, thời gian, với truyền thống đấu tranh anh dung của nó.


Từ xa xưa chính sách đồng hóa của phong kiến Trung Quốc nhất là bọn giặc Minh rất hiểm độc. Chúng bắt nhân dân ta theo phong tục Trung Quốc, ăn mặc kiểu Trung Quốc, để tóc kiểu Trung Quốc, bó chân kiểu Trung Quốc, hòng làm cho ý thức dân tộc ta bị tiêu vong. Truyền thống đấu tranh anh dũng bất khuất của dân tộc:

Từ Triệu Đinh Lí Trần bao đời gây nền độc lập

Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau

Song hào kiệt đời nào cũng có


Dân tộc ta có một lịch sử chiến đấu oanh liệt, có thể sánh ngang với Trung Quốc. Những chiến công của anh hùng dân tộc ta như Ngô Quyền, Hưng Đạo còn ghi trong sử sách, những trận Bạch Đằng, Hàm Tử được muôn đời ca ngợi. Hãy xem: Lưu Cung thất bại, Triệu Tiết tiêu vong, Toa Đô bị giết tươi, Ô Mã bị bắt sống. Đâu có phải là lời nói suông. Đó là một thực tế khách quan.


Và với lối diễn đạt sóng đôi tương phản, tác giả đã khẳng định được truyền thống đấu tranh cũng như tư thế độc lập tự cường của dân tộc ta. Ta nói đến truyền thống dân tộc để ta tự tin, giặc nghe để chúng kinh hoàng. Quả vậy, dân tộc ta chẳng những đã phát huy thắng lợi trong việc đấu tranh chống phong kiến Trung Quốc, mà còn tiếp tục đấu tranh đánh đổ ách thực dân Pháp, Nhật, Mỹ xâm lược. Và trước sau, thời nào cũng vậy, toàn thắng ắt về ta.


Phần một của bài cáo là một lời khẳng định hết sức tự hào và đầy khoa học về đất nước: Đây là một đất nước có nhân nghĩa, có một nền văn hiến hết sức lâu đời và nhờ lấy “nhân nghĩa” làm triết lí sống nên mới có được nền văn hiến lâu đời đến như vậy, mới đánh thắng được bọn xâm lược phương Bắc, những kẻ không có chút “nhân nghĩa” đó. Hơn nữa, qua phần một của bài cáo, ta còn cảm nhận được tấm lòng của Nguyễn Trãi đối với đất nước: Ông hết sức tự hào về non sông này và ông đã thể hiện niềm yêu nước thật mãnh liệt. Tấm lòng ấy chắc chắn sẽ không bao giờ phai nhạt theo năm tháng và thời gian.

Hình minh hoạ ảnh 1
Hình minh hoạ
Top 2
(có 1 lượt vote)

Bài tham khảo số 3

Trong lịch sử Việt Nam, Nguyễn Trãi là một nhân vật lịch sử có tên tuổi, được biết đến với trí võ song toàn. Trí tuệ, tài năng và phẩm chất của ông là ánh sao khuê không bao giờ lụi tắt, soi sáng tới tận muôn đời sau. Không chỉ đóng góp cho cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược, góp phần lập ra nhà Hậu Lê, ông còn để lại sự nghiệp văn chương đồ sộ với những áng văn chương mẫu mực, văn chính luận sắc bén. "Bình ngô đại cáo" là áng "thiên cổ hùng văn " trong lịch sử , tổng kết cuộc kháng chiến mười năm chống quân Minh và mở ra một kỉ nguyên mới cho nước nhà, được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của nhân dân. Đoạn đầu của tác phẩm đã khẳng định được tư tưởng nhân nghĩa cùng chân lý độc lập của dân tộc Đại Việt.


“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi”


Bài cáo được mở đầu bằng một tư tưởng nhân nghĩa có ảnh hưởng sâu sắc từ Nho giáo. Khái niệm nhân nghĩa theo tác giả chính là tư tưởng, hành động vì con người, đấu tranh cho lẽ phải để bảo vệ cho đời sống của con người. Đời sống nhân dân no ấm, hạnh phúc thì đất nước mới có thể phát triển bền vững được. Vì vậy, những người đứng đầu đất nước phải lo việc yên dân, trừ bạo, dẹp yên được bọn xâm lược và cả bè lũ tay sai của chúng ở trong nước để bảo vệ cuộc sống của nhân dân. Tóm lại, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chính là muốn yên ổn dân chúng thì phải dẹp được bạo loạn và những thế lực làm cho dân khổ.


Tiếp theo, tác giả Nguyễn Trãi đã khẳng định được nền độc lập vĩnh cửu trường tồn của Đại Việt: có nền văn hiến từ lâu đời, có anh hùng hào kiệt, có các triều đại phong kiến sánh ngang với các triều đại Trung Quốc, có phong tục tập quán, có núi sông phân định rõ ràng. Bằng giọng văn đanh thép hào hùng, Nguyễn Trãi đã truyền được lòng tự hào dân tộc sánh ngang với các triều đại xâm lược. Nhờ những bằng chứng sắc sảo mà bài cáo đã được ví như Bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc, khẳng định việc xâm lược của triều đại trung quốc là sai trái.


Cuối cùng, Nguyễn Trãi đã tái hiện lại những thất bại thảm hại của quân giặc sang xâm chiếm Đại Việt. Bằng những từ ngữ miêu tả sự thảm bại của quân giặc và tự hào về những chiến công oanh liệt của dân tộc, người đọc thấy được 1 tinh thần hào sảng của nhà thơ.


Tóm lại, giá trị của Bình ngô đại cáo là trường tồn mãi mãi với dân tộc. Bình Ngô đại cáo được so sánh là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai và có sức tồn tại vĩnh cửu trong nền văn học Việt Nam.

Hình minh hoạ ảnh 1
Hình minh hoạ
Top 3
(có 0 lượt vote)

Bài tham khảo số 4

Nguyễn Trãi  không chỉ là nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, tài ba, mà còn là nhà văn nhà thơ lớn của dân tộc. Nhắc đến ông, chúng ta nhớ ngay đến tác phẩm nổi tiếng “Bình ngô đại cáo”. Đây được coi là áng thiên cổ hùng văn bất hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc. Nhan đề Bình Ngô đại cáo đã gợi cho ta nhiều suy nghĩ. Bình có nghĩa là dẹp yên. Ngô ở đây chỉ giặc Minh. Đại cáo là bài cáo lớn mang dấu ấn trọng đại về những sự kiện lớn của đất nước. Ngay từ nhan đề đã gợi ra một tâm thế hào hùng.


Chúng ta có thể thấy ngay tư tưởng nhân nghĩa, lòng tự hào, tự tôn dân tộc được thể hiện ngay ở đoạn 1 của bài thơ. Tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện ở hai câu đầu.


Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo


Mở đầu bài cáo, tác giả đã khẳng định đanh thép về định nghĩa tư tưởng nhân nghĩa. Theo phạm trù của Nho giáo, nhân nghĩa là chỉ mối quan hệ giữa người với người dựa trên cơ sở tình thương và đạo lý. Việc nhân nghĩa là mục tiêu chiến đấu của các cuộc khởi nghĩa. Việc nhân nghĩa là vì con người, vì lẽ phải. Theo quan niệm của Nguyễn Trãi, kế thừa từ tư tưởng Nho giáo nhân nghĩa là “yên dân” – làm cho cuộc sống của người dân yên ổn, hạnh phúc. Lấy dân làm gốc là quy luật tất yếu bao đời nay. Đây luôn là hoài bão ước mơ mà cả đời Nguyễn Trãi theo đuổi.


Việc nhân nghĩa còn có nghĩa là trừ bạo, giúp dân trừng trị những kẻ hành hạ, cướp bóc, bóc lột, mang lại bình yên, no ấm cho nhân dân. Nói rộng ra trừ bạo chính là chống lại giặc xâm lược. Tác giả đã nêu rõ ta là chính nghĩa, còn địch là phi nghĩa. Ông đã vạch trần sự xảo trá của giặc Minh trong cuộc xâm lược này. Tóm lại, tư tưởng  nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chính là lòng yêu nước, thương dân và tinh thần chống giặc ngoại xâm quyết liệt, để mang đến cho nhân dân thoát khỏi cuộc sống lầm than, khổ cực, đem lại no ấm cho nhân dân.


Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chính là lòng yêu nước, thương dân và tinh thần chống giặc ngoại xâm quyết liệt. Đây không chỉ là mối quan hệ nằm trong phạm vi giữa con người với con người mà mở rộng ra là mối quan hệ giữa dân tộc với dân tộc


8 câu thơ tiếp theo tác giả đã khẳng định chủ quyền dân tộc, khẳng định giá trị của tự do bằng việc nhắc lại trang sử hào hùng của dân tộc ta một cách đầy vẻ vang, tự hào.


Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu


Tác giả dẫn chứng xác thực đầy thuyết phục. Nước Đại Việt ta đã hình thành từ trước với nền văn hiến đã có từ lâu đời, tồn tại theo hàng nghìn năm lịch sử. Ở đây tác giả dung từ “xưng” để thể hiện sự tự hào, khẳng định chỗ đứng, vị thế của dân tộc ta.


Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu , Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập

Đến Hán, Đường, Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,

Song hào kiệt đời nào cũng có.


Không chỉ dừng lại ở việc khẳng định lãnh thổ và chủ quyền độc lập, tác giả nhắc đến văn hiến, lịch sử, phong tục, tập quán và nhân tài đất nước. Như vậy, đây chính là những yếu tố mới để tạo thành một quốc gia độc lập. So với “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt, Bình Ngô đại cáo thật sự hay hơn , đầy đủ, toàn diện hơn về nội dung cũng như tư tưởng xuyên suốt. Ông khẳng định lãnh thổ “Núi sông bờ cõi đã chia”, không kẻ nào được xâm phạm, chiếm lấy. Hơn nữa, phong tục tập quán, văn hóa mỗi miền Bắc Nam cũng khác, không thể nhầm lẫn, thay đổi hay xóa bỏ được.


Đặc biệt khi nhắc đến các triều đại trị vì xây nền độc lập, tác giả đã đặt các triều đại Triệu, Đinh, Lý, Trần ngang hàng với “Hán, Đường, Tống Nguyên của Trung Quốc vừa có ý liệt kê, vừa có ý đối đầu. Điều đó cho thấy lòng tự hào dân tộc mãnh liệt, ý thức về tự tôn, yêu nước cực kỳ lớn của tác giả. Và ở triều đại nào, thời nào thì hào kiệt đều có. Đây vừa thể hiện lòng yêu nước, tự hào vừa răn đe đối với quân xâm lược muốn thôn tính Đại Việt. Nguyễn Trãi không chỉ khẳng định chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, mà còn thể hiện niềm tin sắt đá vào các thế hệ anh hùng hào kiệt, hiền tài quốc gia. Đặt vào trong bối cảnh lúc bấy giờ, điều đó phần nào cũng thể hiện sự mới mẻ, tiến bộ của thi hào Nguyễn Trãi.


Lưu Cung tham công nên thất bại,

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.

Việc xưa xem xét,

Chứng cớ còn ghi.


Sau khi khẳng định chủ quyền dân tộc, thể hiện lòng tự tôn, tự hào dân tộc, nhà thơ đã dung biện pháp liệt kê, dẫn ra những kết cục của kẻ đi ngược lại với chân lý. Những dẫn chứng của ông từ các đời vô cùng thuyết phục. Lưu Cung là vua Nam Hán từng thất bại vì tham lam muốn thu phục Đại Việt; Triệu Tiết tướng của nhà Tống đã thua nặng khi cầm quân sang đô hộ nước ta, Toa Đô, Ô Mã… là các tướng của nhà Nguyên cũng phải bỏ mạng tại nước ta khi cầm quân sang xâm lược… “Chứng cớ còn ghi”, không thể chối cãi được. Đây chính là lời cảnh cáo, răn đe đanh thép với chứng cớ đầy đủ, thuyết phục, rõ rành rành đối với kẻ phi chính nghĩa khi xâm phạm đến lãnh thổ của nước ta. Mượn lời thơ đanh thép, ông tuyên bố với kẻ thù: bất kỳ kẻ nào lăm le xâm chiếm bờ cõi Đại Việt đều sẽ phải gánh chịu thất bại ê chề. Cuộc chiến chống lại quân giặc, bảo vệ dân tộc là một cuộc chiến vì chính nghĩa, lẽ phải, chứ không như nhiều cuộc chiến tranh phi nghĩa khác, cho nên, dù thế nào đi nữa, chính nghĩa nhất định thắng gian tà theo quy luật của tạo hóa.


Với giọng văn đĩnh đạc, hào hùng, lý lẽ sắc bén, đanh thép và lối diễn đạt cân xứng, song đôi của những câu văn biền ngẫu đã khẳng định và ngợi ca tầm vóc lịch sử lớn lao của nước Đại Việt.


Đoạn mở đầu của Bình ngô đại cáo như một khúc dạo đầu đầy hào sảng, hào hùng về chủ quyền Tổ quốc. Những vần thơ đanh thép, những dẫn chứng xác thực, lý lẽ chặt chẽ được nhà thơ đưa ra đã mang lại giá trị lớn về tinh thần dân tộc mạnh mẽ, về độc lập chủ quyền dân tộc, về  tư tưởng lấy dân làm gốc, ắt sẽ chiến thắng… Bình ngô đại cáo là áng hùng thi được ví như bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của dân tộc. Qua những vần thơ của Nguyễn Trãi, chúng ta càng thêm tự hào về truyền thống, lịch sử, văn hiến của đất nước.

Hình minh hoạ ảnh 1
Hình minh hoạ
Top 4
(có 0 lượt vote)

Bài tham khảo số 5

“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được mệnh danh như bản tuyên ngôn độc lập bất hủ của dân tộc, áng văn chính luận mẫu mực của non sông và cũng là áng thiên cổ hùng văn còn vang mãi nghìn đời. Đại cáo Bình Ngô được Nguyễn Trãi viết vào năm 1428 bố cáo với thiên hạ về nền độc lập tự cường, về chủ quyền của đất nước ta. Mỗi phần của tác phẩm đều chứa đựng ý nghĩa sâu sắc, đặc biệt phần đầu của bài Cáo đã cho thấy tư tưởng nhân nghĩa sáng ngời, lòng tự hào tự tôn dân tộc cùng với sự tàn bạo của quân Minh khi giày xéo lên mảnh đất dân tộc.


Bình Ngô đại cáo được Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi soạn thảo để công bố cho mọi người biết về sự nghiệp đánh tan giặc Minh xâm lược. Từ những buổi đầu khởi nghĩa khó khăn nơi vùng rừng núi hiểm trở đến những ngày chiến công rực rỡ là cả một giai đoạn gian khổ nhưng đầy hào hùng của dân tộc.


Ngay từ nhan đề “Bình Ngô đại cáo” đã gợi ra nhiều suy nghĩ. “Bình Ngô” chính là dẹp yên giặc Minh xâm lược. Gọi giặc Minh là Ngô vì Nguyễn Trãi muốn nhắc đến nguồn gốc, quê cha đất tổ của Chu Nguyên Chương – người đứng đầu và lập nên nhà Minh. Bởi lẽ trong xuyên suốt chiều dài lịch sử dân tộc đã có nhiều lần giặc phương Bắc kéo đến xâm lược chúng ta nhưng kết quả đều là thất bại. Điều đó đã minh chứng rõ cho tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến của nhân dân Đại Việt.


“Đại cáo” nhằm chỉ quy mô rộng lớn và tính chất trọng đại của bài cáo. “Bình Ngô đại cáo” là bản cáo lớn mang tính quy mô toàn dân tộc thông báo cho nhân dân biết về chiến thắng chống quân Minh xâm lược, đồng thời để khẳng định tuyên bố độc lập của dân tộc. Phần một và phần hai là cơ sở tiền đề cho cuộc kháng chiến. Thứ nhất đó là tư tưởng nhân nghĩa. Thứ hai là bản cáo trạng tội ác của giặc.


Mở đầu bài thơ, Nguyễn Trãi đã xác lập luận đề chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa.

“Từng nghe
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”


Tư tưởng nhân nghĩa là một tư tưởng được các nước phương Đông mặc nhiên thừa nhận. “Nhân nghĩa” là mối quan hệ giữa người với người được xây dựng trên cơ sở tình thương và đạo đức. Nếu tư tưởng nhân nghĩa trong quan niệm Nho giáo là cách đưa con người vào các mối quan hệ khuôn khổ phạm trù đạo đức để phục vụ cho mục đích quản lý xã hội của nhà cầm quyền.

Nhưng tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi đã trở thành mục đích của cuộc kháng chiến. Bởi đặt trong hoàn cảnh thực tiễn của đất nước, nhân nghĩa được cụ thể hóa thành yên dân. Nghĩa là làm cho nhân dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc. Muốn nhân dân được ấm no thì phải diệt trừ bạo ngược, đặc biệt đó chính là quân Minh xâm lược. Từ tư tưởng nhân nghĩa của Nho giáo, Nguyễn Trãi đã chuyển hóa vào thực tiễn đất nước ta. Và đây cũng chính là mục đích chiến đấu, là lý tưởng cao đẹp mà suốt cuộc đời Nguyễn Trãi theo đuổi.


Khi phân tích đoạn 1 bài Bình Ngô đại cáo, ta thấy sau khi nêu cơ sở chính nghĩa của cuộc kháng chiến, Nguyễn Trãi đã khẳng định chủ quyền lãnh thổ bằng những căn cứ lịch sử vô cùng xác đáng kết hợp với lời văn dõng dạc hào hùng đầy tự tin.


“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
………….
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có”.


Các phương diện được Nguyễn Trãi nêu ra để khẳng định chủ quyền là văn hiến, địa phận, phong tục, nhà nước, nhân tài. Các phương diện ấy đều được trải dài theo suốt chiều dài lịch sử dân tộc ta và đều mang dấu ấn riêng đại diện cho dân tộc. Đó là những nét khác biệt không lẫn vào đâu của văn hóa và phong tục tập quán. Có thể so về chiều dài lịch sử ta không bằng Trung Hoa, nhưng trong suốt chiều dài hình thành và tồn tại thì dân tộc ta đã để lại dấu ấn cùng tinh thần dân tộc mạnh mẽ.


Việc liệt kê các triều đại của nước Đại Việt song song với các triều đại Trung Hoa đã thể hiện rõ điều đó. Ta không hề kém cạnh Trung Hoa. Ta cũng có những nhà nước tự trị ngay từ buổi bình minh lịch sử dân tộc. Ta có chủ quyền lãnh thổ riêng, có phong tục tập quán, có tổ chức nhà nước với người đứng đầu là vua. Việc xưng đế đã thể hiện ý chí tự tôn dân tộc. Bởi lẽ trong quan niệm ngày xưa, chỉ có Trung Hoa được xưng đế còn vua của nước nhỏ chỉ được xưng chư hầu không được xưng đế. Việc xưng đế đã khẳng định chắc nịch một điều ta và Trung Hoa là những nước độc lập bình đẳng với nhau. Chính vì vậy không có lí do gì để Trung Hoa kéo quân xâm lược nước ta.


Điều quan trọng làm nên sự thịnh vượng của một vương triều không thể không kể đến yếu tố nhân tài. Nhân tài chính là vận mệnh đất nước. Trong cả một quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước đã có biết bao nhiêu vị anh hùng làm rạng danh non sông cũng như có biết bao nhiêu thế hệ với ngàn ngàn lớp lớp người vô danh đã ngã xuống để bảo vệ độc lập đất nước. Giọng thơ hào hùng, lập luận mạnh mẽ chặt chẽ thuyết phục từ những chứng cứ lịch sử xác đáng không thể chối cãi. Qua đó ta thấy được ý thức dân tộc sâu sắc của Nguyễn Trãi.


Sau khi khẳng định tiền đề chính nghĩa của cuộc kháng chiến cũng như khẳng định chủ quyền dân tộc, Nguyễn Trãi đã nêu ra những chứng cứ lịch về sự thất bại nhục nhã của giặc khi sang xâm lược nước ta.


“Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi”.


Nguyễn Trãi đã lần lượt nêu ra những tên tướng giặc bại trận trong những trận chiến phi nghĩa xâm lược Đại Việt. Đó là Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã. Chúng thất bại bởi lẽ đây là một cuộc chiến phi nghĩa không nhằm bảo vệ cuộc sống nhân dân mà chỉ vì “tham công”, “thích lớn”, chỉ để thỏa mãn khát vọng bành trướng quyền lực của kẻ cầm đầu mà gieo tai vạ cho biết bao người dân vô tội.


Ngay từ mục đích xâm lược đã phi nghĩa nên chắc chắn cuộc xâm lược này sẽ “thất bại”, “tiêu vong”. Những địa danh lịch sử gắn với những cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta cũng được Nguyễn Trãi nêu ra. Đó là cửa sông bạch Đằng đã giết chết hàng vạn quân Nam Hán xóa bỏ đi một ngàn năm đô hộ của ngoại xâm phương Bắc mở ra thời kì độc lập cho đất nước. Còn nhắc đến cửa Hàm Tử không thể không nhắc đến chiến công của quân dân nhà Trần đã từng được Trần Quang Khải nhắc đến.


“Chương Dương cướp giáo giặc.
Hàm Tử bắt quân thù”


Tuy không trực tiếp nhắc đến chiến thắng của quân ta nhưng trong cách nói đó ta vẫn thấy hiện lên vẻ đẹp sự oai hùng của những chiến công lịch sử vang dội. Đây chính là minh chứng lịch sử rõ nét nhất cho tư tưởng nhân nghĩa. Cuộc kháng chiến của chúng ta chính là cuộc kháng chiến vì chính nghĩa. Lẽ phải thuộc về nghĩa quân, thuộc về dân tộc Đại Việt nên chắc chắn chiến thắng sẽ thuộc về ta.

Hình minh hoạ ảnh 1
Hình minh hoạ
Top 5
(có 0 lượt vote)

Bài tham khảo số 6

Nguyễn Trãi (1380 – 1442) là nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, tài ba có công lớn trong công cuộc dẹp giặc Minh đem lại nền thái bình thịnh trị cho nước nhà. Ông còn là một nhà văn nhà thơ lớn với khối lượng tác phẩm đồ sộ bao gồm cả văn học chữ Hán và chữ Nôm. Trong đó phải kể đến một số tác phẩm như: Đại cáo bình Ngô, Quân trung từ mệnh tập, Quốc Âm thi tập, Ức Trai thi tập... Đại cáo bình Ngô được coi là áng “Thiên cổ hùng văn” muôn đời bất hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc. Mở đầu bài cáo, tác giả nêu lên một tư tưởng lớn làm nguyên lý cho toàn bài.


Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.


Đó là tư tưởng nhân nghĩa, nhưng không phải nhân nghĩa chung chung, mà gắn với mục đích “yên dân”, “trừ bạo”, mang nội dung yêu nước, thương dân. Nó đã được chứng minh bằng sự tồn tại của nước Đại Việt ta như một chân lí lịch sử:


Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Nước non bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.


Có đủ tất cả các yếu tố của một quốc gia độc lập tự chủ: quốc hiệu (tên nước), văn hiến, lãnh thổ, phong tục, con người và đặc biệt là “nền độc lập” đã được xây dựng từ bao đời.Những lời văn mạnh mẽ, dứt khoát, có ý khẳng định chắc chắn, Nguyễn Trãi đã khẳng định một cách hùng hồn chủ quyền dân tộc. Nguyễn Trãi nêu bật lịch sử các triều đại bằng phép liệt kê, song hành, đã khẳng định lịch sử dài lâu của đất nước, đồng thời khẳng định tư thế độc lập ngang hàng của Đại Việt với các triều đại phong kiến phương Bắc. Nó còn như khẳng định về hậu quả thất bại tất yếu của kẻ thù khi chúng xâm phạm đến độc lập chủ quyền của dân tộc ta:

Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã


Nguyễn Trãi đã cho ta thấy những chiến công oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, giữ gìn tự do của Tổ quốc. Cách nêu dẫn chứng rõ ràng cụ thể bằng những lời lẽ chắc chắn, hào hùng, thể hiện niềm tự hào dân tộc.


Nói về nước Đại Việt ta, cảm hứng của tác giả tràn đầy niềm tự hào dân tộc. Câu văn biền ngẫu sóng đôi, cân xứng tạo nên giọng điệu trang nghiêm, khẳng định khi nói về quốc gia độc lập, tự chủ: và đặc biệt nghệ thuật so sánh lại càng tôn cao và khẳng định thêm điều đó: Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại Triệu, Đinh, Lý, Trần của Việt Nam ngang hàng với các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên của Trung Quốc. Không có một niềm tự hào dân tộc mãnh liệt thì cũng không thể có một sự so sánh như vậy.

Hình minh hoạ ảnh 1
Hình minh hoạ
Tóm lại, có thể thấy, đoạn mở đầu của tác phẩm "Bình Ngô đại cáo" với giọng văn hào hùng, tràn đầy niềm tự hào dân tộc, tác giả Nguyễn Trãi đã làm bật nổi tư tưởng chính nghĩa và chân lí độc lập khách quan của dân tộc. Chính điều đó là nền tảng tư tưởng vững chắc xuyên suốt toàn bộ tác phẩm.

Hãy đăng nhập để bình luận

Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .