Top 6 Bài soạn "Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu" (Ngữ văn 8 - SGK Kết nối tri thức) hay nhất

Mời các bạn tham khảo một số bài soạn "Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu" (Ngữ văn 8 - SGK Kết nối tri thức) hay nhất mà Alltop.vn đã tổng hợp trong bài viết dưới...xem thêm ...
Bài soạn "Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu" (Ngữ văn 8 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu 1
* Trước khi đọc
Câu hỏi 1 (trang 82 sgk Ngữ văn 8 Tập 1):Nhà nước phong kiến xưa tổ chức các kì thi cho sĩ tử tham gia nhằm mục đích gì?
Trả lời:
- Nhà nước phong kiến xưa tổ chức các kì thi cho sĩ tử tham gia nhằm chọn ra những người tài giỏi để phục vụ đất nước.
Câu hỏi 2 (trang 82 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Sau cuộc thi (thể thao, nghệ thuật, giáo dục…) thường sẽ có một buổi lễ xướng danh và trao giải. Mục đích của lễ xướng danh là gì?
Trả lời:
- Mục đích của lễ xướng danh là khen ngợi những người có tài, đỗ đạt cao đồng thời tuyên truyền để các thế hệ sau học tập, rèn luyện và noi theo.
* Đọc văn bản
Gợi ý trả lời câu hỏi trong bài đọc
- Theo dõi: Các chi tiết miêu tả con người và khung cảnh lễ xướng danh.
- Con người: Luộm thuộm sĩ tử vai đeo lọ
- Khung cảnh: Trường Nam thi lẫn với trường Hà; quan trường miệng thét loa.
- Chú ý: Sự xuất hiện của các nhân vật người nước ngoài trong kì thi.
Các nhân vật nước ngoài: quan sứ và mụ đầm.
* Sau khi đọc
Nội dung chính: Văn bản miêu tả tình trạng thảm hại của kỳ thi năm Đinh Dậu (1897), đồng thời thể hiện sự đau đớn, xót xa của nhà thơ đối với tình cảnh hiện thực nhốn nháo và bất ổn của xã hội thực dân nửa phong kiến.
Gợi ý trả lời câu hỏi sau khi đọc
Câu 1 (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Bố cục bài thơ gồm mấy phần. Đó là những phần nào.
Trả lời:
Bố cục 4 phần.
- Phần 1: Hai câu đề: Giới thiệu về khoa thi năm Đinh Dậu.
- Phần 2: Hai câu thực: Cảnh trường thi trong thực tế.
- Phần 3: Hai câu luận: Cảnh người nước ngoài xuất hiện.
- Phần 4: Hai câu kết: Tâm trạng, nỗi lòng của nhà thơ.
Câu 2 (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Hai câu đề cho biết điều gì về chế độ thi cử ở nước ta cuối thế kỉ XIX?
Trả lời:
Chế độ thi cử ở nước ta cuối thế kỉ XIX qua hai câu đề:
- Thời gian: Ba năm mở một khoa
- Hình thức: Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
=> Thể hiện sự lộn xộn, thiếu nề nếp, quy củ, phơi bày sự đổ nát của kì thi quốc gia và phê phán nhà nước vô trách nhiệm.
Câu 3 (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Biện pháp tu từ nào đã được sử dụng trong cách diễn đạt “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ” và “Ậm ọe quan trường miệng thét loa”? Nêu rõ tác dụng của biện pháp tu từ đó trong việc tái hiện hình ảnh các sĩ tử và quan viên người Việt.
Trả lời:
- Biện pháp đảo ngữ: Lôi thôi sĩ tử; ậm ọe quan trường.
- Tác dụng:
+ Thể hiện vẻ nhếch nhác, không gọn gàng, không đúng tư thế của những sĩ tử đi thi, của người làm chủ kiến thức trong kì thi.
+ Làm nổi bật đối tượng người coi thi không đúng chuẩn mực: nói năng ậm ọe, ấp úng, ra oai gượng gạo.
Câu 4 (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Phân tích tác dụng của phép đối được tác giả sử dụng trong hai câu thực.
Trả lời:
- Tác dụng của phép đối được tác giả sử dụng trong hai câu thực:
+ Câu thơ “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ” là một cảnh hài hước, chua chát. Đảo ngữ hai chữ “lôi thôi” lên đầu câu thơ gây ấn tượng nhếch nhác đáng buồn “vai đeo lọ”.
+ “Ậm oẹ” nghĩa là ra bộ nạt nộ, hăm doạ. Cấu trúc câu thơ đảo ngữ đưa hai tiếng tượng thanh “ậm oẹ” lên đầu câu thơ để làm nổi bật hình ảnh các quan trường “miệng thét loa”.
Câu 5 (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Tiếng cười trào phúng được thể hiện như thế nào qua việc đặc tả, nhấn mạnh hai hình ảnh mang tính chất “ngoại lai” là quan sứ và mụ đầm?
Trả lời:
Tiếng cười trào phúng được thể hiện qua việc đặc tả, nhấn mạnh hai hình ảnh mang tính chất “ngoại lai” là quan sứ và mụ đầm là:
- Hình ảnh “Lọng cắm rợp trời” gợi tả cảnh đón tiếp dành cho “quan sứ”, lũ ăn cướp đất nước ta, một nghi lễ cực kì long trọng. Đó là nỗi đau mất nước. Từ xưa tới năm ấy (1897) chốn trường thi là nơi tôn nghiêm, lễ giáo phong kiến vốn trọng nam khinh nữ, đàn bà đâu được bén mảng đến nơi kén chọn nhân tài. Thế mà bây giờ, không chỉ “mụ đầm ra” mụ đầm đến với “váy lê quét đất” mà còn bày ra giữa thanh thiên bạch nhật một nghịch cảnh vô cùng nhục nhã.
Câu 6 (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Nhắc đến “nhân tài đất Bắc”, tác giả muốn ám chỉ những đối tượng nào? Em cảm nhận được thái độ gì của tác giả qua lời nhắn nhủ ấy?
Trả lời:
- Nhắc đến “nhân tài đất Bắc” tác giả muốn ám chỉ đến: những ông nghè, ông cống, những con người có lòng tự tôn dân tộc... ở vùng Sơn Nam, ở Kinh kì Thăng Long ngàn năm văn hiến, nơi hội tụ nhân tài, tinh hoa của đất nước.
- Thái độ của tác giả: căm ghét bọn thực dân xâm lược, thức tỉnh lòng tự tôn dân tộc.
Câu 7 (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Nhân vật nào trong bài thơ để lại ấn tượng cho em nhiều nhất? Vì sao?
Trả lời:
Nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc nhất là sĩ tử. Vì:
- Sĩ tử là những học trò, người có học vấn, tầng lớp có học thức. Hàng ngàn “sĩ tử vai đeo lọ” thì lôi thôi thật, là bức tranh biếm họa để đời về anh học trò đi thi trong thời buổi thực dân nhô’ nhăng. Còn quan trường thì “ậm ọe” giọng như mửa.
Câu 8 (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Cảm xúc chủ đạo của tác giả trong bài thơ này là gì?
Trả lời:
Cảm xúc chủ đạo của tác giả:
+ Phê phán hiện thực đau buồn, nhốn nháo, nhố nhăng của sĩ tử và quan trường.
+ Thể hiện tâm trạng đau đớn, chua xót của nhà thơ trước hiện thực của đất nước.
* Viết kết nối với đọc
Bài tập (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Viết đoạn văn (khoảng 7 – 9 câu) phân tích một chi tiết có tính chất trào phúng mà em ấn tượng nhất trong bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu.
Đoạn văn tham khảo
Bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu là tác phẩm có tính trào phúng mà em ấn tượng nhất nhất là 2 câu "Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ, Ậm ọe quan trường miệng thét loa.” Từ “lôi thôi” được đặt lên đầu câu, nhấn mạnh vẻ lếch thếch, không gọn gàng của các vị “sĩ tử”. Bình thường, những người đi thi đều là những người đọc sách, những người luôn gọn gàng, chỉn chu. Vậy mà nay, thí sinh đi thi với vẻ xốc xếch, với lọ chai lỉnh kỉnh, không còn cái vẻ tao nhã của người đọc sách. Chỉ một đối tượng, nhưng cũng đủ để chỉ sự xuống cấp của toàn xã hội. Thí sinh không còn vẻ nho nhã trí thức thì những vị giám khảo cũng không còn vẻ nghiêm túc, đáng kính như trước nữa, chỉ còn cái dáng “thét loa” như ngoài chợ, mà nói thì cũng “ậm ọe” chẳng thành câu. Một lần nữa, tính từ miêu tả “ậm ọe” lại được cho lên đầu câu giống như từ “lôi thôi” ở trên để làm nổi bật lên sự bất tài của đám quan trông trường thi. Chúng chỉ là những kẻ vênh váo, dựa hơi, chẳng có tài năng cũng chẳng có thực quyền. Trước mắt người đọc hiện lên hình ảnh của một trường thi nhốn nháo, quan trông thi thì luôn miệng hống hách, quát tháo, sĩ tử đi thi thì lôi thôi, lếch thếch, xiêu vẹo lều chõng lọ giấy đi thi.

Bài soạn "Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu" (Ngữ văn 8 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu 2
* Trước khi đọc
Câu hỏi 1 (trang 82 sgk Ngữ văn 8 Tập 1):Nhà nước phong kiến xưa tổ chức các kì thi cho sĩ tử tham gia nhằm mục đích gì?
Trả lời:
- Nhà nước phong kiến xưa tổ chức các kì thi cho sĩ tử tham gia nhằm chọn ra những người tài giỏi để phục vụ đất nước.
Câu hỏi 2 (trang 82 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Sau cuộc thi (thể thao, nghệ thuật, giáo dục…) thường sẽ có một buổi lễ xướng danh và trao giải. Mục đích của lễ xướng danh là gì?
Trả lời:
- Mục đích của lễ xướng danh là khen ngợi những người có tài, đỗ đạt cao đồng thời tuyên truyền để các thế hệ sau học tập, rèn luyện và noi theo.
* Đọc văn bản
Gợi ý trả lời câu hỏi trong bài đọc
- Theo dõi: Các chi tiết miêu tả con người và khung cảnh lễ xướng danh.
- Con người: Luộm thuộm sĩ tử vai đeo lọ
- Khung cảnh: Trường Nam thi lẫn với trường Hà; quan trường miệng thét loa.
- Chú ý: Sự xuất hiện của các nhân vật người nước ngoài trong kì thi.
Các nhân vật nước ngoài: quan sứ và mụ đầm.
* Sau khi đọc
Nội dung chính: Văn bản miêu tả tình trạng thảm hại của kỳ thi năm Đinh Dậu (1897), đồng thời thể hiện sự đau đớn, xót xa của nhà thơ đối với tình cảnh hiện thực nhốn nháo và bất ổn của xã hội thực dân nửa phong kiến.
Gợi ý trả lời câu hỏi sau khi đọc
Câu 1 (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Bố cục bài thơ gồm mấy phần. Đó là những phần nào.
Trả lời:
Bố cục 4 phần.
- Phần 1: Hai câu đề: Giới thiệu về khoa thi năm Đinh Dậu.
- Phần 2: Hai câu thực: Cảnh trường thi trong thực tế.
- Phần 3: Hai câu luận: Cảnh người nước ngoài xuất hiện.
- Phần 4: Hai câu kết: Tâm trạng, nỗi lòng của nhà thơ.
Câu 2 (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Hai câu đề cho biết điều gì về chế độ thi cử ở nước ta cuối thế kỉ XIX?
Trả lời:
Chế độ thi cử ở nước ta cuối thế kỉ XIX qua hai câu đề:
- Thời gian: Ba năm mở một khoa
- Hình thức: Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
=> Thể hiện sự lộn xộn, thiếu nề nếp, quy củ, phơi bày sự đổ nát của kì thi quốc gia và phê phán nhà nước vô trách nhiệm.
Câu 3 (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Biện pháp tu từ nào đã được sử dụng trong cách diễn đạt “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ” và “Ậm ọe quan trường miệng thét loa”? Nêu rõ tác dụng của biện pháp tu từ đó trong việc tái hiện hình ảnh các sĩ tử và quan viên người Việt.
Trả lời:
- Biện pháp đảo ngữ: Lôi thôi sĩ tử; ậm ọe quan trường.
- Tác dụng:
+ Thể hiện vẻ nhếch nhác, không gọn gàng, không đúng tư thế của những sĩ tử đi thi, của người làm chủ kiến thức trong kì thi.
+ Làm nổi bật đối tượng người coi thi không đúng chuẩn mực: nói năng ậm ọe, ấp úng, ra oai gượng gạo.
Câu 4 (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Phân tích tác dụng của phép đối được tác giả sử dụng trong hai câu thực.
Trả lời:
- Tác dụng của phép đối được tác giả sử dụng trong hai câu thực:
+ Câu thơ “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ” là một cảnh hài hước, chua chát. Đảo ngữ hai chữ “lôi thôi” lên đầu câu thơ gây ấn tượng nhếch nhác đáng buồn “vai đeo lọ”.
+ “Ậm oẹ” nghĩa là ra bộ nạt nộ, hăm doạ. Cấu trúc câu thơ đảo ngữ đưa hai tiếng tượng thanh “ậm oẹ” lên đầu câu thơ để làm nổi bật hình ảnh các quan trường “miệng thét loa”.
Câu 5 (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Tiếng cười trào phúng được thể hiện như thế nào qua việc đặc tả, nhấn mạnh hai hình ảnh mang tính chất “ngoại lai” là quan sứ và mụ đầm?
Trả lời:
Tiếng cười trào phúng được thể hiện qua việc đặc tả, nhấn mạnh hai hình ảnh mang tính chất “ngoại lai” là quan sứ và mụ đầm là:
- Hình ảnh “Lọng cắm rợp trời” gợi tả cảnh đón tiếp dành cho “quan sứ”, lũ ăn cướp đất nước ta, một nghi lễ cực kì long trọng. Đó là nỗi đau mất nước. Từ xưa tới năm ấy (1897) chốn trường thi là nơi tôn nghiêm, lễ giáo phong kiến vốn trọng nam khinh nữ, đàn bà đâu được bén mảng đến nơi kén chọn nhân tài. Thế mà bây giờ, không chỉ “mụ đầm ra” mụ đầm đến với “váy lê quét đất” mà còn bày ra giữa thanh thiên bạch nhật một nghịch cảnh vô cùng nhục nhã.
Câu 6 (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Nhắc đến “nhân tài đất Bắc”, tác giả muốn ám chỉ những đối tượng nào? Em cảm nhận được thái độ gì của tác giả qua lời nhắn nhủ ấy?
Trả lời:
- Nhắc đến “nhân tài đất Bắc” tác giả muốn ám chỉ đến: những ông nghè, ông cống, những con người có lòng tự tôn dân tộc... ở vùng Sơn Nam, ở Kinh kì Thăng Long ngàn năm văn hiến, nơi hội tụ nhân tài, tinh hoa của đất nước.
- Thái độ của tác giả: căm ghét bọn thực dân xâm lược, thức tỉnh lòng tự tôn dân tộc.
Câu 7 (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Nhân vật nào trong bài thơ để lại ấn tượng cho em nhiều nhất? Vì sao?
Trả lời:
Nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc nhất là sĩ tử. Vì:
- Sĩ tử là những học trò, người có học vấn, tầng lớp có học thức. Hàng ngàn “sĩ tử vai đeo lọ” thì lôi thôi thật, là bức tranh biếm họa để đời về anh học trò đi thi trong thời buổi thực dân nhô’ nhăng. Còn quan trường thì “ậm ọe” giọng như mửa.
Câu 8 (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Cảm xúc chủ đạo của tác giả trong bài thơ này là gì?
Trả lời:
Cảm xúc chủ đạo của tác giả:
+ Phê phán hiện thực đau buồn, nhốn nháo, nhố nhăng của sĩ tử và quan trường.
+ Thể hiện tâm trạng đau đớn, chua xót của nhà thơ trước hiện thực của đất nước.
* Viết kết nối với đọc
Bài tập (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Viết đoạn văn (khoảng 7 – 9 câu) phân tích một chi tiết có tính chất trào phúng mà em ấn tượng nhất trong bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu.
Đoạn văn tham khảo
Bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu là tác phẩm có tính trào phúng mà em ấn tượng nhất nhất là 2 câu "Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ, Ậm ọe quan trường miệng thét loa.” Từ “lôi thôi” được đặt lên đầu câu, nhấn mạnh vẻ lếch thếch, không gọn gàng của các vị “sĩ tử”. Bình thường, những người đi thi đều là những người đọc sách, những người luôn gọn gàng, chỉn chu. Vậy mà nay, thí sinh đi thi với vẻ xốc xếch, với lọ chai lỉnh kỉnh, không còn cái vẻ tao nhã của người đọc sách. Chỉ một đối tượng, nhưng cũng đủ để chỉ sự xuống cấp của toàn xã hội. Thí sinh không còn vẻ nho nhã trí thức thì những vị giám khảo cũng không còn vẻ nghiêm túc, đáng kính như trước nữa, chỉ còn cái dáng “thét loa” như ngoài chợ, mà nói thì cũng “ậm ọe” chẳng thành câu. Một lần nữa, tính từ miêu tả “ậm ọe” lại được cho lên đầu câu giống như từ “lôi thôi” ở trên để làm nổi bật lên sự bất tài của đám quan trông trường thi. Chúng chỉ là những kẻ vênh váo, dựa hơi, chẳng có tài năng cũng chẳng có thực quyền. Trước mắt người đọc hiện lên hình ảnh của một trường thi nhốn nháo, quan trông thi thì luôn miệng hống hách, quát tháo, sĩ tử đi thi thì lôi thôi, lếch thếch, xiêu vẹo lều chõng lọ giấy đi thi.

Bài soạn "Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu" (Ngữ văn 8 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu 3
I. Tác giả văn bản Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu
- Trần Tế Xương (1870 - 1907) thường gọi là Tú Xương
- Quê quán: làng Vị Xuyên - huyện Mĩ Lộc - tỉnh Nam Định (nay thuộc phường Vị Hoàng, thành phố Nam Định).
- Cuộc đời ngắn ngủi, nhiều gian truân:
+ Cuộc đời ông chỉ gắn liền với thi cử, tính ra có tất cả tám lần. Đó là các khoa: Bính Tuất (1886); Mậu Tý (1888); Tân Mão (1891); Giáp Ngọ (1894); Đinh Dậu (1897); Canh Tý (1900); Quý Mão (1903) và Bính Ngọ (1906).
+ Sau 3 lần hỏng thi mãi đến lần thứ tư khoa Giáp Ngọ (1894) ông mới đậu tú tài, nhưng cũng chỉ là tú tài thiên thủ (lấy thêm).
+ Sau đó không sao lên nổi cử nhân, mặc dù đã khá kiên trì theo đuổi. Khoa Quý Mão (1903) Trần Tế Xương đổi tên thành Trần Cao Xương tưởng rằng bớt đen đủi, nhưng rồi hỏng vẫn hoàn hỏng.
- Thơ của Tế Xương có sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình trong đó trữ tình là gốc.
- Bức tranh hiện thực trong thơ Tế Xương là một bức tranh xám xịt, dường như chỉ có rác rưởi, đau buồn, vì hiện thực thối nát của xã hội thực dân - nửa phong kiến.
- Với giọng văn châm biếm sâu cay, thơ văn của ông đã đả kích bọn thực dân phong kiến, bọn quan lại làm tay sai cho giặc, bọn bán rẻ lương tâm chạy theo tiền bạc, bọn rởm đời lố lăng trong buổi giao thời.
- Với khoảng trên 100 bài, chủ yếu là thơ Nôm, gồm nhiều thể thơ (thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, lục bát) và một số bài văn tế, phú, câu đối,...
- Một số tác phẩm như: Vịnh khoa thi Hương, Giễu người thi đỗ, Ông cò, Phường nhơ, Thương vợ, Văn tế sống vợ,...
II. Tìm hiểu tác phẩm Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu
Thể loại
Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu thuộc thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật.
Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác
- Sau khi Pháp tiến hành cuộc xâm lược, văn hóa phương Tây tràn nhanh qua Việt Nam, Hán học đến thời kì suy tàn, các nho sĩ thi nhau đem vứt bút lông chuyển sang dùng bút sắt. Chính vì vậy, các kì thi truyền thống không còn giữ được sự nghiêm túc, khắt khe như trước, thay vào đó là sự bát nháo, hỗn độn.
- Vào khoa thi năm 1897 (năm Đinh Dậu), kì thi Hương ba năm diễn ra một lần vốn từ xưa đều được tổ chức ở Hà Nội, nay bị Pháp bãi bỏ và tổ chức chung cho thí sinh ở trường Nam Định thi cùng với thí sinh trường Hà Nội. Chứng kiến hiện thực đầy bát nháo, đau xót đó, Tú Xương đã sáng tác bài thơ này.
Phương thức biểu đạt
Văn bản Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu có phương thức biểu đạt là biểu cảm.
Bố cục văn bản Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu
Bố cục gồm 3 phần:
- Phần 1: Hai câu thơ đầu. Giới thiệu về khoa thi năm Đinh Dậu.
- Phần 2. Bốn câu thơ tiếp theo. Cảnh trường thi trong thực tế.
- Phần 3. Hai câu thơ còn lại. Thái độ, tâm trạng của nhà thơ.
Tóm tắt Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu
Bài thơ ghi lại cảnh “nhập trường” vừa ghi lại cảnh lễ xướng danh qua đó nói lên tâm trạng đau đớn, chua xót của nhà thơ trước hiện thực mất nước, giao thời nhốn nháo, nhố nhăng.
Giá trị nội dung
- Vịnh khoa thi hương là bài thơ thuộc đề tài thi cử – một đề tài khá đậm nét trong sáng tác của Tú Xương. Qua việc tái hiện hình ảnh thảm hại của kì thi năm Đinh Dậu (1897) tại trường Hà Nam, nhà thơ bày tỏ sự xót xa, đau đớn của con người trước tình cảnh thảm hại của các nhà Nho vào thời kì mạt vận của Nho học.
- Một phần hiện thực nhốn nháo, ô hợp của xã hội thực dân nửa phong kiến buổi đầu đã được tái hiện lại đồng thời nói lên tâm sự của mình trước tình cảnh đất nước
Giá trị nghệ thuật
- Nghệ thuật đối, đảo ngữ.
- Ngôn ngữ có tính chất khẩu ngữ, trong sáng, giản dị nhưng giàu sức biểu cảm.
III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu
Hai câu đề
- Hai câu đề giới thiệu một nét mới của khoa thi Đinh Dậu:
Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà
- Thời gian mở khoa thi: Ba năm mở một khoa.
- Hình thức thi: Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
à Sự lộn xộn, láo nháo, lôi thôi, thiếu nề nếp, quy củ của cuộc thi.
=> Sự lộn, nhốn nháo, thấy được tình cảnh của đất nước, sự áp đảo của ngoại bang.
Hai câu thực
Hai câu thực miêu tả cảnh nhập trường và xướng danh bằng hai nét vẽ rất đặc sắc:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm ọe quan trường miệng thét loa
- Sĩ tử:
+ Vai đeo lọ à dáng dấp luộm thuộm
+ Lôi thôi sĩ tử: đảo ngữ à nhấn mạnh vẻ nhếch nhác, không gọn gàng của những sĩ tử.
=> Câu thơ vẽ nên viễn cảnh hài hước, chua chát. Họ không có tư thế của những sĩ tử đi thi, của người làm chủ kiến thức trong kì thi.
- Quan trường: dáng vẻ ra oai, nạt nộ
+ Ậm ọe quan trường: đảo ngữ à làm nổi bật đối tượng người coi thi nói năng ậm ọe, ấp úng, ra oai, gượng gạo.
+ Miệng thét loa: sự nhốn nháo, quá lộn xộn của cảnh trường thi.
=> Trường thi không còn là chốn tôn nghiêm, nề nếp nữa, quá lộn xộn, quá ồn ào, khác nào cảnh họp chợ, nên quan trường mới ậm ọe và thét loa như thế.
=> Tú Xương đối rất chỉnh làm hiện lên hai hình ảnh trung tâm của trường thi. Sĩ tử thì lôi thôi nhếch nhác, mất di cái vẻ nho nhã thư sinh. Quan trường, giám thị cũng chẳng còn cáu phong thái nghiêm trang, trịnh trọng vốn có.
Hai câu luận
Hai câu luận tô đậm bức tranh Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu bằng hai bức biếm họa về ông Tây và mụ đầm:
Cờ kéo rợp trời, quan sứ đến
Váy lê quét đất, mụ đầm ra
- Quan sứ, mụ đầm à làm tăng sự lố bịch của cuộc thi.
- Cờ kéo rợp trời: đón tiếp trang nghiêm, linh đình.
- Váy lê quét đất: cách ăn mặc lòe loẹt, lố lăng.
=> Sự phô trường về hình thức, nhố nhăng, lôi thôi.
- Phép đối:
Quan sứ >< bà đầm
Cờ kéo >< váy lê
=> Bức tranh biếm họa về trường thi đầy rẫy những đối lập, ngược đời, trớ trêu.
=> Nghệ thuật trào phúng độc đáo trong phép đối của Tú Xương thể hiện nỗi đau, nỗi nhục mất nước được cực tả một cách cay đắng, lạnh lùng qua cặp câu luận này.
Hai câu kết
- Hai câu kết như một lời than. Nguồn mạch trữ tình như được chiết xuất ra từ những điều mắt thấy, tai nghe, từ những nhố nhăng, lôi thôi, lộn xộn trong ngoài, trên dưới nơi trường Nam năm Đinh Dậu:
Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà
- Câu hỏi: Nhân tài đất Bắc nào ai đó à lời kêu gọi những người có lòng tự tôn dân tộc hãy thức tỉnh để trông cảnh nước nhà.
- Ngoảnh cổ: thái độ, tâm thế không cam tâm sống mãi trong cảnh đời nô lệ.
- Cảnh nước nhà: hiện trạng đất nước và nỗi nhục mất nước.
=> Tú Xương là một trong hàng vạn sĩ tử dự khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Ông là người tham dự, là người chứng kiến,… Từ nỗi đau của người hỏng thi mà ông ngẫm về cái nhục của sĩ tử, của trí thức, của nhân tài đất Bắc. Thể hiện tấm lòng yêu nước, căm ghét bọn thực dân xâm lược, thức tỉnh lòng tự tôn dân tộc.

Bài soạn "Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu" (Ngữ văn 8 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu 4
Trước khi đọc
Câu 1. Nhà nước phong kiến xưa tổ chức các kì thi cho sĩ tử tham gia nhằm mục đích gì?
Tuyển chọn người tài cho đất nước.
Câu 2. Sau cuộc thi (thể thao, nghệ thuật, giáo dục...) thường sẽ có một buổi lễ xướng danh và trao giải. Mục đích của lễ xướng danh là gì?
Tuyên dương, tôn vinh những người có thành tích tốt.
Sau khi đọc
Trả lời câu hỏi
Câu 1. Bố cục bài thơ gồm mấy phần? Đó là những phần nào?
Bài thơ gồm có ba phần:
- Phần 1: Hai câu thơ đầu: giới thiệu về khoa thi năm Đinh Dậu
- Phần 2. Bốn câu thơ tiếp theo: cảnh trường thi trong thực tế
- Phần 3. Hai câu thơ còn lại: thái độ, tâm trạng của nhà thơ
Câu 2. Hai câu đề cho biết điều gì về chế độ thi cử ở nước ta cuối thế kỉ XIX?
- “Nhà nước ba năm mở một khoa”: ba năm có một khoa thi thi Hương
- Điều khác thường:
- “Trường Nam thi lẫn với trường Hà”: “Trường Nam” là trường thi ở Nam Định, “Trường Hà” là trường thi ở Hà Nội. Đó là hai trường thi Hương ở Bắc kì thời xưa. Nhưng khi thực dân Pháp đánh chiếm Hà Nội thì trường thi ở đây bị bãi bỏ, các sĩ tử ở Hà Nội phải xuống thi chung ở trường Nam Định.
- Từ “lẫn” cho thấy quang cảnh bát nháo, lẫn lộn của trường thi. Điều đó làm mất đi vẻ trang nghiêm của kì thi Hương.
=> Hai câu đề cho thấy sự thối nát, suy tàn của chế độ thi cử ở nước ta thế kỉ XIX.
Câu 3. Biện pháp tu từ nào đã được sử dụng trong cách diễn đạt “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ” và “Ậm ọe quan trường miệng thét loa”? Nêu rõ tác dụng của biện pháp tu từ đó trong việc tái hiện hình ảnh các sĩ tử và quan viên người Việt.
- Biện pháp tu từ đảo ngữ được sử dụng trong cách diễn đạt “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ” và “Ậm ọe quan trường miệng thét loa”.
Tác dụng: nhấn mạnh vào vẻ nhếch nhác của các sĩ tử và cách nói năng ra oai của đám quan trường, đồng thời tạo hiệu ứng gây cười khi những nhân tài trong một kì thi quan trọng của quốc gia lại trông thật kém cỏi, nhếch nhác, thảm hại.
Câu 4. Phân tích tác dụng của phép đối được tác giả sử dụng trong hai câu thực.
Phép đối: “lôi thôi - ậm ọe”, “sĩ tử - quan trường”, “vai đeo lọ - miệng thét loa”
Tác dụng: khắc họa cảnh thi cử lúc bấy giờ thật nhốn nháo, không còn theo quy củ; cảnh trường thi đã gián tiếp phản ánh sự suy vong của một nền học vấn, sự lỗi thời của đạo Nho.
Câu 5. Tiếng cười trào phúng được thể hiện như thế nào qua việc đặc tả, nhấn mạnh hai hình ảnh mang tính chất “ngoại lai” là quan sứ và mụ đâm?
- Quan sứ: “Lọng cắm rợp trời quan sứ đến” cho thấy sự đón tiếp trọng thể
- Mụ đầm: “Váy lê quét đất mụ đầm ra” cho thấy lối ăn mặc diêm dúa, phô trương.
- Nghệ thuật đối “lọng - váy, trời - đất, quan sứ - mụ đầm” nhằm mỉa mai, châm biếm hạ nhục bọn quan lại, thực dân.
=> Sự có mặt của quan sự đáng lẽ ra phải khiến quang cảnh trường thi trở nên trang nghiêm hơn. Nhưng trái lại, sự xuất hiện này càng khiến cho sự nhếch nhác, tùy tiện được bày ra rõ ràng hơn.
Câu 6. Nhắc đến “nhân tài đất Bắc”. tác giả muốn ám chỉ những đối tượng nào? Em cảm nhận được thái độ gì của tác giả qua lời nhắn nhủ ấy?
Nhân tài đất Bắc là những ông nghè, ông cống, những con người có lòng tự tôn dân tộc,... ở vùng Sơn Nam, ở Kinh kì Thăng Long ngàn năm văn hiến, nơi hội tụ nhân tài, tinh hoa của đất nước. Thái độ của tác giả qua lời nhắn nhủ về cảnh nước nhà bị mất nước.
Câu 7. Nhân vật nào trong bài thơ để lại ấn tượng cho em nhiều nhất? Vì sao?
Nhân vật để lại cho em nhiều ấn tượng nhất đó là sĩ tử. Sĩ tử là những học trò, người có học vấn, tầng lớp có học thức; là học sinh của Quốc Tử Giám ( trường học do nhà vua lập ra ở kinh đô); rộng hơn là học sinh tại các trường do triều đình quản lý. Còn sĩ tử trong thơ Tế Xương thì sĩ tử mà bút mực đâu không thấy, chỉ nổi bật lủng lẳng một cái lọ (vì đường xa, phải đeo theo lọ nước uống). Hàng ngàn “sĩ tử vai đeo lọ” thì lôi thôi thật, là bức tranh biếm họa để đời về anh học trò đi thi trong thời buổi thực dân nhô’ nhăng. Còn quan trường thì “ậm ọe” giọng như mửa. Sĩ tử thì đông vì dồn cả hai trường thi lại nên quan trường phải “thét loa” lại còn lên giọng đe nẹt sĩ tử nên thành ra “ậm ọe” tởm lợm thật đáng ghét. Thái độ trào lộng của nhà thơ thật rõ ràng. Đô'i với “sĩ tử”, Tú Xương thấy nhếch nhác đáng thương; đối với “quan trường”, Tú Xương khinh ghét ra mặt. Quan trường của một kì thi quốc gia bát nháo mà còn “ậm ọe” không biết nhục.
Câu 8. Cảm xúc chủ đạo của tác giả trong bài thơ này là gì?
Cảm xúc chủ đạo là phê phán hiện thực đau buồn, nhốn nháo, nhố nhăng. Và trữ tình thấm thía bao cay đắng tủi nhục.
Viết kết nối với đọc
Viết đoạn văn (khoảng 7 - 9 câu) phân tích một chi tiết có tính chất trào phúng mà em ấn tượng nhất trong bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu.
Tú Xương là một nhà thơ được sinh ra và lớn lên trong giai đoạn có thể nói là bi thương nhất của đất nước – nước ta bị Pháp tấn công và thống trị. Trước cảnh đất nước bị tù đày ấy, thơ của ông là một bức tranh hiện thực vừa bày tỏ sự đau xót của một người con nước Nam, đồng thời cũng tố cáo tội ác đen tối của bọn thực dân. Bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu là tác phẩm có tính trào phúng mà em ấn tượng nhất. "Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ, Ậm ọe quan trường miệng thét loa.” Từ “lôi thôi” được đặt lên đầu câu, nhấn mạnh vẻ lếch thếch, không gọn gàng của các vị “sĩ tử”. Bình thường, những người đi thi đều là những người đọc sách, những người luôn gọn gàng, chỉn chu. Vậy mà nay, thí sinh đi thi với vẻ xốc xếch, với lọ chai lỉnh kỉnh, không còn cái vẻ tao nhã của người đọc sách. Chỉ một đối tượng, nhưng cũng đủ để chỉ sự xuống cấp của toàn xã hội. Thí sinh không còn vẻ nho nhã trí thức thì những vị giám khảo cũng không còn vẻ nghiêm túc, đáng kính như trước nữa, chỉ còn cái dáng “thét loa” như ngoài chợ, mà nói thì cũng “ậm ọe” chẳng thành câu. Một lần nữa, tính từ miêu tả “ậm ọe” lại được cho lên đầu câu giống như từ “lôi thôi” ở trên để làm nổi bật lên sự bất tài của đám quan trông trường thi. Chúng chỉ là những kẻ vênh váo, dựa hơi, chẳng có tài năng cũng chẳng có thực quyền. Trước mắt người đọc hiện lên hình ảnh của một trường thi nhốn nháo, quan trông thi thì luôn miệng hống hách, quát tháo, sĩ tử đi thi thì lôi thôi, lếch thếch, xiêu vẹo lều chõng lọ giấy đi thi.

Bài soạn "Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu" (Ngữ văn 8 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu 5
Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu
(Trần Tế Xương)
* Nội dung chính: Văn bản miêu tả tình trạng thảm hại của kỳ thi năm Đinh Dậu (1897), đồng thời thể hiện sự đau đớn, xót xa của nhà thơ đối với tình cảnh hiện thực nhốn nháo và bất ổn của xã hội thực dân nửa phong kiến.
I. Trước khi đọc.
Câu hỏi 1. Nhà nước phong kiến xưa tổ chức các kì thi cho sĩ tử tham gia nhằm mục đích gì?
Trả lời:
– Nhà nước phong kiến xưa tổ chức các kì thi cho sĩ tử tham gia nhằm chọn ra những người tài giỏi để phục vụ đất nước.
Câu hỏi 2. Sau cuộc thi (thể thao, nghệ thuật, giáo dục…) thường sẽ có một buổi lễ xướng danh và trao giải. Mục đích của lễ xướng danh là gì?
Trả lời:
– Mục đích của lễ xướng danh là khen ngợi những người có tài, đỗ đạt cao đồng thời tuyên truyền để các thế hệ sau học tập, rèn luyện và noi theo.
II. Đọc văn bản.
Theo dõi: Các chi tiết miêu tả con người và khung cảnh lễ xướng danh.
Trả lời:
– Con người: Luộm thuộm sĩ tử vai đeo lọ
– Khung cảnh: Trường Nam thi lẫn với trường Hà; quan trường miệng thét loa.
Chú ý: Sự xuất hiện của các nhân vật người nước ngoài trong kì thi.
Trả lời:
Các nhân vật nước ngoài: quan sứ và mụ đầm.
III. Sau khi đọc.
Câu 1. Bố cục bài thơ gồm mấy phần. Đó là những phần nào.
Trả lời:
Bố cục 4 phần.
– Phần 1: Hai câu đề: Giới thiệu về khoa thi năm Đinh Dậu.
– Phần 2: Hai câu thực: Cảnh trường thi trong thực tế.
– Phần 3: Hai câu luận: Cảnh người nước ngoài xuất hiện.
– Phần 4: Hai câu kết: Tâm trạng, nỗi lòng của nhà thơ.
Câu 2. Hai câu đề cho biết điều gì về chế độ thi cử ở nước ta cuối thế kỉ XIX?
Trả lời:
Chế độ thi cử ở nước ta cuối thế kỉ XIX qua hai câu đề:
– Thời gian: Ba năm mở một khoa
– Hình thức: Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
→ Thể hiện sự lộn xộn, thiếu nề nếp, quy củ, phơi bày sự đổ nát của kì thi quốc gia và phê phán nhà nước vô trách nhiệm.
Câu 3. Biện pháp tu từ nào đã được sử dụng trong cách diễn đạt “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ” và “Ậm ọe quan trường miệng thét loa”? Nêu rõ tác dụng của biện pháp tu từ đó trong việc tái hiện hình ảnh các sĩ tử và quan viên người Việt.
Trả lời:
– Biện pháp đảo ngữ: Lôi thôi sĩ tử; ậm ọe quan trường.
– Tác dụng:
+ Thể hiện vẻ nhếch nhác, không gọn gàng, không đúng tư thế của những sĩ tử đi thi, của người làm chủ kiến thức trong kì thi.
+ Làm nổi bật đối tượng người coi thi không đúng chuẩn mực: nói năng ậm ọe, ấp úng, ra oai gượng gạo.
Câu 4. Phân tích tác dụng của phép đối được tác giả sử dụng trong hai câu thực.
Trả lời:
– Tác dụng của phép đối được tác giả sử dụng trong hai câu thực:
+ Câu thơ “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ” là một cảnh hài hước, chua chát. Đảo ngữ hai chữ “lôi thôi” lên đầu câu thơ gây ấn tượng nhếch nhác đáng buồn “vai đeo lọ”.
+ “Ậm oẹ” nghĩa là ra bộ nạt nộ, hăm doạ. Cấu trúc câu thơ đảo ngữ đưa hai tiếng tượng thanh “ậm oẹ” lên đầu câu thơ để làm nổi bật hình ảnh các quan trường “miệng thét loa”.
Câu 5. Tiếng cười trào phúng được thể hiện như thế nào qua việc đặc tả, nhấn mạnh hai hình ảnh mang tính chất “ngoại lai” là quan sứ và mụ đầm?
Trả lời:
Tiếng cười trào phúng được thể hiện qua việc đặc tả, nhấn mạnh hai hình ảnh mang tính chất “ngoại lai” là quan sứ và mụ đầm là:
– Hình ảnh “Lọng cắm rợp trời” gợi tả cảnh đón tiếp dành cho “quan sứ”, lũ ăn cướp đất nước ta, một nghi lễ cực kì long trọng. Đó là nỗi đau mất nước. Từ xưa tới năm ấy (1897) chốn trường thi là nơi tôn nghiêm, lễ giáo phong kiến vốn trọng nam khinh nữ, đàn bà đâu được bén mảng đến nơi kén chọn nhân tài. Thế mà bây giờ, không chỉ “mụ đầm ra” mụ đầm đến với “váy lê quét đất” mà còn bày ra giữa thanh thiên bạch nhật một nghịch cảnh vô cùng nhục nhã.
Câu 6. Nhắc đến “nhân tài đất Bắc”, tác giả muốn ám chỉ những đối tượng nào? Em cảm nhận được thái độ gì của tác giả qua lời nhắn nhủ ấy?
Trả lời:
– Nhắc đến “nhân tài đất Bắc” tác giả muốn ám chỉ đến: những ông nghè, ông cống, những con người có lòng tự tôn dân tộc… ở vùng Sơn Nam, ở Kinh kì Thăng Long ngàn năm văn hiến, nơi hội tụ nhân tài, tinh hoa của đất nước.
– Thái độ của tác giả: căm ghét bọn thực dân xâm lược, thức tỉnh lòng tự tôn dân tộc.
Câu 7. Nhân vật nào trong bài thơ để lại ấn tượng cho em nhiều nhất? Vì sao?
Trả lời:
Nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc nhất là sĩ tử. Vì:
– Sĩ tử là những học trò, người có học vấn, tầng lớp có học thức. Hàng ngàn “sĩ tử vai đeo lọ” thì lôi thôi thật, là bức tranh biếm họa để đời về anh học trò đi thi trong thời buổi thực dân nhô’ nhăng. Còn quan trường thì “ậm ọe” giọng như mửa.
Câu 8: Cảm xúc chủ đạo của tác giả trong bài thơ này là gì?
Trả lời:
Cảm xúc chủ đạo của tác giả:
+ Phê phán hiện thực đau buồn, nhốn nháo, nhố nhăng của sĩ tử và quan trường.
+ Thể hiện tâm trạng đau đớn, chua xót của nhà thơ trước hiện thực của đất nước.
IV. Viết kết nối với đọc.
Bài tập: Viết đoạn văn (khoảng 7 – 9 câu) phân tích một chi tiết có tính chất trào phúng mà em ấn tượng nhất trong bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu.
Đoạn văn tham khảo.
Bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu là tác phẩm có tính trào phúng mà em ấn tượng nhất nhất là 2 câu “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ, Ậm ọe quan trường miệng thét loa.” Từ “lôi thôi” được đặt lên đầu câu, nhấn mạnh vẻ lếch thếch, không gọn gàng của các vị “sĩ tử”. Bình thường, những người đi thi đều là những người đọc sách, những người luôn gọn gàng, chỉn chu. Vậy mà nay, thí sinh đi thi với vẻ xốc xếch, với lọ chai lỉnh kỉnh, không còn cái vẻ tao nhã của người đọc sách. Chỉ một đối tượng, nhưng cũng đủ để chỉ sự xuống cấp của toàn xã hội. Thí sinh không còn vẻ nho nhã trí thức thì những vị giám khảo cũng không còn vẻ nghiêm túc, đáng kính như trước nữa, chỉ còn cái dáng “thét loa” như ngoài chợ, mà nói thì cũng “ậm ọe” chẳng thành câu. Một lần nữa, tính từ miêu tả “ậm ọe” lại được cho lên đầu câu giống như từ “lôi thôi” ở trên để làm nổi bật lên sự bất tài của đám quan trông trường thi. Chúng chỉ là những kẻ vênh váo, dựa hơi, chẳng có tài năng cũng chẳng có thực quyền. Trước mắt người đọc hiện lên hình ảnh của một trường thi nhốn nháo, quan trông thi thì luôn miệng hống hách, quát tháo, sĩ tử đi thi thì lôi thôi, lếch thếch, xiêu vẹo lều chõng lọ giấy đi thi.

Bài soạn "Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu" (Ngữ văn 8 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu 6
Phân tích
Trần Tế Xương cay nhất là chuyện thi cử. Tài giỏi như ông mà phải đến lần thi thứ tám mới đậu vét được cái tú tài. Mà Tú tài thời đó thì được tiếng là “ông Tú” nhưng chỉ được “làm quan tại gia”, “ăn lương vợ”. Nhưng không được thênh thênh trên đường hoạn lộ chưa hẳn đã là rủi, thì ông Tú Xương làm thơ, làm thi sĩ, thành thi hào! Bài thơ “Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu” là một đòn trời giáng của Tú Xương vào chế độ thi cử mạt vận, hổ lốn, ô nhục của thời thực dân mới đặt chân cai trị đất nước ta:
“Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường
Hà Lôi thôi sĩ tử vai đeo
lọ Ậm ọe quan trường miệng thét loa.
Cờ cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê phết đất mụ đầm ra.
Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông lại nước nhà”.
Là sĩ tử, cũng là nạn nhân trong kì thi Hương năm Đinh Dậu (1897), tại Nam Định, Trần Tế Xương tận mắt chứng kiến sự suy đồi của Nho học, đau lòng trước nỗi ô nhục của tài tử văn nhân đât Bắc. Cho nên mở đầu bài thơ, tác giả đã phê phán sâu sắc nhà nước thực dân phong kiến thời bấy giờ:
“Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà”
Tác giả nói “nhà nước” một cách trang trọng như vậy nếu những việc làm của “nhà nước” mà tô't đẹp thì là ngợi ca, còn nếu nói đến những việc làm của “nhà nước” không ra gì thì là “hạ bệ”. Rõ ràng là Tú Xương đã “hạ bệ” cái “nhà nước” thực dân phong kiến đó bằng sự kiện “ba năm mở một khoa”. Dưới sự cai trị của “nhà nước” thực dân, đạo học (chữ Nho) đã mạt vận. “nhà nước” chỉ mở kì thi cầm chừng, hổ lốn, mất hết vẻ trang nghiêm của kì thi quốc gia: “Trường Nam thi lẫn với trường Hà”. Sợ mất an ninh ở Hà Nội, “nhà nước” thực dân đã lùa sĩ tử Hà Nội xuống Nam Định “thi lẫn” với sĩ tử trường Nam. Chỉ một từ “lẫn”, Tú Xương phơi bày cả sự đổ nát của kì thi quốc gia và phê phán “nhà nước” vô trách nhiệm.
Sang hai câu thực, sĩ tử và quan trường được nhà thơ Tú Xương biếm họa rất tài tình:
“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm ọe quan trường miệng thét loa”
Tú Xương có biệt tài mà Nguyễn Công Hoan tôn như “thần thơ thánh chữ” là chỉ trong một chữ đã lột tả được thần thái của sự vật. Chỉ một từ “lôi thôi” được đảo ra phía trước, nhấn mạnh là hình ảnh của sĩ tử bị chìm trong sự nhếch nhác. Sĩ tử mà bút mực đâu không thấy, chỉ nổi bật lủng lẳng một cái lọ (vì đường xa, phải đeo theo lọ nước uống). Hàng ngàn “sĩ tử vai đeo lọ” thì lôi thôi thật, là bức tranh biếm họa để đời về anh học trò đi thi trong thời buổi thực dân nhô’ nhăng. Còn quan trường thì “ậm ọe” giọng như mửa. Sĩ tử thì đông vì dồn cả hai trường thi lại nên quan trường phải “thét loa” lại còn lên giọng đe nẹt sĩ tử nên thành ra “ậm ọe” tởm lợm thật đáng ghét. Thái độ trào lộng của nhà thơ thật rõ ràng. Đô'i với “sĩ tử”, Tú Xương thấy nhếch nhác đáng thương; đối với “quan trường”, Tú Xương khinh ghét ra mặt. Quan trường của một kì thi quốc gia bát nháo mà còn “ậm ọe” không biết nhục.
Tú Xương còn ghi lại một hiện tượng chưa từng thấy trong lịch sử thi cử của nước nhà là “khoa thi Đinh Dậu”, có cả Tây đầm nhon nháo ở trường thi:
“Cờ cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê phết đất mụ đầm ra”
“Cờ cắm” hay “Lọng cắm”? Sách giáo khoa hiện hành chép là “Cờ cắm”, có chú thích là: có bản chép: “Lọng cắm”. Thơ Tú Xương gần với thơ ca dân gian, nhà thơ sáng tác không in ấn, không xuất bản, người đời nghe rồi ghi lại nên dễ “tam sao thất bản”. Trong những trường hợp có dị bản như thế này thì buộc người đọc, người nghiên cứu phải lựa chọn. Người soạn sách giáo khoa chọn “cờ cắm” để đối với “váy lê” ở câu dưới cho thật độc. “Cờ” mà đối vởi “váy” độc quá! Theo tôi, “lọng cắm” hay hơn:
“Lọng cắm rợp trời quan sứ đến”
Quan sứ (công sứ Nam Định Lơ Nóocmăng, đèn dự lễ xướng danh khoa thi Hương hẳn là phải có “lọng cắm rợp trời” mà “lọng cắm” thì mới “rợp trời”. Còn vế đối “Lọng cắm rợp trời” với “váy lê phết đất” cũng chỉnh quá, mà độc địa không kém. Lọng là cái che trên đầu “quan sứ” mà lại đôi với “váy” là cái che dưới mông “mụ đầm”! “Quan sứ” đến”, “mụ đầm ra”, chúng nó “đến”, nó “ra” như thế thì nhục quá, không chịu được, Tú Xương đã chơi một đòn trí mạng vào bọn Tây đầm thực dân nhốn nháo vào cái thời buổi nhô' nhăng! Tú Xương ác khẩu trong cách đối chữ đôi câu, cái tôn nghiêm đem đọ với những cái không tiện hô đúng tên thật, ông lợm sự sông, ông cho lộn tùng phèo cả đi. Nghĩ về người quan văn người quan võ thời nhí nhô' ấy, ông đem cái võng (võng điểu võng thắm) ra mà đối với cái khố dây (khố đỏ khố xanh). Tường thuật việc trường thi chữ nho có Tây đến ra bài, ông đem cái lọng quan sứ mà đối với cái váy mụ đầm, đem cái đít vịt bà đầm ra đô'i với cái đầu rồng một ông cử dô't đang lạy tạ mũ áo vua ban... (Nguyễn Tuân). Kết thúc bài thơ, tác giả chuyển từ giọng điệu trào lộng sang giọng điệu trữ tình thâm trầm. Tú Xương đau lòng nhắn nhủ với “nhân tài đất Bắc”:
“Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông lại nước nhà”
Giọng trữ tình thấm thìa ấy như có sự cộng hưởng của giọng điệu trữ tình đầy nhiệt huyết của các nhà ái quốc đầu thế kỷ như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng... Tất nhiên trong giọng điệu chung của những tâìn lòng ái quô'c ấy, ta vẫn nhận ra sắc thái riêng của Tú Xương. Khi thì xót xa thổn thức “Nhân tài đất Bắc nào ai đó”, khi thì kiêu bạc trịch thượng “Ngoảnh cổ mà trông lại nước nhà”. Không dễ gì mà hạ một chữ “ngoảnh cổ” như vậy đối với giới trí thức Bắc Hà. Phải có chân tài và quan trọng hơn nữa là phải có tấm lòng đô'i với đất nước, với dân tộc thì nhân tài đất Bắc mới tâm phục. Đúng là tâm sự yêu nước thổn thức của Tú Xương là vật bảo chứng cho những gì là lộng ngôn của nhà thơ:
“Trời không chớp hể chẳng mưa nguồn
Đêm nảo đêm nao tớ củng buồn”
(Đêm hè)
Dưới mắt Tú Xương, sự suy đồi của đạo học (chữ nho) là một hiện tượng của sự mất nước, của sự nô lệ. Với Tú Xương, nỗi nhục trong “Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu” là nỗi nhục mất nước! “Theo tôi nghĩ, thơ là ảnh, là nhân ảnh, thơ cũng ở loại cụ thế’ hữu hình. Nhưng nó khác với cái cụ thể của văn. Cũng mọc lên từ cái đông tài liệu thực tế, nhưng từ một cái hữu hình nó thức dậy được những vô hình bao la, từ một cái điểm nhất định mà nó mở được ra một cái diện không gian, thời gian trong đó nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp” (Nguyễn Tuân).
“Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu” của Trần Tế Xương là “sử thi” về đời sống nhà nho lúc Tây sang. Đạo học suy đồi, thi cử bát nháo hố’ lốn, sĩ tử mất hết nhuệ khí, quan trường mất hết nhân cách. Bọn thực dân nghênh ngang đến trường thi là một nỗi ô nhục của nhân tài đất Bắc. Nỗi đau của nhà thơ đã làm thức tỉnh tầng lớp trí thức đương thời.
Nghệ thuật trào lộng và trữ tình của Tú Xương đều sâu sắc, thấm thìa. Đối với sĩ tử, nhà thơ thương mà cười, đối với quan trường, nhà thơ căm ghét mà châm biếm, đối với bọn thực dân, nhà thơ căm thù mà đả kích, hạ nhục. Từ ngữ, hình ảnh, âm điệu, bút pháp của bài thơ bộc lộ tài hoa của một hồn thơ lỗi lạc. Đúng như lời ngợi ca của Yên Đổ:
“Kia ai chín suối xương không nát
Có lẽ nghìn thu tiếng vẫn còn”

Hãy đăng nhập để bình luận
Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .
