Top 5 Bài văn phân tích hình ảnh Người đi đường trong bài thơ "Đi đường" (lớp 8) hay nhất
M.Goóc-ki từng nói “Kì lạ thay con người!”. Con người đến với cuộc đời và khẳng định sự tồn tại của mình bằng chính ý chí, nghị lực và một trái tim bao la. Đường...xem thêm ...
Bài văn phân tích hình ảnh Người đi đường - mẫu 1
Hồ Chí Minh - Người không chỉ là một nhà Cách mạng với tư tưởng lớn mà còn là một thi sĩ có nguồn cảm hứng dạt dào. Trong những năm 1940, khi người bị bắt nhốt trong nhà lao Tưởng Giới Thạch, Người đã viết lên tập Nhật kí trong tù gồm 133 bài thơ. Trong số đó có bài thơ Đi đường, bài thơ được lấy cảm hứng từ một lần chuyển lao của Người. Bài thơ đã xây dựng lên hình ảnh một người đi đường - người tù cách mạng vượt qua mọi gian lao với một ý chí sắt đá, một tinh thần lạc quan không gì lay chuyển được.
Bài thơ Đi đường ngắn gọn, giản dị nhưng hàm súc, từ việc đi đường núi gợi ra chân lý ở đời: vượt gian lao chồng chất thì nhất định sẽ đi tới thắng lợi vẻ vang:
"Đi đường mới biết gian lao,
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;
Núi cao lên đến tận cùng,
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non"
Mở đầu bài thơ là một lời tự sự của người tù cách mạng:
"Đi đường mới biết gian lao,"
Hai từ "đi đường" vang lên như một lời kể nhẹ nhàng, tưởng như lời kể của một người du khách nhưng thực chất ở đây lại là hình ảnh của người tù bị áp giải đi trên đường. Hai từ thôi nhưng người ta có thể hình dung được hình ảnh của người đi đường đang bị trói, chân mang xiềng xích, đi triền miên trong đói rét, trong cảnh nắng mưa đội đầu. Có đi thì "mới biết", mới thấu hiểu được những nỗi cực nhọc trên đường áp giải. Câu thơ nghe thật nhẹ nhàng, ung dung nhưng ảnh chứa trong đó biết bao vất vả, gian lao.
Chỉ một dòng thơ ngắn ngủi nhưng Hồ Chí Minh đã bao quát được cả thái độ đánh giá cũng như sự đúc kết được rút ra từ một cuộc hành trình dài. Và hình ảnh của người đi đường hiện lên trong chúng ta là hình ảnh của một người tù đang trong cuộc chuyển lao đầy vất vả. Thế nhưng, người tù ấy vẫn mang trong mình sự mẫn cảm của bậc chí sĩ, vượt lên trên tất cả gian lao bằng thái độ ung dung, làm chủ. Để đến câu thơ thứ hai, người ta mới thấy được hết những nỗi vất vả, gian lao mà người tù phải trải qua:
"Trùng san chi ngoại hựu trùng san
Dịch thơ: Núi cao rồi lại núi cao trập trùng"
Trên bước đường đi của người chiến sĩ cách mạng chỉ toàn là núi non điệp trùng. Câu thơ thứ hai đã cụ thể hoá những gian lao mà câu thơ đầu muốn nói. Nó không chỉ gợi ra cho người đọc về một không gian bát ngát, bao la, điệp trùng của thiên nhiên mà còn là sự vất vả, khổ cực của người đi đường. Bác đã dùng hai từ "trùng san - núi cao" trong một câu thơ chỉ để nhấn mạnh sự hiểm trở, trập trùng của đồi núi trên con đường áp giải của Người. Hơn thế nữa, hai chữ "trùng san" được đặt ở đầu và cuối câu, cùng với chữ "hựu - lại" ở giữa như muốn nói lên sự vất vả, vừa vượt qua được dãy núi này, còn chưa được nghỉ ngơi đã tới một dãy núi khác. Một từ "lại" nhưng mang một sức nặng ghê gớm, đè nặng lên tâm trí của người đi đường. "Trùng san" ở đây là một cảnh đẹp, hùng vĩ, thế nhưng nó cũng là một khó khăn đang "đè" lấy người tù cách mạng. Người tù cứ đi như thế, hết "núi cao" này đến "núi cao" khác, để rồi đến cuối cùng:
"Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non"
Câu thơ thứ ba là câu thơ chuyển ý của cả bài thơ, một mặt thể hiện sự tiếp diễn của việc đi đường, mặt khác nó lại phát triển theo hướng cao hơn nữa. Chữ "trùng san" ở đầu câu thứ ba điệp cùng hai từ ở câu trước đó đã tạo nên một vòng lặp. Nếu hai câu thơ đầu thể hiện sự chậm rãi, đều đặn như muốn nói lên sự mệt mỏi của người đi đường thì câu thơ thứ ba lại có một sự khẩn trương hơn, xốn xang hơn. Nó như một sự chuẩn bị cho một việc trọng đại.
Đường đi vượt qua bao núi non hùng vĩ, cứ điệp điệp trùng trùng hết dãy núi này tới dãy núi khác như một chuỗi dài bất tận khiến ta nản lòng. Thế nhưng, ở câu thơ cuối cùng, người đi đường hiện lên, không phải trong sự mệt mỏi, mà là trong sự sảng khoái, tự hào, trong vinh quang:
"Vạn lý dư đồ cố miện gian
(Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non)"
Người tù giờ đây không còn ở trong tư thế bị áp giải mà dường như Người đã trở thành một du khách đang đứng giữa thiên nhiên, đứng trên đỉnh núi cao mà say mê tận hưởng thiên nhiên tươi đẹp. Trải qua bao khó khăn, vượt qua bao dãy núi hiểm trở, giờ đây Người đứng trên đỉnh cao để bao trọn trong tầm mắt tất cả. Ở những câu thơ trước, người đi đường bị rợn ngợp, bị che lấp bởi thiên nhiên thì ở câu thơ cuối này, hình ảnh người đi đường trở nên hiên ngang, cao lớn giữa thiên nhiên, đất trời.
Hình ảnh của người đi đường trong bài thơ Đi đường khiến ta liên tưởng tới con người giữa đường đời. Họ phải đi qua bao nhiêu khó khăn, vượt qua bao "núi cao trập trùng", nhưng chỉ cần tinh thần lạc quan, niềm tin vào cuộc đời thì chờ đợi ta sẽ là cả một không gian rộng lớn, là thành quả, vinh quang khiến ta tự hào. Đây cũng là chân lý đối với những con người làm Cách mạng, vượt qua khó khăn, vững tin niềm tin cách mạng thì thắng lợi nhất định về tay nhân dân.
Qua hình ảnh người đi đường trong bài thơ, Hồ Chí Minh muốn khẳng định cho chúng ta một chân lý ở đời: con người trong cuộc sống sẽ gặp vô số khó khăn, thế nhưng khi vượt qua mọi gian lao, vất vả thì nhất định chúng ta sẽ đi tới được thành công, thắng lợi. Đó là lời khuyên, lời dặn cho thế hệ chúng ta, và cả thế hệ mai sau về một tinh thần vững chắc, một ý chí bền bỉ để vượt qua mọi chông gai hướng tới thắng lợi..
Bài văn phân tích hình ảnh Người đi đường - mẫu 2
Bác Hồ từng tự sự: "Ngâm thơ ta vốn không ham / Nhưng mà trong ngục biết làm sao đây?". Và bởi thế, ra đời trong những năm tháng Bác bị giam cầm, tập thơ "Nhật kí trong tù" từng được ví như một đoá hoa mà vô tình văn học Việt Nam nhặt được bên đường. Toát lên từ tập thơ là một tinh thần "thép" rắn rỏi, lạc quan: “Từ những bài thơ viết trong hoàn cảnh nhà tù dưới chế độ Tưởng Giới Thạch tàn bạo và mục nát toát ra một phong thái ung dung, một khí phách hào hùng, một ý chí sắt đá, một tinh thần lạc quan cách mạng không gì lay chuyển nổi”. Bài thơ "Đi đường" là một trong những số ấy. Bài thơ đã xây dựng được hình ảnh “Người đi đường” với một phẩm chất đáng tự hào.
Câu thơ mở đầu:
- “Đi đường mới biết gian lao”
Cụm từ "mới biết" nghe như đang kể lại một cách khiêm tốn nhưng chất chứa ở bên trong biết bao khó khăn sóng gió mà Bác đã phải trải qua. Như thế, câu đầu trong bài "Đi đường" không chỉ là sự đúc kết kinh nghiệm trong một cuộc đi đường , mà còn chứa đựng một thái độ đánh giá, nhận thức được suy nghĩ suốt chặng đường bị tù đày và cả trên con đường giải phóng, tìm tự do cho dân tộc. Đến với câu thứ hai cảnh thiên nhiên xuất hiện:
- "Núi cao rồi lại núi cao trập trùng"
Cảnh ở đây chỉ có núi mà thôi. Núi kết hợp với sông trong cổ họa là những bức tranh sơn thủy hữu tình. Nhưng “núi” ở đây không nằm trong hệ thống nghệ thuật ấy. Nó trần trụi những gian lao mà người đi đường ngần ngại. Đây là một chi tiết tâm tình rất thực, thể hiện trong tiết tấu “Trùng san chi ngoại hựu trùng san”. Giữa hai “trùng san” bố trí ở đầu câu và cuối câu như một sự vây bọc bịt bùng như một sự vây bọc bịt bùng là một chữ “hựu” (lại). Vừa mới vượt qua được dãy núi cao này, chưa kịp nghỉ ngơi thì một núi cao khác lại hiện ra trước mặt. Một chữ “hựu” đơn giản vậy thôi mà bao nhiêu chất chứa, nó rất nặng nề trong tâm trí của kẻ chinh nhân. “Núi” ở đây không đồng nghĩa với cái đẹp, cái hào hùng. Thậm chí, có khi qua một thắng cảnh hẳn hoi mà lòng người chưa yên, cái bứt rứt ấy trong thơ vẫn hiện ra rõ rệt:
- “Quế Lâm không quế không rừng
- Sông sâu thăm thẳm, trập trùng núi cao”
- (Đến Quế Lâm)
Lộ trình trong bài thơ đến câu thơ thứ ba vẫn còn chưa chấm dứt, thậm chí còn phải vượt một đỉnh cao khác hơn mọi thứ “trùng san”:
- “Núi cao lên đến tận cùng”
Trong thơ tứ tuyệt truyền thống Phương Đông, câu thơ thứ ba là câu chuyển: chuyển cảnh, chuyển tình. Ý thức được vị trí đặc biệt của nó như một thứ cầu nối của mạch thơ, câu thơ nói về núi cao ấy, một mặt như là sự tiếp tục của hai câu thơ trước đó, tiếp tục và phát triển cao hơn. Cảm nhận từ sự lấy đà ấy của nhịp thơ, hai chữ “trùng san” đầy ngụ ý:
- “Trùng san chi ngoại hựu trùng san
- Trùng san đăng đáo cao phong hậu”
Mật độ của nó vốn đã dày, lúc này lại càng dày hơn. Cũng là điệp ngữ nhưng “trùng san” ở cuối câu hai và “trùng san” ở câu ba là điệp nối tiếp, lặp vòng. Tiết tấu của thơ không còn chậm rãi, đều đều. Nó khẩn trương hơn, có phần thanh thoát như một cuộc chuẩn bị. Phảng phất trong câu thơ là một thứ âm nhạc tâm hồn khác, xốn xang.
Trên con đường nhiều gian lao như vậy, con người ta rất dễ nản trí bởi đã cố gắng vượt qua một dãy núi hiểm trở xong lại thêm một dãy khác hiện ra giống như một chuỗi gian nan không hề có điểm dừng. Thế nhưng, ở câu cuối hình ảnh người đi đường hiện lên không hề chán nản mà thậm chí vinh quang:
- Vạn lý dư đồ cố miện gian.
- (Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non)
Không còn hình ảnh của một người tù bị áp giải mà lúc này, Người như đã trở thành một du khách phiêu diêu đang đứng giữa đất trời, sảng khoái, hít căng lồng ngực mình mà tận hưởng khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp sau khi đã vượt qua tất cả những dãy núi cao hiểm trở kia. Nếu ở những câu thơ trước, hình ảnh thiên nhiên bao la rợn ngợp, che lấp hình ảnh người đi đường thì câu thơ cuối bài con người không còn nhỏ bé bị thiên nhiên làm cho khiếp sợ mà trở nên cao lớn, hào sảng, hiên ngang vô cùng. Và đây cũng là tinh thần lạc quan, yêu thiên nhiên nơi người chiến sĩ cách mạng vĩ đại không bao giờ mất niềm tin vào cuộc đời. Từ hình ảnh người đi đường trong bài ta liên tưởng đến con người trên con đường đời rộng lớn. Con đường đời hay con đường cách mạng đều nhiều gian truân dài rộng nhưng nếu con người ta quyết chí đi đến cùng, phía cuối nó chính là cả một không gian thành quả rộng lớn cho ta mãn nguyện, hạnh phúc.
Hình ảnh người đi đường hiện lên thật nhiều gian lao mà cũng lắm vinh quang khi đã có bản lĩnh vượt qua mọi gian lao ấy. Từ hình ảnh ấy, triết lí về con đườn dài rộng của cuộc đời hiện lên và ta như thấy bóng dáng của người đi đường trong hành trình phía trước của mỗi chúng ta.
Bài văn phân tích hình ảnh Người đi đường - mẫu 3
Bài thơ “Đi đường” có tựa đề là một cụm từ, chỉ một hệ thống. Bài thơ, do vậy có một ý nghĩa riêng, ngoài việc diễn tả cảm xúc trước cảnh núi non điệp trùng, đất trời cao rộng, hùng vĩ, nó còn thể hiện tư thế chủ động của người đi đường. Đó là một nhà thơ – chiến sĩ rất đỗi tự hào.
Bài thơ sáng tác theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, được dịch ra thể lục bát:
“Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng
Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”.
Mở đầu là một câu thơ giản dị gần như một lời nói thường:
“Đi đường mới biết gian lao”.
“Đi đường”, hai tiếng bình dị thế thôi nhưng chứa đựng biết bao ý nghĩa. Trước hết là nghĩa cụ thể của nó. Nói “đi đường” thực chất là bị giải đi đường, là đi đày. Bác tuy không kể, không tả, nhưng chúng ta, những người đọc thơ Bác hôm nay, không thể không đặt bài thơ trong khung cảnh Bác bị giải đi triền miên giữa cảnh đói rét thiếu thốn, giữa cảnh nắng đội mưa dầm, giày dép tả tơi, 53 cây số một ngày, tay bị trói, cổ mang vòng xích. Vậy mà, câu thơ nói đi nói lại dường như chỉ là một nhận xét, một đúc kết bình thường. Từ “mới biết” nghe nhẹ nhàng, khiêm tốn nhưng chất chứa ở bên trong biết bao sóng gió cuộc đời, bao nhiêu suy nghĩ của người trong cuộc. Như thế, câu đầu trong bài “Đi đường” không chỉ là sự đúc kết trong một cuộc đi đường cụ thể, mà còn bao hàm một thái độ đánh giá, nhận thức được suy nghĩ trong suốt cả chặng đường dài trên bước đường đời nói chung, trên bước đường cách mạng nói riêng. Câu thơ do vậy vừa mang nội dung cụ thể, vừa mang nội dung khái quát.
Đằng sau câu thơ, ta bắt gặp một tâm hồn lớn, cao khiết, đẹp đẽ, một trí tuệ mẫn cảm của bậc chí sĩ đang đối diện, chịu đựng những gian lao khủng khiếp nhưng đã biết vượt lên gian lao bằng thái độ làm chủ, bằng phong thái ung dung bình tĩnh, với cái nhìn minh mẫn, sáng suốt mà khiêm tốn. Câu thơ thứ hai:
“Núi cao rồi lại núi cao trập trùng”.
Trước hết, đó là một câu thơ tả thực về cảnh những lớp núi điệp trùng mà Bác phải vượt qua. Có người cho đây là những hình ảnh cụ thể hóa các gian lao trong câu thơ đầu, cũng có thể là như thế. Nhưng như trên đã phân tích, câu đầu trong bài thơ không phải là một cảm hứng đầu mà là cảm hứng kết luận. Hơn nữa, âm hưởng của câu thơ gợi cho người đọc về cái gian lao thì ít mà mở ra một không gian bát ngát, điệp trùng, đẹp đẽ, hùng vĩ nhiều hơn.
Chẳng thấy đâu đầy ải xích xiềng, chỉ thấy một trái tim tự do đang chiêm ngưỡng, đắm say thưởng ngoạn thiên nhiên của nhà nghệ sĩ. Điều này thật khó phân tích, lí giải bằng lí luận chữ nghĩa. Từ tâm hồn nó đến thẳng tâm hồn. Thưởng thức thơ Bác chẳng khác nào thưởng thức một bông hoa. Đọc thơ Người, thỉnh thoảng phải dừng lại, nghĩ suy để thưởng thức các sức ngân vang của tâm hồn, tỏa ra từ những lớp chữ nghĩa, màu sắc, âm thanh… bình dị, thanh khiết. Hai câu cuối:
“Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”.
Cảnh núi non tiếp nối, không dứt, như vẽ ra trước mắt ta khung cảnh những lớp núi điệp trùng, hết lớp này đến lớp khác, trong đó con người, với tư cách là chủ thể của khung cảnh đang vượt lên những lớp núi chất chồng kia, đang đứng ở đỉnh cao ngất với niềm khoan khoái tự hào, thu vào tầm mắt cả một không gian khoáng đạt, cao rộng, cả khung cảnh gấm vóc hùng vĩ của đất nước, non sông. Câu thơ tả cảnh nhưng không giấu nổi một tiếng reo hạnh phúc ở bên trong, cái niềm hạnh phúc chân chính của một con người đã vượt qua bao chặng đường khổ ải, đã đi và đã đến đích, đang đứng ở đỉnh cao vời vợi.
Trong khuôn khổ âm điệu, hình ảnh, vần luật của thơ ca cổ điển, khuôn phép, mực thước, ý thơ lại như có khuynh hướng muốn vượt ra ngoài, muốn vượt lên cái bình thường, để vươn tới cái tầm cao cả. Những câu thơ ấy mang vẻ đẹp của một thiên nhiên lớn và một tâm hồn lớn. Nó không chỉ diễn tả độ cao vời vợi của khung cảnh núi non cụ thể, nó còn diễn tả chiều cao của tầm nhìn, của ý chí, nghị lực, niềm tin, của lí tưởng cao cả, đẹp đẽ.
Quả là khi đã có một lí tưởng cao cả, một bản lĩnh kiên cường, không có đỉnh cao nào mà con người không thể đạt tới. Và lúc bấy giờ con người sẽ tìm thấy nguồn hạnh phúc vô biên. Cái kết luận ý nghĩa của bài thơ mang lại cho người đọc là như thế.
Bài văn phân tích hình ảnh Người đi đường - mẫu 4
Bác Hồ từng tự sự: "Ngâm thơ ta vốn không ham / Nhưng mà trong ngục biết làm sao đây?". Và bởi thế, ra đời trong những năm tháng Bác bị giam cầm, tập thơ "Nhật kí trong tù” từng được ví như một đoá hoa mà vô tình văn học Việt Nam nhặt được bên đường. Toát lên từ tập thơ là một tinh thần "thép" rắn rỏi, lạc quan: “Từ những bài thơ viết trong hoàn cảnh nhà tù dưới chế độ Tưởng Giới Thạch tàn bạo và mục nát toát ra một phong thái ung dung, một khí phách hào hùng, một ý chí sắt đá, một tinh thần lạc quan cách mạng không gì lay chuyển nổi”. Bài thơ "Đi đường" là một trong những số ấy. Càng đọc, ta cảm khâm phục và tự hào về nhân cách và tâm hồn của người đi đường trong bài thơ trên.
“Tài lộ tài tri tẩu lộ nan
Trùng san chi ngoại hựu trùng san
Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lí dư đồ cố miện gian”.
Bài thơ được dịch là:
“Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng
Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”.
Bài thơ ra đời trong những năm tháng Bác Hồ bị bắt giam trong nhà lao Tưởng Giới Thạch. Bác bị chúng giải đi hết nhà lao này đến nhà lao khác. Đường chuyển lao không những dài dặc mà còn vô cùng gian lao, phải trải qua núi non trùng diệp và những vực thẳm hun hút hiểm sâu. Nhưng dẫu vậy, từ trong khổ đau vẫn bừng lên ý chí “thép” mang đậm phong cách Hồ Chí Minh. Bài thơ “Đi đường” - “Tẩu lộ” đã thể hiện rõ điều đó.
“Đi đường mới biết gian lao”. Câu thơ là một nhận định nhưng đồng thời cũng là một chân lí: Có đi đường mới biết những sự vất vả, khó khăn của việc đi đường. Vậy những điều “nan”, “gian lao” ấy là gì? “Núi cao rồi lại núi cao trập trùng". Đường chuyển lao là những con đường đi qua các vùng núi hiểm trở của tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Tầng tầng lớp lớp những ngọn núi tiếp nối nhau chạy mãi đến chân trời. Hết ngọn núi này lại đến ngọn núi khác. Vậy nên mới có hình ảnh “Núi cao rồi lại núi cao trập trùng”. Trong nguyên văn chữ Hán là “Trùng san chi ngoại hựu trùng san”.
“Trùng san” có nghĩa là trùng trùng lớp lớp núi cao; “hựu” là “lại", câu thơ mang ý nghĩa: trùng trùng núi cao bên ngoài lại có núi cao trùng trùng. Một câu thơ mà có tới hai chữ “trùng san", huống chi lại có chữ “hựu”, bởi vậy, câu thơ nguyên gốc gợi nên hình ảnh những đỉnh núi nhọn hoắt cao vút trời xanh trập trùng chạy mãi đến chân trời. Con đường ấy, mới chỉ nhìn thôi đã thấy đáng sợ.
Nếu tù nhân là một người tù bình thường, ắt hẳn họ đã bị nỗi sợ hãi làm cho yếu mềm, nhụt chí. Nhưng người tù ấy lại là một người cộng sản vĩ đại Hồ Chí Minh. Và bởi vậy, hai câu thơ cuối bài đã thực sự thăng hoa:
“Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lí dư đồ cố miện gian”
Hai câu thơ được dịch khá sát là:
“Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”.
Sau những vất vả, nhọc nhằn của con đường leo núi, khi đã lên đến tận đỉnh người tù cách mạng được chứng kiến một hình ảnh vô cùng hùng vĩ “muôn trùng nước non”. Theo tâm lí thông thường, trên con đường gian lao trập trùng đồi núi, khi lên đến đỉnh, con người dễ lo lắng, mệt mỏi khi nghĩ đến con đường xuống núi dốc thẳm cheo leo và những quả núi ngút ngàn khác. Nhưng Hồ Chí Minh thì ngược lại.
Điều Người cảm nhận là niềm tự hào, sung sướng khi được đứng từ trên đỉnh cao chiêm ngưỡng sự hùng vĩ bao la của nước non, vũ trụ. Hình ảnh “thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” thật hào sảng. Nó gợi đến hình ảnh bé nhỏ của con người đang đối diện trước cái mênh mông, trập trùng của giang san. Con người ấy không choáng ngợp trước sự kì vĩ của đất trời mà rất vui sướng, bồi hồi như lần đầu tiên được tận mắt nhìn thấy gương mặt của nước non. Chính cảm quan ấy đã nâng vị thế con người sánh ngang tầm non nước.
Đứng trước một sự thật khách quan, mỗi con người có một cảm nhận khác nhau. Cảm nhận ấy phụ thuộc vào thế giới quan và bản lĩnh của con người, ở Hồ Chí Minh Người đã có những cảm nhận lạc quan, tươi sáng về cuộc đời. Người không bị cái nhọc nhằn của thể xác lấn át đi ước mơ, khát vọng và lí tưởng mà ngược lại, đã vượt qua gian lao để khẳng định ý chí bền bỉ, sắt đá và niềm lạc quan, tin tưởng vào cách mạng của bản thân mình. Đó là tinh thần thép là vẻ đẹp tâm hồn Bác.
Và như thế, bài thơ "Đi đường" - "Tẩu lộ" cùng với nhiều bài thơ khác trong tập thơ "Nhật kí trong tù" thực sự là một đoá hoa đáng trân trọng của văn học Việt Nam. Bài thơ không chỉ là bức tranh về con đường chuyển lao đầy rẫy nhọc nhằn trở ngại, đó còn là bức tranh chân dung tinh thần tự họa Hồ Chí Minh. Từ bài thơ, người đọc có thể cảm nhận hình ảnh Bác - một người đi đường vừa có thần thái ung dung, bình tĩnh của một bậc tiên phong đạo cốt vừa có nét kiên cường rắn rỏi, đầy lạc quan của một người chiến sĩ cách mạng.
Bài văn phân tích hình ảnh Người đi đường - mẫu 5
Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vô cùng kính yêu của dân tộc Việt Nam ta. Người không chỉ là một nhà cách mạng xuất sắc mà còn đồng thời là một thi nhân vô cùng tài ba. Sinh thời, sự nghiệp sáng tác của Người cũng vô cùng đồ sộ, trong đó nổi bật nhất là tập thơ "Nhật kí trong tù". Tập thơ gồm hai mươi bài thơ, là những tác phẩm được Người hoàn thành trong khi bị giam giữ ở nhà ngục Tưởng Giới Thạch. Trong số đó, "Đi đường" ( Tẩu lộ) là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất, ca ngợi hình ảnh của người chiến sĩ Cách mạng trong gian lao - một người đi đường đặc biệt và ưu tú.
Bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt, đó là khi Hồ Chí Minh bị bắt bớ, tù đày ở nhà tù Tưởng Giới Thạch và Người buộc phải di chuyển hết từ nhà lao này sang nhà lao khác. Trong tình thế ấy, khó khăn, vất vả, gian lao đều có thể làm chùn bước chân của người tù nhưng với tấm lòng yêu đời, ý chí chiến đấu mạnh mẽ, không những không chịu khuất phục, Người còn dùng những lời thơ của mình ghi lại chân thực hoàn cảnh gian khổ đồng thời thôi thúc ý chí của mình. Bác muốn qua đó thể hiện chân dung ý chí bất khuất của một người tù Cách mạng dù trong hoàn cảnh khó khăn, và cũng để nêu lên triết lý muôn đời rằng: Vượt qua hết gian lao thử thách, chắc chắn sẽ đi tới được thắng lợi vẻ vang. Vẫn là thể thơ Đường thất ngôn tứ tuyệt Người ưa thích, Hồ Chí Minh đã vẽ lên bức tranh hiện thực cùng bức tranh tinh thần của mình trong những lần chuyển lao bằng bài thơ "Đi đường":
"Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan
Trùng san chi ngoại hựu trùng san
Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lý dư đồ cố miện gian"
Dịch thơ:
"Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng
Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non"
Câu đầu của bài thơ mở ra như một lời nhận xét, một lời chiêm nghiệm từ thực tế cuộc sống:
"Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan"
(Đi đường mới biết gian lao)
Để rút ra được sự chiêm nghiệm, chân lý này, hẳn Người đã phải trải qua biết bao gian khó, biết bao cung đường trong những lần chuyển trại, chuyển lao. Bao lần bị giặc đày ải từ nhà tù này sang nhà tù khác, điều đó đã khiến Bác có được sự thấu hiểu về nỗi gian lao trong mỗi bước chân. Mỗi lần bước đi, xiềng xích, gông cùm kéo lê bước chân người tù Cách mạng khiến cho Người càng thấy khó nhọc hơn bội phần. Thấm thía được điều đó, Người đã viết lên câu thơ mở đầu bài thơ "Tẩu lộ" của mình. Đọc lên, chúng ta cảm thấy thật thấm thía biết bao, thấm thía cái gian lao ngấm trong từ câu chữ. Hai từ "tẩu lộ" được lặp lại liên tiếp trong cùng một câu thơ phải chăng đó là sự nhấn mạnh của Bác về những cung đường chuyển lao dài bất tận, khó khăn chồng chất, làm Người suy kiệt cả thể chất lẫn tinh thần.
Chỉ với một câu thơ thất ngôn ngắn ngủi, Hồ Chí Minh đã vẽ lại cho chúng ta hình ảnh của một người tù đang vất vả lê từng bước chân trên chặng đường gập ghềnh trong những lần chuyển lao, những khó khăn, cũng như những kinh nghiệm được đúc rút ra từ những chặng đường dài đó. Và cũng là để nhắn nhủ với chúng ta rằng: Trong cuộc sống, phải bắt tay vào công việc, phải "tẩu lộ" mới thấu hiểu được những mệt mỏi trong công việc ấy. Câu thơ đầu vang lên đã khiến cho người đọc chúng ta không khỏi bồi hồi, xúc động về những vất vả mà Người đã phải chịu đựng chốn ngục tù ấy. Vậy mà câu thơ thứ hai khi đọc lên, càng khiến chúng ta thêm thấu hiểu những khó khăn ấy khi mà:
"Trùng san chi ngoại hựu trùng san"
(Núi cao rồi lại núi cao trập trùng)
Trên bước đường chuyển lao ấy, Bác không chỉ phải "ăn gió tắm sương" mà Người còn phải băng rừng, vượt suối, trải qua bao khó khăn trên bước đường gập ghềnh. Nhưng những vất vả ấy chẳng thấm vào đâu so với những lần vượt đèo vượt núi. Với đôi chân mang gông cùm, Người phải lê chân trèo lên những đỉnh núi cao, không chỉ một mà là hết ngọn núi này đến ngọn núi khác cứ liên tiếp nối nhau trước mắt Người. "Trùng san" (núi cao), từng ngọn cứ liên tiếp "chi ngoại hựu trùng san". Điệp từ "trùng san" được lặp lại trong câu, một đứng đầu, một đứng cuối khiến cho chúng ta khi đọc lên có cảm tưởng từng ngọn núi cứ dập dềnh liên tiếp trước mắt, tưởng như là bất tận, liên hồi.
Khách bộ hành thông thường khi đi đã thấy khó nhọc, vậy mà Bác Hồ của chúng ta chân mang xiềng xích, gông cùm trên vai lại phải vượt hết chặng đường gập ghềnh này đến chặng đường gập ghềnh khác, vượt hết núi này tới núi khác, quả thật, gian lao, khó nhọc vô cùng. Phải chăng những đỉnh núi cao liên tiếp, những gập ghềnh khó nhọc mà Người đang đi cũng là biểu tượng cho những khó khăn mà Cách mạng đang gặp phải? Những khó khăn, thử thách ấy đang đòi hỏi một người Cách mạng có ý chí kiên cường để vượt qua mà mang lại thắng lợi vẻ vang?
Khép lại hai câu thơ đầu, người đọc chúng ta chỉ thấy hiện lên trước mắt mình những con đường dài gập ghềnh, những đỉnh núi nhấp nhô, nối nhau dài bất tận. Con đường của người tù Cách mạng Hồ Chí Minh trong những lần chuyển lao ở nhà tù Tưởng Giới Thạch thật khó khăn, vất vả đến khốn cùng. Phải chăng, những khó khăn ấy mà Bác nói đến, những đỉnh núi cao, những gian lao khi đi đường là những thử thách của cuộc đời dành cho ý chí của người tù nhân Cách mạng giàu lòng yêu nước trước thành công cuối cùng?
Bước sang hai câu thơ cuối, vẫn là hình ảnh của núi non nhưng câu thơ lại mang một sắc thái thật khác lạ. Nếu như trong hai câu thơ đầu tiên, người ta thấy trong đó là những khó khăn, gian lao, là những chiêm nghiệm về cuộc đời của người tù Cách mạng Hồ Chí Minh, thì ở trong câu thơ này, chúng ta lại nhận ra được một hương vị thật khác:
"Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lý dư đồ cố miện gian"
Dịch thơ:
(Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non)
Hình ảnh núi non vẫn hiện lên sừng sững, nhưng lại chẳng thể ngăn bước chân của người Cách mạng với ý chí quyết tâm kiên cường, quyết tâm chinh phục cả đỉnh núi cao nhất. Nhịp thơ ở đây nghe thật nhanh, thật mạnh, thoảng trong đó là tiếng thở thật dồn dập của người tù khi đang cố bước thật nhanh lên đỉnh núi. Sự khẩn trương ấy lan ra toàn câu thơ, mỗi từ lại càng thêm mạnh, thêm khẩn trương, dồn dập hơn nữa:
"Trùng san đăng đáo cao phong hậu"
(Núi cao lên đến tận cùng)
Đọc câu thơ đến cuối, người ta thấy phảng phất trong nhịp thơ là niềm hạnh phúc, xốn xang khi đã chinh phục được "tận cùng" của "núi cao". Để đến câu thơ cuối cùng, người tù ấy thở một cái thật mạnh, sảng khoái vô cùng:
"Vạn lý dư đồ cố miện gian"
(Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non)
Ở câu thơ thứ ba, người đọc dường như thấy tiếng thở dồn dập của Người, khi ấy liệu ai trong chúng ta không khỏi băn khoăn tự hỏi liệu Người đã đến được đỉnh núi hay chưa, Người đã bước được đến "tận cùng" hay chưa, ...? Để đến khi câu thơ thứ tư thốt ra nhẹ nhõm như một tiếng thở, thì người đọc chúng ta cũng nhẹ nhàng, khoan khoái tới lạ thường. Lên được tận cao "tận cùng" của đỉnh núi, mở ra trước tầm mắt của chúng ta là cả một không gian to lớn, rộng mênh mông, bát ngát của "muôn trùng nước non".
Nếu trong hai câu thơ đầu, đọc thơ, người đọc như cảm thấy sự vất vả, gian khó, một tâm trạng mang nặng suy tư của Hồ Chí Minh thì hai câu cuối, tình thế đã thay đổi thật nhanh chóng, tâm trạng cũng mang một màu vui vẻ khác thường. Từ tư thế của một người tù đang trong cảnh đày đọa, Hồ Chí Minh bỗng vụt đứng lên trong tư thế của một người tự do, Người chẳng còn mang xiềng xích, cũng chẳng bị đọa đày, tất cả chỉ là cảm giác vui sướng, ung dung trước không gian mênh mông, bát ngát của đất trời. Và từ trong sâu thẳm tâm hồn của Người đang reo vui thật rộn rã. Câu thơ thứ tư ấy thốt ra là một tiếng reo vui, mừng rỡ vô cùng. Sau chặng đường dài vất vả là thế, cuối cùng người tù Cách mạng ấy cũng đã chạm đến được đỉnh của thiên nhiên, được ngắm nhìn thiên nhiên mà Người trân trọng, yêu quý vô vàn. Đây chắc hẳn cũng là lời gửi gắm sâu thẳm của Người trên con đường Cách mạng rằng: Con đường Cách mạng chắc chắn sẽ khó khăn, núi cao sẽ liên tiếp, trở ngại, thách thức, thế nhưng khi bước chân được đến đỉnh của nó, chúng ta chắc chắn sẽ thu được thành công thật vẻ vang, thật xứng đáng. Và để làm được điều đó, chúng ta phải giữ được ý chí, được niềm tin thật kiên định, tin tưởng vào đường lối Cách mạng của Đảng.
Bài thơ "Tẩu lộ" ( Đi đường) khép lại, thế nhưng đọng lại trong tâm trí chúng ta là hình ảnh của một người tù Cách mạng kiên định dù trong gian khó vẫn giữ một ý chí quật cường. Bài thơ vừa là lời bày tỏ những gian khổ của Bác trong những lần chuyển lao ở nhà tù Tưởng Giới Thạch vừa là một chân lý Bác muốn nêu ra sau những lần chiêm nghiệm của mình. Đường đi khó khăn, gập ghềnh, cũng như cuộc sống, như con đường Cách mạng vậy, nhưng chỉ cần chúng ta có quyết tâm, có ý chí mạnh mẽ thì chắc chắn thắng lợi vẻ vang sẽ đến và ngày đó chẳng còn xa nữa.
Bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, Hồ Chí Minh đã giúp chúng ta cảm nhận được những khó khăn trong thời gian Người bị giam cầm nơi đất khách, cũng là lời ca ngợi ý chí chiến đấu kiên cường của Hồ Chí Minh. Chắc hẳn, mãi đến sau này, bài thơ vẫn sẽ mãi là một trong những tuyệt tác của Người - Hồ Chí Minh: Người chiến sĩ Cách mạng - nhà thi nhân xuất sắc của dân tộc ta. Hơn hết thảy, Bác là người đi đường với tinh thần, khí phách tuyệt vời nhất trên hành trình của mình.
Hãy đăng nhập để bình luận
Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .