Top 6 Bài soạn "Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ" (Ngữ văn 10 - SGK Kết nối tri thức) hay nhất

61.4k

Mời các bạn tham khảo một số bài soạn "Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ" (Ngữ văn 10 - SGK Kết nối tri thức) hay nhất mà Alltop...xem thêm ...

Top 0
(có 0 lượt vote)

Bài soạn "Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ" - mẫu 1

Bài văn nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ không phải là một bài phát biểu cảm nhận đơn thuần. Kiểu bài viết này đòi hỏi sự chặt chẽ trong lập luận, sự sáng rõ, sắc nét của luận điểm và sự mạch lạc trong tổ chức bài viết. Bởi vậy, người viết cần nắm chắc các tri thức về đặc trưng thi ca đã được giới thiệu trong bài học và được làm rõ qua các tiết đọc văn bản để có những phân tích, đánh giá thuyết phục. Mặt khác, kiểu bài này cũng vẫn khuyến khích người viết thể hiện những rung cảm và tưởng tượng của mình khi chiếm lĩnh bài thơ.

Yêu cầu

- Giới thiệu ngắn gọn về bài thơ được chọn (tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, khuynh hướng, trào lưu văn học gắn với bài thơ, lý do lựa chọn bài thơ để phân tích, đánh giá).

- Chỉ ra và phân tích những nét đặc sắc, độc đáo của bài thơ (từ ngữ, hình ảnh, cách tổ chức nhịp điệu, nhạc điệu, cách liên kết mạch cảm xúc và hình ảnh, ...)

- Đánh giá giá trị của bài thơ về phương diện nghệ thuật cũng như ý nghĩa nhân sinh.


Phân tích bài viết tham khảo

Những điệu xanh của mùa xuân (Đọc Mùa xuân xanh của Nguyễn Bính)

- Luận điểm 1: Nêu ấn tượng trước sự gợi mở của nhan đề và câu mở đầu bài thơ

- Luận điểm 2: Phân tích mạch triển khai hệ thống hình ảnh trong bài thơ

- Luận điểm 3: Phân tích phép đối, phép điệp và hiệu quả thẩm mĩ mà các phép tu từ này gợi ra

- Luận điểm 4: Liên hệ, so sánh với thơ truyền thống để làm rõ những nét mới mẻ của bài thơ

- Luận điểm 5: Khẳng định giá trị thẩm mĩ và giá trị nhân bản của bài thơ. 


*Trả lời câu hỏi

Câu 1 (trang 64 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)

- Cách cảm nhận phân tích bài thơ theo trình tự tuyến hình ảnh dọc bài thơ, trình tự câu thơ, khổ thơ giúp người đọc có thể theo dõi mạch cảm xúc bài thơ theo một trật tự tuyến tính, không bỏ sót những hình ảnh, từ ngữ quan trọng. Đây là cách phân tích dễ đọc, dễ hiểu và dễ quan sát đối với bạn đọc. 


Câu 2 (trang 64 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)

- Trong bài văn nghị luận phân tích, đánh giá về một tác phẩm thơ, thực chất của việc phân tích chủ đề là chỉ ra được những đặc sắc nghệ thuật của bài, bao gồm: từ ngữ, hình ảnh, cách tổ chức nhịp điệu, nhạc điệu, cách liên kết mạch cảm xúc và hình ảnh,...


Câu 3 (trang 64 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)

- Người viết đánh giá: “Mùa xuân xanh” là bài thơ của niềm vui sống, của sự chan hoà giữa con người với tạo vật, là khúc dạo đầu của tình yêu lứa đôi. Những giá trị nhân bản ấy lại được thể hiện bằng một thứ ngôn từ thơ ca tự nhiên, giản dị nhưng vẫn có tính hiện đại. 

- Đây là một đánh giá vô cùng thuyết phục bởi nó được đặt ở kết bài, tác giả nêu ra những khái quát chung nhất về bài thơ qua những luận điểm đã phân tích ở trên. Nội dung bài thơ “niềm vui sống, sự chan hoà giữa con người với tạo vật, khúc dạo đầu của tình yêu” được chứng minh qua hệ thống “ngôn từ thơ ca tự nhiên, giản dị mà hiện đại” với các luận điểm rõ ràng, luận chứng thuyết phục đã được tác giả đưa ra. 


*Thực hành viết

Chuẩn bị viết

- Lựa chọn bài thơ sẽ được phân tích, đánh giá. Cân nhắc để chọn đúng bài thơ đã thật sự làm bạn rung cảm và tin vào giá trị nghệ thuật của nó. 

 + Bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử

- Tìm đọc tham khảo những bài viết, ý kiến liên quan đến bài thơ bạn sẽ phân tích, đánh giá


Tìm ý, lập dàn ý

Tìm ý

- Đọc lại bài thơ đã lựa chọn. Có thể đọc thầm hoặc đọc thành tiếng để cảm nhận đầy đủ hơn về âm điệu, nhịp điệu của nó. Chú ý những cách diễn đạt lạ, có thể lần đầu mình bắt gặp và những hình ảnh gây ấn tượng. Sau khi đọc, hãy suy nghĩ vì sao bài thơ lại có những cách tổ chức và kết hợp ngôn từ đặc biệt như vậy?

+ Nhan đề bài thơ “Mùa xuân chín”

+ Nhịp điệu nhanh, thể hiện âm điệu thiết tha, da diết

+ Những cách kết hợp từ mới lạ: khói mơ, sột soạt gió, sóng cỏ, đám xuân xanh, tiếng ca vắt vẻo, mùa xuân chín,...

- Thử liên kết âm điệu, nhịp điệu, ngôn ngữ, hình ảnh của bài thơ và chú ý xem mạch liên kết này có thể đem đến cho bạn sự bất ngờ nào trong cảm xúc, liên tưởng và nhận thức.

+ Mạch cảm xúc bài thơ đi từ ngoại cảnh đến tâm cảnh, từ cảnh xuân đến tình xuân. - Khi phân tích nội dung nghệ thuật của bài thơ, chú ý vận dụng các thao tác so sánh và liên tưởng một cách thích hợp.

- Cần tập trung vào những phương diện hình thức nghệ thuật và nội dung của bài thơ mà người đọc xem là độc đáo, mới mẻ, thú vị.

+ Điểm độc đáo của bài thơ là những hình ảnh tượng trưng siêu thực đầy huyền ảo

- Khi đánh giá bài thơ, cần chú ý đầy đủ các giá trị thẩm mĩ và giá trị nhân văn của nó. 

Lập dàn ý

- Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về bài thơ (tác giả, thời điểm ra đời, nơi xuất bản, đánh giá chung của dư luận,....) và nêu các vấn đề chính sẽ được tập trung phân tích trong bài viết.

- Thân bài

+ Mạch ý tưởng, cảm xúc của nhân vật trữ tình (nhân vật trữ tình muốn biểu đạt điều gì, thông qua hình tượng nào, với cái nhìn và thái độ ra sao...)

+ Sự phát triển của hình tượng chính (qua các khổ, đoạn trong bài) và tính độc đáo của những phương tiện ngôn từ đã được sử dụng (từ ngữ, cách gieo vần, ngắt nhịp, các biện pháp tu từ,...)

+ Nét hấp dẫn riêng của bài thơ so với những sáng tác khác cùng đề  tài, chủ đề, thể loại (của chính nhà thơ hoặc của những tác giả khác)

- Kết bài: Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ, ý nghĩa của bài thơ đối với người viết bài nghị luận. 


Gợi ý dàn ý bài văn nghị luận về bài thơ “Mùa xuân chín” (Hàn Mặc Tử)

I – Mở bài

- Giới thiệu Hàn Mặc Tử là một nhà thơ thuộc phong trào Thơ mới, theo đuổi chủ nghĩa tượng trưng siêu thực

- “Mùa xuân chín” lag một sáng tác của Hàn Mạc Từ trích trong tập “Đau thương” (1938)

II – Thân bài

Mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình

- Mạch cảm xúc bài thơ đi từ bức tranh ngoại cảnh đến bức tranh tâm cảnh, từ cảnh xuân đến tình xuân. 

- Nhan đề “mùa xuân chín”

Cảnh xuân

- Nhà thơ vẽ nên bức tranh thiên nhiên mùa xuân rực rỡ, tươi đẹp, tràn đầy sức sống

+ Dấu hiệu báo xuân sang: nắng ửng, khói mơ, mái nhà tranh, tà áo biếc, giàn thiên lý

+ Những kết hợp từ độc đáo: nắng ửng, khói mơ tan, sóng cỏ, đám xuân xanh

+ Nghệ thuật đảo ngữ “sột soạt gió trêu tà áo biếc”

+ Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “bóng xuân sang”, “tiếng ca vắt vẻo”

=> Khung cảnh làng quê thanh bình, yên ả mà đằm thắm yêu thương.  

Tình xuân

- Nhà thơ thể hiện nỗi nhớ quê, niềm khát khao giao cảm với cuộc đời

+ Niềm vui của con người khi xuân đến: “Ngày mai trong đám xuân xanh ấy / Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi”

+ Tình yêu đời, khao khát giao hoà với cuộc đời: “Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi /  Hổn hển như lời của nước mây”

+ Nỗi nhớ làng quê da diết: “Khách xa gặp lúc mùa xuân chín / Lòng trí bâng khuâng sự nhớ làng”.

Nét hấp dẫn, độc đáo riêng của bài thơ

- So sánh “Mùa xuân chín” với thơ Đường, từ đó làm rõ tính cổ điển và hiện đại trong bài thơ. 

III – Kết bài

- Khẳng định giá trị thẩm mĩ, tư tưởng của bài thơ


*Viết

Bài viết tham khảo

Nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn từng nhận định: “Thơ Hàn Mặc Tử là tiếng thơ cất lên từ sự hủy diệt để hướng về sự sống”. Quả đúng là như vậy đọc thơ Hàn Mặc Tử ta luôn thấy một tấm lòng khao khát yêu đời, khao khát sống. Một trong số đó là bài thơ “Mùa xuân chín”. Bài thơ được rút trong tập “Đau thương” (1938) – được coi là “tiếng thơ thuộc loại trong trẻo nhất của Hàn Mặc Tử”, trong trẻo song cũng đầy bí ẩn, đau thương. 


“Mùa xuân chín” gây ấn tượng với bạn đọc bởi chính nhan đề của nó. Bởi lẽ, đọc thơ của Hàn Mặc Tử, ta luôn thấy một sự u huyền, mơ mộng, kì bí, đượm buồn và đau thương với những hình ảnh đặc trưng là “máu”, “trăng” và “rượu”. Thế nhưng, “mùa xuân chín” lại mang đến một cảm giác hoàn toàn mới lạ, một không gian tràn đầy sức sống của cảnh xuân và tình xuân. “Chín” vốn là tính từ để chỉ trạng thái của quả cây khi đã đến giai đoạn thu hoạch, ngọt ngào, căng mọng và thơm mát. Với ý nghĩa đó, Hàn Mặc Tử đã tạo nên một “mùa xuân chín” – một mùa xuân tràn đầy sức sống, viên mãn và tròn đầy. Mùa xuân đang ở độ tươi đẹp nhất, rạng rỡ nhất, căng tràn nhựa sống nhất. 


Mạch thơ là dòng tâm tư bất định với những chuyển kênh bất chợt. Về thời gian, tác giả đang say đắm trong thời khắc hiện tại với cảnh xuân tươi đẹp phô bày trước mắt, bỗng sực nhớ về quá khứ xa căm với khung cảnh làng quê thân thương. Về cảnh sắc, bức tranh xuân đang từ ngoại cảnh (mái nhà tranh, giàn thiên lí, sóng cỏ xanh tươi,...)   thoắt biến thành tâm cảnh ( người con gái dánh thóc dọc bờ sông trắng). Về cảm xúc, Hàn Mặc Tử đã bày tỏ dòng tâm tư của bản thân với nhiều bước ngoặt: từ niềm say mê, rạo rực đến trạng thái bâng khuâng, xao xuyến rồi buồn thương da diết. Có thể thấy, mạch thơ không đi theo một chiều mà luôn vận động vô cùng linh hoạt, phong phú. Đó chính là phong cách thơ độc đáo của chàng thi sĩ họ Hàn. Mở đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên tươi mới, ngập tràn ánh sáng, ngập tràn sắc xuân: 


“Trong làn nắng ửng khói mơ tan

  Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng

  Sột soạt gió trêu tà áo biếc

  Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang”.


Thiên nhiên mùa xuân hiện ra ngập tràn sắc vàng của nắng hoà trong làn sương khói mờ ảo, huyền bí. Cách kết hợp từ “khói mơ tan” khiến ta hình dung những làn khói sương như đang hoà tan trong nắng tạo nên một khung cảnh đẹp như mơ. Sắc vàng của nắng càng trở nên rực rỡ với hình ảnh “đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng”. Trong khung cảnh thanh bình, yên ả ấy bỗng nhà thơ bắt gặp tiếng “sột soạt” của “gió trêu tà áo biếc”. Biện pháp đảo ngữ và nhân hoá đã được nhà thơ sử dụng thật tài tình. “Sột soạt” được đảo lên đầu câu nhằm nhấn mạnh của động của cảnh vật. Gió như đang trêu đùa cùng tà áo biếc đón xuân sang, khiến không khí mùa xuân trở nên sôi động, vui tươi, đầy hứng khởi. Từ mái nhà tranh, nhà thơ di chuyển điểm nhìn đến “giàn thiên lí”. Dấu chấm đặt giữa câu thơ như một sự ngập ngừng, ngắt quãng. Bởi đó là khoảnh khắc thi nhân giật mình nhận ra “bóng xuân sang”. Mùa xuân được hữu hình hoá, có thể quan sát bằng thị giác. Bóng của mùa xuân nhẹ nhàng bước tới như thể đang đứng trước mặt nhà thơ, khiến con người ngỡ ngàng mà chiêm ngưỡng cái sắc xuân tươi đẹp ấy.


Từ điểm nhìn cận cảnh, Hàn Mạc Tử đưa tầm mắt ra xa với cái nhìn viễn cảnh. Không gian mùa xuân được rộng mở với “sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. “Sóng” được kết hợp với thảm có xanh mướt khiến bạn đọc hình dung từng lớp cỏ như nối tiếp nhau, trải dài bất tận, sức sống dường như đang căng tràn một cách mãnh liệt. Ý thơ làm ta nhớ đến một câu thơ trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” của Nguyễn Du: “Cỏ non xanh tận chân trời”. Cùng diễn tả một không gian mùa xuân với thảm cỏ xanh mướt trải dài bất tận nhưng cái độc đáo của Hàn Mặc Tử là cách nói “sóng cỏ” gợi ra một sự uyển chuyển, nhẹ nhàng mà mượt mà của những lớp cỏ xuân. Phải chăng sức sống cuộn trào từ bên trong, tạo thành những đợt sóng và kết lại tạo nên một “mùa xuân chín”!


Từ cảnh thu, Hàn Mạc Tử bỗng chuyển sang tình thu, bức tranh ngoại cảnh trở về với bức tranh tâm cảnh. Phải chăng, nhà thơ dùng cảnh mở đầu là để nói tình, tả tình? Một cái tình nồng hậu, thiết tha với con người và cuộc đời. Hoà cùng với không khí tươi vui của mùa xuân, ta thấy được cái náo nức trong lòng người:


“Bao cô thôn nữ hát trên đồi

-Ngày mai trong đám xuân xanh ấy

  Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi”


“Xuân xanh” là một ẩn dụ để chỉ những cô gái trẻ trung, xinh đẹp. Tuổi xuân của họ tươi đẹp, rực rỡ như mùa xuân của đất trời. Chính vì vậy, niềm vui của những cô thôn nữ hoà trong không khí mùa xuân chính là tình xuân. Cái ửng của nắng phải chăng chính là đôi má ửng hồng của các cô gái khi “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Niềm vui của họ là tình yêu đôi lứa, là sự gắn kết trong hôn nhân đến bạc đầu. “Mùa xuân chín” không chỉ là tiết trời xuân mà còn là tình xuân. Cái “chín” trong tình yêu chính là kết quả nên vợ nên chồng. Niềm hạnh phúc của những cô gái được thể hiện trong “tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi”. Hàn Mặc Tử đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác thật tài tình. “Tiếng ca” vốn được cảm nhận bằng thính giác, nay được hữu hình hoà trong trạng thái “vắt vẻo”, cảm nhận bằng thị giác. Tiếng hát ca say sưa của con người như có sức hút, cao vút đến lưng chừng núi thể hiện niềm thiết tha yêu đời mãnh liệt. Dư âm của tiếng hát dường như còn ngập ngừng mà “vắt vẻo lưng chừng núi” tạo nên một âm thanh vang vọng khắp không gian. Xuân tình từ thiên nhiên lây lan, giao ứng với xuân tình trong lòng người, cả hai nhập vào nhau trong cùng một tiếng hát. Là tiếng hát của những cô thôn nữ mà cũng là tiếng hát của nước mây. Thiên nhiên và con người đồng ca, đồng vọng hay tiếng hát trong lòng thiên nhiên đang cất lên qua lời hát của con người. Từ âm thanh cao vút, hổn hển như lời của nước mây bỗng trở thành những lời thầm thì nhỏ bé:


“Thầm thì với ai ngồi dưới trúc

  Nghe ra ý vị và thơ ngây”


Câu thơ phảng phất tính tượng trưng, siêu thực trong thơ Hàn Mạc Tử. Đại từ “ai” xuất hiện như “bóng ai đậu bến sông trăng đó” (Đây thôn Vĩ Dạ) đầy bí ẩn. “Tiếng ca” vốn vang xa khắp núi rừng nay thu lại chỉ dành cho “ai”. Đó có thể là người thương, cũng có thể là với chính bản thân mình. Để rồi, khi tâm tình, sẻ chia, con người có thể lắng nghe được những “ý vị và thơ ngây” trong lòng mình. Tuy nhiên, câu thơ cũng mang theo nỗi buồn, niềm nuối tiếc của người thi sĩ trước “mùa xuân chín”. Bởi “xuân chín” rồi cũng là lúc “xuân tàn”, cái đẹp rồi cũng sẽ tàn phai. “Đám xuân xanh ấy” rồi cũng “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Tuổi xuân tươi đẹp của người thiếu nữ rồi cũng có điểm kết. Ta thấy dâng lên trong lòng nhà thơ một nỗi niềm bâng khuâng, xao xuyến, muốn níu giữ cái hương sắc tươi đẹp của cuộc đời. Để rồi, kết thúc bài thơ, Hàn Mặc Tử hoá thân trong một người “khách xa”, bày tỏ nỗi nhớ nhung của mình:


“Khách xa, gặp lúc mùa xuân chín

  Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng

  -Chị ấy, năm nay còn gánh thóc

 Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. 


Trước “mùa xuân chín”, lòng “khách xa” bỗng trào dâng nỗi nhớ làng quê thân thương. Nhớ làn nắng ửng, nhớ đôi mái nhà tranh, nhớ tà áo biếc và nhớ cả giàn thiên lý. Đó là một không gian làng quê mộc mạc, giản dị, gần gũi mà chan chứa nghĩa tình. Và trong không gian ấy, hình ảnh người chị gánh thóc trở thành trung tâm của nỗi nhớ. “Chị ấy” là một cách nói phiếm chỉ. Đó có thể là một người dân lao động bình thường nơi thôn quê của tác giả, cũng có thể là một người thân quen gần gũi, hoặc cũng có thể là cô người yêu của thi nhân. Thế nhưng, dù hiểu theo cách nào, ta cũng thấy một niềm yêu quý và trân trọng của tác giả đối với “chị”. Người con gái xuất hiện trong nét đẹp lao động với tư thế gánh thóc, hoà cùng ánh nắng vàng bên bờ sông trắng. Một khung cảnh hiện lên thật thơ mộng, lãng mạn biết bao! Ta có thể thấy ánh nắng xuân lúc này càng trở nên long lanh, lấp lánh hơn trong dòng hồi tưởng của người khách xa quê. 


Như vậy, bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử có sự hài hoà của sắc xuân, tình xuân. Không chỉ mùa xuân chín mà lòng người cũng “chín” với khát khao giao cảm với cuộc đời, “chín” với tình yêu và nỗi nhớ. Một nét đặc trưng tiêu biểu làm nên sự độc đáo của “Mùa xuân chín” cũng như ngòi bút tài hoa của Hàn Mặc Tử chính là sự kết hợp tài tình giữa cái cổ điển và cái hiện đại. Trước hết, ta bắt gặp thơ Hàn Mặc Tử có những điểm giao thoa với thể thơ Đường luật, tạo nên một nét thơ phảng phất phong vị cổ điển, trang trọng. “Mùa xuân chín” được sáng tác theo thể thơ bảy chữ, ngắt nhịp 4/3. Thất ngôn và ngắt nhịp 4/3 là đặc trưng tiêu biểu của thơ Đường luật. Ngoài ra, cách gieo vần cuối những câu thơ 1, 2, 4 cũng là một điểm giao thoa với thể thơ Đường luật. Đó là những yếu tố làm nên phong vị cổ điển trong thơ Hàn Mặc Tử. Về tính hiện đại, thi sĩ họ Hàn là người chịu nhiều ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực. Một trong những đặc điểm tiêu biểu của thơ tượng trưng siêu thực đó là tạo nên những hình ảnh huyền ảo, kì bí, thậm chí là ma mị bằng những kết hợp từ mới mẻ, độc đáo thông qua nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Có thể thấy ngòi bút của Hàn Mạc Tử đã đạt đến trình độ điêu luyện trong việc sáng tạo nên những kết hợp từ ngữ mới: mùa xuân chín, bóng xuân sang, đám xuân xanh, tiếng ca vắt vẻo, nghe ra ý vị và thơ ngây. Tất cả những gì trừu tượng, không thể cảm nhận bằng mắt thường đã được nhà thơ hữu hình hoá một cách thật tài tình, độc đáo. Những nét thơ mới lạ tạo nên tính hiện đại rất riêng trong thơ Hàn Mặc Tử. Hoà cùng với dòng phát triển của Thơ mới trong thời bấy giờ, thơ Hàn Mặc Tử đã tạo ra một lối rẽ riêng - tinh tế, độc đáo và mới lạ. 


Thơ Hàn Mặc Tử bộc lộ một thế giới nội tâm mãnh liệt với những cung bậc cảm xúc được đẩy đến tột cùng. Đọc “mùa xuân chín”, ta thấy Hàn Mặc Tử đã mượn bức tranh xuân tươi đẹp, rạo rực, tràn đầy sức sống để bày tỏ cái “xuân chín” trong lòng người. “Chín” trong tình thương, “chín” trong nỗi nhớ về con người, cuộc đời và quê hương. Nổi bật hơn hết là một tấm lòng khát khao giao cảm với cuộc đời, trân trọng cái đẹp và ý thức nâng niu, giữ gìn những gì tinh tuý, đẹp đẽ của cuộc đời. Khao khát ấy trở thành sợi chỉ xuyên suốt trong những sáng tác của Hàn Mặc Tử, tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc, để tư tưởng trong những dòng thơ còn âm vang mãi cho đến hiện tại. 


*Chỉnh sửa và hoàn thiện

- Đọc lại và kiểm tra bài viết, đồng thời đối chiếu với các yêu cầu của đề bài, mục đích mà người viết đặt ra

- Thử tóm tắt lại bài viết (khoảng 120 chữ) để tự đánh giá về mức độ chặt chẽ và sự sáng rõ của các luận điểm

- Chỉnh sửa các lỗi về chính tả và ngữ pháp

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 1
(có 0 lượt vote)

Bài soạn "Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ" - mẫu 2

1. Bài viết tham khảo cảm nhận và phân tích bài thơ Mùa xuân xanh (Nguyễn Bính) vừa theo tuyến hình ảnh trải dọc bài thơ, vừa theo trình tự câu thơ, khổ thơ. Cách cảm nhận và phân tích đó có những ưu thế gì nổi bật? 

Trả lời:

Ưu điểm của cách cảm nhận và phân tích thơ vừa theo tuyến hình ảnh trải dọc bài thơ, vừa theo trình tự câu thơ, khổ thơ:

- Cách cảm nhận và phân tích này chỉ ra được các hình ảnh nổi bật trong bài thơ từ đó đánh giá và nhận xét được suy nghĩ, quan niệm của tác giả một cách chính xác nhất.

- Cách cảm nhận và phân tích này thể hiện được rõ ràng mạch cảm xúc của bài thơ, phân tích bài thơ theo từng câu, từng khổ thơ một cách rõ ràng và mạch lạc để người đọc có thể dễ dàng hiểu được nội dung bài thơ từ đầu đên cuối.

- Với bài thơ Mùa xuân xanh, cách cảm nhận này không chỉ làm nổi bật được nội dung bài thơ, phân tích được tác dụng của các biện pháp nghệ thuật trong từng câu thơ, khổ thơ; mà còn nhấn mạnh được các chi tiết, hình ảnh quan trọng trong bài thơ.

=> Cách cảm nhận và phân tích vừa theo tuyến hình ảnh dọc bài thơ vừa theo trình tự câu thơ, khổ thơ giúp người đọc cảm nhận bài thơ một cách dễ hơn, rõ ràng hơn và không bị bỏ quên một chi tiết nào của bài thơ.


2. Trong bài nghị luận phân tích, đánh giá về một tác phẩm thơ, thực chất của việc phân tích chủ đề là gì?

Trả lời:

Trong bài nghị luận phân tích, đánh giá về một tác phẩm thơ, thực chất của việc phân tích chủ đề là việc phân tích, nêu cảm nhận của bản thân về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm thơ đó. Phân tích chủ đề để làm nổi bật lên nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ đồng thời nhận xét và đánh giá quan niệm của tác giả qua bài thơ đó.


3. Người viết đã đánh giá bài thơ như thế nào? Nêu nhận xét khái quát về tính thuyết phục của đánh giá đó.

Trả lời:

- Người viết đã đánh giá bài thơ là bài thơ giản dị mà vẫn làm toát lên sức sống phơi phới của vạn vật lúc xuân về. Nó là bài thơ của niềm vui sống, của sự chan hòa giữa con người với tạo vật, là khúc dạo đầu của tình yêu lứa đôi.

- Về tính thuyết phục của đánh giá trên:

+ Người viết đã phân tích từng câu thơ, từng hình ảnh trong bài thơ để làm nổi bật giá trị nội dung của bài thơ.

+ Người viết cũng nêu và phân tích được các biện pháp nghệ thuật tu từ trong bài thơ và nhận xét được phong cách nghệ thuật của tác giả.

+ Ngoài ra, người viết cũng sử dụng một số câu thơ, bài thơ cùng chủ đề để so sánh và đánh giá.

=> Đánh giá của người viết với bài thơ đã có đủ sức thuyết phục người đọc, có những luận điểm, lí lẽ và bằng chứng xác đáng, làm nổi bật được giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.


B. Bài tập và hướng dẫn giải

 THỰC HÀNH VIẾT

Thực hành viết: Phân tích bài thơ "Rằm tháng Giêng" của tác giả Hồ Chí Minh.

=> Xem hướng dẫn giải

Dàn ý:

I. Mở bài

Giới thiệu về tác giả Hồ Chí Minh.

Giới thiệu về bài thơ “Rằm tháng giêng”.

II. Thân bài

Thiên nhiên ở chiến khu Việt Bắc trong đêm trăng

- Hình ảnh ánh trăng: “nguyệt chính viên” - trăng đúng lúc tròn nhất.

=> Không gian bao la, tràn ngập ánh trăng. 

- Sức sống của mùa xuân: “xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên”

=> Ba chữ “xuân” nối tiếp nhau thể hiện sức xuân và sắc xuân đang trỗi dậy. Khung cảnh tràn đầy sức sống.

=> Hai câu đầu đã khắc họa bức tranh thiên nhiên đêm rằm mùa xuân đẹp, bát ngát, rộng lớn và tràn đầy sức sống.

Hình ảnh con người trong đêm trăng ở chiến khu Việt Bắc

- Công việc: “đàm quân sự” - bàn việc quân nghĩa là bàn việc kháng chiến, bàn việc sinh tử của của dân tộc.

- Hình ảnh “trăng ngân đầy thuyền”: gợi sức lan tỏa của ánh trăng trong đêm rằm và qua đó thể hiện ý nguyện, mong muốn vươn tới thành công trong sự nghiệp cách mạng.

=> Hai câu thơ cuối cho thấy phong thái ung dung, lạc quan, luôn tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng và tâm hồn giao cảm, hòa hợp với thiên nhiên của Bác Hồ.

III. Kết bài

- Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.

- Đánh giá giá trị của tác phẩm. 


Bài mẫu

Bài thơ “Rằm tháng giêng” được Bác Hồ viết trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ không chỉ miêu tả hình ảnh thiên nhiên ở chiến khu Việt Bắc trong đêm trăng mà còn thể hiện được tình yêu thiên nhiên, tâm hồn nhạy cảm cũng như tấm lòng yêu nước sâu nặng của chủ tịch Hồ Chí Minh.


Mở đầu bài thơ là hình ảnh ánh trăng trong đêm tại chiến khu Việt Bắc:

"Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên"

(Đêm nay, đêm rằm tháng giêng, trăng đúng lúc tròn nhất)


Hình ảnh ánh trăng vào đêm rằm tháng giêng được nhà thơ miêu tả là “nguyệt chính viên” (trăng đúng lúc tròn nhất). Ánh trăng lúc này dường như bao phủ khắp núi rừng Việt Bắc khiến cho cảnh vật trở nên ấm áp hơn. Đến câu thơ tiếp theo, hình ảnh thiên nhiên lại càng đẹp hơn:


"Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên"

(Sông xuân, nước xuân tiếp giáp với trời xuân)


Ba từ “xuân” nối tiếp nhau thể hiện sức sống và sắc xuân đang trỗi dậy khắp mọi không gian. Từ “tiếp” gợi ra cho người đọc cảm nhận rằng dường như trời và đất đang giao hòa gặp gỡ nhau bởi sắc xuân rực rỡ. Như vậy hai câu thơ mở đầu bài thơ đã đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên trong đêm rằm tháng giêng tràn đầy sức sống. Đến hai câu thơ tiếp theo, hình ảnh con người đã xuất hiện với một công việc thật cao cả:


"Yên ba thâm sứ đàm quân sự"

(Nơi sâu thẳm mịt mù khói sóng bàn việc quân)


Trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, mọi hoạt động cách mạng đều phải diễn ra một cách thầm lặng và kín đáo. Chính vì vậy, Bác Hồ cùng với các chiến sĩ mới lựa chọn thời điểm đêm khuya để bàn bạc việc quân, đó là những công việc quan trọng liên quan đến vận mệnh của quốc gia dân tộc. Và cuối cùng, bài thơ kết lại bằng một câu thơ:


"Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền"

Nửa đêm quay về trăng đầy thuyền)


Phải chăng vì quá say sưa bàn bạc việc quân việc nước, mà khi trở về thì đêm đã về khuya? Lúc này ánh trăng cũng sáng rõ hơn bao giờ hết. Hình ảnh “nguyệt mãn thuyền” muốn thể hiện sức lan tỏa mạnh mẽ của ánh trăng trong đêm rằm tháng giêng. Qua đó, Bác Hồ muốn thể hiện khát vọng thành công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Với hai câu thơ sau, người đọc như thấy được một phong thái ung dung, lạc quan và lòng tin bất diệt của Người vào sự nghiệp giải phóng dân tộc nhất định sẽ thắng lợi.


“Rằm tháng giêng” là bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt mang đậm nét cổ điển. Thiên nhiên trong bài thơ được khắc họa bằng những hình ảnh thiên nhiên quen thuộc trong thơ xưa như ánh trăng, sông nước, trời đất, con thuyền. Cùng với việc kết hợp biện pháp tu từ điệp ngữ đã giúp nhà thơ diễn tả được bức tranh đêm trăng ở chiến khu Việt Bắc thật sinh động. 


Qua bài thơ trên, ta không chỉ thấy được một tâm hồn thi sĩ đa sầu đa cảm mà còn là con người kiên cường và trung thành với cách mạng của chủ tịch Hồ Chí Minh.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 2
(có 0 lượt vote)

Bài soạn "Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ" - mẫu 3

I. Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Tác Phẩm Thơ, Ngữ Văn 10 KNTT - Bài Mùa Xuân Chín

Dàn ý chi tiết phân tích, đánh giá Mùa xuân chín
a. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Nêu vấn đề chính sẽ được tập trung phân tích trong bài viết.


b. Thân bài:
- Chủ đề: Bài thơ "Mùa xuân chín" đã khắc họa bức tranh mùa xuân tươi đẹp tràn đầy sức sống. Qua đó, nhà thơ bộc lộ tình yêu thiên nhiên, con người tha thiết, đồng thời, thể hiện nỗi khát khao giao cảm với đời.
- Mạch cảm xúc: Mạch cảm xúc của nhân vật đi từ ngoại cảnh đến tâm cảnh.
- Sự phát triển của hình tượng thơ:
+ Khung cảnh thiên nhiên mùa xuân sinh động.
+ Khung cảnh sinh hoạt đời sống con người.
+ Tâm trạng nhân vật trữ tình: Nỗi nhớ quê và khát khao giao cảm với đời.
- Tính độc đáo của những phương tiện ngôn ngữ:
+ Hình ảnh giàu sức gợi: "làn nắng ửng", "khói mơ tan", "bóng xuân sang", "sóng cỏ xanh", "đám xuân xanh", "tiếng ca vắt vẻo", "khách xa", "chị ấy".
+ Cách gieo vần chân: "vàng" - "sang", "trời" - "chơi", "làng" - "chang".
+ Đảo ngữ "Sột soạt gió trêu tà áo biếc".
+ Biện pháp tu từ ẩn dụ qua hình ảnh "bóng xuân sang".
+ Hệ thống từ láy: "hổn hển", "thầm thì", "chang chang", "bâng khuâng".
+ Biện pháp tu từ nhân hóa trong hình ảnh "tiếng ca vắt vẻo", "hổn hển".
+ Biện pháp tu từ so sánh "tiếng ca" được ví với "lời của nước mây".
+ Câu hỏi tu từ: "Chị ấy, năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?".
- Nét hấp dẫn riêng của bài thơ so với những sáng tác khác cùng chủ đề và cùng đề tài, chủ đề, thể loại
+ So sánh với bài thơ "Mùa xuân xanh" của Nguyễn Bính để thấy được nét độc đáo, hấp dẫn.


c. Kết bài:
- Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ, ý nghĩa của bài thơ đối với người viết.


2. Bài tham khảo phân tích, đánh giá Mùa xuân chín hay nhất

Hàn Mặc Tử là một cây bút tiêu biểu cho "phong trào Thơ mới" Việt Nam, nhà phê bình Hoài Thanh đã nhận xét về ông là "Một nguồn thơ rào rạt và lạ lùng". Một số tác phẩm nổi tiếng của ông có thể kể đến như: tập thơ "Gái quê", "Thơ Điên", "Chơi giữa mùa trăng",... Đặc biệt, tác phẩm "Mùa xuân chín" đã đem lại cho người đọc những cảm nhận sâu sắc về bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp. Qua đó, nhà thơ bộc lộ tình yêu thiên nhiên, con người và nỗi khát khao giao cảm với đời.


Ngay từ nhan đề bài thơ, tác giả đã khiến chúng ta hình dung ra khung cảnh mùa xuân rực rỡ, căng tràn sức sống. Cách kết hợp động từ chỉ trạng thái "chín" với danh từ "mùa xuân" cho ta cảm nhận không gian tràn đầy sức sống. Nhan đề bài thơ khơi gợi về sự mềm mại, đằm thắm của mùa xuân. Mạch cảm xúc của tác phẩm đi từ ngoại cảnh đến tâm cảnh. Trước khung cảnh mùa xuân rực rỡ, nhà thơ bộc lộ tình yêu thiên nhiên, nỗi nhớ quê hương da diết. Giọng điệu thơ có sự chuyển đổi theo tâm trạng của nhân vật trữ tình, khi thì tha thiết, vui tươi, khi thì ngưng đọng, suy tư.


Mở đầu văn bản là bức tranh làng quê thanh bình, yên tĩnh. Thiên nhiên được gợi lên dưới ngòi bút tài hoa của tác giả "làn nắng ửng", "khói mơ tan", "bóng xuân sang". Hình ảnh "làn nắng ửng" khiến ta tưởng tượng đến màu vàng nhạt của nắng buổi bình minh. Còn hình ảnh "khói mơ tan" lại đem đến hai cách hiểu: khói bếp phát ra từ những căn nhà trong buổi sớm hoặc có thể đó chính là làn sương khói tinh mơ của ngày mới. "Làn nắng ửng" kết hợp với "khói mơ tan" tạo cảm giác sương khói đang dần tan biến khi mặt trời lên. Mùa xuân len lỏi qua mái nhà và giàn thiên lí. Câu thơ "Sột soạt gió trêu tà áo biếc" với biện pháp đảo ngữ và từ láy "sột soạt" góp phần diễn tả âm thanh và sự tình tứ, trêu đùa của gió với tà áo biếc nhẹ bay. Biện pháp tu từ ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được nhà thơ sử dụng trong câu "Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang" khiến mùa xuân được hữu hình hóa. Câu thơ được ngăn cách bởi dấu chấm khiến nhịp thơ thay đổi từ 2/2/3 sang 4/3 nhằm nhấn mạnh dấu ấn của mùa xuân. Tác giả gieo vần chân một cách tinh tế "vàng", "sang", "trời", "chơi" khiến người đọc tưởng tượng ra một không gian rộng lớn. Mùa xuân sang khiến cỏ cây, đất trời và lòng người như hòa vào nhau:
"Sóng cỏ xanh gợn tới trời"


Câu thơ không chỉ diễn tả mật độ của cỏ mà còn gợi ra sự chuyển động của gió. Trên nền bức tranh thiên nhiên tươi đẹp ấy là sự xuất hiện của con người:


"Bao cô thôn nữ hát trên đồi
- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi".

Và:
"Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi
Hổn hển như lời của nước mây
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc.
Nghe ra ý vị và thơ ngây"


Nổi bật trong khung cảnh thiên nhiên là con người đang trong độ "tuổi xuân". Hình ảnh "Bao cô thôn nữ hát trên đồi" thể hiện sự hòa quyện của con người trước thiên nhiên. Mùa xuân ấm áp, căng tràn sức sống khiến con người cảm thấy xuyến xao, hạnh phúc. Câu thơ "- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,/ Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi" giống như một lời nói trực tiếp. Ý thơ bộc lộ chút gì đó tiếc nuối của người chứng kiến khung cảnh "đám xuân xanh", hoặc cũng có thể là nuối tiếc của vị "khách xa". Tiếng ca của các cô gái được khắc họa qua từ láy "hổn hển", "thầm thĩ" khiến người đọc cảm nhận được sự trầm bổng trong tiếng hát, lúc thì thiết tha, khi thì gấp gáp, dồn dập. Tiếng hát như nhịp chuyển động của thời gian đầy ý vị.


"Khách xa, gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
- Chị ấy, năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?"


Khác với ba khổ thơ đầu, khổ thơ cuối có sự chùng xuống trong tâm trạng nhân vật trữ tình. "Khách xa" có thể hiểu là khách từ phương xa đến thăm làng lúc "mùa xuân chín", hoặc "khách xa" ở đây có thể là nhân vật trữ tình. Điều này đúng với hoàn cảnh của Hàn Mặc Tử, ông cho rằng bản thân giờ chỉ là một người "khách xa" với quê hương. Người khách gặp đúng lúc mùa xuân chín mà lòng nhớ về quê nhà. Câu thơ " - Chị ấy, năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang" với sự thay đổi trong cách ngắt nhịp, nhịp thơ từ 2/2/3/ sang 4/3 và dấu gạch ngang ở đầu khiến câu thơ trở thành lời bộc lộ cảm xúc trực tiếp của nhân vật trữ tình. Người khách xa tự hỏi lòng mình rằng liệu năm nay chị ấy còn gánh thóc bên bờ sông không. Câu thơ vừa diễn tả hành động gánh thóc, vừa gợi ra không gian mùa hè "nắng chang chang".


Cách gieo vần chân "làng" - "chang" khiến dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình như được kéo dài ra. Khổ thơ cuối đã thể hiện nỗi nhớ, khát khao giao cảm mãnh liệt với đời của nhà thơ Hàn Mặc Tử.


Cùng viết về đề tài mùa xuân, nhưng tác phẩm của Nguyễn Bính và Hàn Mặc Tử lại có những nét độc đáo riêng. Nếu Nguyễn Bính khắc họa bức tranh mùa xuân tươi tắn, hồn hậu để bày tỏ tình cảm với người con gái thì Hàn Mặc Tử lại diễn tả mùa xuân tươi đẹp nhưng tràn đầy sự nuối tiếc. Cả hai nhà thơ đều sử dụng hình ảnh thơ gắn liền với những vùng quê. Điều nổi bật của "Mùa xuân chín" là cách sử dụng ngôn từ sinh động khiến người đọc hình dung mùa xuân ở trạng thái tròn đầy nhất.


Bài thơ "Mùa xuân chín" đã khắc họa bức tranh mùa xuân tươi đẹp tràn đầy sức sống. Bức tranh ấy được gợi lên với đầy đủ màu sắc, đường nét, âm thanh của thiên nhiên và con người. Biện pháp nghệ thuật đảo ngữ, so sánh, ẩn dụ, nhân hóa cũng góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm. Bài thơ thể hiện nỗi khát khao giao cảm với đời của một con người xa quê và đang bị bệnh tật giày vò.

II. Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Tác Phẩm Thơ, Ngữ Văn 10 KNTT - Bài "Thu Hứng"

Dàn ý chi tiết phân tích, đánh giá "Thu hứng"
a. Mở bài:
- Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm.
- Nêu vấn đề sẽ tập trung phân tích.


b. Thân bài
- Chủ đề: Bài thơ bộc lộ nỗi nhớ quê hương sâu sắc của thi nhân khi ông nhìn ngắm khung cảnh thiên nhiên mùa thu tiêu điều, hiu hắt và khung cảnh đời sống rộn ràng, tươi vui của con người tại Quý Châu.
- Mạch cảm xúc: Mạch cảm xúc bài thơ đi từ ngoại cảnh đến tâm trạng nhân vật trữ tình.
- Sự phát triển của hình tượng thơ:
+ Khung cảnh mùa thu ở trên cao.
+ Khung cảnh mùa thu ở dưới thấp.
+ Tâm trạng nhân vật trữ tình trước bức tranh thiên nhiên.
+ Khung cảnh sinh hoạt của con người.
- Tính độc đáo của những phương tiện ngôn ngữ:
+ Hình ảnh thơ gợi cảm: "sương móc trắng xóa", "rừng phong", "hơi thu hiu hắt", "sóng tung vọt trùm bầu trời", "gió mây sà xuống khiến mặt đất âm u", "khóm cúc nở hoa đã hai lần", "con thuyền lẻ loi".
+ Cách gieo vần chân: "lâm" - "sâm" - "âm".
+ Từ láy: "rộn ràng", "dồn dập".
- Nét hấp dẫn riêng của bài thơ so với những sáng tác khác cùng chủ đề và cùng đề tài, chủ đề, thể loại.
+ So sánh với bài thơ "Thu hứng" (bài 2) của Đỗ Phủ để nhận thấy những nét đặc sắc riêng của hai bài thơ.


c. Kết bài:
- Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ, ý nghĩa của bài thơ đối với người viết.


2. Bài tham khảo phân tích, đánh giá "Thu hứng" hay nhất

Đỗ Phủ là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca Trung Hoa và được người đời sau tôn làm "Thi Thánh". Ông xuất thân từ một gia đình truyền thống nho học và thơ ca lâu đời. Cuộc đời ông gắn với nhiều biến cố lịch sử dữ dội của thời đại với nhiều đau thương, mất mát. Ông phải chịu cảnh tha hương và sống cuộc sống khốn khó, bệnh tật tại Quý Châu. Nổi bật trong sự nghiệp sáng tác của ông là chùm tám bài thơ thu trong đó có "Thu hứng" (bài 1). Bài thơ bộc lộ nỗi nhớ quê hương sâu sắc của thi nhân khi ông nhìn ngắm khung cảnh thiên nhiên mùa thu tiêu điều, hiu hắt và khung cảnh đời sống rộn ràng, tươi vui của con người tại Quý Châu.


Nhan đề tác phẩm đã gợi cho người đọc tâm trạng của thi nhân trước cảnh thu. Mạch cảm xúc bài thơ đi từ tâm trạng trước bức tranh thiên nhiên đến cảm nhận về cảnh sinh hoạt của con người. Trong bốn câu thơ đầu, nhà thơ đã đã khắc họa bức tranh mùa thu hiu hắt, man mác buồn. Chỉ với vài nét chấm phá, nhà thơ đã làm nổi bật lên không gian chiều thu ở Quý Châu:


"Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm"


Ta có thể nhận thấy vị trí quan sát của nhà thơ tương đối cao bởi tầm nhìn của ông khá xa và rộng. Sương trắng giăng đầy khắp núi gợi lên không gian tiêu điều, xác xơ của rừng phong. "Sương trắng" và "rừng phong" là những hình ảnh thường được sử dụng trong thơ ca cổ khi viết về mùa thu. Từ "trắng xóa" miêu tả độ dày đặc của màn sương mù, gợi lên sự hoang vu. Nhà thơ nhắc tới hai địa danh núi Vu và kẽm Vu thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Đây là những địa danh có địa hình hiểm trở với những vách núi dựng đứng. Vào mùa thu, nơi đây mịt mù với "hơi thu" lạnh lẽo phủ khắp không gian. Hai câu thơ đầu tuy khung cảnh khác nhau nhưng nhà thơ lại nhìn chúng với tâm trạng trĩu nặng nỗi buồn.


Tầm nhìn của nhà thơ đã chuyển hướng ở hai câu thơ tiếp theo. Sự vận hành của tứ thơ rất logic, từ xa đến gần, từ không gian bên ngoài đến những rung động trong nội tâm, mỗi câu thơ đều bộc lộ nỗi nhớ thương đau đáu. Nếu ở hai câu thơ đầu, nhà thơ phóng tầm mắt lên cao, nhìn đến rừng phong với sương mù mờ ảo thì ở hai câu thơ sau, nhà thơ đã hạ tầm nhìn xuống dòng sông "Giữa lòng sông, sóng tung vọt trùm bầu trời". Động từ "trùm" khiến người đọc hình dung ra một khung cảnh hùng vĩ của dòng sông. Đồng thời, hình ảnh "Từ trên cửa ải, gió mây sà xuống khiến mặt đất âm u" càng khiến cho không gian trở nên tối tăm, lạnh lẽo. Sự kết hợp giữa cảnh rừng phong tiêu điều, sương trắng âm u với vẻ hùng vĩ của sông nước, núi rừng khiến khung cảnh thiên nhiên thêm phần rợn ngợp. Nhịp thơ 2/2/3 kết hợp và cách gieo vần chân "lâm" - "sâm" - "âm" càng khắc họa nỗi buồn của nhân vật trữ tình trước không gian mênh mang của mùa thu. Bốn câu thơ cuối, thi nhân đã diễn tả những rung động mãnh liệt, sâu sắc trước cảnh vật thiên nhiên tươi đẹp và khung cảnh sinh hoạt của con người:


"Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm."


Nỗi lòng nhà thơ bộc lộ rõ qua hình ảnh "khóm cúc nở hoa đã hai lần", "con thuyền lẻ loi", "rộn ràng dao thước để may áo rét", "tiếng chày nện vải nghe càng dồn dập". Hình ảnh "khóm cúc nở hoa đã hai lần" dùng để chỉ thời gian xa nhà của tác giả. Nhà thơ không kìm nén nổi cảm xúc mà "tuôn rơi nước mắt". Hình ảnh "Con thuyền lẻ loi" gợi ra sự cô đơn, nổi trôi vô định của Đỗ Phủ nơi đất khách.


Hai câu thơ cuối bài có sự xuất hiện của con người với âm thanh cuộc sống sinh động. Từ láy "rộn ràng", "dồn dập" gợi không khí tươi vui. Ta có thể nhận ra được sự chuyển biến tâm trạng nhân vật trữ tình khi đứng trước khung cảnh sinh hoạt của con người. Giờ đây, nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương càng trào dâng trong lòng tác giả. Nằm trong chùm tám bài thơ cùng nhan đề, "Thu hứng" (bài 1) và "Thu hứng" (bài 2) lại có những nét hấp dẫn riêng. Nếu "Thu hứng" (bài 2) thể hiện tình yêu nước một cách thầm kín thì "Thu hứng" (bài 1) lại khiến cho người đọc cảm nhận được nỗi nhớ quê hương da diết của một con người lưu lạc nơi đất khách quê người.


Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Niêm, luật và cách gieo vần trong bài thơ được tuân thủ chặt chẽ. Tác giả đã khéo léo sử dụng ngôn từ và những hình ảnh đặc sắc nhằm khắc họa khung cảnh thiên nhiên và khung cảnh sinh hoạt của con người. Bút pháp tả cảnh ngụ tình cũng được thi nhân sử dụng nhằm bộc lộ tâm trạng buồn, xót xa của thi nhân khi nghĩ về quê hương.


"Thu hứng" (bài 1) thể hiện nỗi nhớ quê hương da diết của một con người lưu lạc nơi đất khách. Bài thơ mang đậm dấu ấn của một hồn thơ tinh tế. Qua bài thơ, người đọc cũng cảm nhận được tài năng và nhân cách cao đẹp của nhà thơ Đỗ Phủ. Đúng như nhà thơ Nguyên Chẩn đã viết: "Đỗ Tử Mỹ trên làm nhạt Phong Tao, dưới làm mờ Thẩm - Tống; lời vượt cả Tô, Lý; khí thơ nuốt cả Tào, Lư; che khuất Nhan, Tạ đỉnh cao, nhuộm đục Từ, Dữu dòng thắm..., có tất cả thể thế của tổ tiên, lại có được cái độc chuyên của từng thi sĩ. Người làm thơ từ xưa đến nay chưa có ai được như Đỗ Tử Mỹ vậy".


III. Viết Văn Bản Nghị Luận Phân Tích, Đánh Giá Một Tác Phẩm Thơ, Ngữ Văn 10 KNTT - Bài Cánh Đồng

Dàn ý chi tiết phân tích, đánh giá "Cánh đồng"
a. Mở bài:
- Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm và nêu lên vấn đề tập trung phân tích.


b. Thân bài
- Chủ đề: Tác phẩm đem lại cho người đọc những ấn tượng sâu sắc về khung cảnh cánh đồng mùa xuân tươi đẹp, rực rỡ, yên bình - nơi nhân vật trữ tình muốn tìm về.
- Mạch cảm xúc: Mạch cảm xúc của bài thơ đi từ cảm xúc trước hình ảnh hoa cúc trên chiếc bình gốm đến khát khao giao cảm với thiên nhiên.
- Sự phát triển của hình tượng thơ:
+ Cảm xúc của nhân vật trữ tình trước hình ảnh hoa cúc trong chiếc bình gốm.
+ Khát khao giao cảm với đời của nhân vật trữ tình.
- Tính độc đáo của những phương tiện ngôn ngữ:
+ Hình ảnh thơ: "đóa cúc", "cánh đồng", "mùa xuân rộng lớn". "chiếc bình gốm sẫm mùa", "chiếc lá già nua", "nụ hoa bé bỏng", "làn sương ẩm ướt".
+ Điệp cấu trúc: "Chạm vào em..., một..., một...", "Em gọi tên những... chưa kịp... ".
+ Câu thơ dài ngắn đan xen.
+ Nhịp điệu thơ lúc nhanh lúc chậm.
- Nét hấp dẫn riêng của bài thơ so với những sáng tác khác cùng chủ đề và cùng đề tài, chủ đề, thể loại.
+ So sánh với bài thơ "Mùa xuân chín" của Hàn Mặc Tử để nhận thấy những nét khác biệt khi miêu tả khung cảnh thiên nhiên mùa xuân.


c. Kết bài:
- Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ, ý nghĩa của bài thơ đối với người viết.


2. Bài tham khảo phân tích, đánh giá "Cánh đồng" hay nhất

"Cánh đồng" là một trong số những bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Nguyễn Thị Ngân Hoa, tác phẩm trong chùm thơ đạt giải B (không có giải A) cuộc thi Thơ trên báo Văn nghệ năm 1995. Bài thơ đã đem đến cho người đọc những rung động sâu sắc về vẻ đẹp cánh đồng mùa xuân tràn đầy sức sống và tình yêu thiên nhiên tha thiết của tác giả.


Nhan đề bài thơ gợi cho người đọc hình dung về một miền quê yên bình, dân dã, có cánh đồng rộng lớn và không gian bao la. Trong quá trình đọc tác phẩm, ta có thể cảm nhận được sự biến hóa của nhịp điệu, sự phóng khoáng trong cách xây dựng những hình ảnh thơ và sử dụng công trong cách tổ chức mạch thơ.


Bài thơ đã khắc họa nên khung cảnh cánh đồng mùa xuân ngập tràn hương sắc. Mở đầu tác phẩm, tác giả đã miêu tả vẻ đẹp của mùa xuân qua hình ảnh "Những đóa cúc vừa hái về từ cánh đồng mùa xuân rộng lớn". Nhân vật trữ tình đã cảm nhận vẻ đẹp của khóm cúc bằng con mắt mộng mơ của tuổi trẻ. Chỉ một đóa cúc thôi mà nhân vật trong bài đã hình dung ra cả một cánh đồng mùa xuân tươi tắn ngay trước mắt. Vẻ đẹp của cánh đồng mùa xuân không chỉ được gợi ra từ màu sắc mà còn được tái hiện bởi âm thanh "Tỏa sáng trên chiếc bình gốm màu sẫm/ Chạm vào em một chiếc lá già nua, một nụ hoa bé bỏng, một hơi thở run run, một làn sương ẩm ướt/ Chạm vào em một lảnh lót trong veo, một vang rền trầm đục, một nức nở âm u, một lặng câm rực rỡ". Các câu thơ nối tiếp nhau như dòng chảy cảm xúc và suy tưởng của nhân vật trữ tình. Điều này được thể hiện qua độ dài, ngắn của các câu thơ và nhịp thơ biến đổi linh hoạt, lúc nhanh, lúc chậm tùy thuộc vào tâm trạng nhân vật. Biện pháp điệp cấu trúc "Chạm vào em...một...một,... một" kết hợp với các từ ngữ "già nua", "bé bỏng", "run run", "ẩm ướt", "lảnh lót", "trong veo", "vang rền", "trầm đục", "nức nở", "âm u", "lặng câm", "rực rỡ" đã nhấn mạnh vẻ đẹp của thiên nhiên. Khung cảnh mùa xuân được nhà thơ khắc họa tràn đầy sức sống, mọi sự vật, hiện tượng đều mang trong mình những điểm riêng biệt.


Từ bông cúc cắm trên bình gốm, nhân vật trữ tình thả hồn mình tìm tới cánh đồng mênh mông. Động từ "chạy về" thể hiện rõ khao khát của nhân vật "em" khi nghĩ về cánh đồng rộng lớn. Đây như là một nơi yên bình mà nhân vật "em" luôn hướng tới. Trở về với cánh đồng em có thể hòa mình với thiên nhiên tươi đẹp "Chân ngập trong đất mềm tơi xốp". Biện pháp điệp cấu trúc lại tiếp tục được sử dụng trong hai câu thơ "Em gọi tên những loài hoa chưa kịp mọc/ Em gọi tên những trái cây chưa kịp ra đời" nhấn mạnh sự chờ đợi của nhân vật trữ tình. "Em" mong chờ những sự sống đang ấp ủ trong lòng đất. Biện pháp nhân hóa "Những trái cây đang ngủ trong hạt mầm vừa nứt/ Đang ngủ trong đóa hoa nấp dưới đất cày" thể hiện sức sống tiềm tàng của sự vật trong mùa xuân. Trạng thái mầm cây đang ngủ thể hiện quy luật bốn mùa của tự nhiên. Mùa xuân đến vạn vật ấp ủ trong mình sự sống bất tận. Trong khổ thơ này, tác giả đã làm nổi bật sự trân quý thiên nhiên của nhân vật trữ tình.


Kết thúc tác phẩm, nhà thơ lại nhắc tới hình ảnh "chiếc bình gốm": "Dưới lớp đất cày có những chiếc bình gốm/ Chưa kịp thành hình chờ đợi các loài hoa". Nếu như ở khổ thơ đầu, chiếc bình gốm làm nền cho những đóa cúc "tỏa sáng" thì ở khổ thơ cuối, chiếc bình gốm lại "chưa kịp" thành hình mà ẩn sâu dưới lớp đất cày chờ đón những loài hoa sắp nở. Câu thơ "Dưới lớp đất cày có những chiếc bình gốm" gợi lên nhiều suy nghĩ trong lòng người đọc. Câu thơ này có thể hiểu theo hai cách: cách thứ nhất là những chiếc bình gốm được lấp dưới "đất cày"; cách hiểu thứ hai là "lớp đất" chính là nguyên liệu để con người tạo ra chiếc bình gốm. Nhưng dù hiểu theo cách nào thì câu thơ vẫn cho thấy tình cảm yêu mến thiên nhiên của "em".


Bài thơ đã gợi ra không gian cánh đồng mùa xuân tràn đầy sức sống với những hình ảnh quen thuộc: đóa cúc, đất cày, trái cây,... Cánh đồng được nổi bật lên không chỉ qua hình ảnh mà còn qua âm thanh "lảnh lót trong veo", "một vang rền trầm đục", "một nức nở âm u", "một lặng câm rực rỡ". Bằng khả năng quan sát tinh tế và trí tưởng tượng phong phú, cánh đồng mùa xuân được tái hiện một cách chân thực, sống động qua ngòi bút của tác giả. Tác phẩm có cách triển khai độc đáo, các câu thơ, khổ thơ có độ dài ngắn khác nhau như dòng chảy tâm trạng của nhân vật trữ tình. Sự biến hóa nhịp điệu linh hoạt khiến bài thơ như một trang tự sự. Qua tác phẩm, nhà thơ gửi gắm tình cảm yêu mến thiên nhiên thiết tha.


Nếu bài thơ "Mùa xuân chín" của nhà thơ Hàn Mặc Tử đem đến cho người đọc những cảm nhận xuyến xao về bức tranh thiên nhiên mùa xuân yên bình, khung cảnh sinh hoạt gần gũi từ đó thể hiện khát khao giao cảm với đời thì bài thơ "Cánh đồng" của Nguyễn Thị Ngân Hoa lại mang đến cho chúng ta những cảm xúc khó quên về mùa xuân tươi đẹp trên cánh đồng. Điều khác biệt có thể nói tới chính là sự khác biệt trong việc xây dựng hình ảnh thơ và việc tổ chức mạch thơ (các câu thơ dài, ngắn khác nhau theo dòng cảm xúc của nhân vật).


Bài thơ "Cánh đồng" của Nguyễn Thị Ngân Hoa là một bài thơ đặc sắc cả về nội dung và hình thức nghệ thuật. Tác phẩm đem lại cho người đọc những ấn tượng khó quên về khung cảnh cánh đồng mùa xuân yên bình, nơi tràn đầy kỉ niệm và khát khao của nhân vật "em". Qua đó, nhà thơ cũng bộc lộ tình yêu thiên nhiên thiết tha.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 3
(có 0 lượt vote)

Bài soạn "Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ" - mẫu 4

Câu 1 trang 64 SGK Ngữ Văn 10 tập 1

Bài viết tham khảo cảm nhận và phân tích bài thơ Mùa xuân xanh (Nguyễn Bính) vừa theo tuyến hình ảnh trải dọc bài thơ, vừa theo trình tự câu thơ, khổ thơ. Cách cảm nhận và phân tích đó có những ưu thế gì nổi bật?

Ưu điểm của cách cảm nhận và phân tích thơ vừa theo tuyến hình ảnh trải dọc bài thơ, vừa theo trình tự câu thơ, khổ thơ:

– Cách cảm nhận và phân tích này chỉ ra được các hình ảnh nổi bật trong bài thơ từ đó đánh giá và nhận xét được suy nghĩ, quan niệm của tác giả một cách chính xác nhất.

– Cách cảm nhận và phân tích này thể hiện được rõ ràng mạch cảm xúc của bài thơ, phân tích bài thơ theo từng câu, từng khổ thơ một cách rõ ràng và mạch lạc để người đọc có thể dễ dàng hiểu được nội dung bài thơ từ đầu đên cuối.

– Với bài thơ Mùa xuân xanh, cách cảm nhận này không chỉ làm nổi bật được nội dung bài thơ, phân tích được tác dụng của các biện pháp nghệ thuật trong từng câu thơ, khổ thơ; mà còn nhấn mạnh được các chi tiết, hình ảnh quan trọng trong bài thơ.

=> Cách cảm nhận và phân tích vừa theo tuyến hình ảnh dọc bài thơ vừa theo trình tự câu thơ, khổ thơ giúp người đọc cảm nhận bài thơ một cách dễ hơn, rõ ràng hơn và không bị bỏ quên một chi tiết nào của bài thơ.


Câu 2 trang 64 SGK Ngữ Văn 10 tập 1

Trong bài nghị luận phân tích, đánh giá về một tác phẩm thơ, thực chất của việc phân tích chủ đề là gì?

Trong bài nghị luận phân tích, đánh giá về một tác phẩm thơ, thực chất của việc phân tích chủ đề là việc phân tích, nêu cảm nhận của bản thân về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm thơ đó. Phân tích chủ đề để làm nổi bật lên nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ đồng thời nhận xét và đánh giá quan niệm của tác giả qua bài thơ đó.


Câu 3 trang 64 SGK Ngữ Văn 10 tập 1

Người viết đã đánh giá bài thơ như thế nào? Nêu nhận xét khái quát về tính thuyết phục của đánh giá đó.

Trong bài nghị luận phân tích, đánh giá về một tác phẩm thơ, thực chất của việc phân tích chủ đề là việc phân tích, nêu cảm nhận của bản thân về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm thơ đó. Phân tích chủ đề để làm nổi bật lên nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ đồng thời nhận xét và đánh giá quan niệm của tác giả qua bài thơ đó.


Thực hành viết

Viết bài văn phân tích và đánh giá bài thơ Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) của Đỗ Phủ.

Bài văn mẫu

Đỗ Phủ là nhà thơ hiện thực vĩ đại của Trung Quốc với những vần thơ phản ánh hiện thực và bày tỏ cảm xúc, thái độ, tâm trạng đau khổ trước hiện thực đời sống của nhân dân trong chiến tranh, trong nạn đói chan chứa tình yêu nước và tinh thần nhân đạo. Trong những bài thơ đặc sắc có bài Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) là bài thơ thứ nhất trong chùm thơ tám bài được Đỗ Phủ sáng tác năm 766, khi đang sống phiêu dạt ở Quý Châu. Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) vừa là bức tranh mùa thu ảm đạm, hắt hiu, vừa là bức tranh tâm trạng trĩu nặng u sầu của nhà thơ trong cảnh loạn li; lo cho tình hình đất nước đang lâm vào cảnh rối ren, loạn lạc; thương nhớ quê hương xa xôi và ngậm ngùi xót xa cho thân phận bất hạnh của mình nơi đất khách.


Phiên âm chữ Hán:

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,

Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.

Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,

Tái thượng phong vân tiếp địa âm.

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,

Cô chu nhất hệ cố viên tâm.

Hàn y xứ xứ thôi đao xích,

Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.


Trong bài thơ, bốn câu đầu là “câu đề” với mục đích miêu tả bức tranh thiên nhiên bao la nhưng mang nỗi buồn hiu hắt ở vùng rừng núi thượng nguồn Trường Giang:


Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,

Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm,


Người đọc có thể nhận thấy Đỗ Phủ đứng ở vị trí tương đối cao để ngắm nhìn toàn cảnh, vì thế mà tầm nhìn của ông khá xa, khá rộng. Mọi thứ được miêu tả không những theo chiều sâu và còn theo tầm mắt của tác giả, nhìn về phía xa xăm. Khả năng quan sát tinh tế của Đỗ Phủ được thể hiện ngay từ câu thơ đầu khi tả cảnh rừng phong với sương còn phủ trên lá cây; nó tạo ra một cảnh tượng buồn, đặc biệt hình ảnh rừng phong lại càng nhấn mạnh thêm sự li biệt khi lá phong chuyển sang đỏ, khi mùa thu đến. Trong thơ cổ Trung Hoa, hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu bởi mỗi độ thu về, cả rừng phong chuyển sang màu đỏ úa, tượng trưng cho sự li biệt. Sương móc cũng tượng trưng cho mùa thu, cho sự lạnh lẽo. Sương móc sa dày đặc làm xơ xác cả rừng phong. Nét tiêu điều của cảnh vật hiện lên rất rõ qua chính cái nhìn đầy tâm trạng đau buồn của nhà thơ.


Câu thơ thứ hai có nhắc đến hình ảnh Vu sơn, Vu giáp, người đọc sẽ nghĩ ngay tới hình ảnh đặc trưng của đất Ba Thục xưa kia – nơi toàn cảnh bị bao trùm trong hơi thu hiu hắt. Trong bài thơ, Vu sơn, Vu giáp tức là núi Vu, hẻm Vu nổi tiếng bởi sự hiểm trở và hùng vĩ, được nhắc đến nhiều trong thần thoại, cổ tích và thơ ca Trung Quốc. Quanh năm, mây mù bao phủ những ngọn núi cao vút; vách núi thì dựng đứng vậy nên ánh mặt trời khó có thể lọt được xuống tới lòng sông. Chính vì vậy mà vào mùa thu, khung cảnh nơi đây luôn ảm đạm, lạnh lẽo và qua ngòi bút miêu tả thấm đẫm tâm trạng u sầu của Đỗ Phủ nó lại hiện lên càng thêm tối tăm, ảm đạm.


Hai câu thơ mở đầu, câu thứ nhất tả cảnh thu ở rừng phong, câu thứ hai tả cảnh thu ở núi non. Tuy cảnh vật khác nhau nhưng nhà thơ nhìn chúng với con mắt và tâm trạng giống nhau – tâm trạng trĩu nặng một nỗi buồn thương. Hai câu thơ tuy là đều là hình ảnh rừng núi nhưng lại chung một điểm, đó chính là nỗi buồn đang dần ngấm vào tác giả, nỗi buồn ấy chế ngự cả tâm trạng và cảm xúc của tác giả khi ông đặt bút ngâm thơ. Cũng với tâm trạng như vậy, Đỗ Phủ đã viết nên những câu thơ tiếp theo mang nét tả thực đầy ám ảnh, như có ma lực cuốn hút hồn người:


Giang gian ba lăng kiêm thiên dũng,

Tái thượng phong vân tiếp địa âm.


Nếu như ở hai câu mở đầu là hình ảnh của rừng phong, là sự quan sát từ trên cao xuống thì hai câu tiếp theo lại miêu tả cảnh sắc vừa hoành tráng lại dữ dội. Hai câu đề là cảnh thu trên cao (rừng phong, dãy núi) thì đến hai câu thực là cảnh thu dưới thấp. Hai cặp câu như bổ sung cho nhau lột tả được hai nét đặc sắc của phong cảnh vùng Vu sơn Vu giáp vừa âm u, vừa hùng vĩ. Chúng vẫn là những chi tiết được cảm nhận qua đôi mắt thi nhân và được miêu tả bằng ngọn bút kì tài mà thành những vần thơ trác tuyệt. Hình ảnh mặt đất mây đùn cửa ải xa tả thực cảnh mây trắng sà xuống thấp đến mức tưởng chừng như đùn từ dưới mặt đất lên, che lấp cả cửa ải phía xa xa. Bốn câu thơ tuy tả cùng một cảnh nhưng ở mỗi câu là một nét chấm phá riêng, là sự nhìn nhận toàn cảnh chứ không tập trung vào một điểm cụ thể nào. Cảnh sắc trời mây non nước, rừng núi hiện ra vừa cụ thể lại vừa đặc trưng cho mùa thu. Nhưng chính hình ảnh này, lại khiến tác giả nhớ quê hương tới nao lòng.


Ở bốn câu thơ sau, Đỗ Phủ bày tỏ lòng mình trước cảnh mùa thu nơi đất khách. Câu năm và câu sáu có nghệ thuật đối rất chỉnh vừa là cảnh thu mà cũng là tình thu:


Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,

Cô chu nhất hệ cố viên tâm.

Hàn y xứ xứ thôi đao xích,

Bạch Đệ thành cao cấp mộ châm.


Giống như hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu, hình ảnh hoa cúc cũng đi đôi với mùa thu. Đỗ Phủ nhắc đến hoa cúc, tưởng như không có gì mới nhưng điều quan trọng là mỗi lần thấy cúc nở hoa, nhà thơ lại rơi lệ. Hai lần nhìn cúc nở hoa, có nghĩa là đã hai năm Đỗ Phủ sống ở Quý Châu. Hoa cúc xui lòng thi nhân ngậm ngùi nhớ lại những mùa thu trước chốn quê cũ, vì vậy mà càng thêm xao xuyến, xúc động đến nghẹn ngào. Hình ảnh chiếc thuyền lẻ loi (cô chu) là một hình ảnh ẩn dụ đầy ý nghĩa, không chỉ vì tính chất trôi nổi, đơn độc của nó mà còn vì nó là phương tiện duy nhất để chở ước vọng của nhà thơ về với quê hương trong tâm tưởng.


Đến hai câu cuối bỗng đột ngột nổi lên âm thanh dồn dập của tiếng chày đập vải trên bến sông, trong bóng hoàng hôn. Âm thanh duy nhất này đã đem đến cho bức tranh sinh hoạt nơi biên ải xa xôi một thoáng vui nhưng thoáng vui ấy vẫn không đủ để xua đi những áng mây buồn đang vây phủ trong tâm hồn thi sĩ. Âm thanh của mùa thu may áo vừa kết thúc bài thơ, vừa mở ra nỗi buồn nhớ mênh mang, mong ngóng, chờ đợi ngày được trở về quê của tác giả.


Bốn câu cuối tập trung vào miêu tả cảm xúc cũng là những vần thơ chứa đựng nhiều tình cảm, đó là lòng mong ngóng quê nhà, nỗi khát khao được trở về quê hương, tình yêu và sự buồn bã khi phải sống tha phương. Bốn câu thơ diễn tả nỗi buồn của người xa quê, ngậm ngùi, mong ngóng ngày trở về quê hương.


Đặc điểm nghệ thuật của bài thơ là có kết cấu hết sức chặt chẽ, câu nào cũng bám chặt chủ đề, tức là các câu đều thể hiện được hai yếu tố “cảm xúc” và “mùa thu”, vừa tả cảnh vừa chất chứa tâm trạng. Cảnh có sương thu, rừng thu, sắc thu, khí thu, gió thu, sông thu, hoa thu, tiếng thu (tiếng chày đập vải). Tác giả đã thành công thâu tóm được tất cả thần thái của mùa thu trong bài thơ.


Cảm xúc mùa thu là bài thơ mang đậm dấu ấn phong cách thơ trữ tình của Đỗ Phủ. Qua bài thơ ta thấy được một tâm hồn thi sĩ vừa nhạy cảm lại rung động mãnh liệt với cảnh sắc. Trái tim Đỗ Phủ đã dành trọn cho quê hương, cũng qua bài thơ, cái tư tưởng “yêu nước thương đời” lại càng thể hiện rõ. Với Đỗ Phủ, mùa thu đồng nghĩa với nỗi buồn và niềm thương nhớ không nguôi, nhất là khi ông đang phải sống trong cảnh nghèo khổ, bệnh tật, cô đơn nơi xứ lạ. Những vần thơ của ông có sức lay động mãnh liệt, đặc biệt những vần thơ như bật lên khỏi trang giấy, mở ra một khung cảnh rất rõ… Ông xứng đáng được người đời tôn vinh là bậc “Thi thánh” của thời Thịnh Đường mà tên tuổi lưu danh muôn thuở.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 4
(có 0 lượt vote)

Bài soạn "Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ" - mẫu 5

Bài văn nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ không phải là một bài phát biểu cảm nhận đơn thuần. Kiểu bài viết này đòi hỏi sự chặt chẽ trong lập luận, sự sáng rõ, sắc nét của luận điểm và sự mạch lạc trong tổ chức bài viết. Bởi vậy, người viết cần nắm chắc các tri thức về đặc trưng thi ca đã được giới thiệu trong bài học và được làm rõ qua các tiết đọc văn bản để có những phân tích, đánh giá thuyết phục. Mặt khác, kiểu bài này cũng vẫn khuyến khích người viết thể hiện những rung cảm và tưởng tượng của mình khi chiếm lĩnh bài thơ.


* Yêu cầu:

- Giới thiệu ngắn gọn về bài thơ được chọn (tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, khuynh hướng, trào lưu văn học gắn với bài thơ, lý do lựa chọn bài thơ để phân tích, đánh giá).

- Chỉ ra và phân tích những nét đặc sắc, độc đáo của bài thơ (từ ngữ, hình ảnh, cách tổ chức nhịp điệu, nhạc điệu, cách liên kết mạch cảm xúc và hình ảnh, ...)

- Đánh giá giá trị của bài thơ về phương diện nghệ thuật cũng như ý nghĩa nhân sinh.


* Phân tích bài viết tham khảo:

Những điệu xanh của mùa xuân (Đọc Mùa xuân xanh của Nguyễn Bính)

- Nhan đề bài viết cho biết tên bài thơ, tên tác giả và hướng phân tích của người viết.

- Đoạn văn 1: Giới thiệu và cung cấp thông tin khái quát về tác giả và tác phẩm.

- Đoạn văn 2: Nêu ấn tượng trước sự gợi mở của nhan đề và câu mở đầu của bài thơ.

- Đoạn văn 3: Phân tích mạch triển khai hệ thống hình ảnh trong bài thơ.

- Đoạn văn 4: Phân tích phép đối, phép điệp và hiệu quả thẩm mỹ mà các phép tu từ này gợi ra.

- Đoạn văn 5: Liên hệ, so sánh với thơ truyền thống để làm rõ những nét mới mẻ của bài thơ.

- Đoạn văn 6: Khẳng định giá trị thẩm mĩ và giá trị nhân bản của bài thơ.


Câu 1 (trang 64 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Tác giả bài viết cảm nhận và phân tích bài thơ Mùa xuân xanh của Nguyễn Bính vừa theo tuyến hình ảnh trải dọc bài thơ, vừa theo trình tự câu thơ, khổ thơ. Cách cảm nhận và phân tích đó có những ưu thế gì nổi bật?

Trả lời:

Ưu điểm của cách cảm nhận và phân tích thơ vừa theo tuyến hình ảnh trải dọc bài thơ, vừa theo trình tự câu thơ, khổ thơ:

- Cách cảm nhận và phân tích này chỉ ra được các hình ảnh nổi bật trong bài thơ từ đó đánh giá và nhận xét được suy nghĩ, quan niệm của tác giả một cách chính xác nhất.

- Cách cảm nhận và phân tích này thể hiện được rõ ràng mạch cảm xúc của bài thơ.

- Nhấn mạnh được các chi tiết, hình ảnh quan trọng trong bài thơ.

→ Giúp người đọc cảm nhận bài thơ một cách dễ hơn, rõ ràng hơn.


Câu 2 (trang 64 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Trong bài nghị luận phân tích, đánh giá về một tác phẩm thơ, thực chất của việc phân tích chủ đề là gì?

Trả lời:

- Trong bài nghị luận phân tích, đánh giá về một tác phẩm thơ, thực chất của việc phân tích chủ đề là việc phân tích, nêu cảm nhận của bản thân về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm thơ đó. Phân tích chủ đề để làm nổi bật lên nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ đồng thời nhận xét và đánh giá quan niệm của tác giả qua bài thơ đó.


Câu 3 (trang 64 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Người viết đã đánh giá bài thơ như thế nào? Nêu nhận xét khái quát về tính thuyết phục của đánh giá đó.

Trả lời:

- Người viết đã đánh giá bài thơ là bài thơ giản dị mà vẫn làm toát lên sức sống phơi phới của vạn vật lúc xuân về. Nó là bài thơ của niềm vui sống, của sự chan hòa giữa con người với tạo vật, là khúc dạo đầu của tình yêu lứa đôi.

- Về tính thuyết phục của đánh giá trên:

+ Người viết đã nêu và phân tích được các biện pháp nghệ thuật tu từ trong bài thơ và nhận xét được phong cách nghệ thuật của tác giả.

+ Người viết cũng sử dụng một số câu thơ, bài thơ cùng chủ đề để so sánh và đánh giá nhằm đem đến cái nhìn khách quan nhất cho người đọc.

+ Người viết đã phân tích từng câu thơ, từng hình ảnh trong bài thơ để làm nổi bật giá trị nội dung của bài thơ.

→ Có đủ sức thuyết phục người đọc, có những luận điểm, lí lẽ và bằng chứng xác đáng, làm nổi bật được giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.


* Thực hành viết

Chuẩn bị viết

- Lựa chọn bài thơ sẽ được phân tích, đánh giá. Cân nhắc để chọn đúng bài thơ đã thật sự làm bạn rung cảm và tin vào giá trị nghệ thuật của nó: bài thơ Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử

→ Giá trị nghệ thuật của bài thơ: Đặc điểm nghệ thuật của bài thơ là có kết cấu hết sức chặt chẽ, câu nào cũng bám chặt chủ đề, tức là các câu đều thể hiện được hai yếu tố “cảm xúc” và “mùa thu”, vừa tả cảnh vừa chất chứa tâm trạng. Cảnh có sương thu, rừng thu, sắc thu, khí thu, gió thu, sông thu, hoa thu, tiếng thu (tiếng chày đập vải). Tác giả đã thành công thâu tóm được tất cả thần thái của mùa thu trong bài thơ.

- Tìm đọc tham khảo những bài viết, ý kiến liên quan đến bài thơ.


Tìm ý, lập dàn ý

Tìm ý:

- Chú ý những cách diễn đạt lạ và những hình ảnh gây ấn tượng.

* Dấu hiệu báo xuân sang:

+ Làn nắng ửng.

+ Làn khói mơ.

+ Mái nhà tranh bên giàn thiên lý.

→ Thanh tĩnh, bình dị, duyên dáng mà đằm thắm yêu thương.

- Cảnh vật thôn quê đẫm hơi xuân:

+ Làn mưa xuân tưới thêm sức sống.

+ Cỏ cây xanh tươi" gợn tới trời".

+ Niềm vui của con người khi xuân đến.

- Niềm hạnh phúc của lứa đôi.
- Tiếng thơ ngây sao khiến lòng người bâng khuâng, xao xuyến.

- Chú ý về mạch liên kết về âm điệu, nhịp điệu, ngôn ngữ, hình ảnh của bài thơ.

- Tìm hiểu thêm về thông tin về tác giả và hoàn cảnh sáng tác, chú ý bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa, văn học của bài thơ – có thể giúp hiểu sâu hơn về ngôn ngữ, hình ảnh, cảm xúc và tư tưởng bài thơ.

+ Hàn Mặc Tử là một thi sĩ có phong cách thơ rất riêng biệt, độc đáo. Ông để lại cho đời nhiều tập thơ nổi tiếng như Gái quê, Thơ điên hay Chơi giữa mùa trăng. Bài thơ "Mùa xuân chín" là một bài thơ tiêu biểu, góp phần làm nên tên tuổi của nhà thơ.

- Chú ý vận dụng các thao tác so sánh và liên tưởng một cách thích hợp.

- Cần tập trung vào những phương diện hình thức nghệ thuật và nội dung của bài thơ mà người đọc xem là độc đáo, mới mẻ, thú vị.

- Khi đánh giá bài thơ, cần chú ý đầy đủ các giá trị thẩm mĩ và giá trị nhân văn của nó.


Lập dàn ý:

- Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về bài thơ (tác giả, thời điểm ra đời, nơi xuất bản, đánh giá chung của dư luận,…) và nêu vấn đề chính sẽ được tập trung phân tích trong bài viết.

- Thân bài:

+ Phân tích, đánh giá mạch ý tưởng, cảm xúc của nhân vật trữ tình (nhân vật trữ tình muốn biểu đạt điều gì, thông qua hình tượng nào, với cái nhìn và thái độ ra sao,…).

+ Phân tích, đánh giá sự phát triển của hình tượng chính (qua các khổ, đoạn trong bài) và tính độc đáo của những phương tiện ngôn từ đã được sử dụng (từ ngữ, cách gieo vần, ngắt nhịp, các biện pháp tu từ,…).

+ Phân tích, đánh giá nét hấp dẫn riêng của bài thơ so với những sáng tác khác cùng đề tài, chủ đề, thể loại (của chính nhà thơ hoặc của những tác giả khác).

- Kết bài: Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ, ý nghĩa của bài thơ đối với người viết bài nghị luận.


*Chỉnh sửa, hoàn thiện

- Đọc lại và kiểm tra bài viết, đồng thời đối chiếu với các yêu cầu của đề bài, mục đích mà người viết đặt ra.

- Thử tóm tắt lại bài viết (khoảng 120 chữ) để tự đánh giá về mức độ chặt chẽ và sự sáng rõ của các luận điểm.

- Chỉnh sửa các lỗi về chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.


Dàn ý tham khảo phân tích bài thơ Mùa xuân chín (Hàn Mặc Tử)

* Mở bài

- Giới thiệu tác giả Hàn Mặc Tử: là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn và cũng là người tiên phong của dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam. Sinh thời, nhà thơ Chế Lan Viên từng nhận định: “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”.

- Giới thiệu khái quát bài thơ: Mùa xuân chín là được xếp ở phần Hương thơm trong tập thơ Đau thương. Cùng với Đây thôn Vĩ DạTình quê,... đây là những thi phẩm đầy thơ mộng viết về cảnh quê, tình quê của Hàn Mặc Tử.


* Thân bài:

- Dấu hiệu báo xuân sang:

+ Làn nắng ửng.

+ Làn khói mơ.

+ Mái nhà tranh bên giàn thiên lý.

→ Thanh tĩnh, bình dị, duyên dáng mà đằm thắm yêu thương.

- Cảnh vật thôn quê đẫm hơi xuân:

+ Làn mưa xuân tưới thêm sức sống.

+ Cỏ cây xanh tươi" gợn tới trời".

+ Niềm vui của con người khi xuân đến.

- Niềm hạnh phúc của lứa đôi.

- Tiếng thơ ngây sao khiến lòng người bâng khuâng, xao xuyến.

→ Xuân mang vị “chín” của lòng người, của đời người.

* Kết bài: Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.


* Viết

Viết bài theo dàn ý đã lập.

Bài viết tham khảo

Hàn Mặc Tử: là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn và cũng là người tiên phong của dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam. Sinh thời, nhà thơ Chế Lan Viên từng nhận định: “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”. Thật vậy, trong làng Thơ mới, Hàn Mặc Tử là thi sĩ có diện mạo thơ vô cùng phong phú, sáng tạo và đầy bí ẩn. Bên cạnh những vần thơ điên, thơ say, thơ siêu thực là một giọng thơ trữ tình, đằm thắm, thể hiện tình yêu cuộc sống tha thiết, khao khát tình người đến cháy bỏng. Bài thơ “Mùa xuân chín” là một trong những bài thơ tiêu biểu cho giọng thơ ấy.


Hàn Mặc Tử, với cuộc đời ngắn ngủi, tâm hổn đa cảm, mong manh đã để lại cho đời những bài thơ rất đặc sắc. "Mùa xuân chín" là một trong số đó. Trong không gian của buổi giao mùạ, một góc tâm tình của tác giả: Nhớ làng, nhớ quê… và một cái gì đó rất mơ hồ, gợi trong lòng ta biết bao suy nghĩ. "Mùa xuân chín" một khoảng trời riêng của cảm xúc đang "chín" trong lòng nhà thơ, trong lòng người đọc.


Đọc tựa bài, ta hầu như đã cảm nhận được cái "ngon lành", cái đỉnh cao tận cùng của "Mùa xuân chín". Nếu có "xuân chín" thì hẳn cũng có "xuân xanh" ; "xuân già". Nằm giữa ranh giới của cái "non trẻ", cái "già nua", "Mùa xuân chín" trở nên giá trị nhưng cũng ngắn ngủi, mong manh vô cùng. Để lòng say đắm trong giây phút hoàn hảo nhất của vũ trụ ấy thì còn gì bằng!


Trong tan nắng ửng: khói mơ tan,

Đôi mái nhà tranh lẫm tấm vàng.


"Nắng ửng". Từ "ửng" mang một ý nghĩa đặc biệt. Ta có thể liên tưởng đến ngay cái "chín ửng" của quả đào, quả hồng, cái "ưng ửng" hây hây của đôi má các cô gái trong tiết lạnh đầu xuân. Cũng như vậy, xuân đang "chín" lên trong cái "ửng" của nắng. Dấu hai chấm sau đó nhắc nhở ta cái gì sẽ hiện nhiên xẩy ra như quả chín thì chuyển từ xanh sang hồng. Những làn khói sương tan trong nắng, lượn lờ, bồng bềnh nâng tâm hồn thi sĩ lên khỏi mặt đất, khỏi thực tại, bước vào cõi "mơ". "Đôi mùi nhả tranh lẫm tấm vàng". Những "lấm tấm vàng" đó là hạt nắng hay chính là những ảo ảnh trong đôi mắt của người đang say Không phải cái say "quên trời, quên đất", cái say của nhà thơ là những phút giây đắm chìm, mê mải, chăm chú, cả âm thanh, cả hình ảnh, màu sắc cũng hòa làm một: khói tan, mái nhà lấm tấm vàng, gió sột soạt tà áo, giàn thiên lí. Đó là "bóng xuân". Chỉ là "bóng", rất mơ hồ, huyền ảo, mùa xuân cô gái đẹp, đẹp như trong mơ, đẹp như quả chín, đẹp hoàn hảo lướt qua trong tâm hồn nhà thơ.


"Bao cô thôn nữ hát trên đồi". Tiếng hát của những cô gái đánh thức Hàn Mặc Tử, đưa nhà thơ trở lại với thực tại. Toàn khổ thơ là tâm trạng tiếc nuối, ngậm ngùi: “Ngày mai trong đám xuân xanh ấy/ Có kẻ theo chồng bò cuộc chơi…”


Nhà thơ nghĩ đến ngày mai đây, cảnh vật, con người sẽ đỗi khác, những cô gái sẽ không còn những giây phút hồn nhiên, vô tư ca hát với mùa xuân, cũng như xuân rồi cũng sẻ qua, "xuân chín" rồi thì xuân sẽ tàn. Tâm hồn đa cảm ấy, không thể không rung lên xúc động. "Đám xuân xanh ấy" Mùa xuân tươi đẹp của đời người, cũng là mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên mà thi sĩ vẽ ra trước mắt người đọc làm ta không khỏi suy tư. Thế thì ta hãy tận hưởng cho hết những giờ khắc tuyệt vời ấy.


Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi ,

Hổn hển như lời của nước máy…

Thầm thi với ai ngồi dưới trúc

Nghe ra ý vị và thơ ngây…


Trí tưởng tượng của tác giả đã lên đến tột độ, tiếng hát thánh thót như đang "vắt vẻo lưng chừng núi", đang "hổn hển như lời của nước máy". Những âm thanh không bay cao, bay xa mà vẫn "thầm thì với ai ngồi dưới trúc". Từ "ai" rối rắm nghịch lý ấy cho ta thấy những cảm xúc vô cùng tinh tế trong tâm hồn thi sĩ. Tiếng hát bay khắp không gian, thi sĩ "thu"lại chỉ riêng cho "ai". Chính là mình rồi tự thốt lên: “Nghe ra ý vị và thơ ngây” Có mấy ai cảm nhận hết cả đất trời như vậy! Nghĩ đến đất trời, về những cuộc đổi thay, về mùa xuân, tác giả lại nghĩ về mình Khác xa gặp lúc mùa xuân chín. Thì ra mình chỉ là một người tha phương, lẻ loi, cô độc gặp "Mùa xuân chín" mới có được giây phút ấm lòng. Hàn Mặc Tử nhớ về làng xưa trí bâng khuâng sực nhớ làng".


Cái "sực nhớ" bất ngờ, dồn dập, tên tác giả, cái têu mà cha mẹ anh em vẫn gọi đối với Hàn Mặc Tử thân thương biết mấy, gần gũi biết mấy. Ngẫu nhiên, đó cũng là một từ rất phú hợp với nỗi nhớ của tác giả. Nhớ về quê xưa, hình ảnh đầu tiên đến với cái "sực nhớ" của tác giả là hình ảnh của người con gái. "Chị ấy" là chị ruột, chị họ hàng hay chí là một người quen hay là…? Ta không thể biết được. Nhưng ta hiểu được rằng tác giả đã dành sẵn một tình cảm rất trân trọng, rất tha thiết cho người con gái ấy. Tại sao hình ảnh đầu tiên mà tác giả nhớ không phải là cha mẹ, anh em, mái nhà xưa? Bởi vì đây là cái "sực nhớ", điều mà ý thức không kiêm soát được mà là của con tim đang dồn dập, nóng bỏng vì nỗi nhớ điều khiển. Những từ, tiếng vần liền "trắng, nắng", "chang chang" tạo cho người đọc cảm giác rõ rệt về một bờ sông cát trắng, nắng chói rất thật rất rõ ràng tạo thành hình ảnh con người thật đẹp.


Chị ấy năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang


Mùa xuân luôn là cảm hứng của bao nhiêu thi sĩ. Thế nhưng trong "Mùa xuân chín" của Hàn Mặc Tử vẫn rất đặc sắc vẫn rất sâu đậm, không những chỉ có "Mùa xuân chín" mà còn "chín" cả lòng người thi sỉ, "chín" cả nỗi nhớ làng, nhớ người xưa trong thơ Hàn Mặc Tử.


Bài thơ dạt dào cảm xúc khiến lòng người bâng khuâng. Với tâm hồn lãng mạn cùng những lời thơ trữ tình đặc sắc, Hàn Mặc Tử đã để lại cho đời một bức tranh xuân, một hình ảnh xuân một nét xuân đầm thắm dịu dàng. Người thì đã đi xa nhưng tình người còn vương vấn mãi. Bài thơ ấy cùng với cái tôi Hàn Mặc Tử vẫn tồn tại muôn đời.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 5
(có 0 lượt vote)

Bài soạn "Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ" - mẫu 6

Bài viết tham khảo

Câu 1

Bài viết tham khảo cảm nhận và phân tích bài thơ Mùa xuân xanh (Nguyễn Bính) vừa theo tuyến hình ảnh trải dọc bài thơ, vừa theo trình tự câu thơ, khổ thơ. Cách cảm nhận và phân tích đó có những ưu thế gì nổi bật? 

Lời giải

     Bài viết tham khảo cảm nhận và phân tích bài thơ Mùa xuân xanh (Nguyễn Bính) vừa theo tuyến hình ảnh trải dọc bài thơ, vừa theo trình tự câu thơ, khổ thơ. Cách cảm nhận và phân tích đó có những ưu thế nổi bật là:

- Chỉ ra được các hình ảnh nổi bật trong bài thơ qua đó đánh giá và nhận xét được những quan niệm và suy nghĩ của tác giả một cách chính xác nhất.

- Thể hiện mạch lạc, rõ ràng mạch cảm xúc của bài thơ, phân tích bài thơ theo từng câu, từng khổ rõ ràng để người đọc có  thể hiểu được nội dung bài thơ từ đầu đến cuối.

-  Cách cảm nhận và phân tích này chẳng những làm nổi bật nội dung của bài thơ, chỉ ra được tác dụng của các biện pháp nghệ thuật trong bài thơ mà còn nhấn mạnh được các chi tiết, hình ảnh quan trọng trong bài thơ.

=> Tóm lại cách cảm nhận và phân tích theo tuyến hình ảnh dọc kết hợp theo trình tự câu thơ, khổ thơ giúp quá trình phân tích mạch lạc, người đọc cảm nhận được trọn vẹn cái hay, cái đẹp của bài thơ và không bỏ sót bất kỳ chi tiết nào quan trọng của bài thơ.


Câu 2

Trong bài nghị luận phân tích, đánh giá về một tác phẩm thơ, thực chất của việc phân tích chủ đề là gì?

Lời giải 

     Trong bài nghị luận phân tích, đánh giá về một tác phẩm thơ, thực chất của việc phân tích chủ đề là để cảm nhận những đặc sắc về giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ, đồng thời nhận xét và đánh giá quan niệm của tác giả qua bài thơ đó.


Câu 3

Người viết đã đánh giá bài thơ như thế nào? Nêu nhận xét khái quát về tính thuyết phục của đánh giá đó.

Lời giải

- Người viết đã đánh giá bài thơ giản dị nhưng vẫn toát lên không khí và sức sống của mùa xuân đang về. Bài thơ thể hiện rõ niềm vui của sự sống, của sự chan hòa giữa con người với tạo vật, là khúc dạo đầu của tình yêu đôi lứa.

- Nhận xét khái quát về tính thuyết phục của đánh giá trên

+ Người viết phân tích chi tiết các câu thơ, khổ thơ để chứng minh những nhận xét trên.

+ Người viết phân tích được tác dụng của các biện pháp tu từ được sử dụng trong bài thơ và khái quát được phong cách nghệ thuật của tác giả.

+ Ngoài ra, người viết so sánh với các câu thơ, bài thơ có cùng chủ đề đề tăng sức thuyết phục cho bài viết của mình.

=> Tóm lại những đánh giá của người viết với bài thơ đã có đủ sức thuyết phục, có những luận điểm, lí lẽ và bằng chứng hợp lý, xác đáng, làm nổi bật được giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ này.


Thực hành viết

Viết bài văn phân tích và đánh giá bài thơ Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) của Đỗ Phủ.

Lời giải 

Dàn ý

Mở bài

- Khái quát về đề tài mùa thu trong thơ Đường, vốn là đề tài quen thuộc và có nhiều bài thơ hay viết về đề tài này.

- Giới thiệu nhà thơ Đỗ Phủ “ một trong những thi thánh” của thơ ca Trung Quốc. Khái quát về bài thơ Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) là bài thơ đầu tiên trong chòm 8 bài thơ Thu hứng của Đỗ Phủ

Thân bài

a) Bốn câu đầu: Cảnh thu

* Câu 1 và câu 2:

- Hình ảnh cổ điển “ngọc lộ, phong thụ lâm’’ vốn rất quan thuộc trong thơ ca viết về mùa thu.

- "Vu sơn Vu giáp”: là những địa danh nổi tiếng của Trung Quốc được nhắc đến trong thơ Đỗ Phủ. Nơi này có khí trời âm u, rất gợi cảm giác của mùa thu. Bản dịch đánh rơi mất hai địa danh này

- “Khí tiêu sâm”: hơi thu ảm đạm, hiu hắt, đượm buồn.

=>Không khí của mùa thu vườn buồn, vừa thê lương thể hiện cảm giác cô đơn, lạnh lẽo của tác giả.

* Hai câu 3 và câu 4:

- Không gian của mùa thu được khai thác trên ba chiều rộng, cao và xa. Tầm nào cũng thấy không khí ảm đạm, thê lương:

+ Tầng xa: với hình “sóng vọt lên tận lưng trời” giữa lòng sông.

+ Tầng cao: miền quan ải với mây sa sầm.

+ Tầng rộng: thể hiện qua không gia mặt đất, bầu trời, dòng sông

- Sử dụng những hình ảnh đối lập cao - thấp

=> Không gian, cảnh sắc mùa thu tiếp tục được cảm nhận ở cái xơ xác, tiêu điều, thể hiện tâm trạng bí bách, ngột ngạt của con người.

b) Bốn câu sau: Tình thu

* Câu 5 và 6

- Sử dụng hình ảnh nhân hoá, tượng trưng, ẩn dụ.

+ Khóm cúc nở hoa: Hình ảnh tượng trưng quen thuộc của mùa thu

 + Hình ảnh “Cô phàm”: con thuyền lẻ loi, đơn độc như thân phận của con người

- Cách sử dụng từ ngữ độc đáo, hàm súc, cô đọng:

+ “Lưỡng khai”: nỗi buồn trải dài từ quá khứ đến hiện tại

+ “Nhất hệ”: Dây buộc thuyền cũng là sợi dây buộc mối tình nhà của tác giả.

+ “Cố viên tâm”: Tấm lòng thương nhớ quê hương của kẻ xa quê

=> Hai câu thơ diễn tả nỗi lòng da diết, dồn nén nỗi nhớ quê hương của tác giả.

* Hai câu 7,8

  • Xuất hiện hình ảnh của người lao động

+ Mọi người nhộn nhịp may áo rét

+ Thành Bạch Đế nhân dân giặt áo rét chuẩn bị cho mùa đông

- Âm thanh: tiếng chày đập vải

=> Hình ảnh, âm thanh của cuộc sống lao động bình dị, gợi đến quê hương ấm áp, yêu dấu, càng dấy lên trong lòng người con xa quê tình yêu tha thiết và nỗi mong chờ được trở về quê hương xum họp với gia đình

Kết bài: 

Tổng kết, khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật, mở rộng liên hệ, đánh giá tài năng, tấm lòng của nhà thơ.


Bài văn mẫu

Đỗ Phủ được mệnh danh là một trong những thánh thơ của Trung Quốc. Ông xuất thân trong một gia đình Nho học, được thừa hưởng truyền thống hiếu học của gia đình. Nền tảng giáo dục tốt và với năng khiếu bẩm sinh, Đỗ Phủ đã sáng tác rất nhiều những bài thơ hay, phản ánh sâu sắc hiện thực cuộc sống cũng như thời đại của ông. Đó là lý do vì sao ông được Unesco công nhận là Danh nhân văn hoá thế giới. Bài thơ “Thu hứng” là bài thơ đầu tiên trong chòm 8 bài thơ Thu hứng của Đỗ Phủ được sáng tác trong thời gian ông lưu bạt ở Quý Châu, trong thời gian nhà thơ xa quê hương. Bao trùm toàn bài thơ chính là tâm trạng nhớ quê hương sâu sắc và niềm mong ngóng được đoàn tụ với gia đình.


 Kể từ khi bùng nổ loạn lạc do An Lộc Sơn gây ra, đất nước Trung Quốc bị chia cắt, nhân dân đói khổ, lầm than, Đỗ Phủ theo chân gia đình đi phiêu bạt đến nhiều nơi, sau cùng đặt chân ở Tứ Xuyên. Đây là một trong những vùng đất hiểm trở , núi non hùng vĩ và cách xa quê hương nhà thơ mấy ngàn dặm. Người ta thường nói “ người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” nhớ quê hương tha thiết, nhà thơ đã viết lên những dòng thơ chan chứa cảm xúc:


Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,

Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm


Hai câu đề là một vài nét chấm phá về cảnh thu nơi vùng núi hoang vu, hiểm trở ở Tứ Xuyên. Có thể thấy nhà thơ đứng ở một vị trí rất cao để bao quát toàn bộ phong cảnh nơi rừng núi Tứ Xuyên. Chính vì điểm nhìn cao nên tầm nhìn xa và rộng, nhà thơ quan sát được toàn bộ cảnh núi non hùng vĩ với hình ảnh rừng phong đỏ rực của mùa thay lá, sương trắng phủ kín cánh rừng, gợi không khí lạnh lẽo, hoang sơ. Hình ảnh cây phong, sương là hình ảnh ước lệ, tượng trưng rất quen thuộc của mùa thu. Những nét chấm phá này gợi lên một không khí lạnh lẽo, hoang vu, tiêu điều, thể hiện một tâm trạng buồn, ngao ngán của nhà thơ. Hình ảnh “ Vu Sơn”, “Vu giáp” gắn với khí tiêu sâm gợi ra không khí hiu hắt ảm đạm. Toàn cảnh núi rừng bao trùm trong hơi thu hiu hắt. Bản dịch đã bỏ rơi chữ “Vu” và đánh mất cái không khí đượm buồn, lạnh lẽo nơi rừng núi hoang vu. Vào mùa thu khung cảnh ảm đạm, hoang vu nơi đây càng trở nên tiêu điều, hiu hắt thông qua ngòi bút của nhà thơ. Hai câu thực nhà thơ tiếp tục khám phá vẻ đẹp mùa thu ở tầm thấp, không gian ở chiều sâu


Giang gian ba lăng kiêm thiên dũng,

Tái thượng phong vân tiếp địa âm


Cảnh thu ở trên là hình ảnh của cây cối, núi non. Đến đây cảnh thu được cảm nhận qua sông nước, mây trời. Đây là hình ảnh của dòng sông nơi thượng nguồn với dòng chảy xiết, mạnh, dữ dội, có cảm giác sóng ở lòng như vọt lên tận chân trời. Các từ rợn rồi sâu thẳm diễn tả sự dữ dội, mạnh mẽ của dòng sông, qua đó cũng thể hiện cảm giác choáng ngợp của con người trước thiên nhiên hùng vĩ, hoang vu. Câu 4 “tái thượng phong vân tiếp địa âm” tạm dịch là “ mặt đất mây trắng sà xuống thấp đến mức giống như mây được đùn từ mặt đất lên”.


Với 4 câu thơ đã lột tả được trọn vẹn cái khung cảnh mùa thu nơi rừng núi hiểm trở: Đó là rừng phong thay lá, là sông nước chảy mạnh mẽ dữ dội nơi thượng nguồn, là mây trắng sà xuống chân trời. Bức tranh mùa thu thật tráng lệ, với nhiều nét vẽ và nét nào cũng đậm đặc cái hồn thê lương, buồn bã. Cảnh ấy đập vào mắt con người thì làm sao không khơi gợi lên một nỗi nhớ nhà da diết của người thi sĩ nhạy cảm được.


Nếu 4 câu thơ trên là cảnh mùa thu, tất nhiên cảnh thu đã được cảm nhận qua lăng kính tình cảm của con người, nhuốm màu tâm trạng của con người nhưng tình của con người vẫn chưa lộ rõ. Thì đến 4 câu thơ sau cái tình của người đã được bộc lộ cụ thể, chan chứa cảm xúc dạt dào:


Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,

Cô chu nhất hệ cố viên tâm.


Có thể nói hai câu luận này là hai câu thơ hay nhất trong bài thơ này. Nó cũng được dịch khá sát nghĩa trong bản dịch của Nguyễn Công Trứ. Ta tạm hiểu câu thơ đầu tiên là khóm cúc nở hoa giống như tuôn những dòng lệ hoặc là mỗi lần khóm cúc nở hoa nhà thơ lại rơi lệ vì nhớ quê hương. Hai lần cúc nở hoa, hai mùa thu đã trôi qua đồng nghĩa nhà thơ đã xa quê hai năm. Nhìn hoa nở nhà thơ bồi hồi, xúc động nỗi niềm nhớ về quê hương. Đặc biệt ở câu thơ tiếp theo với hình ảnh “cô chu” tức là con thuyền lẻ loi, cô đơn trôi giữa dòng nước, giống như thân phận của kẻ tha hương là Đỗ Phủ. Hình ảnh con thuyền buộc chặt nỗi niềm nhớ thương quê cũ đã phản ánh đúng tâm trạng của nhà thơ với nỗi nhớ quê hương mãi trong tâm tưởng. Hai câu thơ kết:


Hàn y xứ xứ thôi đao xích,

Bạch Đệ thành cao cấp mộ châm.


Hai câu thơ có âm thanh của sự sống, âm thanh của cuộc sống lao động thường nhật. Nó xuất hiện thật bất ngờ, có vẻ không ăn nhập với cái không khí bên trên, nhưng nó lại vô cùng hợp lý trong mạch vận động tâm trạng của tác giả. Bởi những câu thơ bên trên là hình ảnh của mùa thu của thiên nhiên, với hình ảnh buồn, tiêu điều ảm đạm. Và hình ảnh ấy tất nhiên sẽ gợi ra tâm trạng nhớ thương quê nhà của những người xa quê. Nhất là khi nhìn thấy hoạt động thường ngày của người lao động. Đó là khung cảnh hối hả khẩn trương may áo rét, giặt áo rét cũ để chuẩn bị cho mùa đông sắp tới. Tiếng chày đập vải, tiếng tay dao thước mang không khí của cuộc sống thường nhật, gợi lại cảnh sum họp nơi quê nhà. Thấy cảnh này nỗi nhớ quê càng dâng trào hơn trong lòng nhà thơ.


 Bài thơ sử dụng thủ pháp quen thuộc của thơ Đường, đó là những hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng quen thuộc. Nói về cảnh thu không thể thiếu rừng phong, khóm cúc, nói đến nỗi niềm của người xa quê là hình ảnh cô chu… Đề tài viết về mùa thu cũng không có gì mới mẻ, phải nói là rất quen thuộc trong thơ ca. Nhưng thông qua cấu tứ, cách liên kết các hình ảnh, sự vận động của mạch cảm xúc trong thơ, chúng ta thấy được sự liên kết rất mạch lạc, bố cục rất chặt chẽ. Và hơn cả nổi bật trên đó là tấm lòng nhớ thương quê hương đến da diết, cháy bỏng của nhà thơ, niềm mong mỏi, khát khao được trở về đoàn tụ với quê hương. 


 Có thể nói “Thu hứng” là một trong những bài thơ hay nhất trong chùm bài thơ thu của Đỗ Phủ. Câu nào, từ nào cũng phản ánh các phong vị đặc trưng của mùa thu. Thông qua cảnh chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp của tâm hồn con người, khẳng định tài năng kiệt xuất của nhà thơ Đỗ Phủ.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Hi vọng bài viết trên mang lại nhiều giá trị cho bạn. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài văn hay trên Alltop.vn

Hãy đăng nhập để bình luận

Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .