Top 6 Bài soạn “Và tôi vẫn muốn mẹ...” (Ngữ văn 11 - SGK Kết nối tri thức) hay nhất
Mời các bạn tham khảo một số bài soạn “Và tôi vẫn muốn mẹ...” (Ngữ văn 11 - SGK Kết nối tri thức) hay nhất mà Alltop.vn tổng hợp trong bài viết dưới đây. Chúc...xem thêm ...
Bài soạn “Và tôi vẫn muốn mẹ...” (Ngữ văn 11 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu 1
*Trước khi đọc
Câu hỏi 1 (trang 41 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Hãy chia sẻ câu chuyện cảm động nói về tình cảm của mẹ con mà bạn từng biết qua các tác phẩm nghệ thuật (văn học, sân khấu, điện ảnh,...)
Trả lời:
Câu chuyện Hãy chăm sóc mẹ kể về một người mẹ đi lạc đường và những người con mang theo dòng ký ức về mẹ trên con đường đi tìm người mẹ ấy."Khi cô con gái soạn tin nội dung để đăng bài tìm mẹ sau một tuần mẹ mất tích. Cô viết ngày sinh của mẹ là ngày 24 tháng 7 năm 1938 bố cô nói rằng mẹ sinh năm 1936 mặc dù trên các giấy tờ ghi là 1938 nhưng thật ra mẹ sinh năm 1936. Đây là lần đầu tiên cô biết điều này, bố cô bảo ngày xưa tất cả mọi người đều làm như thế, có rất nhiều đứa trẻ sinh ra chưa đầy năm đã chết. Chính vì vậy khi một đứa bé được sinh ra bố mẹ sẽ nuôi con mình vài ba năm rồi mới làm giấy khai sinh. Cô sửa số 38 thành 36 nhưng anh trai lại bảo phải ghi năm sinh 1938 như trên đúng giấy tờ. Cô thầm nghĩ không biết có cần phải ghi chính xác đến thế không khi đây chỉ là tự soạn tờ rơi chứ không phải là khai báo với cơ qua chức năng. Nhưng cô cũng sửa số 36 thành 38. Cô cũng tự hỏi ngay cả ngày sinh của mẹ không biết có phải là ngày 24 tháng 7 không...." Đọc xong cuốn sách này bạn sẽ nhận ra cha mẹ đã hy sinh cho chúng ta nhiều như thế nào. Và ta đã ỷ lại tình thương đó, quên mất là cha mẹ cũng cần chúng ta được quan tâm. Khi mà người mẹ mất tích, những đứa con chợt nhận thấy sự hiện hữu của mẹ là vô cùng quan trọng đói với cuộc sống của mình. Và họ đã tự trách bản thân mình, ân hận vì sự vô tâm của mình. Và ngay cả chồng bà bấy lâu cũng đã vô tình đứng ngoài cuộc sống bà, rồi ông cũng đau khổ trách móc bản thân khi sự vệc xảy ra... Sẽ không phí thời gian để đọc đến trang cuối cùng. Câu chuyện phản ánh xã hội Hàn Quốc hàng chục năm về trước nhưng lại chính là không ít câu chuyện đúng với xã hội Việt Nam hiện tại. Đừng để trang sách còn gấp lại dở dang vì những trang cuối cùng mới thực sự cảm động nhất. Đây là cuốn sách văn học hay về cha mẹ mà bạn nên đọc qua.
Câu hỏi 2 (trang 41 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Qua thực tế cuộc sống xung quanh, bạn biết được gì về những hậu quả mà chiến tranh gây ra đối với đời sống con người?
Trả lời:
- Đó là các thương binh, các bệnh nhân chất độc màu da cam…
- Một nỗi đau về tinh thần, đó là những dư chấn của cuộc chiến, những ám ảnh về chết chóc bom đạn, nỗi đau khi mất đi người thân, gia đình bị ly tán…
- Ô trường bị ô nhiễm nghiêm trọng bởi những chất thải hóa học dùng để chế tạo bom mìn, các chất độc hóa học giải xuống mặt đất không chỉ gây hại cho con người mà còn phá hủy những cánh rừng, động vật tự nhiên mất đi môi trường sống.
- Phá hủy vô số những công trình xây dựng vĩ đại của nhân loại
- Nguy cơ khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng,...
* Đọc văn bản
Gợi ý trả lời câu hỏi trong khi đọc:
Thời điểm và những sự kiện ban đầu xảy ra được lưu giữ trong kí ức của nhân vật.
Thời điểm: học xong lớp một vào tháng Năm năm 41 và bố mẹ tiễn tôi đi trại hè đội viên Gô-rô-đi-sa (Gorodisha) gần Min-xcơ (Minsk).
Sự kiện: mới bơi được một lần, hai ngày sau chiến tranh, đưa lên tàu và chở đi, máy bay Đức bay trên đầu còn chúng tôi hò reo.
Những hình ảnh mà nhân vật chứng kiến trên đường đi trại hè đội viên.
Đó là những chiếc máy bay lạ, cảnh chết chóc.
Hoàn cảnh của chuyến đi có gì khác thường?
Bị quân đội Đức chiêm mất thành phố và mọi người phải đến Mô-đô-vi-a (Mordovia).
Ấn tượng về nạn đói và chuyện ăn uống của con người trong đói khát.
Không chỉ trại mồ côi đói, mà những người xung quanh chúng tôi cũng đói bởi mọi thứ đều chuyển ra tiền tuyến.
Có con ngựa Mai-ca (Maika) già và rất dịu dàng nhưng bị giết; hai con mèo đói nữa.
Trạng thái tinh thần của những đứa trẻ khi thiếu vắng mẹ.
Những đứa trẻ òa khóc, gào khóc không nguôi.
Kết quả chờ đợi ba mẹ và niềm khát khao cháy bỏng của nhân vật.
Nhưng họ đã mất tích đâu đó trong một trận bom, sau này những người láng giềng kể lại, cả hai đã lao đi tìm tôi. Khi tôi đã 51 tuổi và tôi vẫn muốn khao khát muốn gặp lại mẹ.
* Sau khi đọc
Nội dung chính: Tác phẩm “Và tôi vẫn muốn mẹ…” của A-lếch-xi-ê-vích khắc họa một bức tranh chiến tranh khốc liệt, nhưng ở đó vẫn có những đứa trẻ như nhân tôi hồn nhiên, ngây thơ nhưng mang những tình cảm thiêng liêng và tình cảm đầy sâu nặng của người mẹ. Từ đó giúp con người biết trân trọng cuộc sống hòa bình và càng yêu thương gia đình hơn.
Gợi ý trả lời câu hỏi sau khi đọc:
Câu 1 (trang 44 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Hãy tóm lược nội dung được kể lại trong văn bản và cho biết những điểm nhấn quan trọng của câu chuyện.
Trả lời:
- Năm 1941 – tôi là một đứa bé 8 tuổi, sau khi từ biệt bố mẹ đi dự trại hè đội viên, gặp một trận bom của phát xít Đức, chứng kiến sự đổ máu, chết chóc. Tôi cũng như bao đứa trẻ khác phải rời trại hè, mang theo lương thực, thực phẩm về một vùng hậu phương xa xôi, không có bom đạn. ở vùng đất mới, những đứa trẻ biết thế nào là thiếu thốn, đói khát, chẳng có gì để ăn, đến nỗi phải giết cả con ngựa già chuyên chở đồ đạc, thậm chí ăn cả chồi mầm, vỏ cây. Trên tất cả là nỗi nhớ mẹ, nhớ đến mức gào khóc không nguôi. Đến lớp ba tôi trốn trại được một gia đình ông già cưu mang. Trong lòng tôi chỉ có một nỗi ước ao, được đi tìm mẹ. Cứ thế mãi sau này, khi đã năm mơi mốt tuổi, tôi vẫn muốn có mẹ.
- Điểm nhấn quan trọng của câu chuyện là các sự kiện liên quan đến mẹ - điều đã được khái quát ở nhan đề của văn bản.
Câu 2 (trang 44 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Chỉ ra những yếu tố tạo nên tính xác thực của các sự kiện được nhân vật kể lại cũng như trạng thái tâm lí của nhân vật trước các sự kiện đó.
Trả lời:
Nhân vật tôi tự kể câu chuyện của mình, tự nhớ lại những ký ức tuổi thơ mà mình đã trải qua để thấy được cái hiện thực của chiến tranh và những giá trị của tình cảm gia đình. Nét đẹp đầu tiên của nhân vật tôi lúc bé đó chính là một đứa trẻ hồn nhiên, kiên cường. Nhân vật tôi reo hò khi lần đầu tiên thấy máy bay, chỉ biết ngồi lên xe đi và nghĩ mình đang được đi trại hè. Những đứa trẻ ngây thơ được chuẩn bị cho rất nhiều bánh kẹo, sẵn sàng sẻ chia số bánh kẹo đó cho những người lính bị thương. Chúng không biết rằng mai sau đây chúng sẽ không còn cái gì để ăn. Khi đói khát ngày một nhiều, cuộc sống của những đứa trẻ càng khổ cực hơn khi phải ăn cả cỏ, vỏ cây. Nét tính cách thứ hai cũng là nét tính cách khiến người đọc ấn tượng nhất đối với nhân vật tôi. Nhân vật tôi có tình cảm sâu sắc với ba mẹ của mình, đó có lẽ là thứ tình cảm giúp nhân vật tôi vượt qua sự khốc liệt của chiến tranh. Lúc nào cũng muốn được tìm lại mẹ, không ngại khó khăn khổ cực.
Câu 3 (trang 44 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Phân tích một số chi tiết, hình ảnh tạo nên bức tranh cuộc sống đặc biệt được tái hiện trong văn bản. Chi tiết, hình ảnh nào đã thực sự gây ấn tượng mạnh với bạn? Vì sao?
Trả lời:
Những ngày đau thương, đói khát, hãi hùng và thiếu thốn tình mẹ của bao đứa trẻ trong chiến tranh khốc liệt – đó chính là nét đặc biệt của bức tranh cuộc sống được tái hiện trong văn bản. Bức tranh này được tạo nên bằng nhiều chi tiết, hình ảnh sống động:
- Máy bay đánh bom, tất cả sắc màu đều biến mất. Lần đầu tiên đứa bé biết đến từ chết chóc.
- Trên tàu, những đứa trẻ chứng kiến cảnh nhiều người lính bị thương, rên la vì đau đớn.
- Triền miên trong đói khát, người ta giết thịt cả con ngựa già thân thiết duy nhất, rồi phải ăn cây cỏ để sống qua ngày.
- Trong trại hè mồ côi, hàng chục đứa bé khóc rền gọi ba mẹ. Mỗi lần từ “mẹ” được ai vô tình nhắc tới, chúng lại “gào khóc không nguôi”.
- Đứa bé lớp ba trốn trại đi tìm mẹ, đói lả đến kiệt sức, may được ông già đem về nuôi...
Câu 4. (trang 45 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Toàn bộ câu chuyện được kể bởi một người vì chiến tranh mà đã phải nếm trải những ngày tháng đau thương ở tuổi ấu thơ, tác giả chỉ là người ghi lại. Vậy trong việc tạo lập văn bản này, tác giả đóng vai trò gì? Phân tích thái độ của tác giả khi ghi lại các sự kiện mà nhân chứng kể lại.
Trả lời:
Những kí ức về chiến tranh được lưu giữ qua ký ức của những đứa trẻ vừa chân thực, nhưng cũng đầy khốc liệt. Dưới cái nhìn của nhân vật tôi đó là bức tranh nhiều màu sắc có chút ngây ngô của trẻ con, có cả tình yêu thương sâu sắc dành cho gia đình. Việc tạo lập văn bản này, tác giả đóng vai trò làm người kể chuyện. Những câu chuyện mà nhân vật tôi kể, không có những khung cảnh gia đình áp, ở đó toàn sự chia ly xa cách. Nhưng ta vẫn có thể cảm nhận được sự yêu thương của nhân vật tôi dành cho cha mẹ, cũng như của cha mẹ dành cho nhân vật tôi. Thứ tình cảm đó khắc sâu vào tâm trí của tác giả theo nhân vật tận đến sau này. Đó là thứ tình cảm khát khao dai dẳng đi theo suốt những năm tháng trưởng thành của nhân vật tôi. Tựa đề câu chuyện là “Và tôi vẫn muốn mẹ…” cho thấy thứ tình cảm mãnh liệt tình mẫu tử. Khi nhân vật tôi chỉ là một đứa trẻ, tình yêu lớn nhất là dành cho gia đình của mình. Dù có đói khát thì chúng vẫn không khóc lóc mà chỉ khóc khi nhớ đến mẹ của mình. Tận khi lớn lên thì thứ tình cảm đó vẫn không mất đi. Dù có không còn chiến tranh, cuộc sống đủ đầy thì thứ tình cảm đó vẫn ăn sâu nảy mầm trong tâm trí của nhân vật tôi.
Câu 5 (trang 45 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Theo bạn, những yếu tố nào có khả năng tạo nên sức lay động của văn bản đối với người đọc? Thông điệp mà bạn nhận được từ văn bản "Và tôi vẫn muốn mẹ..." là gì?
Trả lời:
Các chi tiết: Những đứa trẻ lần đầu nhìn thấy máy bay, không hề biết những nguy hiểm đang cận kề. Tận khi tất cả khung cảnh xung quanh những đứa trẻ mất, thì chúng mới biết cái khốc liệt và thê thảm của những thứ này. Chúng phải trải qua một mình mà không được ở bên cạnh bố mẹ. Những đứa trẻ gặp những ngày lính bị thương và sẵn sàng cho đi tất cả những gì chúng có. Trong con mắt của những đứa trẻ ngây thơ này, thì đó như là những người cha của mình vì cha của những đứa trẻ này cũng đang phục vụ cho quân đội. Vì quân Đức đang chiếm đóng và tàn phá nặng nề, những đứa trẻ sẽ được đến những nơi mà không có chiến tranh. Nhưng đến nơi không có chiến tranh thì cuộc sống của những đứa trẻ vẫn không thể có một cuộc sống đủ đầy. Không có chỗ ăn, chỗ ngủ mà phải chợp mắt trên những đống rơm rạ. Chúng thiếu thốn đồ ăn đến mức mà những người bảo mẫu ở đấy phải giết cả con vật đang chở nước để ăn. Thiếu đồ ăn ngày một nhiều đến mức những đứa trẻ phải ăn cả vỏ cây và những chồi non, nếu như chúng không muốn chết đói. Thiếu đồ ăn không phải là điều tồi tệ nhất với những đứa trẻ mà là việc chúng phải xa gia đình của mình. Những đứa trẻ nhớ bố mẹ đến mức đêm nào cũng khóc, khiến cho những người giáo viên không dám nhắc đến mẹ trước mặt bọn chúng. Khi ngày càng nhớ mẹ, nhân vật tôi đã trốn đi để tìm mẹ.
Thông điệp: Chiến tranh đã khiến những gia đình phải xa cách, sinh ly tử biệt. Chiến tranh là thứ tàn phá nhân loại.
* Kết nối đọc – viết
Bài tập (trang 45 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) phân tích ý nghĩa hai câu cuối trong văn bản: "Tôi đã năm mươi mốt tuổi, tôi có hai con. Và tôi vẫn còn muốn mẹ".
Đoạn văn tham khảo:
Chiến tranh đã dần tước đi tất cả. Chiến tranh cũng đã khiến cho những đứa trẻ vỡ mộng một cách tàn nhẫn, khi chúng đau đớn nhận ra rằng trò chơi giả trận chẳng hề giống như những gì chúng vẫn luôn nghĩ đến. Chiến tranh cũng đã tác động sâu sắc đến nhận thức của những đứa trẻ, khiến cho chúng như “đã già đi”, không còn giữ được sự ngây thơ, hồn nhiên, mà nhìn cuộc đời bằng sự tiêu cực, trực diện với những chiều kích tăm tối của nó. Chỉ trong hai câu văn ngắn thế này, mà nỗi đau đằng đẵng suốt năm tháng gắn liền với khát vọng yêu thương tận cùng trái tim vang lên đầy day dứt: “Tôi đã năm mươi mốt tuổi, tôi có hai con. Và tôi vẫn còn muốn mẹ.” (Lời của một người đã mất mẹ trong cuộc chiến). Hai câu thơ cho thấy niềm khao khát của một đứa trẻ đã mất mẹ trong thời chiến thật ám ảnh, day dứt biết bao!
Bài soạn “Và tôi vẫn muốn mẹ...” (Ngữ văn 11 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu 2
Nội dung chính
Tác phẩm “Và tôi vẫn muốn mẹ…” của A-lếch-xi-ê-vích khắc họa một bức tranh chiến tranh khốc liệt, nhưng ở đó vẫn có những đứa trẻ như nhân tôi hồn nhiên, ngây thơ nhưng mang những tình cảm thiêng liêng và tình cảm đầy sâu nặng của người mẹ. Từ đó giúp con người biết trân trọng cuộc sống hòa bình và càng yêu thương gia đình hơn.
Trước khi đọc 1
Câu 1 (trang 41, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Hãy chia sẻ câu chuyện cảm động nói về tình cảm mẹ con mà bạn từng biết qua các tác phẩm nghệ thuật (văn học, sân khấu, điện ảnh...).
Phương pháp giải:
Dựa vào hiểu biết của bản thân để trả lời câu hỏi này.
Lời giải chi tiết:
Câu chuyện cảm động nhất về tình mẫu tử mà em biết đó là câu chuyện của Fantine và con gái của mình trong truyện Những người khốn khổ. Trong truyện. vì không có tiền nuôi con gái, cô đã gửi con mình cho một gia đình khác và hàng ngày đi làm kiếm tiền để chu cấp cho con. Đến khi con cô bị ốm và cô bị mất việc, cô đã trở thành gái điếm, rồi bán cả răng và tóc của mình để lấy tiền mua thuốc cho con gái mình. Và cho đến lúc chết, cô vẫn muốn cứu được con gái mình. Đó là một ví dụ điển hình của tình mẫu tử thiêng liêng mà em biết.
Trước khi đọc 2
Câu 2 (trang 41, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Qua thực tế cuộc sống xung quanh, bạn biết được gì về những hậu quả mà chiến tranh gây ra đối với đời sống con người?
Phương pháp giải:
Dựa vào kiến thức của bản thân.
Lời giải chi tiết:
Qua cuộc sống thực tế xung quanh, em biết được chiến tranh luôn đem đến những hậu quả nghiêm trọng với cuộc sống của chúng ta. Nó không chỉ gây ra sự phá hoại về cơ sở vật chất mà nó còn để lại những nỗi đau về tinh thần sâu sắc, nó khiến con người phải chịu cảnh ly tán, chia cắt mà thậm chí là sinh ly tử biệt…
Trong khi đọc 1
Câu 1 (trang 41, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Thời điểm và những sự kiện ban đầu xảy ra được lưu giữ trong kí ức của nhân vật.
Phương pháp giải:
Chú ý vào đoạn đầu của tác phẩm.
Lời giải chi tiết:
- Thời điểm: năm 1941
- Sự kiện: tác giả học xong lớp Một và tham gia vào một trại hè đội viên tại Gô-rô-đi-sa.
Trong khi đọc 2
Câu 2 (trang 42, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Những hình ảnh mà nhân vật chứng kiến trên đường đi trại hè đội viên.
Phương pháp giải:
Chú ý vào diễn biến tiếp theo của câu chuyện.
Lời giải chi tiết:
Tác giả đã vui sướng khi nhìn thấy những chiếc máy bay Đức và hiểu ra sự chết chóc đang đến dần khi chiếc máy bay đó ném bom xuống.
Trong khi đọc 3
Câu 3 (trang 42, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Hoàn cảnh của chuyến đi có gì khác thường?
Phương pháp giải:
Chú ý vào hoàn cảnh của chuyến đi.
Lời giải chi tiết:
Hoàn cảnh của chuyến đi khác thường ở chỗ họ đang được đưa đến nơi không có chiến tranh – cái gọi là hậu phương, nhưng cứ đi đến đâu là quân Đức chuẩn bị đánh đến đấy và họ mãi mới dừng chân tại Mô-đô-vi-a.
Trong khi đọc 4
Câu 4 (trang 42, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Ấn tượng về nạn đói và chuyện ăn uống của con người trong đói khát.
Phương pháp giải:
Chú ý diễn biến câu chuyện tiếp theo.
Lời giải chi tiết:
Ấn tượng về nạn đói và chuyện ăn uống của con người trong đói khát của tác giả rất khủng khiếp. Khi nạn đói ập đến, họ không có gì để ăn cả, thậm chí họ đã giết cả con ngựa già để ăn nó và giấu việc đó để lũ trẻ có thể ăn. Và thật may mắn vì lũ mèo quá gầy nên họ đã không phải ăn chúng. Tình cảnh đó thật sự đáng thương.
Trong khi đọc 5
Câu 5 (trang 43, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Trạng thái tinh thần của những đứa trẻ khi thiếu vắng mẹ.
Phương pháp giải:
Chú ý nội dung của đoạn tiếp theo từ “Chúng tôi đi với những cái bụng ỏng… khóc không nguôi.”
Lời giải chi tiết:
Những đứa trẻ đều rất nhớ mẹ, đến nỗi mà khi nghe thấy từ “mẹ”, tất cả đều bật khóc, những cô bảo mẫu kể chuyện cho chúng và luôn tránh nhắc đến từ đó, những đứa trẻ quá tội nghiệp.
Trong khi đọc 6
Câu 6 (trang 44, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Kết quả chờ đợi ba mẹ và niềm khát khao dai dẳng của nhân vật.
Phương pháp giải:
Chú ý vào đoạn cuối.
Lời giải chi tiết:
Sau bao nhiêu năm, trải qua biết bao sóng gió, tác giả vẫn không chờ đợi được ba mẹ của mình và khi ở độ tuổi hiện tại, đã năm mươi mốt tuổi, tác giả vẫn muốn gặp lại mẹ của mình như chục năm về trước, trong hình hài của một đứa trẻ.
Sau khi đọc 1
Câu 1 (trang 44, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Hãy tóm lược nội dung được kể lại trong văn bản và cho biết những điểm nhấn quan trọng của câu chuyện.
Phương pháp giải:
Chú ý vào các diễn biến của truyện.
Lời giải chi tiết:
Truyện kể về nhân vật tôi, vào năm tốt nghiệp lớp Một và đang tham gia vào một chuyến đi trại hè, chiến tranh đã nổ ra. Nhân vật tôi và hàng chục đứa trẻ khác được đưa đi sơ tán và sống trong trại trẻ mồ côi. Tình cảnh của chúng rất khó khăn khi luôn phải chịu cảnh đói khát và di tán. Rồi nhân vật tôi trốn ra và sống cùng một gia đình nghèo khó ở ngoài. Và nhân vật tôi vẫn luôn ấp ủ mong muốn tìm mẹ của mình nhưng không có kết quả. Cho đến ngày nay, khi đã 51 tuổi, mong muốn ấy vẫn còn.
Sau khi đọc 2
Câu 2 (trang 44, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Chỉ ra những yếu tố tạo nên tính xác thực của các sự kiện được nhân vật kể lại cũng như trạng thái tâm lí của nhân vật trước các sự kiện đó.
Phương pháp giải:
Dựa vào những yếu tố mang tính thực ở trong truyện.
Lời giải chi tiết:
Những yếu tố tạo nên tính xác thực của các sự kiện được nhân vật kể lại đó là tháng, năm sự kiện diễn ra; địa điểm được nêu ra cụ thể, đầy đủ; các sự việc đều diễn ra liền mạch và được thể hiện rõ nét qua cảm nhận của tác giả.
Sau khi đọc 3
Câu 3 (trang 44, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Phân tích một số chi tiết, hình ảnh tạo nên bức tranh cuộc sống đặc biệt được tái hiện trong văn bản. Chi tiết, hình ảnh nào đã thực sự gây ấn tượng mạnh với bạn? Vì sao?
Phương pháp giải:
Chú ý vào những sự kiện tác giả kể ra.
Lời giải chi tiết:
* Cuộc sống nghèo đói, khổ cực
- không có chỗ nằm ngủ, chúng tôi đành chợp mắt trên rơm rạ…
- rồi nạn đói bắt đầu
- … người ta gọi đi ăn trưa, nhưng chẳng có gì để ăn.
- người ta giết Mai-ca. Và cho chúng tôi nước cùng một mẩu thịt rất nhỏ…
- …có thể ăn cả xô xúp, bởi trong xúp chẳng có gì.
- chúng tôi ăn hết tất cả chồi mầm, chúng tôi tước cả lớp vỏ non…
→ Đó là tình cảnh của cuộc sống di tản bởi chiến tranh. Ở đó, những đứa trẻ đáng ra phải nhận được tình yêu thương lại phải chịu cảnh nay đây, mai đó, không có đủ thức ăn để ăn mà chỉ gắng gượng để sống sót bằng cách ăn mọi thứ mà chúng có.
* Cuộc sống thiếu vắng tình thương của mẹ
- Những đứa trẻ nhỏ, chúng tôi có khoảng bốn mươi đứa… chúng tôi khóc rền. Gọi ba gọi mẹ.
- Cô bảo mẫu và giáo viên cố không nhắc đến từ “mẹ”…
- … ai đó bất ngờ nhắc đến mẹ, lập tức tất cả khóc òa
→ Đó là tiếng khóc của những đứa trẻ đáng thương, chúng còn quá nhỏ để xa mẹ. Chúng ngày đêm mong ngóng ngày được gặp lại ba mẹ của mình trong vô vọng.
Sau khi đọc 4
Câu 4 (trang 45, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Toàn bộ câu chuyện được kể bởi một người vì chiến tranh mà đã phải nếm trải những ngày tháng đau thương ở tuổi ấu thơ, tác giả chỉ là người ghi lại. Vậy trong việc tạo lập văn bản này, tác giả đóng vai trò gì? Phân tích thái độ của tác giả khi ghi lại các sự kiện mà nhân chứng kể lại.
Phương pháp giải:
Chú ý vào tâm tư, tình cảm của nhân vật tôi.
Lời giải chi tiết:
Toàn bộ câu chuyện được kể bởi một người vì chiến tranh mà đã phải nếm trải những ngày tháng đau thương ở tuổi ấu thơ, tác giả chỉ là người ghi lại.
Trong việc tạo lập văn bản này, tác giả đóng vai trò là người kể chuyện – người chứng kiến toàn bộ và cũng tham gia vào câu chuyện này. Những câu chuyện mà nhân vật tôi kể đều có cụ thể thời gian, địa điểm rõ ràng; mọi người ra sao; trong tình cảnh như thế nào… tất cả đều được nhân vật tôi chứng kiến và kể lại. Bởi có lẽ đó là một phần ký ức kinh hoàng, đáng sợ về những năm tháng tuổi thơ gắn với chiến tranh, sống trong lo sợ, đói nghèo và thiếu vắng tình thương. Tác giả luôn cảm thông, chia sẻ với mọi người xung quanh, là một đứa trẻ hiểu chuyện và sống có tình cảm. Đặc biệt đó là nỗi nhớ mẹ, cậu bé ấy ngày đêm mong ngóng, hỏi han về mẹ của mình, rồi bắt đầu hành trình tìm kiếm trong vô vọng. Để cuối cùng, sau bao nhiêu năm trôi qua, nỗi ám ảnh về những năm tháng đó vẫn còn và cậu bé ngày ấy đã lớn lên, nhưng cậu vẫn muốn được gặp mẹ - cảm xúc ấy vẫn không thay đổi suốt bao nhiêu năm trôi qua.
Sau khi đọc 5
Câu 5 (trang 45, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Theo bạn, những yếu tố nào có tác dụng tạo nên sức lay động của văn bản đối với người đọc? Thông điệp mà bạn nhận được từ văn bản “Và tôi vẫn muốn mẹ..." là gì?
Phương pháp giải:
Chú ý vào thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm.
Lời giải chi tiết:
Theo em, những yếu tố có tác dụng tạo nên sức lay động của văn bản đối với người đọc là sự chân thực của từng câu chuyện. Mỗi sự việc trong câu chuyện được tác giả kể lại một cách ngắn gọn, cô đọng bằng chính những cảm xúc thật của mình – của một người đã trải qua hết những câu chuyện ấy. Những tình cảm trong đó đều quá đỗi chân thật, nó gắn với từng sự kiện, hoàn cảnh một cách hoàn hảo.
Và qua văn bản này, em nhận ra rằng: chiến tranh là khởi nguồn của mọi bất hạnh. Chúng ta cần phải đấu tranh và ngăn cản nó. Cậu bé trong truyện và bạn của cậu chính là hình ảnh của chúng ta khi gặp chiến tranh, nó khổ sở, thiếu thốn và đau đớn đến nhường nào. Và cái chúng ta thấy mới là những thứ diễn ra ở hậu phương, còn ngoài chiến trường kia, sự chết chóc sẽ là vô kể, mọi thứ đều sẽ trở lên khủng khiếp khi chiến tranh xảy ra, chúng ta phải ngăn chặn nó.
Kết nối đọc - viết
Câu hỏi (trang 45, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Qua những gì được văn bản cung cấp, hãy viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) phân tích ý nghĩa hai câu cuối: “Tôi đã năm mươi mốt tuổi, tôi có hai con. Và tôi vẫn còn muốn mẹ."
Phương pháp giải:
Dựa vào ý hiểu của bản thân về tác phẩm và 2 câu cuối của truyện để trả lời câu hỏi này.
Lời giải chi tiết:
Hai câu cuối của truyện như một lời tâm sự thầm kín từ tận đáy lòng của nhân vật tôi. Chiến tranh đã qua đi, ông cũng đã may mắn sống sót và có cuộc sống mới với gia đình và 2 con của mình, dù cho những ký ức về năm tháng tuổi thơ gắn với chiến tranh vẫn còn đó. Hai câu cuối đã phản ánh hậu quả của chiến tranh để lại đối với tuổi thơ của đứa trẻ ngày nào. Họ đã lớn lên, nhận thức được mọi thứ nhưng sự thiếu thốn tình mẹ ấy vẫn còn đó, trong thân xác của một người lớn tuổi, cậu vẫn nhớ về mẹ mình, vẫn muốn được gặp mẹ và được ôm vào vòng tay ấm áp đó. Đó là niềm khao khát, sự mong mỏi trong vô vọng của một đứa trẻ đã trải qua chiến tranh. Nó cũng nhắc nhở chúng ta một điều rằng: có những câu chuyện sẽ chẳng thể quên được dù thời gian có trôi qua.
Bài soạn “Và tôi vẫn muốn mẹ...” (Ngữ văn 11 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu 3
Câu 1. Hãy chia sẻ câu chuyện cảm động nói về tình cảm của mẹ con mà bạn từng biết qua các tác phẩm nghệ thuật (văn học, sân khấu, điện ảnh,...)
Một số tác phẩm như: Những ngày thơ ấu (Nguyên Hồng), Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi),...
Câu 2. Qua thực tế cuộc sống xung quanh, bạn biết được gì về những hậu quả mà chiến tranh gây ra đối với đời sống con người?
- Nhiều người đã hy sinh, có người chịu nhiều thương tật, di chứng
- Của cải mất mát
- Gia đình ly tán
Đọc văn bản
Câu 1. Thời điểm và những sự kiện ban đầu xảy ra được lưu giữ trong kí ức của nhân vật.
- Thời điểm: học xong lớp một vào tháng Năm năm bốn mốt và bố mẹ tiễn tôi đi trại hè đội viên Gô-rô-đi-sa (Gorodisha) gần Min-xcơ (Minsk).
- Sự kiện: mới bơi được một lần, hai ngày sau chiến tranh, đưa lên tàu và chở đi, máy bay Đức bay trên đầu còn chúng tôi hò reo.
Câu 2. Những hình ảnh mà nhân vật chứng kiến trên đường đi trại hè đội viên.
Hình ảnh: máy bay ném bom, những người lính bị thương
Câu 3. Hoàn cảnh của chuyến đi có gì khác thường?
Min-xcơ đã cháy, chạy rụi và bị quân Đức chiếm mất
Câu 4. Ấn tượng về nạn đói và chuyện ăn uống của con người trong đói khát.
Không chỉ trại mồ côi đói, mà những người xung quanh chúng tôi cũng đói bởi mọi thứ đều chuyển ra tiền tuyến.
Câu 5. Trạng thái tinh thần của những đứa trẻ khi thiếu vắng mẹ.
Lập tức khóc òa, tất cả gào khóc không nguôi.
Câu 6. Kết quả chờ đợi ba mẹ và niềm khát khao cháy bỏng của nhân vật.
Họ đã mất tích đâu đó trong một trận bom. Khi tôi đã năm mươi mốt tuổi, có hai con vẫn muốn có mẹ.
Sau khi đọc
Câu 1. Hãy tóm lược nội dung được kể lại trong văn bản và cho biết những điểm nhấn quan trọng của câu chuyện.
- Năm 1941, “tôi” còn là một đứa trẻ tám tuổi, tạm biệt bố mẹ đi dự trại hè đội viên. Trên đường đi, gặp một trận bom của phát xít Đức, “tôi” cùng các bạn phải rời trại hè, đến một vùng hậu phương không có chiến tranh. Ở đây, mọi người đều thiếu thốn, đói khát vì chẳng có gì để ăn, đến nỗi phải giết con ngựa già chuyên chở đồ đạc hay ăn chồi mầm, vỏ cây. Đến lớp Ba, tôi trốn khỏi trại, được một gia đình ông bà cưu mang. Trong lòng tôi khao khát đi tìm mẹ. Mãi cho đến sau này, khi đã năm mươi mốt tuổi, có hai con, tôi vẫn muốn có mẹ.
- Điểm nhấn quan trọng của câu chuyện: các sự kiện liên quan đến mẹ đều đã được khái quát ở nhan đề của văn bản, mẹ luôn hiện trong mọi thời khắc đau thương trong cuộc sống của nhân vật “tôi”, mong muốn gặp lại mẹ trở thành nỗi ám ảnh thường trực trong lòng nhân vật; nhưng phải đối mặt với sự thật phũ phàng chiến tranh đã cướp đi tất cả những người yêu thương.
Câu 2. Chỉ ra những yếu tố tạo nên tính xác thực của các sự kiện được nhân vật kể lại cũng như trạng thái tâm lí của nhân vật trước các sự kiện đó.
- Người kể chuyện có tên tuổi, nghề nghiệp cụ thể.
- Câu chuyện kể về tuổi thơ của người kể, thời điểm kể chuyện là khi người kể đã năm mươi mốt tuổi.
- Truyện được kể với ngôi thứ nhất, những sự kiện được kể lại gắn trực tiếp với trải nghiệm của người kể mà không qua một người khác.
Câu 3. Phân tích một số chi tiết, hình ảnh tạo nên bức tranh cuộc sống đặc biệt được tái hiện trong văn bản. Chi tiết, hình ảnh nào đã thực sự gây ấn tượng mạnh với bạn? Vì sao?
- Phân tích:
- Máy bay đánh bom, “tất cả màu sắc đều biến mất”, lần đầu tiên biết đến từ “chết chóc”.
- Trên tàu, những đứa trẻ chứng kiến cảnh nhiều người lính bị thương, rên la vì đau đớn.
- Triền miên trong đói khát, người ta giết thịt cả con ngựa già thân thiết, ăn cây cỏ sống qua ngày.
- Trong trại trẻ mồ côi, hàng chục đứa bé khóc đòi mẹ, hễ ai vô tình nhắc tới từ “mẹ”, tất cả lại gào khóc không nguôi.
- Khi học lớp Ba, “tôi” trốn trại đi tìm mẹ, đói lả kiệt sức và được ông già cưu mang.
- Hàng chục năm trôi qua, vẫn khao khát gặp lại mẹ.
- Chi tiết ấn tượng: Trong trại trẻ mồ côi, hàng chục đứa bé khóc đòi mẹ, hễ ai vô tình nhắc tới từ “mẹ”, tất cả lại gào khóc không nguôi.
- Nguyên nhân: Chi tiết này khiến người đọc cảm thấy đồng cảm, thương xót cho những đứa trẻ còn nhỏ phải xa mẹ, nhớ mẹ đến nỗi chỉ cần nghe thấy từ “mẹ” đã òa khóc.
Câu 4. Toàn bộ câu chuyện được kể bởi một người vì chiến tranh mà đã phải nếm trải những ngày tháng đau thương ở tuổi ấu thơ, tác giả chỉ là người ghi lại. Vậy trong việc tạo lập văn bản này, tác giả đóng vai trò gì? Phân tích thái độ của tác giả khi ghi lại các sự kiện mà nhân chứng kể lại.
Những kí ức về chiến tranh được lưu giữ qua ký ức của những đứa trẻ vừa chân thực, nhưng cũng đầy khốc liệt. Dưới cái nhìn của nhân vật tôi đó là bức tranh nhiều màu sắc có chút ngây ngô của trẻ con, có cả tình yêu thương sâu sắc dành cho gia đình. Việc tạo lập văn bản này, tác giả đóng vai trò làm người kể chuyện. Những câu chuyện mà nhân vật tôi kể, không có những khung cảnh gia đình áp, ở đó toàn sự chia ly xa cách. Nhưng ta vẫn có thể cảm nhận được sự yêu thương của nhân vật tôi dành cho cha mẹ, cũng như của cha mẹ dành cho nhân vật tôi. Thứ tình cảm đó khắc sâu vào tâm trí của tác giả theo nhân vật tận đến sau này. Đó là thứ tình cảm khát khao dai dẳng đi theo suốt những năm tháng trưởng thành của nhân vật tôi. Tựa đề câu chuyện là “Và tôi vẫn muốn mẹ…” cho thấy thứ tình cảm mãnh liệt tình mẫu tử. Khi nhân vật tôi chỉ là một đứa trẻ, tình yêu lớn nhất là dành cho gia đình của mình. Dù có đói khát thì chúng vẫn không khóc lóc mà chỉ khóc khi nhớ đến mẹ của mình. Tận khi lớn lên thì thứ tình cảm đó vẫn không mất đi. Dù có không còn chiến tranh, cuộc sống đủ đầy thì thứ tình cảm đó vẫn ăn sâu nảy mầm trong tâm trí của nhân vật tôi.
Câu 5. Theo bạn, những yếu tố nào có khả năng tạo nên sức lay động của văn bản đối với người đọc? Thông điệp mà bạn nhận được từ văn bản “Và tôi vẫn muốn mẹ…” là gì?
Các chi tiết: Những đứa trẻ lần đầu nhìn thấy máy bay, không hề biết những nguy hiểm đang cận kề. Tận khi tất cả khung cảnh xung quanh những đứa trẻ mất, thì chúng mới biết cái khốc liệt và thê thảm của những thứ này. Chúng phải trải qua một mình mà không được ở bên cạnh bố mẹ. Những đứa trẻ gặp những ngày lính bị thương và sẵn sàng cho đi tất cả những gì chúng có. Trong con mắt của những đứa trẻ ngây thơ này, thì đó như là những người cha của mình vì cha của những đứa trẻ này cũng đang phục vụ cho quân đội. Vì quân Đức đang chiếm đóng và tàn phá nặng nề, những đứa trẻ sẽ được đến những nơi mà không có chiến tranh. Nhưng đến nơi không có chiến tranh thì cuộc sống của những đứa trẻ vẫn không thể có một cuộc sống đủ đầy. Không có chỗ ăn, chỗ ngủ mà phải chợp mắt trên những đống rơm rạ. Chúng thiếu thốn đồ ăn đến mức mà những người bảo mẫu ở đấy phải giết cả con vật đang chở nước để ăn. Thiếu đồ ăn ngày một nhiều đến mức những đứa trẻ phải ăn cả vỏ cây và những chồi non, nếu như chúng không muốn chết đói. Thiếu đồ ăn không phải là điều tồi tệ nhất với những đứa trẻ mà là việc chúng phải xa gia đình của mình. Những đứa trẻ nhớ bố mẹ đến mức đêm nào cũng khóc, khiến cho những người giáo viên không dám nhắc đến mẹ trước mặt bọn chúng. Khi ngày càng nhớ mẹ, nhân vật tôi đã trốn đi để tìm mẹ.
Thông điệp: Chiến tranh đã khiến những gia đình phải xa cách, sinh ly tử biệt. Chiến tranh là thứ tàn phá nhân loại.
Kết nối đọc - viết
Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) phân tích ý nghĩa hai câu cuối trong văn bản: “Tôi đã năm mươi mốt tuổi, tôi có hai con. Và tôi vẫn còn muốn mẹ”. Chiến tranh đã dần tước đi tất cả. Chiến tranh cũng đã khiến cho những đứa trẻ vỡ mộng một cách tàn nhẫn, khi chúng đau đớn nhận ra rằng trò chơi giả trận chẳng hề giống như những gì chúng vẫn luôn nghĩ đến. Chiến tranh cũng đã tác động sâu sắc đến nhận thức của những đứa trẻ, khiến cho chúng như “đã già đi”, không còn giữ được sự ngây thơ, hồn nhiên, mà nhìn cuộc đời bằng sự tiêu cực, trực diện với những chiều kích tăm tối của nó. Chỉ trong hai câu văn ngắn thế này, mà nỗi đau đằng đẵng suốt năm tháng gắn liền với khát vọng yêu thương tận cùng trái tim vang lên đầy day dứt: “Tôi đã năm mươi mốt tuổi, tôi có hai con. Và tôi vẫn còn muốn mẹ.” (Lời của một người đã mất mẹ trong cuộc chiến). Hai câu thơ cho thấy niềm khao khát của một đứa trẻ đã mất mẹ trong thời chiến thật ám ảnh, day dứt biết bao!
Bài soạn “Và tôi vẫn muốn mẹ...” (Ngữ văn 11 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu 4
Câu 1. Hãy tóm lược nội dung được kể lại trong văn bản và cho biết những điểm nhấn quan trọng của câu chuyện.
Trả lời:
Văn bản là tổng hợp của 101 những lời kể chân thực nhất đến từ những đứa bé sống ở Belarus, Ukraine, Do Thái, Tatar, Latysh, Digan, Kazak,…Chúng được gọi là những đứa trẻ thời chiến do phải trải qua nỗi kinh hoàng của chiến tranh trong những tháng năm thơ ấu của mình. Do sự tàn ác của phát xít Đức mà hàng chục triệu con người Liên Xô hy sinh, phần lớn là những người con trai, những ông bố đã hy sinh. Cuộc chiến tranh đã để lại Liên Xô sự thiếu bóng của những người đàn ông và có những ngôi làng được gọi là những ngôi nhà góa bụa với sự tồn tại chỉ của một mẹ và một con.
Câu 2. Chỉ ra những yếu tố tạo nên tính xác thực của các sự kiện được nhân vật kể lại cũng như trạng thái tâm lí của nhân vật trước các sự kiện đó.
Trả lời:
Những yếu tố tạo nên tính xác thực của các sự kiện được nhân vật kể lại cũng như trạng thái tâm lí của nhân vật trước các sự kiện đó là do:
+ Đây là những câu chuyện do chính nhân vật tôi kể lại, tự nhớ lại những kí ức tuổi thơ của mình và những gì mình trải qua. Từ đó cho thấy hiện thực tàn khốc của chiến tranh và những đau thương mất mát mà nó mang lại.
+ Với những sự kiện đầu khi còn là đứa trẻ ngây thơ hồn nhiên thì khi nhìn thấy máy bay thì thấy thích thú và sẵn sàng chia sẻ quà bánh của mình cho những người lính mà không biết tương lai đang có những chuyện đau khổ đang chờ.
+ Khi chiến tranh xảy ra, đói khát ngày một nhiều, những đứa trẻ thậm chí còn phải ăn cả cỏ, vỏ cây. Tuy nhiên dù cực khổ khó khăn thì chúng luôn khao khát tìm thấy cha mẹ và được sống trong tình cảm gia đình.
Câu 3. Phân tích một số chi tiết, hình ảnh tạo nên bức tranh cuộc sống đặc biệt được tái hiện trong văn bản. Chi tiết, hình ảnh nào đã thực sự gây ấn tượng mạnh với bạn? Vì sao?
Trả lời:
Một số chi tiết, hình ảnh tạo nên bức tranh cuộc sống đặc biệt được tái hiện trong văn bản là:
+ Hình ảnh bọn trẻ vui vẻ và thích thú với chuyến đi trại hè đội viên mà không biết tương lai có sự kiện kinh khủng chuẩn bị diễn ra, chúng hoàn toàn không biết đến khái niệm chiến tranh và hậu quả khủng khiếp mà chúng mang lại.
+ Bọn trẻ có cuộc sống rất khổ cực, đói khát đến nỗi phải ăn cả cỏ, vỏ cây.
+ Những giáo viên còn không dám nhắc đến từ “mẹ” trước mặt chúng, cũng tránh không đọc những cuốn sách có từ này vì chúng sẽ khóc.
+ Nhân vật tôi nhớ mẹ và cậu đã quyết định trốn trại và đi tìm mẹ của mình.
+ Cậu kiên trì tìm mẹ từ lúc chiến tranh bắt đầu đến tận khi nó kết thúc, cậu vẫn không gặp được mẹ của mình. Cậu vẫn cứ chờ, chờ đến khi mình đã năm mươi mốt tuổi nhưng vẫn chưa gặp mẹ.
Chi tiết, hình ảnh đã thực sự gây ấn tượng mạnh với em là chi tiết hình ảnh Nhân vật tôi nhớ mẹ và cậu đã quyết định trốn trại và đi tìm mẹ của mình. Dù chỉ là một cậu bé đang trải qua rất nhiều cực khổ, thậm chí còn rất đói khát nhưng cậu bé vẫn rất gan dạ, vì tình yêu gia đình, với mẹ mà quyết định trốn cả trại để tìm gặp mẹ dù không biết mẹ ở đâu và biết ngoài kia tình hình đang khó khăn như nào.
Câu 4. Toàn bộ câu chuyện được kể bởi một người vì chiến tranh mà đã phải nếm trải những ngày tháng đau thương ở tuổi ấu thơ, tác giả chỉ là người ghi lại. Vậy trong việc tạo lập văn bản này, tác giả đóng vai trò gì? Phân tích thái độ của tác giả khi ghi lại các sự kiện mà nhân chứng kể lại.
Trả lời:
Toàn bộ câu chuyện được kể bởi một người vì chiến tranh mà đã phải nếm trải những ngày tháng đau thương ở tuổi ấu thơ, tác giả chỉ là người ghi lại. Vậy trong việc tạo lập văn bản này, tác giả đóng vai trò là người kể chuyện. Thái độ của tác giả khi ghi lại các sự kiện mà nhân chứng kể lại là một thái độ đồng cảm và thấu hiểu. Vì chính mình cũng phải chịu đựng và trải qua những khoảnh khắc ấy.
Câu 5. Theo bạn, những yếu tố nào có tác dụng tạo nên sức lay động của văn bản đối với người đọc? Thông điệp mà bạn nhận được từ văn bản “Và tôi vẫn muốn mẹ..." là gì?
Trả lời:
Theo em, những yếu tố có tác dụng tạo nên sức lay động của văn bản đối với người đọc là chi tiết những đứa trẻ ngây ngô không biết chiến tranh hay sự chia cách gia đình là gì nhưng vẫn phải trải qua nó. Chúng đã phải trải qua rất nhiều khổ cực và thiếu thốn khi còn độ tuổi rất trẻ, không được sống cùng bố mẹ, thiếu thốn tình cảm gia đình. Thông điệp mà em nhận được từ văn bản “Và tôi vẫn muốn mẹ..." là chiến tranh là thứ cần chống lại vì nó là thứ gì đó rất kinh khủng, gây nên mất mát và đau thương không chỉ vật chất mà còn cả con người. Nó đã gây nên rất nhiều tổn thương cho những con người phải chịu nó.
Bài soạn “Và tôi vẫn muốn mẹ...” (Ngữ văn 11 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu 5
I. Tác giả văn bản Và tôi vẫn muốn mẹ
- Avét-la-na A-lếch-xi-ê-vích sinh năm 1948
- Là nhà văn, nhà báo nổi tiếng người Bê-la-rút
II. Tìm hiểu tác phẩm Và tôi vẫn muốn mẹ
Thể loại
Văn bản thuộc thể loại kí
Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác
Tác phẩm Và tôi vẫn muốn mẹ được trích trong “Những nhân chứng cuối cùng” sáng tác năm 1985.
Phương thức biểu đạt
Văn bản có phương thức biểu đạt là tự sự, phỏng vấn
Tóm tắt
“Và tôi vẫn muốn mẹ” là tác phẩm truyện kí nói về những kí ức về chiến tranh được lưu giữ qua ký ức của những đứa trẻ vừa chân thực, nhưng cũng đầy khốc liệt. Dưới cái nhìn của nhân vật tôi đó là bức tranh nhiều màu sắc có chút ngây ngô của trẻ con, có cả tình yêu thương sâu sắc dành cho gia đình. Truyện kể về nhân vật tôi, là một cậu bé mới học xong lớp một và vừa xa gia đình. Tuổi thơ của cậu bắt đầu trải qua nhiều khó khăn, mất mát khi có sự xuất hiện của chiến tranh tàn khốc. Cậu cùng những đứa trẻ khác được đưa lên tàu và chở đi chỗ khác. Nhưng cứ đi mãi, đi mãi vì mỗi khi đi đến đâu thì nơi đó lại có chiến tranh. Những đứa trẻ lần đầu nhìn thấy máy bay, không hề biết những nguy hiểm đang cận kề. Tận khi tất cả khung cảnh xung quanh những đứa trẻ mất, thì chúng mới biết cái khốc liệt và thê thảm của những thứ này. Chúng phải trải qua một mình mà không được ở bên cạnh bố mẹ. Những đứa trẻ gặp những ngày lính bị thương và sẵn sàng cho đi tất cả những gì chúng có. Trong con mắt của những đứa trẻ ngây thơ này, thì đó như là những người cha của mình vì cha của những đứa trẻ này cũng đang phục vụ cho quân đội. Vì quân Đức đang chiếm đóng và tàn phá nặng nề, những đứa trẻ sẽ được đến những nơi mà không có chiến tranh. Nhưng đến nơi không có chiến tranh thì cuộc sống của những đứa trẻ vẫn không thể có một cuộc sống đủ đầy. Không có chỗ ăn, chỗ ngủ mà phải chợp mắt trên những đống rơm rạ. Chúng thiếu thốn đồ ăn đến mức mà những người bảo mẫu ở đấy phải giết cả con vật đang chở nước để ăn. Thiếu đồ ăn ngày một nhiều đến mức những đứa trẻ phải ăn cả vỏ cây và những chồi non, nếu như chúng không muốn chết đói. Thiếu đồ ăn không phải là điều tồi tệ nhất với những đứa trẻ mà là việc chúng phải xa gia đình của mình. Những đứa trẻ nhớ bố mẹ đến mức đêm nào cũng khóc, khiến cho những người giáo viên không dám nhắc đến mẹ trước mặt bọn chúng. Khi ngày càng nhớ mẹ, nhân vật tôi đã trốn đi để tìm mẹ. Nhưng hỏi hết chỗ này đến chỗ kia, qua bao thời gian vẫn không chờ được mẹ của mình. Khi mà chiến tranh đã kết thúc nhưng mà cha mẹ của nhân vật tôi vẫn không đến. Có thể là họ đã mất tích ở đâu đó, cũng có thể đã chết trong chiến tranh. Nhưng nhân vật tôi vẫn đợi, vẫn còn muốn gặp của mình.
Bố cục
- Phần 1 (Lớp một...không có chiến tranh): Chuyến di tản khỏi chiến tranh của nhân vật tôi.
- Phần 2 (Họ chở chúng tôi...hái tầm ma mà): Cuộc sống khó khăn, gian khổ trong chiến tranh.
- Phần 3 (Còn lại): Mong ước của nhân vật tôi.
Giá trị nội dung
Tác phẩm “Và tôi vẫn muốn mẹ…” của A-lếch-xi-ê-vích khắc họa một bức tranh chiến tranh khốc liệt, nhưng ở đó vẫn có những đứa trẻ như nhân tôi hồn nhiên, ngây thơ nhưng mang những tình cảm thiêng liêng và tình cảm đầy sâu nặng của người mẹ. Từ đó giúp con người biết trân trọng cuộc sống hòa bình và càng yêu thương gia đình hơn.
Giá trị nghệ thuật
- Truyện kí một thể loại mang đậm dấu ấn về khắc họa nhân vật
- Ngôn ngữ giàu sức biểu cảm
- Câu từ dễ hiểu và hợp lí
III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Và tôi vẫn muốn mẹ
Những chi tiết, hình ảnh trong văn bản
Những ngày đau thương, đói khát, hãi hùng và thiếu thốn tình mẹ của bao đứa trẻ trong chiến tranh khốc liệt – đó chính là nét đặc biệt của bức tranh cuộc sống được tái hiện trong văn bản. Bức tranh cuộc sống đặc biệt này được tạo nên bằng nhiều chi tiết, hình ảnh sống động:
+ Máy bay đánh bom, “tất cả màu sắc đều biến mất”. Lần đầu tiên, đứa bé biết đến từ “chết chóc”
→ Chiến tranh đến trong sự ngỡ ngàng, khó hiểu với trẻ con, chúng chưa đủ nhận thức về mức độ khủng khiếp của chiến tranh, những tâm hồn ngây thơ thậm chí không hiểu hết nghĩa của từ “chết chóc” chúng biết chiến tranh thực sự là gì. Máy bay đánh bom, màu sắc biến mất, chỉ còn màu u tối và ảm đạm của khói, của đổ nát và của cái chết.
+ Triền miên trong đói khát, người ta giết thịt cả con ngựa già thân thiết duy nhất, rồi phải ăn cỏ cây để sống qua ngày.
→ Đây chính là hậu quả nặng nề mà chiến tranh mang đến, chết chóc không chỉ đến từ mưa bom bão đạn nã xuống trên bầu trời mà nó còn đến từ nạn đói. Trong chiến tranh, lương thực khan hiếm, người ta phải tận dụng tất cả những gì có thể ăn được để duy trì sự sống. Con ngựa già mà những đứa trẻ coi là bạn thân thiết mà giờ đây chúng phải ăn thịt chính con ngựa đó, đau đớn, tổn thương. Đó là những đổ vỡ đầu đời trong tâm hồn trẻ thơ.
+ Trong trại trẻ mồ côi, hàng chục đứa bé khóc rên gọi ba mẹ. Hễ mỗi lần từ “mẹ” được ai vô tình nhắc đến, tất cả lại gào khóc không nguôi.
→ Lên ba, lên năm, vốn dĩ phải được sống trong vòng tay yêu thương của mẹ cha, được chăm sóc, nuôi dưỡng, được che chở bằng mái ấm gia đình thì giờ đây chúng trở thành trẻ mồ côi, ở trong trại trẻ mồ côi và chỉ cần nhắc đến tiếng “mẹ” là ngay lập tức òa khóc. Những đứa trẻ nhớ mẹ, chúng cần sự ấm áp của tình mẹ - thứ tình cảm không gì thay thế được.
+ Sau hàng chục năm trôi qua, cái cảm giác đói và thiếu mẹ vẫn luôn bám riết dai dẳng nhân vật “tôi”
→ Chiến tranh đã lùi xa hàng thập kỉ, kinh tế đất nước được khôi phục, cuộc sống con người dần khấm khá hơn, những vết thương ngoài da thịt rồi cũng lành lặn, chỉ có vết thương trong tâm hồn là mãi rỉ máu. “Con dù lớn vẫn là con của mẹ”, ở độ tuổi nào người ta cũng đều cần sự yêu thương, che chở của mẹ, khoảng trống mà chiến tranh tạo ra trong tâm hồn nhân vật “tôi” mãi mãi không thể bù đắp được, “tôi” đã mất mẹ, mặc dù anh cũng đã có cho riêng mình một gia đình nhỏ nhưng khát khao có mẹ chưa bao giờ nguôi ngoai.
Thái độ của tác giả
- Tư liệu sống được dùng để viết nên truyện kí này hoàn toàn do một người thợ làm tóc năm mươi mốt tuổi tên là Din-na Cô-si-ắc cung cấp cho nhà văn – nhà báo A-lếch-xi-ê-vích. Mặc dù chỉ là người ghi lại, nhưng tác giả đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo lập văn bản. Vai trò này không chỉ thể hiện ở việc lựa chọn ngôn từ, giọng kể, mà còn ở cách sắp xếp sự việc, cách sáng tạo các chi tiết, hình ảnh giàu ý nghĩa. Đặc biệt, mặc dù người kể chuyện thuộc ngôi thứ nhất xưng “tôi”, nhưng lời kể không còn là lời “nguyên bản” của người thợ làm tóc, mà là lời kể có tính nghệ thuật, được nhà văn sáng tạo nên. Qua lời kể, nhà văn thể hiện thái độ đồng cảm với những đau thương, mất mát mà nhân chứng từng nếm trải.
Tính xác thực và sức lay động của văn bản
Những yếu tố tạo nên tính xác thực của các sự kiện được nhân vật kể lại
- Đối với một tác phẩm truyện kí, tính xác thực là một yếu tố quan trọng. Ở văn bản này, một số yếu tố sau đây có thể giúp ta nhận ra tính xác thực của các sự kiện được kể lại:
+ Người kể chuyện có tên tuổi, nghề nghiệp cụ thể. Đó là Din-na Cô-si-ắc – một thợ làm tóc.
+ Câu chuyện gắn với tuổi thơ của người kể. Vào thời điểm kể lại câu chuyện cho tác giả nghe, người đã kể năm mươi mốt tuổi.
- Câu chuyện được kể bởi nnguowifkeer chuyện ngôi thứ nhất, điều đó cho thấy những sự kiện được kể lại gắn với trải nghiệm trực tiếp của người kể chứ không qua một nhân vật trung gian nào. Người kể cũng không giấu nổi thái độ, tâm trạng của mình trước các sự kiện.
Sức lay động của văn bản đối với người đọc và thông điệp
- Các chi tiết: Những đứa trẻ lần đầu thấy máy bay, không hề biết những nguy hiểm đang cận kể. Tận khi tất cả khung cảnh xung quanh những đứa trẻ mất, thì chúng mới biết cái khốc liệt và thê thảm của những thứ này. Chúng phải trải qua một mình mà không được ở bên cạnh bố mẹ. Những đứa trẻ gặp những ngày lính bị thương và sẵn sàng cho đi tất cả những gì chúng có. Trong con mắt của những đứa trẻ thơ ngây này, thì đó như là những người cha của mình vì cha của những đứa trẻ này cũng đang phục vụ cho quân đội. Vì quân Đức đang chiếm đóng và tàn phá nặng nề, những đứa trẻ sẽ được đến những nơi mà không có chiến tranh. Nhưng đến nơi không có chiến tranh thì cuộc sống của những đứa trẻ vẫn không thể có một cuộc sống đủ đầy. Không có chỗ ăn, chỗ ngủ mà phải chợp mắt trên những đống rơm rạ. Chúng thiếu thốn đồ ăn đến mứ mà những người bảo mẫu ở đấy phải giết cả con vật đang chở nước để ăn. Những đứa trẻ nhớ bố mẹ đến mức đêm nào cũng khóc, khiến cho những người giáo viên không dám nhắc đến mẹ trước mặt bọn chúng. Khi ngày càng nhớ mẹ, nhân vật tôi đã trốn đi để tìm mẹ.
- Thông điệp: Chiến tranh đã khiến những gia đình phải xa cách, sinh ly tử biệt. Chiến tranh là thứ tàn phá nhân loại.
Bài soạn “Và tôi vẫn muốn mẹ...” (Ngữ văn 11 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu 6
Dàn ý Phân tích Và tôi vẫn muốn mẹ
Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về tác giả Avét-la-na A-lếch-xi-ê-vích(những nét chính về con người, cuộc đời và đặc điểm sáng tác,...)
- Giới thiệu khái quát về tác phẩm Và tôi vẫn muốn mẹ… (xuất xứ, những đặc sắc về nội dung, nghệ thuật,...)
Thân bài:
- Khung cảnh về bức tranh chiến tranh tàn khốc
- Những vẻ đẹp tính cách của nhân vật tôi
- Sự hồn nhiên, ngây thơ nhưng cũng rất kiên cường bất khuất
- Tình cảm thiêng liêng của nhân vật dành cho mẹ của mình
Kết bài: Khẳng định lại nội dung, ý nghĩa của tác phẩm. Từ đó liên hệ với cuộc sống hiện nay.
Phân tích Và tôi vẫn muốn mẹ
Chiến tranh luôn tàn khốc, nó gây ra cho con người biết bao những tổn thương nặng nề. Xvét-la-na A-lếch-xi-ê-vích cũng đã tái hiện cái thực tế tàn bạo đó, cùng với tình cảm mẹ con thiêng liêng qua tác phẩm “Và tôi vẫn muốn mẹ…” được trích trong “Những nhân chứng cuối cùng” sáng tác năm 1985.
Trong con mắt của những đứa trẻ thơ, chúng chưa biết được chiến tranh là như thế nào. Nhưng thông qua những con chữ ta vẫn có thể thấy được những cảnh tượng tang thương, ám ảnh mà chiến tranh mang lại. Nhân vật tôi tự kể câu chuyện của mình, tự nhớ lại những ký ức tuổi thơ mà mình đã trải qua để thấy được cái hiện thực của chiến tranh và những giá trị của tình cảm gia đình. Nét đẹp đầu tiên của nhân vật tôi lúc bé đó chính là một đứa trẻ hồn nhiên, kiên cường. Nhân vật tôi reo hò khi lần đầu tiên thấy máy bay, chỉ biết ngồi lên xe đi và nghĩ mình đang được đi trại hè. Những đứa trẻ ngây thơ được chuẩn bị cho rất nhiều bánh kẹo, sẵn sàng sẻ chia số bánh kẹo đó cho những người lính bị thương. Chúng không biết rằng mai sau đây chúng sẽ không còn cái gì để ăn. Khi đói khát ngày một nhiều, cuộc sống của những đứa trẻ càng khổ cực hơn khi phải ăn cả cỏ, vỏ cây. Đọc những câu văn này khiến người đọc phải xót xa, thương cho tình cảnh khốn khó này. Nhưng khó khăn là thế nhưng nhân vật tôi vẫn rất là kiên cường, có gì ăn nấy thích nghi nhanh trước hoàn cảnh. Là một đứa trẻ nhưng có thể làm rất nhiều công việc để giúp đỡ người khác.
Nét tính cách thứ hai cũng là nét tính cách khiến người đọc ấn tượng nhất đối với nhân vật tôi. Nhân vật tôi có tình cảm sâu sắc với ba mẹ của mình, đó có lẽ là thứ tình cảm giúp nhân vật tôi vượt qua sự khốc liệt của chiến tranh. Lúc nào cũng muốn được tìm lại mẹ, không ngại khó khăn khổ cực. Những câu chuyện mà nhân vật tôi kể, không có những khung cảnh gia đình áp, ở đó toàn sự chia ly xa cách. Nhưng ta vẫn có thể cảm nhận được sự yêu thương của nhân vật tôi dành cho cha mẹ, cũng như của cha mẹ dành cho nhân vật tôi. Thứ tình cảm đó khắc sâu vào tâm trí của tác giả theo nhân vật tận đến sau này. Đó là thứ tình cảm khát khao dai dẳng đi theo suốt những năm tháng trưởng thành của nhân vật tôi. Tựa đề câu chuyện là “Và tôi vẫn muốn mẹ…” cho thấy thứ tình cảm mãnh liệt tình mẫu tử. Khi nhân vật tôi chỉ là một đứa trẻ, tình yêu lớn nhất là dành cho gia đình của mình. Dù có đói khát thì chúng vẫn không khóc lóc mà chỉ khóc khi nhớ đến mẹ của mình. Tận khi lớn lên thì thứ tình cảm đó vẫn không mất đi. Dù có không còn chiến tranh, cuộc sống đủ đầy thì thứ tình cảm đó vẫn ăn sâu nảy mầm trong tâm trí của nhân vật tôi. Viết về đề tài chiến tranh, các nhà văn Việt Nam cũng có rất nhiều tác phẩm nói về hiện thực chiến tranh và ca ngợi tình cảm gia đình trong thời kỳ đó. Như “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng. Cả hai nhà văn đều dùng những ngòi bút riêng của mình để lên án cái thảm khốc của chiến tranh và ca ngợi cái kiên cường, tình cảm con người trong thời kỳ đó.
Qua tác phẩm “Và tôi vẫn muốn mẹ…” của A-lếch-xi-ê-vích ta thấy được một bức tranh chiến tranh khốc liệt, nhưng ở đó vẫn có những đứa trẻ như nhân tôi hồn nhiên, ngây thơ nhưng mang những tình cảm thiêng liêng. Từ đó ta càng trân trọng cuộc sống hòa bình hiện nay và càng yêu thương gia đình hơn.
Hãy đăng nhập để bình luận
Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .