Top 6 Bài văn Phân tích truyện cổ tích Em bé thông minh (Ngữ văn 6) hay nhất
Em bé thông minh là truyện cổ tích đặc sắc của dân tộc ta. Truyện không lấy những yếu tố tưởng tượng, hư cấu để tạo sức hút mà đưa ra các thử thách để...xem thêm ...
Bài tham khảo số 1
Em bé thông minh là một trong những truyện cổ dân gian Việt Nam có sức hấp dẫn riêng và được nhân dân ưa thích. Truyện ca ngợi trí thông minh của nhân dân ta trong cuộc sống. Nhân vật trung tâm là em bé thông minh. Trí thông minh của em bé được trổ tài trong bốn lần.
Lần thứ nhất, trước câu hỏi oái ăm của tên quan: "Trâu... cày một ngày được mấy đường?" thì em bé đã hỏi vặn lại: Ngựa... đi một ngày được mấy bước?". Em đã lấy cái không xác định đế giải đáp cái không xác định. Thể thức này ta thường bắt gặp trong nhiều truyện dân gian. Ví dụ, hỏi: "trên đầu có bao nhiêu sợi tóc?" thì vặn lại: "lỗ mũi có bao nhiêu cái lông?"...
Lần thứ hai, vua ban cho làng em 3 thúng gạo nếp, 3 con trâu đực, hạn trong 3 năm, trâu ấy phải đẻ thành 9 con. Thật kì quặc vì trâu đực sao đẻ được? Có loại trâu nào đẻ được 3 con trong 3 năm? Lệnh vua ai dám chống lại? Dí dỏm ở chỗ: Cả làng thì lo, còn em bé lại có cách xử trí rất "lạ": Giết hai trâu, đem 2 thúng gạo nếp đồ xôi, cả làng ăn... một trận cho sướng miệng; còn 1 thúng gạo nếp, 1 con trâu thì đem bán đi để hai cha con em làm lộ phí lên kinh một chuyến. Em đã tìm cách gặp được vua. Cuộc đối đáp của em cũng rất thông minh. Em gặp vua và em khóc vì mẹ đã chết mà cha em không đẻ được một bé nào nữa... Câu hỏi ngây thơ ngộ nghĩnh của em đã làm cho ông vua phì cười cắt nghĩa: "Bố mày là giống đực thì làm sao mà đẻ được!". Em đã "giương bẫy" để vua mắc mưu, và em có cớ vặn lại: "Thế sao làng chúng con lại có lệnh trên bắt nuôi 3 con trâu đực cho đẻ thành 9 con để nộp đức vua?...". Em bé rất thông minh và đã biết sử dụng phép luận suy là lấy cái vô lí, cái phi lí để giải thích, để bác bỏ cái phi lí, cái vô lí: đàn ông không đẻ được thì trâu đực cũng không đẻ được, đó là chuyện đương nhiên!
Vua vẫn chưa tin em bé này thông minh, nên đã sai sứ mang đến một con chim sẻ bắt cha con em phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Em đã gửi sứ giả một chiếc kim đem về tâu với đức vua rèn cho ba con dao. Trong điều kiện kiện thủ công lạc hậu, thô sơ thì một cái kim không thể nào rèn dược ba con dao. Đã không có dao, hoặc chưa có dao thì chưa thể giết được sẻ đế dọn cỗ cho vua. Rất dí dỏm, thú vị. Em bé thông minh lắm: Em đã lấy cái không thể nào làm được để giải thích sự việc thành không thể nào được! Không thể nào rèn một chiếc kim thành ba con dao cũng như không thể giết một con chim sẻ dọn thành ba cỗ thức ăn được!
Lần thứ tư em đọ trí với sứ giả một nước láng giềng (cũng như Trạng Quỳnh gặp sứ tào, thuở nào!). Làm sao xâu sợi chỉ luồn qua đường ruột con ốc xoắn? Trong lúc Trạng nguyên, đại thần, văn võ bá quan vô kế khả thi thì em bé ung dung, hát lên một bài vè:
Tang tình tang! Tang tình tang!
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng,
Bèn thời lấy giấy mà bưng,
Bền thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang Tang tình tang....
Câu đố tưởng là hóc hiểm nhưng đối với em bé thì dễ ợt! Em đã làm cho vị sứ giả nước láng giềng phải thán phục khi nhìn thấy con kiến càng kéo sợi chỉ qua ruột con ốc xoắn.
Sau bốn lần trổ tài, em bé đã được phong Trạng nguyên, được ở gần vua để tiện hỏi han, nghĩa là em đã trở thành thái sư của hoàng đế! Truyện cổ tích Em bé thông minh gần giống một truyện Trạng Quỳnh. Truyện hàm chứa nhiều chất dí dỏm, hài hước. Một em bé 7, 8 tuổi thế mà được phong Trạng nguyên, trở thành cố vấn đầu triều cho hoàng đế, làm cho sứ giả nước láng giềng phải trố mắt thán phục. Cuộc sống lam lũ, cực nhọc nên nhân dân ta tưởng tượng ra một câu chuyện dí dỏm để mua vui, đế yêu đời...
Truyện đề cao trí khôn dân gian. Em bé thông minh tiêu biểu cho trí khôn dân gian, mẫn tiệp, sắc sảo trong ứng xử. Qua truyện cổ tích này, nhân dân ta thể hiện lòng quý mến, trân trọng những con người thông minh, tài trí trong xã hội, đồng thời khẳng định: Trí khôn, sự thông minh, tính sáng tạo là vô giá! Ai cũng phải rèn luyện trí thông minh.
Bài tham khảo số 2
Đây là câu truyện dân gian với những tình tiết hấp dẫn ca ngợi sự thông minh của người dân xưa. Trong câu truyện cổ tích này, nhân vật chính là em bé thông minh và sự thông minh của em được thể hiện qua 4 lần thử thách. Và với mỗi lần em đều khiến cho người thách đố thán phục về sự thông minh của mình.
Trong câu truyện cổ tích này, nhân vật chính là em bé thông minh và sự thông minh của em được thể hiện qua 4 lần thử thách. Và với mỗi lần em đều khiến cho người thách đố thán phục về sự thông minh của mình.
Lần đầu em bị tên quan hỏi câu hỏi oái oăm về việc con trâu một ngày cày mấy đường và em đã dùng cái không xác định để đáp trả câu hỏi không xác định của tên quan là ngựa đi mấy bước. Đây cũng là một trong những mô típ mà chúng ta thường gặp trong những câu truyện dân gian xưa.
Lần tiếp theo em bé thông minh lại thể hiện sự lém lỉnh và thông minh của mình với nhà vua khi nhận được lệnh vô lý của vua ban cho cả làng mình. Và em bé đã dùng chính sự vô lý của nhà vua để đáp trả cái lệnh vô lý của nhà vua: Bắt cả làng nuôi trâu đực cho nó đẻ con – em bắt cha mình sinh con cho em. Đó chính là sự xử trí rất thông minh của em, và chính sự ngây thơ, ngộ nghĩnh của em khi đứng trước mặt nhà vua đã làm cho mọi người không nhịn được cười và mắc mưu. Lúc này em nhanh trí vặn lại nhà vua hà cớ sao lại bắt làng nuôi trâu đực để đẻ con.
Lần này em đã dùng sự vô lý để lý giải và bác bỏ cái phi lý, chính vì truyện đương nhiên đó mà nhà vua thán phục tài trí của em và không bắt phạt dân làng nữa. Nhưng sự thể hiện của em vẫn chưa là gì, nhà vua vẫn không tin rằng em thông minh như vậy nhà vua bèn đem thử thách tiếp theo cho em đó là bắt em phải làm thịt một con chim sẻ thành 3 cỗ thức ăn, em nhanh trí đưa cây kim cho sứ giả và yêu cầu phải rèn 3 con dao để mổ thịt chim. Với cách đối đáp thú vị và dí dỏm đó nhà vua đã thực sự bái phục vì sự thông minh lanh trí của em. Em đã lấy cái không thể thực hiện được để đáp trả yêu cầu vô lý không thể nào làm được của nhà vua.
Lần thứ 4 trí thông minh của em đã được đọ sức với nước láng giềng. Qua chi tiết này ta có thể thấy tài trí của người Việt Nam thời xưa đã được sang ngang tầm với các nước khác và đặc biệt hơn khi mà tài trí ấy thắng được nước láng giềng, đem lại niềm tự hào dân tộc và sự thán phục của sứ giả đối với nước Nam ta.
Việc xây dựng nên truyện em bé thông minh cũng giống như truyện trạng Quỳnh xưa kia, tài trí hơn người chiến thắng những nước coi thường tài trí của dân tộc ta. Ngoài tác dụng mua vui giúp cho cuộc sống của nhân dân yêu đời hơn, những truyện cổ tích này còn là một niềm tự hào dân tộc, khi mà tài năng của nhân dân ta có thể so tài với quốc tế, chiến thắng những đất nước khác khẳng định sự tài ba của dân tộc Việt Nam.
Qua việc phân tích truyện em bé thông minh chúng ta nhận ra và đề cao hơn trí khôn của người xưa, luôn sắc sảo và nhanh nhạy trong việc xử trí những sự việc ở đời. Hơn thế nữa, những con người có trí thông minh hơn người, luôn được xã hội đề cao, trân trọng và họ cũng khẳng định được một điều là trí khôn của con người là vô giá, sự sáng tạo luôn là nguồn khai thác bất tận.
Bài tham khảo số 3
Dân gian ta từ xưa đã đề cao sự thông minh, trí khôn của nhân dân lao động. Rất nhiều câu chuyện cổ tích ra đời nhằm ca ngợi trí thông minh, lanh lợi, khôn ngoan. Mỗi câu chuyện lại có những nét đặc sắc và sự hấp dẫn riêng. "Em bé thông minh" là một trong những câu chuyện như thế.
Giống như bao truyện cổ tích dân gian liên quan đến trí khôn, tác giả dân gian xây dựng câu chuyện luôn xoay quanh một nhân vật thông minh hơn người nhưng lại có một xuất thân bình thường, giản dị. Câu chuyện em bé thông minh tập trung vào nhân vật một em bé lanh lợi, trí khôn bộc lộ từ thuở nhỏ. Em bé thông minh xuất thân từ một gia đình nông dân. Em bé thường phụ giúp cha làm đồng ruộng. Như vậy, nhân vật trong câu truyện là em nhỏ trong gia đình nông dân hết sức bình thường. Nhưng cách tác giả dân gian chọn nhân vật của mình là một em bé là một lựa chọn khéo léo có thể tạo ra những chi tiết dí dỏm, lanh lợi và hài hước.
Tình huống truyện được xây dưng rất tự nhiên bắt nguồn từ việc chiêu mộ người tài. Từ thời phong kiến xưa, các bậc minh quân luôn muốn đi khắp nơi trên đất nước để chiêu dụ những người thông minh, tài giỏi hơn người để phục vụ đất nước. Trong câu chuyện, tình huống chuyện bắt đầu khi vua sai quân đi tìm kiếm người thông minh thì gặp em bé đang làm ruộng cùng cha trên cánh đồng. Đây là một chi tiết cho thấy sự khéo léo trong việc xây dựng tình huống truyện của tác giả dân gian, giúp tạo ra sự tự nhiên, mở đầu cho những phần hấp dẫn của cốt truyện phía sau.
Nhân vật đại diện cho trí thông minh trong câu chuyện đã trải qua rất nhiều cuộc đấu trí hóc búa để làm nổi bật lên sự thông minh, dí dỏm của mình.
Đầu tiên, viên quan đi qua cánh đồng hỏi cha cậu bé "một ngày trâu của ông cày được mấy đường". Trong khi người cha còn lúng túng không biết trả lời sao thì đứa con đã nhanh nhẹn vặn lại hỏi "một ngày ngựa của ông đi được bao bước". Không cần trả lời trực tiếp mà thông qua một câu hỏi đã cho thấy sự nhanh nhẹn, thông minh của em bé.
Rồi lần thứ hai, vua sai ban cho làng ba con trâu đực, ba thúng gạo nếp và lệnh cho làng nuôi làm sao sau ba năm ra được chín con. Trong khi cả làng lo sợ không dám cãi lời thì em bé nói mọi người thịt hết trâu và mang gạo ra đồ xôi ăn, còn lại hai cha con làm lộ phí lên kinh gặp vua. Gặp vua, em bé nói mẹ mất muốn cha sinh thêm em bé mà cha không chịu. Vậy là vua bật cười nói cha là giống đực sao đẻ được. Em bé ngay lập tức hỏi lại nhà vua tại sao làng được ban trâu đực mà bắt ba năm đẻ thành chín con trâu. Vậy là lần thứ hai này em bé lai chiến thắng nhà vua bởi trí khôn của mình. Em bé đã để nhà vua nói lên sự bất hợp lý trong sự tương đồng giữa hai sự việc để nói lên sự bất hợp lý trong yêu cầu của vua, khiến vua cũng không sao bàn cãi được. Đó quả là một sự thông minh hiếm có, không những thế qua đây còn cho thây sự dung cảm của em, bởi không ai dám cãi lý lẽ với nhà vua cả ngoài em bé thông minh.
Không dừng lại ở đó, vua ban cho con chim sẻ và yêu cầu làm ba mâm cỗ. Em bé lại gửi lại cây kim yêu cầu rèn cho ba con dao để làm thịt chim. Một con chim với ba mâm cỗ cũng tương đồng một cây kim làm ra ba cái dao. quả là tài trí, hiếm có ai nghĩ ra được. Phù hợp và tương đồng giữa cái phi lý và số lượng. Điều này tạo nên sự hài hước, hấp dẫn cho câu chuyện.
Tác giả dân gian không chỉ tạo ra những chi tiết làm nổi bật sự thông minh của con người mà mỗi một câu chuyện, một chi tiết thể lại có mức độ tăng dần về độ khó và tính quan trọng của câu đố. Ở đây, các thử thách của nhà vua dành cho em bé thông minh tăng dần mức độ. Nó không còn đơn thuần là một câu hỏi, câu đố của nhà vua, mà còn là câu hỏi của xứ thần nước khác. Nếu cả một quốc gia mà không ai giải được câu đố oái oăm của nước bạn thì thật sự xấu hổ. Nhưng rồi một câu hỏi hóc búa làm quan đại thần ai cũng mải mồ hôi thì em bé thông minh lại giúp giải dễ dàng. Xứ giả nước láng giềng đố rằng làm sao luồn được sợi chỉ qua vỏ ốc xoắn. Em bé nhanh trí giải đáp bằng một vài câu hát dí dỏm. Cách giải quyết câu đố của em bé khiến ai nấy đều nể phục:
Tang tình tang! Tang tình tang!
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng,
Bèn thời lấy giấy mà bưng,
Bền thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang Tang tình tang...
Không cần những chi tiết hoang đường kỳ ảo, nhưng với những các giải đó dí dỏm, thông minh và tăng dần mức độ khó, câu chuyện em bé thông minh đã mang đến cho người đọc những giây phút thú vị cùng tiếng cười sảng khoái. Qua đó, câu chuyện bày tỏ niềm ca ngợi sự thông minh, tài trí của người dân lao động Việt Nam.
Bài tham khảo số 4
Trong số rất nhiều những câu truyện cổ tích dân gian Việt Nam, “Em bé thông minh” là một câu chuyện có sức hấp dẫn rất riêng và thu hút được người đọc. Thông qua nhân vật cậu bé thông minh, truyện đã ca ngợi trí thông minh của nhân dân ta trong cuộc sống.
Trong truyện, nhân vật chính là em bé thông minh, trí thông minh của em được trổ tài đến bốn lần. Lần thứ nhất, trước câu hỏi oái oăm của tên quan: “Trâu… cày một ngày được mấy đường?” em đã hỏi vặn lại: “Ngựa… đi một ngày được mấy bước?”. Có thể thấy em đã rất thông minh, nhanh trí, lấy cái không xác định để đáp lại một cái không xác định. Thể thức này ta có thể dễ dàng bắt gặp trong các câu truyện dân gian như: hỏi “trên đầu có bao nhiêu sợi tóc”, vặn lại “lỗ mũi có bao nhiêu cái lông”. Lần thứ hai, đó là khi vua ban cho cậu bé thông minh 3 thúng gạo nếp và ba con trâu đực, hạn cho trong vòng ba năm, ba con trâu phải đẻ thành 9 con.
Thật oái ăm cho lệnh của vua, trâu đực thì làm sao mà đẻ được mà cũng chẳng trâu nào đẻ được ba con trong ba năm. Thế nhưng lệnh vua thì ai dám chống lại. Ở tình huống này xuất hiện những điều dí dỏm và hài hước, khi cả làng đang lo thì em bé thông minh lại nghĩ ra cách xử trí rất khác người: giết hai con trâu, đem gạo nếp đồ xôi cả làng ăn, còn một con trâu đem bán lấy lộ phí hai cha con lên kinh. Rồi em tìm cách gặp được vua, em khóc than với vua rằng mẹ đã chết mà cha em không đẻ thêm được một bé nào nữa. Trước câu hỏi ngây thơ mà ngộ nghĩnh của em, vua đã phải phì cười cắt nghĩa “Bố mày là giống đực thì làm sao mà đẻ được”.
Đây chính là một cái bẫy mà em bé giăng sẵn chờ vua mắc mưu để em có cớ vặn lại: “Thế sao làng chúng con lại có lệnh trên bắt nuôi 3 con trâu đực cho đẻ thành 9 con để nộp đức vua?…” Có thể thấy em đã biết dùng cái vô lý để giải thích và bác bỏ cho cái phi lí. Lần thứ ba, vua sai sứ mang một con chim sẻ tới bắt cha con em dọn thàn ba cỗ thức ăn, ngược lại em đã sai sứ mang một chiếc kim đen tâu đức vua rèn cho ba con dao. Trong điều kiện lạc hậu ngày ấy, chiếc kim đen không thể mài thành ba con dao. Em đã lấy cái không thể nào làm được để giải thích cho sự việc không thể nào thực hiện được. Lần cuối cùng, em bé thông minh được đem đi so trí với sứ giả của nước láng giềng, thử thách thông minh lần này là làm sao xâu sợi chỉ qua đường ruột của con ốc xoắn. Trong khi cả bá quan văn võ, đại thần và trạng nguyên đều vô kế thì em lại ung dung hát một bài vè:
“…Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng,
Bên thời lấy giấy mà bưng,
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang…”
Em bé thông minh đã làm cho vị sứ giả nước láng giềng phải thán phục, và sau bốn lần trổ tài, em được phong làm Trạng nguyên.
Truyện cổ tích chứa nhiều chất dí dỏm và hài hước, trong cuộc sống lao động lam lũ và vất vả, nhân dân ta đã tưởng tượng ra một câu chuyện dí dỏm, mua vui nhưng thực tế đã thể hiện được trí thông minh của nhân dân ta.
Bài tham khảo số 5
Cùng với loại cổ tích thần kì như truyện Sọ Dừa, truyện Tấm Cám, Thạch Sanh,... kho tàng truyện dân gian nước ta còn có loại cổ tích sinh hoạt, cổ tích sinh hoạt gần như không có yếu tố thần kì, được cấu tạo theo cách "xâu chuỗi" các mẩu chuyện từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, vổ cùng hấp dẫn. Truyện Em bé thông minh là một áng cổ tích như thế.
Có thế coi tác phẩm thuộc loại truyện "Trạng". "Trạng" là người thông minh, tài trí hơn người, có khả năng ứng đáp linh hoạt, hoá giải được mọi bài toán, câu đố hiểm hóc. Truyện "Trạng" đề cao trí khôn dân gian, kinh nghiệm sống được vận dụng sáng tạo, đem lại tiếng cười vui vẻ, hồn nhiên mà thâm thuý. Điều thú vị là nhân vật "Trạng" trong các truyện này nhiều người chẳng được học hành, theo đòi sách vở như các ông Tiến sĩ, Trạng nguyên mà chỉ là một anh nông dân nghèo rớt mồng tơi hoặc một em bé còn ăn bám bố mẹ. Chính em bé đó, bằng trí thông minh, tài ứng đối đã khiến mọi người sửng sốt thán phục. Em bé đó là nhân vật trung tâm của truyện Em bé thông minh. Trí khôn của em không chỉ khiến nhiều người khảm phục mà đã nhiều lần cứu nguy cho cả làng, cả nước, cho ngàn vạn người.
1. Trí khôn, mưu kế của em bé được thử thách như thế nào ?
a) Em bé đã phải bốn lần đối mặt với câu đố, bốn bài toán trí tuệ hóc búa. Lần thứ nhất, em phải đáp lại câu đố của quan : "Trâu của lão cày một ngày được mấy đường ?". Lần thứ hai, em phải tìm ra thâm ý của nhà vua : nuôi làm sao cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con, hẹn năm sau phải đem nộp đủ. Lần thứ ba cũng là thâm ý, thử thách của vua : từ con chim sẻ "phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Và lần thứ tư, vừa là lời thách đố vừa trêu tức, "chơi xỏ" của sứ thần nước ngoài đối với triều đình, với toàn dân tộc ta là xâu một sợi chỉ qua ruột con ốc vặn rất dài.
b) Lời thách đố mỗi lần một tăng lên, lần sau khó hơn lần trước. Lần thứ nhẩt, viên quan đố, lần thứ hai và thứ ba là lời thách đố của nhà vua. Cả hai đều chỉ nhằm tìm người tài giỏi, thông minh. Riêng lần thứ tư thì người đố là "sứ thần" của nước khác. Nhân vật ra đố khác rồi, ý nghĩa cuộc đố cũng khác. Đây không chỉ là tìm người thông minh mà còn hàm ý thử thách trí khôn của cả triều đình, của toàn dân tộc. Xét về tính chất thì sự oái oăm, độ hóc búa của các câu đố, những dữ kiện mà người đố đưa ra mồi lúc thêm kì quặc. Hoặc là một việc làm "lẩn thẩn" : đếm đường cày mỗi ngày, hoặc là một hiện tương vô lí, trái lẽ đời : trâu đực đẻ con, một con sẻ bé tẹo làm thành ba mâm cỗ. Có khi là một việc không chí "lẩn thẩn" mà còn kì quặc, éo le đến độ... chỉ có thánh thần mới làm được. Thêm nữa, tính oái oăm, căng thẳng còn được thể hiện ở sự lựa chọn người giải đố. Lần thứ nhất, viên quan yêu cầu em bé giải đố. Lần thứ hai, nhà vua thử thách hai bố con. Con số gấp đôi. Lần thứ ba, nhà vua thách đố cả dân làng. Số người bị lôi vào trận đấu trí tuệ tăng gấp mười, gấp trăm lần rồi! Đến lần thứ tư thì... đáng sợ quá. Sứ thần nước khác thách đố cả triều đình, gồm toàn những người quyện cao, trí sáng. Cứ mỗi lần như thế, hầu như mọi người, già trẻ, lớn bé, dân thường, vua chúa đểu... bị đẩy vào thế... bí. Dân làng thì "lo lắng, không hiểu thế là thế nào, coi dó là tai hoạ". Vua qiian thì "vò dầu suy nghĩ", "lắc đầu bó tay". Trong khi đó, em bé - nhân vật chính của câu chuyện - vốn bị mọi người thờ ơ, coi thường, thì vẫn bình thản như không, thậm chí "còn đùa nghịch ở sau nhà". Dường như đối với em, mọi sự trên đời, mọi lời thách đố chẳng có gì ghê gớm, khó khăn. Nó là cuộc đời diễn biến hằng ngày mà em từng thấy, từng chơi đùa vui vẻ, hồn nhiên như tâm hồn, trí tuệ của tuổi thơ trong sáng. Mỗi lần kể vẽ một câu đố, tác giả truyện cổ tích này không chỉ đặt ra tình huống đơn giản là sự đối đầu giữa người đố và em bé, một người đối với một người, người lớn đối với trẻ em. Không ! Tình huống đố và yêu cầu giải đố mỗi lúc một tăng cao, cả về số lượng lẫn chất lượng. Từ đó, ngầm một sự so sánh thú vị : lần thứ nhất so sánh em bé với người cha, lần thứ hai so sánh em với dân làng, lần thứ ba khi em bé đố lại thì là so sánh chính em với nhà vua và đến lần thứ tư, rõ ràng người kể chuyện muốn so sánh một mình em bé với cả triều đình gồm vua, quan, các ông trạng, các đại thần. Cả bốn lần, nhờ sự so sánh ấy, vị trí em bé được đề cao, trí tuệ em bé toả sáng dần. Em bé, em là... thần đồng đấy ư ?
2. Vị thần đồng ấy có trí thông minh như thế nào khi giải các câu đố ?
a) Ta hãy lần lượt quan sát cách giải và lắng nghe lời giải của chú bé : Lần thứ nhất, em bé đố lại viên quan : "ngựa của ông đi một ngày được mấy bước". Lần thứ hai, em bé vặn lí với nhà vua : "Giống đực thì làm sao mà đẻ được ạ !". Lần - thứ ba, em cũng đố lại vua, xin vua rèn cái kim thành con dao để xẻ thịt một con chim sẻ làm ba mâm cỗ. Và lần thứ tư, em bé dùng kinh nghiệm sống của nhân dân : kiến thấy mùi mỡ ắt phải tìm đến ! Điều thú vị là mỗi lần giải đố, em bé lại dùng một "chiêu" khác nhau. Lần thì lấy "gậy ông đập lưng ông" để đẩy đối phương vào thế bí mà chịu thua cuộc. Lần thì chỉ ra cái "chiêu" của đối phương vô lí, phi lí, trên đời không thể xảy ra khiến đối phương bị "tóm gáy", mà đầu hàng, hoặc cười xoà vui vẻ... Điều thú vị hơn nữa là tất cả những lời giải đố, những chiêu võ trí tuệ của em bé đều không chép từ sách vở nào cả mà bắt nguồn từ kiến thức đời sống. Nó tươi tắn, hồn nhiên mà bất ngờ, đầy sức thuyết phục. Đó chính là sự tươi tắn, thuần hậu, chất phác trong tâm hồn và trí tuệ của nhân dân. Chính nhân dân - những tác giả của câu chuyện cổ tích này - đã gửi trí khôn vào nhân vật em bé, nhờ nhân vật nói hộ mình những suy nghĩ, tính toán, những kinh nghiệm sống để giúp nhau gỡ rối, hoá giải các thử thách, khó khăn của các bài toán, câu đố trong cuộc sống hằng ngày.
b) Kết thúc câu chuyện, em bé thông minh được, vua phong là "Trạng nguyên", "Vua lại xây dinh thự ở một bên hoàng cung cho em ở, để tiện hỏi han". Đấy là phần thưởng đích đáng để khẳng định, tôn vinh vị thần đồng. Lời tôn vinh, sự khẳng định ấy có phải chỉ vì em bé thông minh, trí sáng hơn người ? Đúng ! Nhưng chưa đủ. Điểu đáng tôn vinh, đáng quý trọng nữa là mục đích, tác dụng, hiệu quả của những bài toán trí tuệ mà em bé đã giải. Trong bốn lần giải đố thì lần thứ hai và thứ tư đặc hiệt thú vị. Lần thứ hai, từ ba thúng gạo nếp vua ban và ba con trâu đực, em bé đã giúp cho dân làng biến "một tai hoạ" thành "một bữa ăn sướng miệng". Lần thứ tư, em bé chỉ cất tiếng hát vui vẻ "tang tình tang, tính tình tang..." mà các triều thần "mừng như mở cờ trong bụng" và sứ giả nước láng giềng phải thán phục. Sau sự "thán phục" này chắc chắn viên sứ giả sẽ trở về tâu với vua nước họ phải bỏ cái ý định ngông cuồng là "lăm le muốn chiếm bờ cõi nước ta". Như vậy, trí khôn của một em bé đã cứu nguy cho ngàn người, hoá giải những âm mưu đen tối. Trí khôn nói riêng, sự thông minh, tài năng sáng tạo của con người nói chung ứng dụng vào cuộc sống không phải để tỏ ra mình thông minh, hơn đời mà cần hướng vào một mục đích cao cả, để gỡ rối, cứu nguy, để đem lại niềm vui, hạnh phúc cho mọi người. Hiểu như thế, chúng ta càng thêm mến yêu em bé thông minh, coi trọng việc rèn giũa trí khôn, sự sáng tạo.
Tóm lại, truyện cổ tích Em bé thông minh là loại cổ tích sinh hoạt mà nhân vật trung tâm là nhân vật người thông minh - kiểu nhân vật rất phổ biến trong kho tàng cổ tích Việt Nam và thế giới. Truyện đề cao sự thông minh và trí khôn dân gian (qua hình thức giải những câu đố, vượt những thử thách oái oăm), từ đó tạo nên tiếng cười vui vẻ, hổn nhiên trong đời sống hằng ngày. Tôn vinh trí khôn là việc nên làm, nhưng việc cần tiếp tục làm là phải biết dùng trí khôn để phục vụ cuộc sống, đem lại niềm vui, hạnh phức cho mọi người.
Bài tham khảo số 6
Trong kho tàng truyện cổ dân gian Việt Nam cổ rất nhiều truyện kì thú kể về những em bé tài trí, thông minh tuyệt vời. Phần lớn là những chú bé tóc còn để chỏm, cưỡi trâu chăn trâu… Thế mà đã bao phen làm cho các quan đại thần phải kinh ngạc, sứ Tàu phải “lác mắt”, nhà vua và hoàng hậu hết lời ban khen, trọng thưởng. Chú bé trong truyện “Em bé thông minh” là một trong muôn nghìn gương sáng mà dân gian quý mến, trân trọng.
Trí thông minh của em bé được trổ tài trong bốn lần.
Lần thứ nhất
Trước câu hỏi oái oăm của tên quan: “Trâu… cày một ngày được mấy đường?” Thì em bé đã hỏi vặn lại: “Ngựa… đi một ngày được mấy bước?”. Em đã lấy cái không xác định để giải đáp cái không xác định. Thể thức này ta thường bắt gặp trong nhiều truyện dân gian. Ví dụ hỏi: “Trên đầu có bao nhiêu sợi tóc” thì vặn lại: “Lỗ mũi có bao nhiêu sợi lông?”v.v…
Lần thứ hai
Vua ban cho làng em 3 thúng gạo nếp, ba con trâu đực, hạn trong mỗi năm, trâu ấy phải đẻ thành 9 con. Thật kì quặc vì trâu đực sao đẻ được? Có loại trâu nào đẻ được 3 con trong một năm? Lệnh vua ai dám chống lại? Dí dỏm ở chỗ: Cả làng thì lo, còn em bé lại có cách xử trí rất “lạ”: Giết hai trâu, đem hai thúng gạo nếp đồ xôi, cả làng ăn… một trận cho sướng miệng; còn một thúng gạo nếp, một con trâu thì đem bán đi để hai cha con em làm lộ phí lên kinh một chuyến. Em đã tìm cách gặp được vua. Lời đối đáp của em rất thông minh. Em gặp vua và em khóc vì mẹ em đã chết mà cha em không đẻ được một em bé nào nữa. Câu hỏi ngây thơ ngộ nghĩnh của em đã làm cho ông vua phì cười cất nghĩa: “Bô mày lù giếng đực thì làm sao đề được!”. Em đã “giương bẫy” để vua mắc mưu, và em có hỏi vặn lại: “Thế sao làng chúng con lụi có lệnh trên bắt nuôi 3 con trâu đực cho đề thành 9 con để nộp đức vua?…”. Em bé rất thông minh vì đà biết sử dụng phép luận suy là lấy cái vô lí, cái phi lí để giải thích, để bác bỏ cái phi lí, cái vô lí: Đàn ông không đẻ được thì trâu đực cũng không đẻ được, đó là chuyện đương nhiên!
Lần thứ ba
Vua vẫn chưa tin em bé này thông minh, nên đã sai sứ mang đến một con chìm sẻ bắt cha con em phải dọn thành 3 cỗ thức ăn. Em đã gửi sứ giả 1 chiếc kim đem về tâu với đức vua rèn cho một con dao. Trong điều kiện thủ công lạc hậu, thô sơ thì một cái kim không thể nào rèn được một con dao. Đã không có dao, hoặc chưa có dao thì chưa thể giết được sẻ để dọn cỗ cho vua. Rất dí dỏm, thú vị. Em bé thông minh lắm: Em đã lấy cúi không thể nào lùm được để giải thích sự việc không thể nào làm được! Không thể nào rèn được 1 chiếc kim thành một con dao cũng như không thể giết 1 chim sẻ dọn thành 3 cỗ thức ăn được!
Lần thứ tư
Em đọ trí với sứ giả một nước láng giềng “cũng như Trạng Quỳnh gặp sứ Tàu thuở nào!”. Làm sao xâu sợi chỉ luồn qua đường ruột con ốc xoắn? Trong lúc Trạng nguyên, đại thần, văn võ bá quan vô kế khả thi thì em bé ung dung, hát lên một bài vè:
“Tang tình tang! Tính tình tang!
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng Bên thời lấy giấy mà bưng,
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang Tang tình tang!.,”
Câu đố tưởng là hóc hiểm nhưng đối với em bé thật là dễ ợt! Em đã làm cho vị sứ giả nước láng giềng phải thán phục khi nhìn thấy con kiến càng kéo sợi chỉ qua ruột con ốc xoắn.
Sau 4 lần trổ tài, em bé đã được phong trạng nguyên, được ở gần vua để vua tiện hỏi han, nghĩa là em đã trở thành thái sư của hoàng đế! Ông nông dân có đứa con như thế mới sướng chứ!
Truyện cổ tích “Em bé thông minh” na ná một truyện Trạng Quỳnh. Truyện hàm chứa nhiều chất dí dỏm, hài hước. Một em bé 7, 8 tuổi (nghĩa còn sợ ma, nghĩa là còn…) thế mà được phong trạng nguyên, trở thành cố vân đầu triều cho hoàng đế, làm cho sứ giả nước láng giềng phải trố mắt thán phục. Cuộc sông lam lũ, nên nhân dân ta tưởng tượng ra một câu chuyện dí dỏm để mua vui, để yêu đời…
Truyện đề cao trí khôn dân gian. Em bé thông minh tiêu biểu cho trí khôn dân gian, mẫn tiệp, sắc sảo trong ứng xử. Qua truyện cổ tích này, nhân dân ta thể hiện lòng quý mến, trân trọng những con người thông minh, tài trí trong xã hội, đồng thời khẳng định: trí khôn, sự thông minh, tính sáng tạo là vô giá! Ai cũng phải rèn luyện trí thông minh.
Hãy đăng nhập để bình luận
Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .