Top 8 Bài văn suy nghĩ về cái chết của nhân vật Vũ Nương trong "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ (lớp 9) hay nhất

86

Trong văn học trung đại đã có nhiều tác giả viết về đề tài người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến. Ví như Nguyễn Dữ với tác phẩm "Chuyện người con gái...xem thêm ...

Top 0
(có 0 lượt vote)

Bài văn suy nghĩ về cái chết của nhân vật Vũ Nương - mẫu 1

Trong nền văn học trung đại Việt Nam, bên cạnh kiệt tác "Truyện Kiều" tái hiện thành công số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến thông qua hình tượng nhân vật Thúy Kiều thì "Chuyện người con gái Nam Xương" cũng là một tác phẩm tiêu biểu khắc họa chân thực bi kịch của người phụ nữ. Điều này đã được thể hiện rõ thông qua cái chết của nhân vật Vũ Nương. Đây là chi tiết cho thấy sự tuyệt vọng, bế tắc không lối thoát của nhân vật trong xã hội đầy rẫy bất công.


Vũ Nương là người con gái xinh đẹp, hiền dịu, có tư dung tốt đẹp, tính cách thùy mị, nết na khiến cho Trương Sinh đem lòng yêu mến. Sau khi kết hôn với Trương Sinh, nàng hết mực giữ gìn khuôn phép. Sau khi chồng đi lính, nàng một mình nuôi con nhỏ, hiếu thuận với mẹ chồng và một lòng một dạ chung thủy chờ chồng. Những tưởng với những vẻ đẹp đó, hạnh phúc sẽ mỉm cười với nàng. Tuy nhiên, khi Trương Sinh trở về cũng là nàng phải rơi vào bi kịch. Vì tin vào lời nói ngây thơ của bé Đản, Trương Sinh đã hiểu nhầm, ghen tuông và ruồng rẫy nàng. Trước sự ghen tuông mù quáng của chồng, Vũ Nương hết lời thanh minh nhưng không nhận được sự thấu hiểu, nàng phải tìm đến cái chết bi thảm.


Trước hết, cái chết là chi tiết phản ánh chân thực bi kịch của nhân vật Vũ Nương. Dù là người phụ nữ có tư dung tốt đẹp và có ý thức giữ gìn tiết hạnh nhưng nàng vẫn phải gánh chịu bi kịch bị ruồng rẫy, bị coi thường và chịu sự đánh giá bất công, hà khắc bởi chế độ phong kiến và tư tưởng "trọng nam khinh nữ". Khi bị chồng hiểu nhầm, nghi ngờ sự chung thủy và hắt hủi, nàng không còn lựa chọn nào khác ngoài việc nhảy sông tự vẫn.


Trước những lời buộc tội của Trương Sinh, Vũ Nương mượn bến Hoàng Giang để minh oan cho tấm lòng trong trắng của mình: "Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ". Lời giãi bày của nàng thể hiện sự bất lực khi tìm đến cái chết sau những cố gắng không thành. Hành động tự vẫn thể hiện sự quyết liệt cuối cùng để bảo vệ phẩm giá . Đối với nàng phẩm giá và tiết hạnh quan trọng hơn sự sống . Cái chết là lựa chọn cuối cùng để nàng minh oan và bảo toàn danh dự . Cái chết của nàng thể hiện sự cùng quẫn, bế tắc không lối thoát, đồng thời thể hiện rõ số phận đầy bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.


Cái chết oan uổng và đầy đau đớn của Vũ Nương đã gián tiếp lên án phê phán chế độ nam quyền, xem trọng quyền uy, tiếng nói của người đàn ông trong gia đình. Cuộc hôn nhân giữa nàng và trương sinh vốn là cuộc hôn nhân không bình đẳng. Trương Sinh chỉ cần " nói với mẹ đem trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ". Trong những ngày tháng làm dâu nhà họ trương, nàng luôn phải giữ gìn khuôn phép trước sự đa nghi của chồng. Ngoài ra cuộc chiến tranh phi nghĩa cũng chính là nguyên nhân dẫn đến bi kịch của Vũ Nương khi nàng phải sống trong cảnh ly tán, xa chồng. Bởi vậy, lời nói ngây thơ của bé Đản vô tình trở thành chất xúc tác tạo nên nút thắt và sự hiểu nhầm của Trương Sinh sau những tháng ngày xa cách vợ con. Có thể nói, sống trong xã hội phong kiến bất công, Vũ Nương phải tìm đến cái chết để giải nỗi oan ức là bi kịch không lối thoát. Qua đó, chúng ta có thể thấy được niềm thương cảm của tác giả Nguyễn Dữ với số phận oan nghiệt của người phụ nữ.


Như vậy, qua cái chết đầy bi kịch của nhân vật Vũ Nương, chúng ta có thể thấy được số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến bất công dưới ảnh hưởng của hệ tư tưởng nam quyền. Chi tiết về cái chết của nàng đã tạo nên giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 1
(có 0 lượt vote)

Bài văn suy nghĩ về cái chết của nhân vật Vũ Nương - mẫu 2

“Truyền kỳ mạn lục” là tập sách ghi chép những câu chuyện kỳ lạ trong dân gian. Những mục đích cốt lõi của nó nhằm phản ánh bản chất của xã hội phong kiến đương thời. Qua các thiên truyện, Nguyễn Dữ đã bộc lộ tâm tư, thể hiện hoài bão, phát biểu nhận thức, bày tỏ quan điểm về nhiều vấn đề trong xã hội với thái độ nghiêm khắc, khách quan.


Nổi bật trong hai mươi thiên truyện ấy, “Chuyện người con gái Nam Xương” là có giá trị hơn cả. Chỉ vì nỗi hoài nghi vô cớ mà Trương Sinh đã khiến cho Vũ Nương phải tìm đến cái chết để chứng minh mình trong sạch. Mối oan tình của nàng mãi về sau mới được minh giải. Trương Sinh nhận ra lỗi lầm, chàng vô cùng hối hận nhưng đã muộn màng.


Câu chuyện diễn biến khá đơn giản. Cốt truyện không có gì mới so với những câu chuyện đương thời. Nhưng ở đây, Nguyễn Dữ đã chú trọng đến việc xây dựng hình tượng nhân vật người phụ nữ khá toàn vẹn. Bút pháp tự sự cũng có nhiều chuyển biến rõ rệt. Tác phẩm kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình những phương thức tự sự, trữ tình và cả kịch. Đó còn là sự hòa quyện giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca. Lời văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động.


Tất cả những dụng công sâu sắc ấy chỉ nhằm lý giải những vấn đề liên quan đến cái chết của nhân vật Vũ Nương mà thôi. Nguyễn Dữ đã rất công phu dồn nén trong hình tượng nhân vật ấy nhiều ý nghĩa, nhiều vấn đề của thời đại mà ông vốn rất quan tâm. Từ đó, cũng như các nhà nhân đạo khác, ông cố công tìm kiếm một lối thoát, một lời giải đáp cho số phận của người phụ nữ.


Nguyễn Dữ đã vận dụng cả tư tưởng Nho giáo lẫn tư tưởng phật giáo để giải quyết vấn đề. Ông cũng tìm đến cách giải quyết của dân gian. Nhưng qua cái chết của Vũ Nương người đọc nhận thấy, nhà văn đã bất lực trước diễn biến phức tạp của hiện thực. Không còn cách nào khác, ông đành xác nhận nó một cách đớn đau, bế tắc.


Để cho Vũ Nương tìm đến cái chết là tìm đến giải pháp tiêu cực nhất. Nhưng dường như đó là cách thoát khỏi tình cảnh duy nhất của nàng. Đó cũng là cách duy nhất của nhà văn có thể lựa chọn. Hành động trẫm mình tự vẫn của nàng là hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự. Bởi đối với nàng, phẩm giá còn cao hơn cả sự sống.


Một phụ nữ xinh đẹp, nết na, hiền đức như thế ấy. Một người vợ thủy chung son sắt như thế ấy. Một người con dâu hiếu thảo hiếm có ở trên đời. Thế mà nàng bị chồng nghi oan bởi một câu chuyện không đâu ở một lời con trẻ. Một câu nói vui đùa lúc trống vắng của mẹ với con mà lại trở thành mầm mống của tai họa. Thái độ khinh bỉ, lời nói nhục mạ và hành động tàn bạo của Trương Sinh khiến nàng phải tìm đến cái chết. Dưới lòng sông thăm thẳm, ai oán, nàng cũng không thể ngờ được rằng chính tình yêu con tha thiết lại nguyên cớ làm hại chết nàng.


Câu chuyện bắt đầu từ một bi kịch gia đình. Đó là một chuyện trong nhà, một vụ ghen tuông thường thấy. Vũ Nương là người hiền đức, tâm hồn vốn rất đơn giản và chân thành. Chưa bao giờ nàng hoài nghi hay nghĩ xấu về người khác. Thế nhưng, số mệnh xui khiến nàng lấy phải người chồng cả ghen. Nguyên nhân trực tiếp dẫn nàng tới cái chết bi thảm là “máu ghen” của người chồng nông nổi. Không phải chỉ là cái bóng trên tường mà chính là cái bóng đen trong tâm hồn Trương Sinh đã giết chết Vũ Nương.


Câu chuyện đau lòng vượt ra ngoài khuôn khổ của một gia đình. Nó buộc chúng ta phải suy nghĩ tới số phận mong manh của con người trong một xã hội mà những oan khuất, bất công, tai họa có thể xảy ra bất cứ lúc nào đối với họ. Những nguyên nhân dẫn đến nhiều khi không thể lường trước được.


Đó là xã hội phong kiến Nam quyền bất công và tàn bạo ở nước ta. Cái xã hội đã sản sinh ra những chàng Trương Sinh. Cái xã hội tồn tại quá nhiều những người đàn ông mang nặng tư tưởng nam quyền, độc đoán. Họ đã nhẫn tâm chà đạp lên quyền sống của người phụ nữ. Hậu quả là cái chết thảm thương của Vũ Nương. Ngoài Vũ Nương, trong cái xã hội đen tối ấy biết bao nhiêu người phụ nữ nhỏ bé cũng có cùng số phận như nàng.


Chiến tranh phong kiến cũng là một nguyên nhân dẫn đến bi kịch của Vũ Nương. Nó gây nên cảnh sinh li, rồi góp phần dẫn đến cảnh tử biệt. Lúc ở nhà, Trương sinh vốn đã thiếu lòng tin tưởng ở vợ. Khi nơi biên ải, ngăn mặt cách lòng, tính ghen ấy càng thêm dữ dội. Đâu chỉ vì lời nói ngây thơ, mơ hồ, của con trẻ. Chính vì cái ngây thơ và mơ hồ của Trương Sinh đã khiến chàng hành động mù quáng đấy thôi. Tác phẩm thấm nhuần tư tưởng nhân đạo cao cả. Áng văn là mẫu mực của tiếng nói trân trọng và bênh vực con người của nền văn học trung đại. Đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội phong kiến.


Cái chết của nhân vật Vũ Nương là lời tố cáo xã hội phong kiến đã dung túng cho cái ác xấu xa, tàn bạo. Đồng thời, qua hình tượng nhân vật, nhà văn bày tỏ niềm thông cảm sâu sắc đối với số phận người phụ nữ. Những con người nhỏ bé, yếu đuối trong xã hội phong kiến đương thời. Số phận của Vũ Nương đâu của chỉ riêng Vũ Nương. Nỗi đau số phận của Vũ Nương cũng chính là hình ảnh cuộc sống của người phụ nữ xưa.


Bi kịch của Vũ Nương đem đến bài học thấm thía về việc giữ gìn hạnh phúc gia đình. Nó là lời cảnh tỉnh đối với người phụ nữ khi gia đình xảy ra mâu thuẫn. Dù có chuyện gì xảy ra cũng phải bình tĩnh, kiên nhẫn và nhìn nhận vấn đề theo chiều hướng tích cực. Đã có nhiều gợi mở để tránh cái chết cho Vũ Nương. Thế nhưng, vì lòng tự trọng, nàng đã không hề nhìn thấy. Tác phẩm thể hiện sâu sắc tiếng nói trân trọng, cảm thông, thấu hiểu của tác giả với người phụ nữ trong xã hội phong kiến.


Ngoài việc chú trọng xây dựng nội dung hoàn chỉnh và sâu sắc, chuyện cũng đã đạt được sự tiến bộ trong nghệ thuật tự sự. Trước hết là thành công trong nghệ thuật xây dựng chi tiết có ý nghĩa trong tác phẩm, tạo tình huống có vấn đề. Chỉ bằng một vài sự kiện, Nguyễn Dữ đã có thể tạo được kịch tính. Và cũng chỉ bằng một vài sự kiện, ông có thể đẩy mâu thuẫn kịch lên đến đỉnh điểm. Cái tài của nhà văn là không nói nhiều. Ông cố lược bỏ hết mọi yếu tố dư thừa, rườm rà, để hình tượng nhân vật được sáng rõ.


Tác phẩm kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình những phương thức tự sự, trữ tình và cả kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca. Lời văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động. “Truyền kỳ mạn lục” là mẫu mực của thể truyền kỳ, là “thiên cổ kỳ bút”, là “áng văn hay của bậc đại gia”, tiêu biểu cho những thành tựu của văn học hình tượng viết bằng chữ Hán dưới ảnh hưởng của sáng tác dân gian.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 2
(có 0 lượt vote)

Bài văn suy nghĩ về cái chết của nhân vật Vũ Nương - mẫu 3

Đọc “Chuyện người con gái Nam Xương”, chắc hẳn người đọc sẽ cảm thấy ám ảnh với cái chết của nàng Vũ Nương.


Truyện kể rằng, Vũ Thị Thiết là một phụ nữ đức hạnh ở Nam Xương. Chồng là Trương Sinh, người nhà giàu nhưng không có học, tính lại đa nghi. Triều đình bắt lính, Trương Sinh phải tòng quân trong khi vợ đang mang thai. Chồng đi xa mới được mười ngày thì nàng sinh con trai đặt tên là Đản. Năm sau, giặc tan, việc quân kết thúc, Trương Sinh trở về thì con đã biết nói, những đứa trẻ nhất định không nhận Trương Sinh làm bố. Nó nói: “Ơ hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ thin thít. Trước đây thường có một ông đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Tính Trương Sinh hay ghen, nghe con nói vậy đinh ninh rằng vợ hư, đã vu oan cho Vũ Nương, ruồng rẫy và đánh đuổi nàng đi. Vũ Nương bị oan ức đã nhảy xuống sông tự vẫn.


Đọc kĩ tác phẩm, em thấy truyện không phải không hé mở khả năng có thể dễ dàng tránh được thảm kịch đau thương đó. Tài kể chuyện của tác giả là ở chỗ đó, cởi ra rồi lại thắt vào đẩy câu chuyện đi tới, khiến người đọc hứng thú theo dõi và suy nghĩ, chủ đề của tác phẩm từng bước nổi lên theo dòng kể của câu chuyện. Lời con trẻ nghe như thật mà chứa đựng không ít điều vô lý không thể tin ngay được, nếu Trương Sinh biết suy nghĩ, người cha gì mà lạ vậy: “không biết nói, chỉ nín thin thít” chẳng bao giờ bế con mình, mà hệt như “cái máy” - “mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi”. Câu nói đó của đứa trẻ chẳng phải là một câu đố, giảng giải được thì cái chết của Vũ Nương sẽ không xảy ra. Nhưng Trương Sinh cả ghen, ít học, thiếu suy nghĩ, đã vô tình bỏ dở khả năng giải quyết tấm thảm kịch, dẫn tới cái chết oan uổng của người vợ mà chàng không phải không có tình yêu thương. Tất nhiên sự đời có thế mới thành chuyện, vả lại trên đời làm gì có sự ghen tuông sáng suốt.


Bi kịch có thể tránh được khi vợ hỏi chuyện kia ai nói, chỉ cần Trương Sinh kể lại lời con nói mọi chuyện sẽ rõ ràng. Vũ Nương sẽ chứng minh cho chồng rõ ở một mình nàng hay đùa với con trỏ vào bóng mình và nói là cha Đản. Mãi sau này, một đêm phòng không vắng vẻ, ngồi buồn dưới bóng đèn khuya, chợt người con chỉ vào bóng mình trên vách mà bảo đó là cha nó, Trương Sinh mới tỉnh ngộ, thấu hiểu nỗi oan của vợ thì mọi chuyện đã xong. Vũ Nương không còn nữa trên đời. Câu chuyện bắt đầu từ một bi kịch gia đình, một chuyện trong nhà, một vụ ghen tuông. Không ít tác phẩm xưa nay đã viết về cái chuyện thường tình đầy tai họa này. Vũ Nương không may lấy phải người chồng cả ghen, nguyên nhân trực tiếp dẫn nàng đến cái chết bi thảm là “máu ghen” của người chồng nông nổi. Nhưng sự thực vẫn là sự thực! Cái chết oan uổng quá đến từ người chồng độc đoán.


Một phụ nữ đức hạnh, tâm hồn như ngọc sáng mà bị nghi oan bởi một chuyện không đâu ở một lời con trẻ, một câu nói đùa của mẹ với con mà phải tìm đến cái chết bi thảm, ai oán trong lòng sông thăm thẳm. Câu chuyện đau lòng vượt ra ngoài khuôn khổ của một gia đình, nó buộc chúng ta phải suy nghĩ tới số phận mong manh của con người trong một xã hội mà những oan khuất, bất công, tai hoạ có thể xảy ra bất cứ lúc nào đối với họ bởi những nguyên nhân nhiều khi rất lạ lùng không thể lường trước được. Đó chính là hiện thực xã hội phong kiến ở nước ta, nhất là ở thời nó đã suy vong. Xã hội đó đã sinh ra những chàng Trương Sinh, những người đàn ông đặc đầu óc “Nam quyền” chà đạp lên quyền sống của người phụ nữ. Tính ghen tuông của cá nhân cộng với tư tưởng “nam quyền” trong xã hội đã làm nên một Trương Sinh độc đoán đến kỳ cục, khư khư theo ý riêng, nhất thiết không nghe ý kiến của người khác. Đứa trẻ nói thì tin ngay, còn vợ than khóc giãi bày thống thiết thì nhất định không tin, họ hàng, làng xóm phân giải công minh cũng chẳng ăn thua gì. Hậu quả là cái chết thảm thương của Vũ Nương mà nguyên nhân sâu xa là chế độ phong kiến bất công cùng chế độ “nam quyền” bất bình đẳng của nó đã gây ra bao nhiêu tai hoạ cho người phụ nữ nói riêng và con người thời đó nói chung.


Như vậy, có thể thấy cái chết của Vũ Nương chứa đựng nhiều ý nghĩa thật sâu sắc.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 3
(có 0 lượt vote)

Bài văn suy nghĩ về cái chết của nhân vật Vũ Nương - mẫu 4

Vũ Nương - nhân vật chính trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của nhà văn Nguyễn Dữ. Một người phụ nữ vốn thùy mị nết na lại có tư dung tốt đẹp. Nhưng cuộc đời lại vô cùng bất hạnh để rồi phải tìm đến cái chết. Việc tác giả để cho nhân vật của mình lựa chọn tìm đến cái chết có nhiều ý nghĩa.


Vũ Thị Thiết hay Vũ Nương, là người con gái quê ở Nam Xương, tính tình thùy mị nết na, tư dung tốt đẹp nên được Trương Sinh đem lòng yêu mến liền xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về làm vợ. Biết chồng có tính đa nghi nên, Vũ Nương hết mực giữ gìn khuôn phép để tránh khỏi cảnh gia đình thất hòa. Khi đất nước có chiến tranh, Trương Sinh con nhà hào phú nhưng ít học nên phải đi lính. Vũ Nương ở nhà sinh con, nuôi dạy con và chăm sóc mẹ già hết lòng. Nàng đã giữ tròn bổn phận của một người con dâu, một người vợ. Ngay cả khi mẹ chồng mất, nàng cũng lo ma chay chu toàn như chính mẹ ruột. Khi Trương Sinh trở về, bế con ra mộ thăm mẹ. Nghe lời con thơ, Trương nghi cho vợ mình thất tiết. Vũ Nương chịu oan khuất vẫn hết lời giải thích. Cuối cùng, nàng biết không thể rửa sạch liền nhảy xuống sông tự vẫn để chứng minh cho tấm lòng trong trắng, thủy chung của mình.


Nguyên nhân nào đã dẫn đến cái chết của Vũ Nương? Có lẽ đầu tiên phải kể đến Trương Sinh - một người chồng đa nghi, hay ghen và luôn phòng ngừa vợ quá mức. Nghe lời đứa con ngây thơ: “Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ nín thin thít”; “Khi ông chưa về đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến. Mẹ đi cũng đi, mẹ ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả” đã vội cho rằng vợ mình thất tiết. Sự ghen tuông mù quáng đã khiến Trương Sinh không chịu nghe lời giải thích của vợ, thậm chí còn đánh đập chửi rủa nàng. Điều đó khiến Vũ Nương hết sức đau đớn.


Không dừng lại ở đó, cần phải hiểu rằng Trương Sinh chính là đại diện của xã hội Nam quyền lúc bấy giờ. Chính xã hội phong kiến đương thời với những bất công đã đầy người phụ nữ vào cuộc đời bất hạnh. Họ phải phụ thuộc vào người đàn ông: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Người phụ nữ không được quyết định số phận của bản thân. Hôn nhân phải chịu sự sắp đặt của cha mẹ. Khi về nhà chồng cũng chỉ biết sống nhẫn nhục, chịu đựng. Bất hạnh có thể đến với họ bất cứ lúc nào mà không thể phản kháng lại.


Đồng thời, chiến tranh phi nghĩa cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến cái chết của Vũ Nương. Chiến tranh đã chia cắt hạnh phúc gia đình. Người phụ nữ luôn khao khát có một cuộc sống bình yên, hạnh phúc và khao khát được yêu thương. Nhưng chiến tranh đã cướp đi mong muốn đơn giản đó. Trương Sinh đi ra chiến trường là phải đối mặt với nguy hiểm, cái chết và sự chia ly. Nếu như không có cuộc chiến tranh ấy, có lẽ Trương Sinh và Vũ Nương vẫn sẽ sống hạnh phúc.


Sự chia cắt trong chiến tranh đã thúc đẩy tình tiết câu chuyện. Khi đứa con của cả hai sinh ra, thiếu thốn tình yêu thương của người cha. Vũ Nương vì thương con mà chỉ vào cái bóng nói đấy là cha Đản. Đứa trẻ ngây thơ tin lời mẹ. Chi tiết “cái bóng” là biểu hiện tình yêu thương của Vũ Nương. Nhưng cũng là nguyên nhân dẫn đến bi kịch của nàng sau này: “Đoạn rồi nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng: "Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mỹ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, chẳng những là chịu khắp mọi người phỉ nhổ. Nói xong gieo mình xuống sông mà chết...”


Như vậy, bi kịch của Vũ Nương đã vượt qua giới hạn của một cá nhân. Mà đó là bi kịch chung của người phụ nữ trong xã hội xưa. Cái chết của Vũ Nương cũng là kết cục tất yếu cho những bi kịch ấy.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 4
(có 0 lượt vote)

Bài văn suy nghĩ về cái chết của nhân vật Vũ Nương - mẫu 5

“Truyền kì mạn lục” là một trong những tác phẩm nổi tiếng của nền văn học Trung đại Việt Nam. Trong đó “Chuyện người con gái Nam Xương” là truyện tiêu biểu nhất. Khi đọc truyện này, chắc hẳn mỗi người đều cảm thấy ám ảnh bởi cái chết của Vũ Nương.


Vũ Nương - người con gái quê ở Nam Xương, không chỉ xinh đẹp mà còn có tư dung tốt đẹp. Trương Sinh - một chàng trai trong làng có gia thế giàu có đem lòng yêu mến, xin với mẹ đem sính lễ hỏi cưới nàng làm vợ. Biết chồng là người có tính đa nghi nên Vũ Nương hết mực giữ gìn khuôn phép. Chính vì vậy mà gia đình vẫn luôn hòa thuận. Bấy giờ, khi đất nước có chiến tranh, Trương Sinh phải lên đường đi lính. Vũ Nương ở nhà vừa chăm sóc mẹ già vừa nuôi dạy con cái. Nàng còn hết lòng lo ma chay chu đáo khi mẹ chồng mất. Khi Trương Sinh trở về, bế con ra mộ thăm mẹ, nghe những lời của đứa con thơ liền cho rằng vợ mình không chung thủy. Dù nàng cảm thấy vô cùng đau khổ nhưng vẫn hết lời giải thích. Nhưng Trương Sinh vẫn bỏ ngoài tai tất cả, nhẫn tâm chửi mắng đánh đập vợ mình. Vũ Nương chịu oan khuất biết không thể rửa sạch liền nhảy xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Trước khi chết nàng “tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng:


- Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mỹ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, chẳng những là chịu khắp mọi người phỉ nhổ.


Nói xong gieo mình xuống sông mà chết...”. Nàng lựa chọn cái chết để tự chứng minh tấm lòng trong sạch của bản thân. Tấm lòng thủy chung, trong trắng đã được thần linh nghe thấu. Một đêm nọ, Trương Sinh bế con ngồi trong căn phòng vắng thì bỗng đứa bé reo lên: “Cha Đản lại đến rồi”. Hỏi rõ thì mới biết, khi con hỏi, Vũ Nương hay chỉ vào cái bóng của mình và bảo đó là cha Đản. Trương Sinh nhận ra vợ mình bị oan thì vô cùng hối hận. Cùng làng có người tên là Phan Lan vì cứu Linh Phi trước đó nên khi gặp nạn chết đuối đã được Linh Phi cứu sống, tình cờ gặp Vũ Nương ở thủy cung. Được Vũ Nương nhờ vả, sau khi trở về, Phan Lang đưa chiếc hòa vàng và chuyển lời của nàng cho Trương Sinh. Chàng liền lập đàn giải oan suốt ba ngày đêm cho vợ, Vũ Nương liền hiện về trong làn khói mờ ảo.


Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến cái chết của nàng Vũ Nương. Mà nguyên nhân trực tiếp là do Trương Sinh. Trương vốn là một người đa nghi, hay ghen và luôn phòng ngừa vợ quá mức. Chỉ mới nghe lời đứa con ngây thơ: “Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ nín thin thít”; “Khi ông chưa về đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến. Mẹ đi cũng đi, mẹ ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả” mà chưa hỏi rõ câu chuyện đã cho vợ thất tiết. Ngay cả sau đó, Trương cũng không thèm nghe lời giải thích của vợ, của hàng xóm đã chửi mắng đánh đập và đuổi Vũ Nương đi.


Trương Sinh ở đây là đại diện cho xã hội Nam quyền: độc đoán, gia trưởng. Người đàn ông theo tư tưởng Nho giáo là người làm chủ gia đình. Còn người phụ nữ đều phải phụ thuộc vào họ: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Phụ nữ không có tiếng nói trong xã hội, không được quyết định số phận của bản thân. Hôn nhân đều do cha mẹ sắp đặt, không có tình yêu. Bi kịch của Vũ Nương cũng xuất phát từ việc nàng luôn khao khát yêu thương, hạnh phúc từ một cuộc hôn nhân không tình yêu: “Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất, có sự yên ổn được tựa bóng cây cao”.


Ngoài ra, cuộc chiến tranh phi nghĩa cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến cái chết của Vũ Nương. Chiến tranh đã chia cắt hạnh phúc gia đình. Người phụ nữ luôn khao khát có một cuộc sống bình yên, hạnh phúc và khao khát được yêu thương. Nhưng chiến tranh đã cướp đi mong muốn đơn giản đó. Trương Sinh đi ra chiến trường là phải đối mặt với nguy hiểm, cái chết và sự chia ly. Nếu như không có cuộc chiến tranh ấy, có lẽ Trương Sinh và Vũ Nương không bị chia cắt. Đứa con cũng không cần đến người cha “cái bóng” - nguyên nhân của sự hiểu nhầm dẫn đến chuỗi bi kịch về sau.


Cái chết của Vũ Nương - như một điều tất yếu, chỉ có chết đi mới chứng minh được sự trong sạch của bản thân. Cái chết còn thể hiện một cuộc đời đau thương, bất hạnh của nhân vật Vũ Nương. Đây không chỉ là bi kịch triêng của nàng mà còn là bi kịch chung của những người phụ nữ trong xã hội xưa.


Tóm lại, qua phân tích trên, có thể thấy cái chết của Vũ Nương mang đến cho người đọc nhiều suy nghĩ. Từ đó, có những cảm nhận đúng đắn về ý nghĩa của câu chuyện này.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 5
(có 0 lượt vote)

Bài văn suy nghĩ về cái chết của nhân vật Vũ Nương - mẫu 6

Tác giả Nguyễn Dữ là người sống vào khoảng thế kỉ XVI, huyện Thanh Miện, Hải Dương. Vào thời kỳ ông sống, triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng suy thoái, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực gây ra liên tiếp các cuộc nội chiến kéo dài. Đồng thời, ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bản thân ông cũng là người học rộng, tài cao nhưng giống như nhiều trí thức đương thời nhưng ông chỉ làm quan một năm rồi xin về quê ẩn dật. Một trong những tác phẩm nối tiếng nhất của Nguyễn Dữ đó là "Truyền kì mạn lục" (Ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền).


Tác phẩm này của Nguyễn Dữ sử dụng nhiều yếu tố kỳ ảo để thể hiện được tinh thần nhân đạo của ông đối với những người phụ nữ trong thời xưa. Tác phẩm gồm 20 truyện, "Chuyện người con Nam Xương" là 1 trong 20 truyện đó. Văn bản đã thể hiện được tinh thần nhân đạo của Nguyễn Dữ đối với số phận của những người phụ nữ trong thời kỳ xã hội phong kiến, qua nhân vật Vũ Nương. Trong văn bản, một trong những chi tiết gây đau lòng nhất đối với bạn đọc đó là cái chết oan uổng của nàng Vũ Nương.


Người đọc có thể thấy được cái chết của nàng Vũ Nương đến từ nhiều nguyên nhân, cả nguyên nhân gián tiếp và nguyên nhân trực tiếp. Nguyên nhân trực tiếp đó là chồng của Vũ Nương: Trương Sinh là kẻ hay ghen tuông, lại còn ít học. Chỉ vì một lời nói vô cùng mờ ám của đứa con mà trở về nhà, nhất định nghi cho vợ là thất tiết. Hơn nữa,Trương Sinh cũng chẳng thèm nghe nàng giải thích, cũng chẳng nói với nàng là tin đồn ấy ở đâu ra mà chỉ một mực mắng nhiếc và đuổi nàng đi. Trong xã hội xưa, việc người phụ nữ bị nghi ngờ là thất tiết chính là điều đáng sỉ nhục nhất thế gian vì họ bị trói buộc bởi Tam Tòng, Tứ Đức.


Chính vì vậy, lời thề nguyền bên bến Hoàng Giang và hành động gieo mình tự vẫn chính là cách mà nàng có thể làm duy nhất khi người chồng ghen tuông của mình đuổi nàng đi.Mặt khác, nguyên nhân gián tiếp dẫn đến cái chết oan uổng thương tâm của nàng đó chính là việc chiến tranh phi nghĩa nổ ra khiến cho vợ chồng nàng xa cách, dẫn đến hiểu lầm. Nếu như Trương Sinh không đi lính thì nàng đã không phải chỉ bóng mình trên vách bảo con là cha Đản. Lời nói mờ ám hết sức của Đản (đó là mẹ Đản đi cũng đi, ngồi cũng ngồi cho thấy sự thân thiết, gắn bó và việc không bao giờ bế Đản cho thấy sự khác máu tanh lòng) đã châm ngòi lửa ghen tuông trong lòng Trương Sinh cùng với bao năm xa cách khiến cho nàng chẳng thể giãi bày.


Cái chết của Vũ Nương cũng có nhiều ý nghĩa. Đầu tiên, cái chết ấy phản ánh hiện thực khổ đau của những người phụ nữ thời xã hội phong kiến. Họ bị bó buộc bởi tam tòng tứ đức, phải sống phụ thuộc, hy sinh hạnh phúc của mình cho chồng cho con.Khi chết rồi thì họ mới được hạnh phúc. Thứ hai, cái chết ấy cũng thể hiện sự tàn nhẫn của xã hội xưa, định kiến xã hội luôn dồn ép người phụ nữ đến đường cùng. Cái chết ấy cũng như để thanh minh cho nàng vì sau khi chết thì Vũ Nương hóa thành tiên nữ. Nguyễn Dữ đã hướng ngòi bút của mình đến những số phận khổ đau trong xã hội xưa bằng tất cả tấm lòng nhân đạo của ông.


Tóm lại, cái chết của nhân vật Vũ Nương cho người đọc thấy được số phận khổ đau của những người phụ nữ xưa. Đồng thời ta cũng thấy được hiện thực tàn khốc của xã hội phong kiến, tước đoạt đi quyền được sống và hạnh phúc của họ.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 6
(có 0 lượt vote)

Bài văn suy nghĩ về cái chết của nhân vật Vũ Nương - mẫu 7

Truyền kỳ mạn lục là tập sách ghi chép những câu chuyện kỳ lạ trong dân gian. Nhưng mục đích cốt lõi của nó nhằm phản ánh bản chất của xã hội phong kiến đương thời. Qua các thiên truyện, Nguyễn Dữ đã bộc lộ tâm tư, thể hiện hoài bão, phát biểu nhận thức, bày tỏ quan điểm về nhiều vấn đề trong xã hội với thái độ nghiêm khắc, khách quan. Nổi bậc trong 20 thiên truyện ấy, “Chuyện người con gái Nam Xương” là có giá trị hơn cả. Chỉ vì nỗi hoài nghi vô cớ mà Trương Sinh đã khiến cho Vũ Nương phải tìm đến cái chết để chứng minh mình trong sạch. Mối oan tình của nàng mãi về sau mới được minh giải. Trương Sinh nhận ra lỗi lầm, chàng vô cùng hối hận nhưng đã muộn màng.


Câu chuyện diễn biến khá đơn giản. Cốt truyện không có gì mới so với những câu chuyện dân gian đương thời. Nhưng ở đây, Nguyễn Dữ đã chú trọng đến việc xây dựng hình tượng nhân vật người phụ nữ khá toàn vẹn. Bút pháp tự sự cũng có nhiều chuyển biến rõ rệt. Tác phẩm kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình những phương thức tự sự, trữ tình và cả kịch. Đó còn là sự hòa quyện giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca. Lời văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động. Tất cả những dụng công sâu sắc ấy chỉ nhằm lí giải những vấn đề liên quan đến cái chết của nhân vật Vũ Nương mà thôi. Nguyễn Dữ đã rất công phu dồn nén trong hình tượng nhân vật ấy nhiều ý nghĩa, nhiều vấn đề của thời đại mà ông vốn rất quan tâm. Từ đó, cũng như các nhà nhân đạo khác, ông cố công tìm kiếm một lối thoát, một lời giải đáp cho số phận của người phụ nữ.


Nguyễn Dữ đã vận dụng cả tư tưởng Nho Giáo lẫn tư tưởng phật giáo để giải quyết vấn đề. Ông cũng tìm đến cách giải quyết của dân gian. Nhưng qua cái chết của Vũ Nương người đọc nhận thấy, nhà văn đã bất lực trước diễn biến phức tạp của hiện thực. Không còn cách nào khác, ông đành xác nhận nó một cách đớn đau, bế tắc. Để cho Vũ Nương tìm đến cái chết là tìm đến giải pháp tiêu cực nhất. Nhưng dường như đó là cách thoát khỏi tình cảnh duy nhất của nàng. Đó cũng là cách duy nhất của nhà văn có thể lựa chọn. Hành động trẫm mình tự vẫn của nàng là hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự. Bởi đối với nàng, phẩm giá còn cao hơn cả sự sống.


Một phụ nữ xinh đẹp, nết na, hiền đức như thế ấy; một người vợ thủy chung son sắt như thế ấy; một người con dâu hiếu thảo hiếm có ở trên đời, thế mà nàng bị chồng nghi oan bởi một câu chuyên không đâu ở một lời con trẻ. Một câu nói vui đùa lúc trống vắng của mẹ với con mà lại trở thành mầm mống của tai họa. Một cái bóng mơ hồ của trí tưởng tượng phong phú lại biến thành một “kẻ sát nhân”. Thái độ khinh bỉ, lời nói nhục mạ và hành động tàn bạo của Trương Sinh khiến nàng phải tìm đến cái chết. Dưới lòng sông thăm thẳm, ai oán, nàng cũng không thể ngờ được rằng chính tình yêu con tha thiết lại nguyên cớ làm hại chết nàng.


Câu chuyện bắt đầu từ một bi kịch gia đình. Đó là một chuyện trong nhà, một vụ ghen tuông thường thấy. Vũ Nương là người hiền đức, tâm hồn vốn rất đơn giản và chân thành. Chưa bao giờ nàng hoài nghi hay nghĩ xấu về người khác. Thế nhưng, số mệnh xui khiến nàng lấy phải người chồng cả ghen. Nguyên nhân trực tiếp dẫn nàng tới cái chết bi thảm của Vũ Nương là cái tính hay “ghen tuông mù quáng” của người chồng nông nổi. Không phải chỉ là cái bóng trên tường mà chính là cái bóng đen trong tâm hồn Trương Sinh đã giết chết Vũ Nương.


Câu chuyện đâu lòng vượt ra ngoài khuôn khổ của một gia đình. Nó buộc chúng ta phải suy nghĩ tới số phận mong manh của con người trong một xã hội mà những oan khuất, bất công, tai họa có thể xảy ra bất cứ lúc nào đối với họ. Nỗi oan của nhân vật có nhiều nguyên nhân và diễn tả rất sinh động như một màn kịch ngắn có tình huống, xung đột, thắt nút, mở nút. Cuộc hôn nhân của nhân vật và Trương Sinh có phần không bình đẳng. Vũ Nương con nhà nghèo khó còn Trương Sinh là con nhà hào phú, về gia thế vốn đã có nhiều chênh lệch. Bởi mến yêu dung hạnh của Vũ Nương, Trương Sinh xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Gia thế hơn hẳn, lại thêm ít học đã tạo thêm cái thế cho Trương Sinh càng thêm gia trưởng.


Bi kịch cuộc đời Vũ Nương còn xuất phát từ cái tính cách hay đa nghi, phòng ngừa quá sức với vợ của Trương Sinh. Thêm nữa tâm trạng Trương Sinh không vui khi trở về nhà do mẹ mất. Nỗi đau chồng chất nỗi đau khiến Trương Sinh trở nên hồ đồ mù quáng. Hoài nghi, thất vọng, khổ đau, tất cả đã tồn chứa trong lòng trương Sinh, cho đến khi, lời nói của đứa con ngây thơ, dù chưa rõ thực hư, cũng trở thành cái cớ để trương Sinh tệ bạc với người vợ thủy chung, tận tụy của mình.


Xã hội phong kiến nam quyền bất công và tàn bạo ở nước ta đã sản sinh ra những chàng Trương Sinh. Cái xã hội tồn tại quá nhiều những người đàn ông mang nặng tư tưởng nam quyền, độc đoán. Họ đã nhẫn tâm chà đạp lên quyền sống của người phụ nữ. Hậu quả là cái chết thảm thương của Vũ Nương. Ngoài Vũ Nương, trong cái xã hội đen tối ấy biết bao nhiêu người phụ nữ nhỏ bé cũng có cùng số phận như nàng.


Chiến tranh phong kiến cũng là một nguyên nhân dẫn đến bi kịch của Vũ Nương. Nó gây nên cảnh sinh li, rồi góp phần dẫn đến cảnh tử biệt. Lúc ở nhà, Trương sinh vốn đã thiếu lòng tin tương ở vợ. Khi nơi biên ải, ngăn mặt cách lòng, tính ghen ấy càng thêm dữ dội. Đâu chỉ vì lời nói ngây thơ, mơ hồ, của con trẻ. Chính vì cái ngây thơ và mơ hồ của Trương Sinh đã khiến chàng hành động mù quáng đấy thôi. Tác phẩm thấm nhuần tư tưởng nhân đạo cao cả. Áng văn là mẫu mực của tiếng nói trân trọng và bênh vực con người của nền văn học trung đại. Đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội phong kiến.


Cái chết của nhân vật Vũ Nương là lời tố cáo xã hội phong kiến đã dung túng cho cái ác xấu xa, tàn bạo. Đồng thời, qua hình tượng nhân vật, nhà văn bày tỏ niềm thông cảm sâu sắc đối với số phận người phụ nữ. Những con người nhỏ bé, yếu đuối trong xã hội phong kiến đương thời. Số phận của Vũ Nương đâu của chỉ riêng Vũ Nương. Nỗi đau số phận của Vũ Nương cũng chính là hình ảnh cuộc sống của người phụ nữ xưa.


Bi kịch của Vũ Nương đem đến bài học thấm thía về việc giữ gìn hạnh phúc gia đình. Nó là lời cảnh tỉnh đối với người phụ nữ khi gia đình xảy ra mâu thuẫn. Dù có chuyện gì xảy ra cũng phải bình tĩnh, kiên nhẫn và nhìn nhận vấn đề theo chiều hướng tích cực. Đã có nhiều gợi mở để tránh cái chết cho Vũ Nương. Thế nhưng, vì lòng tự trọng, nàng đã không hề nhìn thấy. Tác phẩm thể hiện sâu sắc tiếng nói trân trọng, cảm thông, thấu hiểu của tác giả với thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến Việt Nam lúc bấy giờ.


Ngoài việc chú trọng xây dựng nội dung hoàn chỉnh và sâu sắc, truyện cũng đã đạt được sự tiến bộ trong nghệ thuật tự sự. Trước hết là thành công trong nghệ thuật xây dựng chi tiết có ý nghĩa trong tác phẩm, tạo tình huống có vấn đề. Chỉ bằng một vài sự kiện, Nguyễn Dữ đã có thể tạo được kịch tính. Và cũng chỉ bàng một vài sự kiện, ông có thể đẩy mẫu thuẫn kịch lên đến đỉnh điểm. Cái tài của nhà văn là không nói nhiều. Ông cố lược bỏ hết mọi yếu tố dư thừa, rườm rà, để hình tượng nhân vật được sáng rõ.


Tác phẩm kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình những phương thức tự sự, trữ tình và cả kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca. Lời văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động. Truyền kỳ mạn lục là mẫu mực của thể truyền kỳ, là “thiên cổ kỳ bút“, là “áng văn hay của bậc đại gia”, tiêu biểu cho những thành tựu của văn học hình tượng viết bằng chữ Hán dưới ảnh hưởng của sáng tác dân gian.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 7
(có 0 lượt vote)

Bài văn suy nghĩ về cái chết của nhân vật Vũ Nương - mẫu 8

Chết là sự kết thúc của một cuộc đời đã trải qua bao thăng trầm sóng gió, kết thúc một sự sống đã bao lần bấp bênh. Nhưng đôi khi, cái chết lại chính là sự hồi sinh, là sự bắt đầu của một cuộc sống mới, một cuộc sống không còn khổ đau. Cái chết của người thiếu phụ trẻ trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ chính là một sự khởi đầu cho bao niềm hi vọng, niềm tin mới. Dù cái chết ấy đã mang bao đau thương và ai oán, nhưng với nàng, chỉ có cái chết mới có thể giúp nàng giải thoát được cuộc sống đầy bất hạnh nơi trần thế.


Nguyễn Dữ – một nhà văn giàu lòng thương xót đã xây dựng nên một nhân vật hoàn mỹ, đẹp cả người lẫn nết, nhưng éo le là nàng lại được đặt trong hoàn cảnh bất hạnh, hẩm hiu. Dù thùy mị nết na, dù đã sống hết lòng vì chồng vì con nhưng cuộc đời đầy trắc trở vẫn không buông tha cho nàng. Sau khi Trương Sinh – chồng nàng đi lính trở về, những tưởng vợ chồng sum họp sau bao lâu xa cách sẽ hạnh phúc mặn nồng. Nhưng tai họa đã ập xuống. Trương Sinh nghe theo lời con nhỏ kết án vợ hư hỏng, thất tiết. Dù Vũ Nương giải thích thế nào Trương Sinh cũng không nghe. Bất đắc dĩ, nàng phải tìm đến cái chết để minh chứng cho sự trong sạch của mình.


Vũ Nương chết, nhưng là chết cho tâm hồn thanh cao và tấm lòng chung thủy của mình được sống. Chết để không phải sống trong cảnh đa nghi, bị chồng sỉ nhục. Người mà nàng đã ngày đêm mong nhớ, gìn giữ tiết hạnh nhưng cuối cùng lại chính vì người ấy mà nàng phải ôm uất hận, tủi nhục tìm đến cái chết. Không có nỗi đau nào bằng nỗi đau bị chính người mà mình thương yêu hết lòng dồn đến bước đường cùng, người mà nàng tin rằng sẽ mang lại hạnh phúc cho mình thì nay lại đẩy nàng vào bế tắc, buộc nàng phải chết. Nhưng suy rộng hơn, trong một phần nào đó, Trương Sinh chính là sản phẩm của chế độ nam quyền trong xã hội phong kiến cũ. Ở xã hội ấy, người phụ nữ luôn luôn bì đàn áp, bị trà đạp, dường như họ chỉ như một thứ đồ dùng trong tay người đàn ông và không hề có quyền hành gì. Qua cái chết của Vũ Nương, ta càng thấu hiểu hơn sự bất công mà xã hội dành cho nàng. Đồng thời ta xót thương cho những con người cùng khổ giống như nàng, phải chịu cảnh áp bức đến cùng, đến ngay cả quyền sống và những khát khao hạnh phúc cũng có thể bị dập tắt bất cứ khi nào.


Như vậy, cái chết của Vũ Nương còn là lời tố cáo đanh thép đến xã hội phong kiến tàn ác, bất nhân, là mũi dao nhọn chĩa vào những người đàn ông, người chồng nhu nhược, nóng nảy và vô tâm như Trương Sinh. Đành rằng hắn là người đa nghi, đành rằng là người đàn ông nắm quyền trong gia đình theo đúng quan niệm của xã hội phong kiến, nhưng nếu hắn thực sự yêu thương vợ thì đã không có cảnh Vũ Nương phải khóc lóc bên bến Hoàng Giang rồi gieo mình tự vẫn trong tủi nhục. Lẽ ra, hắn phải hỏi vợ đầu đuôi sự việc, lắng nghe nàng giải thích, phân biệt đúng sai. Nhưng ngược lại, Trương Sinh đã một mực đánh đuổi vợ, xúc phạm người vợ đã hết lòng vì mình, vì con. Một người chồng như vậy thật đáng lên án và phê phán. Trong xã hội hiện nay cũng không ít những gia đình xảy ra cảnh bạo hành mang lại đau thương cho người phụ nữ. Cũng đã có nhiều người vợ phải ôm hận tìm đến cái chết như Vũ Nương. Một cái chết đầy oan nghiệt và thương tâm.


Nhưng để kết thúc có hậu và bày tỏ lòng thương xót trước người thiếu phụ trẻ thùy mị, nết na, Nguyễn Dữ đã sáng tạo nên những chi tiết ly kì, hấp dẫn. Sau khi gieo mình xuống sông Hoàng Giang, Vũ Nương được các nàng tiên cứu giúp và cho hưởng một cuộc sống mới nơi thủy cung. Nơi mà nàng sẽ chẳng bao giờ còn khổ đau nữa. Thay vào đó là sự yên bình, hạnh phúc. Đây mới chính là nơi để nàng thuộc về. Như vậy, cái chết của Vũ Nương đã trở thành sự hồi sinh, sự khởi đầu cho một cuộc sống mới, một cuộc sống không còn niềm đau và nước mắt. Ở nơi đây, nàng được tôn trọng, được quan tâm, được hưởng những điều xứng đáng nhất với đức hạnh khiết tịnh của mình.


Có ý kiến cho rằng, Vũ Nương có thể bỏ đi một nơi thật xa để bắt đầu lại một cuộc sống mới. Khi nào Trương Sinh hiểu ra mọi chuyện, nàng có thể trở về. Như vậy, nàng vừa không phải chết mà lại vẫn được sống và còn có cơ hội được đoàn tụ cùng gia đình. Nhưng tiếc rằng, trong xã hội phong kiến ấy, nàng là thân phận nữ nhi yếu đuối mỏng manh, lại không có chút quyền hành trong tay, nàng biết đi đâu về đâu khi mà đâu đâu cũng có chế độ nam quyền, đâu đâu cũng có những mối hiểm nguy rình rập mình. Hiểm nguy đơn giản là vì nàng là phụ nữ, mà phụ nữ thời ấy đâu có giá trị gì, đến cả quyền sống cũng bị đàn áp thì nàng đâu có thể tự do mà sống ở một nơi khác hoàn toàn xa lạ được. Đến cùng, chỉ có cái chết mới giúp nàng được giải thoát.


Một cái chết ẩn chứa bao ý nghĩa sâu xa. Thương cho số phận hẩm hiu của người con gái bạc mệnh, căm hờn phẫn uất trước kẻ làm chồng mà không thương vợ, không thấu hiểu vợ mình, nhưng phần lớn vẫn là tố cáo chế độ xã hội phong kiến cũ đã bất công với người phụ nữ. Đồng thời, ca ngợi đức hạnh và tấm lòng sắt son, chung thủy của Vũ Nương – một người vợ thùy mị nết na, chịu thương chịu khó. Chỉ tiếc rằng, nàng đã phải chịu cảnh oan ức, bi thương.


Nguyễn Dữ đã rất thành công khi xây dựng nên cái chết của Vũ Nương. Dù người đọc rất xót xa và thương cảm cho nàng, nhưng cũng vui vì sau cái chết ấy là sự giải thoát, sự hồi sinh một cuộc sống mới, một cuộc sống không bao giờ còn khổ đau nữa. Những người phụ nữ hiện đại ngày nay đã được tự do, được bình đẳng hãy nói theo tấm gương của nàng, sống đức hạnh và luôn giàu tình yêu thương. Cứ ở hiền ắt sẽ gặp lành, ngược lại, kẻ nhu nhược sẽ nhận lại kết quả tương xứng với những gì mình đã gây ra.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Hi vọng bài viết trên mang lại nhiều giá trị cho bạn. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài văn hay trên Alltop.vn

Hãy đăng nhập để bình luận

Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .