Top 10 Bài văn thuyết minh về hội thi thổi cơm (Ngữ văn 7 - SGK Kết nối tri thức) hay nhất
Mời các bạn tham khảo một số bài văn thuyết minh về hội thi thổi cơm (Ngữ văn 7 - SGK Kết nối tri thức) hay nhất mà Alltop.vn đã tổng hợp trong bài viết...xem thêm ...
Bài văn thuyết minh về hội thi thổi cơm - mẫu 1
Ở xã Đồng Tháp huyện Đan Phượng có làng Đồng Vân bên dòng sông Đáy. Nhân dân sinh sống bằng cấy lúa, trồng màu và có nghề đan lát rổ rá. Hằng năm, cứ đến ngày rằm tháng giêng, làng Đồng Vân thường mở hội rước nước, hát chèo và thổi cơm thi. Hội thổi cơm thi ở đây có nhiều nét độc đáo về quy trình lấy lửa cũng như cách nấu, đậm màu sắc hài hước dân gian.
Người dự thi được tuyển chọn từ các xóm trong làng. Bắt đầu vào hội thi, trống chiêng điểm ba hồi, các đội hình dự thì xếp hàng trang nghiêm làm lễ dâng hương trước cửa đình đề tưởng nhớ vị thành hoàng làng có công cứu dân, độ quốc. Hội thi bắt đầu bằng việc lấy lửa trên ngọn cây chuối cao. Khi tiếng trống hiệu vừa dứt, bốn thanh niên của bốn đội nhanh thoăn thoắt leo lên thân cây chuối rất trơn vì đã bôi mỡ. Có người leo lên, tụt xuống, lại leo lên,… Có người phải bỏ cuộc, người khác lại leo lên, quang cảnh hết sức vui nhộn. Khi lấy được nén hương mang xuống, ban tổ chức phát cho ba que diêm châm vào hương cháy thành ngọn lửa.
Người trong đội vót mảnh tre già thành những đũa bông châm lửa và đốt vào những ngọn đuốc. Trong khi đó, người trong nhóm dự thi nhanh tay giã thóc, giần sàng thành gạo, lấy nước và bắt đầu thổi cơm. Những nồi cơm nho nhỏ treo dưới những cành cong hình cánh cung được cắm rất khéo léo từ dây lưng uốn về trước mặt. Tay cầm cần, tay cầm đuốc đung đưa cho ánh lửa bập bùng. Các đội thổi cơm đan xen nhau uốn lượn trên sân đình trong sự cổ vũ nồng nhiệt của người xem hội.
Khoảng sau một giờ rưỡi, những nồi cơm lần lượt được đem trình trước cửa đình. Ban giám khảo mở nồi cơm chấm theo ba tiêu chuẩn: gạo trắng, cơm dẻo và không có cơm cháy. Các nồi cơm được đánh số ứng với người dự thi để giữ bí mật với ban giám khảo. Cuộc thi nào cũng hồi hộp và việc giật giải đã trở thành niềm tự hào khó có gì sánh nổi đối với dân làng.
Hội thổi cơm thi ở Đồng Vân là sinh hoạt văn hóa cổ truyền được bắt nguồn từ các cuộc trẩy quân đánh giặc của người Việt cổ bên dòng sông Đáy xưa. Hội thi là dịp trai tráng trong làng đua tài khỏe mạnh, thông minh khi lấy lửa, là dịp gái làng thể hiện bàn tay khéo léo để có cơm dẻo tiếp binh lương. Hội còn vang lên những trận cười hồn nhiên, sảng khoái của người nông dân sau những ngày lao động mệt nhọc. Với những nét đặc sắc của mình, hội thổi cơm thi Đồng Vân đã góp phần giữ gìn và phát huy những nét đẹp cổ truyền trong sinh hoạt văn hóa hiện đại hôm nay.
Bài văn thuyết minh về hội thi thổi cơm - mẫu 2
Hàng năm, cứ mùng 8 tháng Giêng Âm lịch, người dân làng Thị Cấm, xã Xuân Phương, huyện Từ Liêm, Hà Nội lại đổ về sân đình thi kéo lửa thổi cơm.
Tương truyền từ thời vua Hùng thứ 18, đôi vợ chồng tướng tiên phong là Phan Tây Nhạc và Hoa Dung trẩy quân qua làng đi dẹp giặc. Dân làng xin đi theo, tướng quân bèn mở cuộc thi thổi cơm để chọn người giỏi việc nuôi quân. Hội thổi cơm thi có 3 phần chính là thi kéo lửa, thi chạy lấy nước và thi thổi cơm, giã thóc thành gạo. Trước 11 giờ trưa, 4 đội thi phải hoàn tất những công việc chuẩn bị để bước vào cuộc tranh tài.
Phần thi kéo lửa là một trong những nội dung hấp dẫn nhất của hội thi. Mỗi đội cử ra 4 thanh niên khỏe mạnh. Dụng cụ bao gồm: Rơm nhóm lửa, đoạn tre đực già dùi sẵn những khe nhỏ và một que giang luồn vào khe đó đánh lửa.
Đúng 11 giờ trưa, trai làng cường tráng kéo lửa thi thổi cơm trong tiếng hò reo không ngớt của đông đảo bà con dân làng. Mồi lửa đầu tiên bén rơm cũng là lúc không khí trong sân đình làng náo nhiệt hơn bao giờ hết. Các đội mang lửa về bếp để chuẩn bị nấu cơm. Có lửa, nồi được bắc lên bếp để đun nước thật nhanh.
Mỗi đội có 10 thành viên, nhóm đun nước, nhóm giã gạo, các thao tác phải thật nhanh và vô cùng khéo léo. Gạo sau khi giã được chuyển sẩy, sàng, vo đãi sạch trong chớp mắt. Gạo đãi sạch, nước vừa kịp sôi, các thành viên trong đội mỗi người một việc, phối hợp nhịp nhàng. Từ khi có lửa đến lúc bỏ gạo vào nồi chỉ mất 10 phút. Để kéo dài thời gian cho cơm chín nục, người phụ trách nồi cơm đốt vun nhiều đống tro rơm buộc người chấm phải mất công tìm kiếm. Chỉ trong phút chốc, sân đình làng mịt mù khói trắng cay xè mắt.
Thời gian dành cho quá trình thi thổi cơm kéo dài khoảng gần một giờ đồng hồ. Sau đó các cụ trong Ban tổ chức sẽ gõ trống và đi tìm các nồi cơm trong các đống tro than rơm trên sân đình. Chính tay các cụ cao tuổi tự thu gom các nồi nấu cơm để mang vào đình chấm điểm. Cơm chín dẻo, thơm ngon, không khê, nát là đạt. Việc chấm điểm cũng chỉ là tượng trưng để khích lệ các đội thổi cơm sao cho thật khéo léo. Các cụ trong ban Khánh tiết sẽ dâng mâm cơm của 4 đội vào cửa Thánh và chấm điểm nồi cơm giành giải nhất.
Cơm đạt yêu cầu phải chín dẻo và trắng, không lẫn thóc, sạn, hạt cơm không bị sượng. Đầu xuân về làng Thị Cấm xem kéo lửa thổi cơm thi. Hàng năm, cứ mùng 8 tháng Giêng âm lịch, người dân làng Thị Cấm (phường Xuân Phương, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội) tưng bừng mở hội thi kéo lửa, thổi cơm.
Bài văn thuyết minh về hội thi thổi cơm - mẫu 3
Hàng năm, cứ đến mười rằm tháng Giêng, người dân làng Ngọc Tiên, xã Xuân Hồng (Xuân Trường) mở hội tưởng nhớ công đức Thành Hoàng làng là Hoàng Văn Quảng đã có công giúp dân làng dẹp giặc trấn biên. Hội làng ngoài phần chính lễ còn có tục thổi cơm thi, làm cỗ chay, trước là dâng cúng thánh thần tổ tiên, sau là ôn lại bước đường chinh chiến đầy gian khổ của thánh tổ và cha ông những ngày đầu dấy binh trấn ải.
Tích xưa để lại, làng Ngọc Tiên, xã Xuân Hồng (Xuân Trường) xưa là vùng bãi bồi ven biển thuộc trần Sơn Nam hạ. Vào thời Hậu Lê, triều đình cử một vị tướng tài là Hoàng Văn Quảng về chiêu mộ quân sĩ, giúp dân làng Ngọc Tiên dẹp giặc trấn biên, ổn định cuộc sống. Nhờ tài thao lược “Chiêu binh mãi mã, tích thảo dồn lương” của ông mà nhân dân ở đây được hưởng cuộc sống thái bình no đủ. Năm 1743, vua Lê Cảnh Hưng ban sắc cho ông là Thông huyền chế cảm Linh thánh Đại vương tiên hiệu Quảng. Tri ân công đức của ông, dân làng Ngọc Tiên tôn ông lên làm Thành Hoàng làng, lập đền thờ và lấy ngày mười rằm tháng Giêng làm ngày chính kỵ. Vào ngày này, dân làng gác lại mọi công việc đồng áng, tập trung ra đền làm lễ tế thánh. Con cháu sinh sống làm ăn xa quê đều sắp xếp công việc về với xóm, với làng. Tiếng chiêng, tiếng trống, cờ xí rợp trời, cộng đồng làng xã nhất tiên nhất đế cho ngày lễ trọng. Sau phần chính lễ, chính hội diễn ra với tâm điểm là tục thổi cơm thi, làm cỗ chay dâng thánh với ý nghĩa diễn lại cảnh sinh hoạt của nghĩa binh dưới thời Đức Thánh tổ dấy binh trấn ấp, thiếu thốn mọi bề, vừa hành quân, vừa lo hậu cần và phải “tích cốc phòng cơ” cho những khi thiếu đói. Chính vì vậy, tục thổi cơm thi trong hội làng Ngọc Tiên diễn ra theo một quy trình khép kín từ việc lấy nước, tạo lửa, đến thổi cơm làm bánh. Và đây cũng chính là nét độc đáo hấp dẫn làm nên đặc trưng của hội làng Ngọc Tiên so với các vùng quê khác.
Trước ngày vào đám, tất cả các giáp đều cử người lên đền mang dụng cụ thi đấu là bộ chõ đồ, nồi đồng điếu, quang gánh, cần trúc, bát đĩa…từ thời cổ xưa để lại ra lau chùi, sửa sang cho thật sạch sẽ, thanh tịnh. Bãi đất trước cửa đền được san phẳng, đường dong ngõ xóm dọn dẹp phong quang, chuẩn bị cho ngày chính hội. Tham dự hội làng có 6 giáp, được chia theo đơn vị xóm. Mỗi giáp phải có đủ 14 người đều là nam giới, tuổi từ 18 trở lên, có phẩm chất đạo đức tốt, khỏe mạnh, nhanh nhẹn, gia đình toàn vẹn, không vướng tang ma. Xưa kia, đỗ, gạo thổi cơm, đồ xôi, làm bánh phải được trồng riêng trên phần ruộng huệ điền. Quá trình trồng cấy, thu hoạch, bảo quản gạo, đỗ đều do tay các lão nông đảm nhận. Việc lấy nước, tạo lửa để nấu cơm cũng do nam giới làm. Phụ nữ không được phép tham gia vào bất cứ phần việc nào của phần chính lễ và chính hội.
Để bắt đầu phần thi thổi cơm và làm cỗ chay, các giáp phải trải qua hai phần thi địch thủy và địch hỏa. Chỉ khi có nước và có lửa, thổi cơm thi mới được bắt đầu. Ở phần thi địch thủy, mỗi giáp cử ra 2 người, tay cầm một chiếc nậm nhỏ, đồng loạt chạy ra bến Cựa gà, lội ra giữa dòng sông Ninh lấy cho đầy nậm nước mang về đổ vào nồi đáy của chõ đồ. Trong quá trình chạy rước nước, ngón tay cái của người rước nước phải bịt chặt miệng nậm để nước khỏi sánh ra ngoài. Ai mang nước về nhanh nhất, không làm vương vãi nước dọc đường là người thắng cuộc. Phần thi địch hỏa được coi là gay cấn, lôi cuốn sự chú ý và tạo tâm lý hồi hộp không chỉ đối với người dự thi, dân làng mà còn cả với khách thập phương tham dự. Bởi có đạt kết quả ở phần thi này mới được tiếp tục tham dự ở vòng kế tiếp. Hơn nữa, theo quan niệm của người phương Đông thì việc tạo lửa trong ngày đầu xuân là điềm lành, mang nhiều may mắn, thuận lợi. Do đó, thao tác nhanh, dứt khoát, tạo lửa khéo và đốt cờ hiệu chính xác là trách nhiệm của mỗi người dự thi đối với nội tộc và xóm làng. Mỗi giáp vào dự thi mang theo một bộ dụng cụ địch hỏa gồm một thanh cái đặt cố định dưới đất được làm bằng tre bánh tẻ, đường kính khoảng 4cm, đã tách rời làm đôi tạo kẽ hở cho mùn rơi xuống trong quá trình kéo lửa. Thanh tre khác dài, mỏng gọi là thanh con (hay thanh dao) được tạo bởi gốc cây tre già, dùng để cọ sát vào thanh cái.
Bí quyết chắc thắng trong phần thi này là dụng cụ địch lửa phải được làm từ cây tre chết bụi, lại phải gác gác bếp thêm 3 tháng nữa mới sử dụng được. Khi vào cuộc 12 người của 6 giáp xếp thành hàng ngang, tất cả nín thở, dùng 1 lực cọ sát 2 thanh tre vào nhau tạo ra một lớp mùn mịn. Mùn cưa vón cục, gặp ma sát lớn tạo thành lửa. Nhưng lúc này lửa chỉ là 1 đốm than hồng, người kéo lửa phải khéo hà hơi để lửa bén vào bùi nhùi rơm bùng lên thành ngọn lửa lớn. Lúc này, cả sân đền mới vỡ òa tiếng reo hò cổ vũ của dân làng và du khách tham dự. Khó khăn là vậy nhưng quy định cho phần thi này chỉ được thao tác trong vòng từ 20-25 giây. Vậy mà bằng sự nỗ lực của bản thân, sự cổ vũ nhiệt tình của bà con chòm xóm, đã có năm các chàng trai của làng Ngọc Tiên chỉ mất 12 giây để tạo ra lửa. Vận động viên địch lửa giơ cao ngọn lửa do mình tạo ra, đốt cờ lệnh báo hiệu phần thi của mình đã hoàn tất rồi cùng dân làng rước lửa về sân nấu cỗ, châm bếp bắt đầu phần thi làm bánh, thổi cơm trong tiếng hò reo cổ vũ tưng bừng. Ai đã từng tham dự hội làng Ngọc Tiên, mới thấy hết tài năng, sự khéo léo của người dân nơi đây. Người tham dự phần thi thổi cơm, phải phụ trách mọi công việc từ đeo cần trúc lên vai, cố định niêu cơm, giữ lửa cho cơm chín, vừa đi vừa nấu, theo sau là cả đoàn rước khua chiêng, gõ trống tưng bừng.
Để hoàn thành tốt phần thi này, người dân làng Ngọc Tiên đã chuẩn bị rất công phu từ chiếc cần trúc treo niêu cơm đến việc làm quen với cách ước lượng sao cho đủ nước, đủ lửa, cơm chín nục, dẻo thơm trong thời gian đi chọn 3 vòng rước quanh sân đền bất luận tiết trời đầu xuân có mưa bụi giăng mắc, có rét đài, rét lộc ghé qua. Cụ Nguyễn Minh Oanh thuộc vào lớp người xưa nay hiếm, đã tham gia hội làng từ khi còn trai trẻ, nay lại tham gia ban bảo vệ di tích cho biết: Chỉ tính riêng việc chuẩn bị cho chiếc cần trúc treo niêu cơm đã mất đẫy 3 năm. Người ta uốn cong ngọn măng trúc khi vừa mới vượt khỏi mặt đất thành hình chữ S, vào nuôi dưỡng thuần hóa đến khi đủ độ dẻo dai, bền chắc thì đẵn xuống. Lại cho cây trúc tắm qua khói lửa, bồ hóng thêm một thời gian nữa mới đem vào sử dụng. Khi vào cuộc, vòng cong lớn của cần trúc ép vào dọc sống lưng người chơi và cố định lại bằng một dải lụa điều. Phần cong nhỏ vắt qua vai để treo quang sắt, cố định chiếc nồi đồng điếu bên trong. Hai tay cầm 2 bó đuốc hơ đáy nồi cơm cho chín.
Người nấu cơm phải ước lượng nên gia lửa, hãm lửa lúc nào để cho cơm sôi bùng, hạt gạo ngậm no nước, chín đẫy hơi thì cơm mới nục. Đến khi cơm sôi, hai bó đuốc được dồn cả về một bên tay, tay còn lại cầm một chiếc móc vừa mở vung nồi, vừa quay đầu kia lại ghế cơm. Đây cũng là lúc người ta nhìn hạt gạo để điều tiết lửa sao cho cơm vừa chín tới đạt yêu cầu không khô, không hấy, đơm đủ 1 bát cơm lồng góp vào mâm cơm cúng thánh. Bên cạnh cơm là món chính, mâm cỗ chay còn có 4 loại bánh khác nhau là bánh ống, bánh bìa, bánh phong, bánh giáo và một bát chè đường. Mỗi loại bánh có yêu cầu kích thước, hình dáng, màu sắc khác nhau nhưng lại được làm từ nguyên liệu chung là gạo nếp, đỗ xanh đường kính và quả gấc chín.
Cái khó nữa mà làng xã muốn thử thách đôi bàn tay thô ráp vốn chỉ quen với cày bừa, cuốc xới quanh năm của cánh nam giới là phải xếp tất cả các loại bánh, gạo đồ xôi vào chung 1 chõ, đồ 1 lửa mà xôi chín dẻo thơm, trắng bông tinh khiết, bánh chín rền, đẹp màu, vuông thành sắc cạnh, có thể để hàng tháng trời mà không thiu không mốc. Bốn loại bánh trên mâm cỗ chay tượng trưng cho các loại lương khô mà thánh tổ đã làm ra giúp nghĩa quân có đủ lương thực ăn đường ngay cả khi giặc dã mưa gió, lụt lội, không nổi lửa được. Sau 150 phút, mâm cỗ chay phải hoàn tất có đủ 4 loại bánh, một bát chè đường, 1 bát cơm lồng, một cút rượu trắng, một đĩa trầu cau, và một quả bưởi để dâng lên cúng thánh cầu cho quốc thái dân an, làng xã thịnh vượng, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, vạn vật sinh sôi. Sau 1 tuần hương, cỗ chay của các giáp được mang ra sân đình chấm điểm.
Ban tổ chức trao giải cho cả 6 giáp tham dự, nhưng giáp nào đạt giải nhất thì được dân làng ưu tiên cắt đặt công việc trong suốt một năm. Xưa kia, mâm cỗ đạt giải nhất được dành riêng để chánh tổng đem biếu các tổng bạn, vừa tỏ lòng kính trọng, hòa hảo và cũng muốn khoe mỹ tục của tổng mình. Sau này, tan hội vào, lễ hoàn làng, cỗ xóm nào mang về xóm đó, chia đều cho tất cả dân làng từ cụ cao niên, em bé còn ẵm ngửa đến những người góa bụa, tật nguyền. Nét đẹp này còn lưu giữ nguyên vẹn đến ngày nay.
Thổi cơm thi trong lễ hội mùa xuân làng Ngọc Tiên, xã Xuân Hồng (Xuân Trường) là một lễ tục đẹp, mang đậm bản sắc dân tộc và sắc thái văn hóa làng quê. Đến nay, xã hội có nhiều thay đổi, nhịp sống vận hành cuồng nhiệt hơn, nhiều luồng văn hóa ngoại lai xuất hiện nhưng bản sắc làng quê không hề bị mai một. Văn hóa làng trở thành chất keo dính gắn kết cộng đồng làng xã. Vậy nên không còn ruộng huệ điền, người dân làng Ngọc Tiên không ai bảo ai nhà nhà tự góp công, góp của giữ nếp làng. Tích xưa được truyền kể cho lớp lớp cháu con cùng nghe để được tự hào và noi gương Đức Thánh tổ. Còn kỹ thuật địch thủy, địch hỏa, thổi cơm thi, uốn cần trúc, chọn tre già…thì đời cha truyền lại cho con trai, chú truyền cho cháu. Trẻ trai lên 10 ở làng Ngọc Tiên đã bắt đầu được phụ giúp công việc chuẩn bị hội làng, để rồi tám đến mười năm sau, con thay cha, cháu cùng cùng chú “chung lưng đấu cật” đời đời tiếp nối giữ gìn truyền thống, bản sắc văn hóa làng quê.
Bài văn thuyết minh về hội thi thổi cơm - mẫu 4
Thi nấu cơm là một trong những trò chơi dân gian phổ biến tại các làng quê ở Việt Nam mà không ai biết nó bắt nguồn từ khi nào. Đây là một trò chơi độc đáo, mang giá trị văn hóa truyền thống đặc trưng của nền nông nghiệp lúa nước.
Cách chơi của trò nấu cơm rất đa dạng. Đầu tiên, tập hợp tất cả người chơi và chia thành từng đội, mỗi đội có ít nhất 2-4 người với số lượng nam, nữ bằng nhau. Những khu vực rộng rãi, bằng phẳng, sạch sẽ như sân nhà, sân trường, sân nhà văn hóa hay bãi cỏ sẽ là những địa điểm tổ chức lý tưởng. Tùy theo hình thức thi nấu cơm, mỗi đội chuẩn bị một khúc cây dài 3m làm đòn gánh, một đoạn dây thép để làm giá giống quang gánh để treo nồi nấu cơm, nếu nồi có quai treo thì không cần làm giá. Kẻ vạch xuất phát và vạch đích đến tại hai đầu sân chơi. Ban tổ chức thông báo thể lệ trò chơi, thời gian quy định, đánh số thứ tự từng đội chơi, kiểm tra số người chơi của từng đội và công tác chuẩn bị của các đội. Mỗi đội thi sẽ được cấp 1 nồi nấu cơm, 1 lon gạo, 1 lít nước, 2-3 cây củi hoặc tre nứa chẻ nhỏ rồi nhóm thành từng bó dài 0,5m đường kính 1,5-2m, 2 que diêm, giấy mồi lửa. Tất cả đội chơi tập trung lại tại vạch xuất phát. Với các nguyên liệu đã được cấp là thóc, củi, các đội sẽ phải làm gạo, tạo ra lửa, đi lấy nước về nấu cơm.
Quy trình của cuộc thi nấu cơm gồm ba phần: phần thi làm gạo, phần thi tạo lửa và phần thi lấy nước để thổi cơm. Sau khi hồi trống hiệu lệnh vang lên, các đội sẽ phải bắt tay vào xay, giã và sàng thóc. Đội nào làm được gạo trắng trước thì thắng cuộc. Sau đó, dùng hai thanh nứa già cọ vào nhau, đặt bùi nhùi rơm khô vào để nhen lửa. Người lấy nước đi khoảng 1km để lấy nước sẵn có trong 4 cái bể bằng đồng và đợi người đến lấy. Đội nào tạo được lửa trước và lấy nước về đích trước sẽ thắng cuộc. Cơm của đội nào thổi chín, dẻo ngon và xong trước thì đội đó là đội thắng cuộc. Cơm của đội thắng sẽ được dùng để cúng thần.
Trong một cuộc thi nấu cơm có thể có hai cách nấu. Cách thứ nhất là bịt mắt nấu cơm. Khi có hiệu lệnh bắt đầu, hai người chơi một người sẽ bịt mắt, người còn lại buộc hai tay vào nhau. Người buộc tay chỉ được ngồi tại chỗ và dùng lời nói để điều khiển người bịt mắt thực hiện các thao tác nấu cơm. Cách thứ hai là vừa đi vừa nấu cơm. Khi có hiệu lệnh bắt đầu, đội chơi sẽ phải thực hiện các thao tác vo gạo, nhóm lửa, treo nồi nấu cơm trong khi đi. Hai người sẽ được phân công để khiêng nồi, một người nấu cơm, một người cầm củi. Đội nào nấu cơm chín, dẻo, thơm trong thời gian sớm nhất sẽ là đội giành chiến thắng.
Trò chơi thi nấu cơm đòi hỏi sự nhanh nhẹn và khéo léo rất cao, nó không chỉ đơn thuần là một trò chơi có tính giải trí cao, mà còn phản ánh đậm nét đời sống lao động của cư dân trồng lúa. Từ đó, trò chơi giúp con người, đặc biệt là các em nhỏ ý thức được việc tôn trọng từng hạt cơm được ăn hằng ngày. Trò chơi thi nấu cơm còn giúp người chơi rèn luyện được sự khéo léo cũng như kỹ năng ứng xử nhanh nhẹn trong mọi tình huống. Đây là một trò chơi hỗ trợ các con tốt hơn trong quá trình phát triển thể chất lẫn trí tuệ.
Mang những nét đặc trưng vốn có của nền nông nghiệp lúa nước, trò chơi thi nấu cơm là một trò chơi dân gian độc đáo, mang đậm giá trị văn hóa truyền thống của người Việt Nam.
Bài văn thuyết minh về hội thi thổi cơm - mẫu 5
Vào ngày mười rằm tháng Giêng hàng năm, người dân ở làng Ngọc Tiên, thuộc xã Xuân Hồng (huyện Xuân Trường) lại tổ chức hội tưởng niệm công đức của Thành Hoàng làng, Hoàng Văn Quảng, người đã có công giúp dân trong việc dẹp giặc và trấn biên. Hội làng bao gồm các nghi lễ như thổi cơm thi, làm cỗ chay, cúng thần tổ tiên và hồi tưởng lại những ngày đầu dấy binh trấn ải đầy gian khổ của thánh tổ và cha ông.
Trước khi đến ngày hội, tất cả các giáp đều phải cử người lên đền để mang các dụng cụ thi đấu như bộ chõ đồ, nồi đồng điếu, quang gánh, cần trúc, bát đĩa... từ thời cổ xưa để dọn dẹp, sửa sang và làm sạch cho đền thanh tịnh. Bãi đất trước cửa đền được san phẳng, đường dong ngõ xóm được dọn dẹp sạch sẽ tinh tươm để chuẩn bị cho ngày chính hội. Hội làng sẽ có 6 giáp tham gia, được chia theo đơn vị xóm. Mỗi giáp phải có đủ 14 người đều là nam giới, tuổi từ 18 trở lên, có phẩm chất đạo đức tốt, khỏe mạnh, nhanh nhẹn, gia đình toàn vẹn, không vướng tang ma. Theo tục lệ xưa, đỗ, gạo thổi cơm, đồ xôi và làm bánh phải được trồng riêng trên phần ruộng huệ điền. Các lão nông sẽ là những người đảm nhận cả quá trình từ trồng cấy, thu hoạch, bảo quản gạo, đỗ. Việc lấy nước và tạo lửa để nấu cơm cũng do nam giới phụ trách. Bất kỳ phần việc nào trong phần chính lễ và hội chính, phụ nữ đều không được phép tham gia.
Để bắt đầu phần thi thổi cơm và làm cỗ chay, trước đó các giáp phải trải qua hai phần thi địch thủy và địch hỏa. Phần thi địch thủy gồm hai người đại diện của mỗi giáp, tay cầm một chiếc nậm nhỏ, đồng loạt chạy ra bến Cựa gà, lội ra giữa dòng sông Ninh lấy cho đầy nậm nước mang về đổ vào nồi đáy của chõ đồ. Trong quá trình chạy rước nước, ngón tay cái của người rước nước phải bịt chặt miệng nậm để nước khỏi sánh ra ngoài. Người về nhanh nhất, không làm vương vãi nước dọc đường sẽ là người thắng cuộc.
Trong hai phần thi thì phần địch hỏa được coi là gay cấn, lôi cuốn sự chú ý và tạo tâm lý hồi hộp cho người dự thi, dân làng và cả khách thập phương tham dự. Chỉ khi đạt kết quả ở phần thi này, các giáp mới được tiếp tục tham dự vòng kế tiếp. Quan niệm của người phương Đông cho rằng việc tạo lửa trong ngày đầu xuân là điềm lành, mang nhiều may mắn và thuận lợi. Do đó, trách nhiệm của mỗi người dự thi đối với nội tộc và xóm làng đó là thao tác nhanh, dứt khoát, tạo lửa khéo và đốt cờ hiệu chính xác. Mỗi giáp mang theo một bộ dụng cụ địch hỏa gồm một thanh cái đặt cố định dưới đất, được làm bằng tre bánh tẻ, đường kính khoảng 4cm, đã tách rời làm đôi tạo kẽ hở cho mùn rơi xuống trong quá trình kéo lửa. Thanh tre khác dài, mỏng gọi là thanh con (hay thanh dao) được tạo bởi gốc cây tre già, dùng để cọ sát vào thanh cái.
Cách để tăng cơ hội chiến thắng trong phần thi này là phải sử dụng dụng cụ địch lửa được làm từ cây tre chết bụi và phải đặt gác bếp thêm 3 tháng trước khi sử dụng. Bước vào phần thi, 12 người của 6 đội sẽ xếp hàng ngang và sử dụng lực cọ sát 2 thanh tre vào nhau để tạo ra một lớp mùn mịn. Mùn cưa sẽ vón cục và gặp ma sát lớn tạo thành lửa, tuy nhiên lúc này lửa chỉ là một đốm than hồng nhỏ. Người kéo lửa phải khéo léo thổi hơi để lửa bén vào bùi nhùi rơm và bùng lên thành ngọn lửa lớn. Lúc này, cả sân đền đều ồn ào với tiếng reo hò cổ vũ của dân làng và khách du lịch. Tuy nhiên, quy định chỉ cho phép thực hiện phần thi này trong vòng từ 20 - 25 giây. Năm chàng trai của làng Ngọc Tiên đã thành công trong việc tạo ra lửa chỉ trong vòng 12 giây bằng sự nỗ lực của bản thân và sự cổ vũ nhiệt tình của bà con chòm xóm. Vận động viên địch lửa giơ cao ngọn lửa do mình tạo ra, đốt cờ lệnh báo hiệu phần thi đã hoàn tất và cùng dân làng rước lửa về sân nấu cỗ, châm bếp bắt đầu phần thi làm bánh và thổi cơm trong tiếng hò reo cổ vũ tưng bừng.
Nếu đã từng tham gia hội làng Ngọc Tiên, người ta mới thấy được tài năng và khéo léo của người dân nơi đây. Trong phần thi thổi cơm, người phụ trách phải làm đủ mọi công việc từ đeo cần trúc lên vai, cố định niêu cơm, giữ lửa cho cơm chín, vừa đi vừa nấu. Cùng với đoàn rước khua chiêng và gõ trống tưng bừng. Để hoàn thành tốt phần thi này, người dân làng Ngọc Tiên đã chuẩn bị rất công phu từ chiếc cần trúc treo niêu cơm đến việc làm quen với cách ước lượng sao cho đủ nước, đủ lửa, cơm chín nục, dẻo thơm trong thời gian đi trọn 3 vòng rước quanh sân đền, bất luận tiết trời đầu xuân có mưa bụi giăng mắc, rét đài, rét lộc có ghé qua.
Cụ Nguyễn Minh Oanh thuộc lớp người tham gia hội làng từ thời trai trẻ, hiện đang tham gia ban bảo vệ di tích. Cụ cho biết chỉ tính riêng việc chuẩn bị cho chiếc cần trúc treo niêu cơm đã mất đến 3 năm. Khi vừa mới vượt khỏi mặt đất, ngọn măng trúc sẽ được uốn cong thành hình chữ S, rồi được nuôi dưỡng và thuần hóa đến khi đủ độ dẻo dai, bền chắc thì mới đem vào sử dụng. Sau đó, cây trúc còn được tẩm qua khói lửa và bồ hóng thêm một thời gian nữa trước khi đem ra sử dụng.
Khi tham gia vào việc nấu cơm, người ta sử dụng một cây cần trúc có vòng cong lớn để ép vào dọc sống lưng người nấu cơm và cố định nó bằng một dải lụa. Phần cong nhỏ của cây được treo qua vai để đặt quang sắt, cố định chiếc nồi đồng điếu bên trong. Hai tay người nấu cơm cầm hai bó đuốc đặt ở đáy nồi cơm để cho hạt gạo chín. Người nấu cơm phải ước lượng nhiệt độ lửa và thời gian hãm lửa để cơm sôi bùng, hạt gạo ngậm nước và chín đẫy hơi để cơm thơm ngon. Khi cơm sôi, hai bó đuốc được đặt cùng về một bên tay, tay còn lại cầm một chiếc móc để mở nồi và đổ cơm ra bát. Lúc này, người ta kiểm tra hạt gạo để điều chỉnh nhiệt độ lửa cho cơm chín đều, không bị khô, bị hấy và đủ để đơm 1 bát cơm lồng góp vào mâm cơm cúng thánh.
Bên cạnh cơm, mâm cỗ chay còn có 4 loại bánh khác nhau và cũng là món chính của mâm cúng đó là bánh ống, bánh bìa, bánh phong, bánh giáo và một bát chè đường. Yêu cầu về kích thước, hình dáng, màu sắc của mỗi loại bánh khác nhau nhưng lại được làm từ nguyên liệu chung là gạo nếp, đỗ xanh, đường kính và quả gấc chín. Việc xếp tất cả các loại bánh, gạo đồ xôi vào chung một chõ, đồ 1 lửa mà xôi chín dẻo thơm, trắng bông tinh khiết, bánh chín rền, đẹp màu, vuông thành sắc cạnh, có thể để hàng tháng trời mà không thiu không mốc cũng là một điều thử thách đôi bàn tay thô ráp của những người chỉ quen với công việc cày bừa, cuốc xới quanh năm, đặc biệt là đối với nam giới.
Các loại bánh trên mâm cỗ chay tượng trưng cho các loại lương khô mà thánh tổ đã làm ra để giúp nghĩa quân có đủ lương thực ăn đường ngay cả khi giặc dã mưa gió, lụt lội và không nổi lửa được. Sau 150 phút, mâm cỗ chay phải được hoàn tất với đủ 4 loại bánh, một bát chè đường, 1 bát cơm lồng, một cút rượu trắng, một đĩa trầu cau và một quả bưởi để dâng lên cúng thánh cầu cho quốc thái dân an, làng xã thịnh vượng, mưa thuận gió hòa và mùa màng tươi tốt.
Cỗ chay của 6 giáp tham dự sẽ được mang ra sân đình chấm điểm sau khi hết 1 tuần hương. Tất cả 6 giáp tham dự đều sẽ được Ban tổ chức trao giải, nhưng dân làng sẽ ưu tiên cắt đặt công việc trong suốt một năm cho giáp nào đạt giải nhất. Trước đây, mâm cỗ đạt giải nhất được dành riêng để chánh tổng đem biếu cho các tổng bạn, vừa tỏ lòng kính trọng, hòa hợp và cũng muốn khoe mỹ tục của tổng mình. Sau này, khi hội tan, lễ hoàn làng, cỗ xóm nào mang về xóm đó, chia đều cho tất cả dân làng từ người cao niên, trẻ em đến những người góa bụa và tật nguyền. Cho đến ngày nay, nét đẹp này vẫn được dân làng giữ nguyên.
Lễ thổi cơm thi trong hội xuân làng Ngọc Tiên là một nét đẹp văn hóa đậm chất dân tộc và làng quê. Dù cuộc sống hiện đại và nhiều yếu tố văn hóa ngoại nhập đã xuất hiện, tuy nhiên bản sắc của làng quê vẫn được giữ gìn và trở thành chất keo dính gắn kết cộng đồng. Hiện nay, không còn ruộng huệ điền, nhưng người dân làng Ngọc Tiên vẫn góp sức để giữ nếp truyền thống. Tích cũ được truyền kể lại cho lớp lớp cháu con, để các em tự hào và noi gương Đức Thánh Tổ. Các kỹ thuật như địch thủy, địch hỏa, thổi cơm thi, uốn cần trúc, chọn tre già... được cha truyền lại cho con trai, chú truyền cho cháu. Trẻ em trai ở làng Ngọc Tiên từ 10 tuổi đã bắt đầu được tham gia phụ giúp chuẩn bị cho hội xuân, để rồi khi trưởng thành, họ tiếp tục giữ gìn truyền thống, bản sắc văn hóa làng quê cho đời sau.
Bài văn thuyết minh về hội thi thổi cơm - mẫu 6
Một trong các trò chơi dân gian mang ý nghĩa văn hóa to lớn của dân tộc ta, chính là trò chơi thi thổi cơm. Trò chơi này thường được tổ chức vào mùa xuân với sự tham gia và quan tâm đông đảo của người dân, nên được ghi nhận là một Hội thi, chứ không đơn giản chỉ là một trò chơi dân gian bình thường.
Trò chơi thi thổi cơm chia thành ba công đoạn gồm: thi lấy nước, thi kéo lửa và thi nấu cơm. Để hoàn thành tốt các phần thi, mỗi đội thi sẽ gồm ba thành viên, có thể có cả nam và nữ, tùy vào quy định của mỗi hội thi. Ở phần thi lấy nước, cần có một thanh niên khỏe mạnh và nhanh nhẹn, gánh nước mang về địa điểm nấu cơm. Thông thường ban tổ chức sẽ đưa ra một vài thử thách cho phần thi này, chẳng hạn như các chướng ngại vật trên đường đi. Tiếp theo là phần kéo lửa. Các công cụ để kéo lửa sẽ được đặt ở một vị trí khó lấy được, để thử thách người chơi. Chẳng hạn như treo ở trên ngọn cây cau, hay phải vượt qua các câu đố, trò chơi nhỏ để lấy được.
Cuối cùng, khi các đồ vật đã có đủ, người chơi mới bắt đầu nấu cơm. Một người chơi sẽ đeo công cụ, giúp gắn nồi cơm lên phía trước mặt. Sau khi vo gạo sạch sẽ rồi cho vào nồi, người chơi này sẽ bắt đầu di chuyển về đích. Hai người chơi còn lại, sẽ đốt lửa ở dưới nồi, đồng thời chắn gió để không làm tắt lửa. Vừa đi, họ vừa giữ lửa, vừa thổi cơm. Ngoài tốc độ, họ còn cần giữ sự khéo léo và tỉ mỉ. Sao cho khi tới đích thì cơm cũng phải vừa chín. Tại đích đến, đội ngũ ban giám khảo sẽ ngồi chờ sẵn và bắt đầu chấm điểm. Đây thường là các cụ già có uy tín ở trong làng, được nhiều người tin tưởng. Họ sẽ chấm điểm dựa trên hai tiêu chí là tốc độ về đích và sự thơm ngon của nồi cơm.
Hoạt động thi nấu cơm, vừa vui nhộn, thú vị, lại vừa giúp thể hiện được sự khéo léo, nhanh nhẹn của người chơi. Trò chơi này là một nét đẹp văn hóa dân gian được lưu giữ qua nhiều thế hệ. Và cho đến nay vẫn được tổ chức thường xuyên vào các dịp lễ hội đầu xuân.
Bài văn thuyết minh về hội thi thổi cơm - mẫu 7
Không biết từ khi nào, thi nấu cơm đã trở thành một trong những trò chơi dân gian phổ biến tại các làng quê ở Bắc Ninh. Theo lời kể của nhiều bậc cao niên, trò chơi thi nấu cơm được tổ chức sớm nhất là ở những làng nhỏ ven sông Cầu, nơi xưa kia tướng quân Lý Thường Kiệt xây dựng phòng tuyến sông Như Nguyệt đánh giặc Tống xâm lược. Khi quân nhà Lý dưới sự chỉ huy của Lý Thường Kiệt đi qua, rất nhiều người dân trong làng đã tình nguyện tham gia bảo đảm hậu cần để phục vụ binh lính. Nhằm lựa chọn người nuôi quân giỏi để tuyển vào phục vụ quân lính, Lý Thường Kiệt đã mở cuộc thi thổi cơm với những quy định khá khắt khe. Từ đó về sau, vào dịp đầu xuân, các làng đều tổ chức hội thi nấu cơm để nhắc lại tích xưa và nhớ đến công ơn của tướng quân Lý Thường Kiệt.
Được tổ chức ở hầu hết các hội làng ở Bắc Ninh, nhưng cách thức tổ chức, quy định về người chơi, luật chơi… khi tham gia thi nấu cơm ở mỗi nơi lại có những nét riêng. Có nơi cuộc thi nấu cơm được chia riêng theo đội nam, đội nữ với 3 công đoạn tách biệt rõ ràng: thi lấy nước, thi kéo lửa và thi nấu cơm. Cũng có nơi, trò chơi thi nấu cơm lại chỉ dành cho những cô gái trẻ chưa chồng… Song dù tổ chức với cách thức nào thì thi nấu cơm vẫn là một trò chơi dân gian độc đáo trong lễ hội ở một số làng Quan họ cổ và luôn cuốn hút được sự quan tâm, cổ vũ của đông đảo dân làng và du khách thập phương.
Sau nhiều năm vắng bóng, trò chơi thi nấu cơm đã được phục dựng lại trong khá nhiều lễ hội đầu xuân ở Bắc Ninh. Phổ biến nhất hiện nay là cách tổ chức thi nấu cơm giữa những liền chị duyên dáng đại diện cho các xóm, các làng, các khu dân cư… Trước thời điểm tổ chức hội xuân, các làng phải đăng ký với Ban tổ chức danh sách đội thi của làng mình gồm 2 liền chị khéo léo nhất. Quy định bắt buộc là các cô gái khi tham gia thi nấu cơm đều phải mặc trang phục truyền thống (áo tứ thân, váy lụa đen, yếm trắng, đầu chít khăn mỏ quạ, lưng thắt dải lụa) và đi chân đất.
Trong khoảng thời gian hơn 30 phút (tương đương với thời gian cháy hết một nén hương dài 30 cm), người thi phải thực hiện tất cả các khâu từ đầu đến cuối nên phải chuẩn bị đầy đủ các thứ như quang gánh, hũ đựng sẵn nước, bó đóm bằng tre ngâm phơi khô, bùi nhùi rơm có ủ lửa, rá vo gạo, đũa bếp để khuấy cơm... Khi nghe trống lệnh, theo phân công, một liền chị của mỗi đội sẽ nhanh chóng quảy gánh lên vai đi vòng quanh khu vực thi đã được xác định từ trước. Từ đó trở đi, các đội sẽ thực hiện phần thi nấu cơm của mình theo nhịp trống. Phần việc của liền chị còn lại là lấy gạo, rót nước từ hũ ra vò và phải giữ không để gạo rơi ra ngoài. Nếu rơi thì sẽ bị Ban Giám khảo trừ điểm.
Tiếp theo là rót nước vào niêu cho vừa, không được rơi một giọt nào ra ngoài. Sau đó lấy lửa từ mồi rơm ra bùi nhùi, ra đóm mà đốt vào đáy niêu. Nước bắt đầu sôi thì lấy gạo ở phía sau đổ vào rồi tiếp tục điều khiển cho đến khi cơm chín. Yêu cầu đặt ra ở đây đó là sự phối hợp nhịp nhàng, nhuần nhuyễn giữa hai liền chị trong từng đội thi nấu cơm. Vì niêu cơm luôn luôn chuyển động theo nhịp bước của người quảy quang gánh nên người chơi còn lại cũng phải đi theo đúng nhịp bước ấy thì ngọn lửa mới kề sát được đáy niêu. Nhưng nếu người quảy quang gánh bước không đều, không nhẹ nhàng thì niêu sẽ lủng lẳng, ngọn lửa không bám được dễ dẫn đến tình trạng cơm sống hoặc chín không đều hay chín nhưng không bảo đảm yêu cầu về thời gian. Rồi khi cơm đã cạn nước thì người đun phải biết bớt lửa kẻo cơm cháy. Bớt lửa nhưng không được phép rút bớt đóm quăng đi mà phải điều chỉnh bằng cách xoay bó đóm hoặc tiến lùi bước chân.
Do vậy, để hoàn thành tốt phần thi nấu cơm đòi hỏi hai người chơi phải phối hợp chặt chẽ với nhau, phải hiểu ý nhau, điều tiết cho nhau trong các động tác đun nấu. Liền chị Nguyễn Thị Thơm ở làng Tam Tảo, xã Phú Lâm, huyện Tiên Du (Bắc Ninh) chia sẻ: “Những quy định của trò chơi thi nấu cơm tại các hội làng đầu xuân thường rất khắt khe. Do vậy, xưa kia trò chơi thi nấu cơm thường là dịp để các cô gái thể hiện sự đảm đang, khéo léo của mình; đồng thời, cũng là cơ hội để các đấng quân tử lựa chọn ý trung nhân”.
Bài văn thuyết minh về hội thi thổi cơm - mẫu 8
Thi nấu cơm là trò chơi dân gian độc đáo, mang đậm giá trị văn hoá truyền thống gắn với những nét đặc trưng riêng có của nền nông nghiệp lúa nước. Cùng với đó, thi nấu cơm còn phản ánh đậm nét đời sống lao động của cư dân trồng lúa, ý thức tôn trọng sản phẩm nông nghiệp là hạt thóc, hạt cơm.
Qua bàn tay khéo léo, tài hoa của người dân xứ Kinh Bắc, những niêu cơm chín dẻo, thơm ngon chính là hình ảnh tượng trưng tiêu biểu cho một năm mùa màng bội thu, mưa thuận gió hòa khiến cho nhân dân cả làng vui mừng, hân hoan và có thêm niềm tin cũng như hăng say trong lao động, sản xuất. Những niêu cơm đoạt giải cao trong cuộc thi nấu cơm đầu xuân luôn được coi là vật phẩm quý giá để dâng cúng, tạ ơn thần linh, cầu cho mùa màng bội thu, nhân khang, vật thịnh. Bởi vật phẩm ấy đã được tạo ra từ những gì quý giá, tinh khiết, mất nhiều công sức và được cả cộng đồng ủng hộ từ khâu chuẩn bị đến lúc hoàn thiện sản phẩm biểu trưng cho lòng thành kính của cộng đồng đối với thần linh.
Không khí tưng bừng náo nhiệt, sự gay cấn, quyết tâm trong từng người, từng đội cùng mùi cơm thơm phức khi cuộc thi nấu cơm khép lại đã tạo nên sức hút, sức hấp dẫn đối với tất cả người tham dự lễ hội trên miền quê quan họ./. Năm nào cũng vậy, cứ mỗi dịp Tết Nguyên đán là em lại được theo mẹ về quê ngoại để xem hội thi nấu cơm mừng lúa mới. Trên sân đình, người từ khắp nơi đổ về xem hội rất đông. Mọi người đều mặc đồ mới, lịch sự và sạch đẹp. Biểu ngữ “Chào Xuân mới - Vui mùa lúa mới” treo ở cổng đình màu đỏ thắm chào đón mọi người.
Hội được khai mạc bằng lễ dâng hương và văn nghệ có chủ đề về nghề nông. Bà con nông dân diễn kịch, mặt mũi phấn son rất hài hước. Dân làng diễn vở kịch trồng cây lúa nước để tưởng nhớ Thần Nông. Ngày hôm sau, dân làng tổ chức hội thi nấu cơm. Mỗi đội nấu cơm có ba người, xúm xít nấu nồi cơm bé tẹo sao cho chín thơm ngon trong ba hồi trống thúc. Bà con xem hội hò reo cổ vũ. Không khí ngày hội thật náo nức.
Ngày Tết, được đi chơi đã vui, được dự hội thi nấu cơm sôi động còn vui hơn. Em yêu biết bao nhiêu cánh đồng xuân đang bước vào mùa gặt hái.
Bài văn thuyết minh về hội thi thổi cơm - mẫu 9
Không biết từ khi nào, thi nấu cơm đã trở thành một trong những trò chơi dân gian phổ biến tại các làng quê ở Việt Nam. Là trò chơi độc đáo, mang đậm giá trị văn hóa truyền thống gắn với những nét đặc trưng của nền nông nghiệp lúa nước.
Cách chơi cũng rất phong phú. Đầu tiên, tập hợp tất cả người chơi rồi chia thành từng đội mỗi đội có ít nhất 2 – 4 người nam nữ bằng nhau. Địa điểm tổ chức lí tưởng sẽ là những khu vực rộng rãi, bằng phẳng, sạch sẽ như sân nhà, sân trường, sân nhà văn hóa hay bãi cỏ. Tùy theo hình thức thi nấu cơm, mỗi đội chuẩn bị một khúc cây dài 3m làm đòn gánh, một đoạn dây thép để làm giá giống quang gánh để treo nồi nấu cơm, nếu nồi có quai treo thì không cần làm giá. Kẻ trên hai đầu sân chơi vạch xuất phát và vạch đích đến.
Thông báo thể lệ trò chơi, thời gian quy định, đánh số thứ tự từng đội chơi, kiểm tra số người chơi của từng đội, và công tác chuẩn bị của các đội. Cấp vật liệu nấu cơm cho các đội thi: Mỗi đội được cấp 1 nồi nấu cơm, 1 lon gạo, 1 lít nước, 2 – 3 cây củi hoặc tre nứa chẻ nhỏ rồi nhóm thành từng bó dài 0,5m đường kính 1,5 – 2m, 2 cây diêm, giấy mồi lửa. Tất cả đội chơi tập trung tại vạch xuất phát. Với các nguyên liệu là thóc, củi, các đội phải làm gạo, tạo ra lửa, đi lấy nước về nấu cơm.
Cuộc thi có ba bước: thì làm gạo; tạo lửa, lấy nước và thổi cơm. Sau hồi trống lệnh, các đội đổ thóc vào xay, giã, dần sàng. Đội nào có được gạo trắng trước là thắng cuộc. Sau đó, lấy lửa từ hai thanh nứa già cọ vào nhau, áp bùi nhùi rơm khô vào cho bén lửa. Người lấy nước cách đó khoảng 1km, nước chứa sẵn vào 4 cái be bằng đồng, đợi người đến lấy mang về. Đội nào lấy được lửa trước và lấy nước về đích trước thì đội đó thắng cuộc. Đội nào thổi được cơm chín dẻo, ngon và xong trước thì thắng cuộc. Cơm của đội đó sẽ được dùng để cúng thần.
Có hai cách nấu cơm. Cách thứ nhất là bịt mắt nấu cơm. Khi có hiệu lệnh bắt đầu, hai người chơi một người bịt mắt, một người bị buộc hai tay vào nhau. Người buộc tay phải ngồi một chỗ và điều khiển người bịt mắt thực hiện các thao tác nấu cơm bằng lời nói. Cách thứ hai là vừa đi vừa nấu cơm. Khi có hiệu lệnh bắt đầu, đội chơi vừa đi vừa thực hiện các thao tác vo gạo, nhóm lửa, treo nồi nấu cơm. Phân công hai bạn khiêng nồi một người nấu cơm, một người cầm củi. Đội dành chiến thắng sẽ là đội nấu cơm chín, dẻo, thơm trong thời gian sớm nhất.
Đây là trò chơi đòi hỏi sự nhanh nhẹn và khéo léo rất cao. Không chỉ đơn thuần là một trò chơi có tính giải trí cao, thi nấu cơm còn phản ánh đậm nét đời sống lao động của cư dân trồng lúa, từ đó giúp con người, đặc biệt là các em nhỏ ý thức được việc tôn trọng từng hạt cơm mà trẻ được ăn hằng ngày. Ngoài ra, trò chơi này còn giúp người chơi rèn luyện được sự khéo léo và kỹ năng ứng xử nhanh nhẹn trong mọi tình huống, hỗ trợ các con tốt hơn trong quá trình phát triển thể chất lẫn trí tuệ.
Trò chơi Thi nấu cơm là trò chơi dân gian độc đáo, mang đậm giá trị văn hóa truyền thống gắn với những nét đặc trưng vốn có của nền nông nghiệp lúa nước.
Bài văn thuyết minh về hội thi thổi cơm - mẫu 10
Vốn gắn liền với nền văn minh lúa nước, cuộc thi thổi cơm đã thể hiện đầy đủ nét đẹp cũng như tín ngưỡng, quan niệm của người dân Việt Nam. Không ai biết cuộc thi thổi cơm xuất hiện từ bao giờ, chỉ biết rằng nó đã có mặt trong hầu hết các lệ hội của một số làng thuộc miền Bắc và miền Trung Việt Nam từ thời xa xưa. Nổi bật trong số đó là cuộc thi nấu cơm ở Thị Cấm (Từ Liêm - Hà Nội). Đây là cuộc thi vô cùng hấp dẫn với những luật lệ độc đáo, sáng tạo.
Lễ hội ra đời với mục đích diễn lại tích của Phan Tây Nhạc - vị tướng thời vua Hùng thứ 18. Theo truyền miệng dân gian, khi quân Thục sang xâm lược, Phan Tây Nhạc dẫn quân đánh giặc theo lệnh vua. Đến vùng Hương Canh, để tìm được người bếp núc, làm công tác hậu cần cho binh sĩ, ông đã mở cuộc thi nấu cơm. Ngày chiến thắng quân giặc, tướng quân trở về mảnh đất này. Ông dạy cho dân làng nuôi tằm, dệt vải, cấy cày, trồng trọt và tổ chức cuộc thi thổi cơm vào ngày mồng 8 tháng Giêng hàng năm. Kể từ đó cho đến nay, người dân làng Thị Cấm luôn duy trì hội thi này như một cách để tưởng nhớ công ơn của ông.
Đúng vào mồng 8 tháng Giêng hàng năm, người dân lại nô nức, cùng nhau tổ chức hội thi thổi cơm. Mỗi đội có 10 người bao gồm cả nam và nữ. Trước khi vào hội, đội chơi cần chuẩn bị các vật dụng, nguyên liệu cần thiết như nia, chày, cối, rơm, nồi, gạo,... Ngoài ra, ban tổ chức sẽ cung cấp 1 kg thóc cho mỗi đội. Sau khi đã có được đầy đủ nguyên liệu, hội thi chính thức bắt đầu.
Ở bước một, thi làm gạo, sau hồi trống thứ nhất, các đội tiến hành đem thóc vào cối giã. Trong quá trình giã, thao tác phải thật nhanh và khéo léo. Sau khi giã xong, thành viên trong đội lấy nia sàng gạo nhằm loại bỏ hết sạn và trấu. Gạo ở đội nào trắng trước thì thắng cuộc.
Tới bước hai, người thi cần khéo léo, kiên trì tạo lửa từ hai thanh nứa. Mỗi đội cử ra 4 thanh niên kéo lửa. Để kéo ra lửa, người ta lấy hai thanh nứa già kẹp rơm khô vào giữa, dùng thanh tre ốp mảnh trên và mảnh dưới, giữ chắc hai đầu và kéo giật thật mạnh, tạo ma sát cho đến khi có lửa. Nếu thấy có khói, người chơi cần dừng lại, thổi cho lửa bùng lên.
Đến bước cuối cùng là nấu cơm. Ở lần thi này, đội nào thổi được nồi cơm chín dẻo trong thời gian ngắn nhất thì giành chiến thắng. Vật phẩm sẽ được dùng để dâng lên cúng thần.
Có thể nói, hội thi nấu cơm ở làng Thị Cấm đã trở thành nét đẹp truyền thống văn hóa không thể thiếu mỗi khi Tết đến xuân về. Hội thi là dịp để người dân tưởng nhớ về vị tướng Phan Tây Nhạc và vui chơi, tụ họp đầu năm.
Hãy đăng nhập để bình luận
Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .