Top 8 Bài văn cảm nhận về bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" của Phan Bội Châu (lớp 11) hay nhất

8121

Phan Bội Châu được nhắc đến là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có ý thức dùng văn chương để vận động, tuyên truyền cách mạng. Ông cũng chính là người khơi dòng...xem thêm ...

Top 0
(có 0 lượt vote)

Bài văn cảm nhận về bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" - mẫu 1

Nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng nhận định "Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời". Văn học vì lẽ đó vẫn luôn song hành với mỗi bước đi của lịch sử. Văn học Việt Nam đã ghi nhận rất nhiều cây bút cùng những tác phẩm nổi bật trong thời đại văn học. "Xuất dương lưu biệt" với tinh thần nhiệt huyết, quyết tâm đi tìm con đường cứu nước của Phan Bội Châu cũng được đánh giá là một tác phẩm như thế.


Đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp xâm lược nước ta, gây ra bao cảnh lầm than cơ cực cho dân tộc, cho nhân dân. Nhiều phong trào yêu nước đồng loạt nổ ra nhưng thất bại, báo hiệu việc đi theo con đường phong kiến đã không còn phù hợp. Trước tình trạng bế tắc con đường cứu nước, Phan Bội Châu đã đứng lên thành lập Duy tân hội, phát động phong trào Cách mạng mới mang tên "Đông du". Năm 1905, Phan Bội Châu xuất dương sang Nhật Bản, bắt đầu tìm kiếm con đường cứu nước của mình. "Xuất dương lưu biệt" được sáng tác vào thời điểm trước khi ông khởi hành, gửi gắm ý chí quyết tâm, sự hăm hở và tinh thần yêu nước sâu sắc của ông. Ngay từ hai câu thơ mở đầu, Phan Bội Châu đã bộc lộ hoài bão và chí khí của mình:


"Sinh vi nam tử yếu hi kì
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di"

(Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời)


Hai câu thơ với nhịp điệu dứt khoát đã nói lên suy nghĩ của Phan Bội Châu về 3 chữ quyết định trong cuộc đời đấng nam tử - "chí làm trai". Ông cho rằng, nam tử phải làm được chuyện lạ ở trên đời, có khát vọng và làm chủ thế sự. Họ là những người chủ động trước mọi thăng trầm của thời đại, không chấp nhận cuộc đời mà trời đất tự xoay vần, sắp đặt. Đây là tư tưởng vô cùng táo bạo. Để rồi khi soi chiếu vào hoàn cảnh lúc bấy giờ, chúng ta có thể nhận ra lời mà tác giả đang tự nói với mình, nói với những người nam nhi thời ấy. Đất nước đang rơi vào tình cảnh hiểm nguy, nam nhi phải đứng lên lập lại thời thế, xoay chuyển thực tại, đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại chủ quyền cho đất nước, khẳng định vị trí của chính mình:


"Ư bách niên trung tu hữu ngã
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy"

(Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai?)


Lấy trăm năm (bách niên) hữu hạn đặt cạnh muôn thuở (khởi thiên) vô hạn, phủ định để khẳng định, Phan Bội Châu một lần nữa nhấn mạnh tiêu chí của đấng nam tử. Không chỉ chủ động trước thời cuộc, không chỉ làm những việc lạ, người nam tử còn mong muốn hoàn thành những chuyện lớn lao, vượt lên cả giới hạn của chính mình, gánh trên vai không chỉ việc mình mà còn cả việc đời. Câu hỏi "Trong khoảng trăm năm cần có tớ/ Sau này muôn thuở há không ai?" chính là lời khẳng định của tác giả về cái "tôi" cá nhân. Không rụt rè, không ẩn hiện, ý thức về cái "tôi" đến đây được thể hiện vô cùng rõ ràng. Tự nhận thấy vai trò và sứ mệnh của mình đối với thời thế và khát vọng công danh thôi thúc, nhân vật trữ tình đã can đảm đứng ra giữa cuộc đời. Không những thế, Phan Bội Châu còn nhìn thấy cả sự lỗi thời, lạc hậu của quan điểm Nho gia:


"Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si"

(Non sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài)


Người nam tử đã ý thức được thực tại rằng non sông đã mất chủ quyền, đất nước bị giặc ngày đêm giày xéo. Bấy nhiêu năm theo học "thánh hiền" không giữ được non sông, học cũng hoài phí, sống thêm nhục nhã, vô nghĩa. Man mác nỗi xót xa, nhưng hai câu thơ đã đưa ra nhận định đúng đắn về thời thế, về thực trạng nước nhà dứt khoát, sáng suốt. Phan Bội Châu đã tỉnh táo nhận ra Nho học không còn phù hợp với thời điểm hiện tại, cần tiếp thu những tư tưởng và con đường mới, phù hợp hơn, phục vụ cho sự nghiệp cứu nước. Hoài bão lớn lao đã bùng cháy lên trong suy nghĩ của người nam tử yêu nước, ông xuất phát ra đi tìm đường cứu nước với tư thế hiên ngang và tràn đầy hi vọng:


"Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi."

(Muốn vượt biển Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi)


"Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi" là hình ảnh biểu tượng cho ý chí, khát vọng của người chí sĩ cách mạng. Hai câu thơ với những hình ảnh trừu tượng kì vĩ và lớn lao đã thể hiện khát khao, mong muốn và khí thế của người chí sĩ yêu nước, nguyện vượt cả Biển Đông, vượt mọi giới hạn để hoàn thành chí lớn, hoàn thành sự nghiệp vĩ đại.


Khép lại bài thơ, có thể đánh giá "Xuất dương lưu biệt" là một khúc ca khởi hành mang âm hưởng lạc quan và tràn đầy hi vọng. Bài thơ vừa thể hiện tư thế hiên ngang, quyết tâm của Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất dương đi cứu nước, vừa có giá trị thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam, đặc biệt là thế hệ thanh niên thời bấy giờ. Chính bởi những giá trị đó, "Xuất dương lưu biệt" xứng đáng là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nền văn học với giá trị sâu sắc, xứng đáng được thế hệ mai sau lưu giữ đến ngàn đời.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 1
(có 0 lượt vote)

Bài văn cảm nhận về bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" - mẫu 2

Phan Bội Châu vị lãnh tụ của phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX. Mặc dù mang trong mình tâm huyết lớn lao song sự nghiệp của ông lại không thành, nhưng lòng yêu nước nồng nàn, cháy bỏng của ông vẫn lưu mãi muôn đời. Ông dùng thơ văn của mình như một thứ vũ khí đắc lực để cổ vũ, tuyên truyền cách mạng. Xuất dương khi lưu biệt là một trong những bài thơ như vậy.


Thực dân Pháp xâm lược nước ta, đã có nhiều phong trào nổ ra, trong đó nổi bật nhất là phong trào Cần Vương nhưng cuối cùng vẫn bị dập tắt, nó là sự báo hiệu cho việc cứu nước theo con đường phong kiến đã không còn thích hợp. Trước thực trạng chưa tìm được con đường cứu nước đúng đắn, phong trào cách mạng mới của Phan Bội Châu đã hé mở một hy vọng mới, ông cùng những người cùng chí hướng đã lập ra Duy tân hội. Đầu năm 1905, Phan Bội Châu xuất dương sang Nhật, mở đầu cho phong trào Đông Du. Tác phẩm Xuất dương lưu biệt được viết trước khi ông lên đường. Tác phẩm thể hiện lòng yêu nước sâu lặng của tác giả. Hoài bão cuộc đời, chí khí làm trai của Phan Bội Châu được bộc lộ trực tiếp ngay trong câu thơ đầu tiên của tác phẩm:


Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời.


Câu thơ bắt đầu bắt motip rất phổ biến trong văn học trung đại đó là “làm trai” tức để nói về nghĩa vụ, trách nhiệm của một nam nhi đối với cuộc đời, đối với đất nước. Đây là quan niệm nhập thế tích cực của Nho giáo. Câu thơ gợi cho ta nhớ đến rất nhiều bài thơ nói chí phổ biến trong văn học trung đại như: “Nam nhi vị liễu công danh trái/ Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu” (Thuật hoài – Phạm Ngũ Lão) hay “Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông” (Nguyễn Công Trứ). Đến đầu thế kỉ XX, Phan Bội Châu tiếp tục nhắc lại quan niệm về chí làm trai, nhưng trong cách thể hiện của ông mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn. Làm trai là “phải lạ” tức là phải biết sống một cách phi thường, hiển hách, dám xoay vần, chuyển đất, không thể là một kẻ sống cuộc đời tầm thường, tẻ nhạt, buông xuôi theo thời thế, để con tạo tự xoay vần cuộc đời mình. Bởi vậy mà:


Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai?


Trong khoảng trăm năm là cả một đời người với biết bao biến cố có thể xảy ra, Phan Bội Châu tự tin khẳng định: “cần có tớ” cái tôi cái nhân xuất hiện thật ngạo nghễ, thật chủ động. Cần có ông không phải để được vui chơi, hưởng lạc mà là để cống hiến tận lực, tận tâm cho đời, để tiếng thơm còn lưu danh muôn thuở. Trong thời cuộc lúc bấy giờ đầy rối ren, thử hỏi mấy ai có thể chủ động đứng ra nhận lấy trách nhiệm vừa cao cả, vừa nặng nề ấy cho bản thân. Câu thơ của ông càng khiến ta cảm phục hơn về nhân cách cao đẹp, lớn lao ấy.


Với bốn câu thơ đầu người đọc có thể thấy hình tượng người chí sĩ hiện lên là người có khát vọng làm những việc lớn lao, trọng đại. Đồng thời ông cũng đầy ý thức về cái tôi của bản thân nhưng không phải là cái tôi hưởng thụ mà là cái tôi công dân đầy trách nhiệm. Có ý thức cống hiến cho đời. Giữa thời buổi tối tăm đó ý thức làm chai, khát vọng xoay chuyển vũ trụ và hoài bão lớn lao của Phan Bội Châu có ý nghĩa vô cùng to lớn. Bốn câu thơ cuối thể hiện chí làm trai trong hoàn cảnh thực tế:


Non sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài
Muốn vượt biển đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.


Câu thơ là nỗi đau đớn, xót xa quặn thắt của nhân vật trữ tình trước thực tế nước nhà đã bị mất chủ quyền, nhân dân phải sống trong vòng nô lệ. Phan Bội Châu cũng ý thức rõ về sự hết thời của Nho học, sách vở thánh hiền không còn có ý nghĩa gì cho sự nghiệp giải phóng đất nước. Ông vốn xuất thân từ cửa Khổng sân Trình, vậy nhưng ông không hề bao biện mà thấy rõ sự bất lực, vô ích của lối học cũ, mang trong mình quyết tâm tìm ra con đường mới để giải phóng đất nước. Đây là một ý tưởng hết sức mạnh mẽ, táo bạo. Sự táo bạo đó bắt nguồn từ nhiệt huyết nồng cháy, lòng yêu nước nồng nàn, muốn nhanh chóng thực hiện sự nghiệp cứu nước. Đồng thời cũng do ông chịu ảnh hưởng từ những cuốn “tân thư” được truyền bá bí mật vào nước ta lúc bấy giờ. Chính những yếu tố đó đã thôi thúc ông tìm một hướng đi mới, con đường mới để cứu nước, cứu dân.


Với giọng điệu tràn đầy nhiệt huyết và cảm xúc, bài thơ đã khắc họa một cách chân thực và đầy đủ khí phách ngang tàng, táo bạo quyết liệt của nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu. Đồng thời tác phẩm này cũng cho người đọc thấy nét tính cách nổi bật trong con người ông đó là cá tính mạnh mẽ, ưa hành động, lòng yêu nước nồng nàn, sâu đậm.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 2
(có 0 lượt vote)

Bài văn cảm nhận về bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" - mẫu 4

Phan Bội Châu nhân vật lịch sử có tình yêu nước vô bờ bến, ông luôn mang trong mình ý chí phản kháng giặc ngoại xâm và nuôi chí lớn giải phóng dân tộc, tư tưởng đấu tranh của ông khuynh hướng dân chủ tư sản ra đi tìm con đường cứu nước ở các nước tư sản.


Phan Bội Châu chính là chủ nhân của phong trào Đông du, ông chủ yếu hoạt động cách mạng sáng tác ra các tác phẩm chỉ để phục vụ cho cách mạng. Thơ văn của ông luôn nồng nàn tình yêu nước, khích lệ tinh thần và ý chí chiến đấu, vận động đồng bào đoàn kết với nhau thành một khối thống nhất để đánh bại giặc ngoại xâm đang giày xéo đất nước.


Phong trào Duy Tân thành lập, Phan Bội Châu phải sang Nhật mục đích đào tạo cho thành viên trong hội tìm cách cứu nước. Tác giả viết bài thơ Lưu biệt khi xuất dương trong buổi chia tay để sang Nhật, bài thơ viết bằng chữ Hán thể thất ngôn bát cú Đường luật.


Bài thơ thể hiện sự tự hào, quyết tâm của Phan Bội Châu trong buổi xuất ngoại ra đi để tìm đường cứu nước cho dân tộc. Phan Bội Châu thể hiện chí nam nhi làm trai trong đất trời,phải làm điều lớn lao dám mưu đồ việc lớn đó lí trưởng sống của thời đại. Làm trai ắt trong trời đất phải chủ động xoay chuyển trời đất chứ không thể để cho trời đất tự thay đổi. Tác giả thể hiện cái tôi cá nhân của con người công dân có trách nhiệm với cuộc đời, đất nước.


Tác giả đã sử dụng phép bình đối chỉ thời gian, với cái hữu hạn mang đi so sánh với cái vô hạn. Nhân vật trữ tình đang tự đứng giữa cuộc đời đã ý thức được sứ mệnh của bản thân với lịch sử đồng thời đó cũng là khát vọng tạo dựng được công danh của chính ông. Phan Bội Châu giúp người đọc hiểu rõ hơn về thực trạng lịch sử lúc bấy giờ bằng cái chân thực, tỉnh táo trước thời cuộc.


Những dòng thơ cuối đã thể hiện mong muốn của tác giả muốn vượt mọi muôn trùng sóng gió vươn ra biển lớn để tìm đường giải phóng dân tộc, đất nước khỏi ách kìm kẹp của thế lực ngoại xâm. Câu thơ thể hiện được sự hi vọng, tư thế hào hùng và sự lạc quan trong tương lai.


Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương đã tạo nên sức lôi cuốn mạnh khi thể hiện được khát vọng sống hào hùng, mạnh mẽ của nhân vật trữ tình, khí phách làm trai hiên ngang xoay chuyển càn khôn trong đất trời, cùng với đó là giọng thơ đầy tâm huyết mà vẫn thể hiện được chí khí của bậc anh hùng thời đại.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 3
(có 0 lượt vote)

Bài văn cảm nhận về bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" - mẫu 3

Phan Bội Châu là một nhân vật lịch sử kiệt xuất. Một người yêu nước nồng nàn tha thiết tiêu biểu cho phong trào đấu tranh giành độc lập của dân tộc. Ông luôn nung nấu ý chí giải phóng dân tộc. Ông là một trong những người khai sáng con đường đấu tranh giải phóng dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Phan Bội Châu là người khởi xướng phong trào Đông du, thành viên của Việt Nam Quang phục hội. Phan Bội Châu không xem văn chương là mục đích của cuộc đời mình. Nhưng cuộc đời hoạt động cách mạng buộc ông phải cầm bút sáng tác văn chương phục vụ cho công cuộc cách mạng. Ông là người có ý thức dùng văn chương để tuyên truyền, vận động cách mạng. Bởi vậy mà thơ văn của ông luôn nóng bỏng nhiệt tình yêu nước. Ông luôn khích lệ tinh thần và ý chí chiến đấu, vận động đông đảo đồng bào tham gia vào khối đại đoàn kết dân tộc để hợp sức đánh đuổi kẻ thù.


Sau khi Duy Tân hội được thành lập, Phan Bội Châu nhận nhiệm vụ xuất dương sang Nhật để đặt cơ sở đào tạo cốt càn cho phong trào cách mạng trong nước. Tác giả đã viết bài thơ này trong buổi chia tay với các đồng chí để lên đường sang Nhật. Với giọng thơ bay bổng và khỏe khoắn, đầy tráng khí và cảm hứng lãng mạn, góp phần thể hiện khát khao lớn lao, chí khí và quyết tâm của nhân vật trữ tình.


Bài xuất dương lưu biệt thể hiện rõ ràng tư thế hào hùng, quyết tâm hăm hở và những ý nghĩ cao cả, mới mẻ của nhà cách mạng Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất ngoại tìm đường cứu nước. Chí làm trai của Phan Bội Châu được thể hiện rõ trong bài thơ, nó là lí trưởng sống và cũng là một hi vọng của tác giả. Cái điều lạ tác giả nhắc tới là những điều lớn lao, phi thường. Làm trai thì ắt phải chủ động làm những việc có thể xoay chuyển trời đất, không thể để cho trời đất tự thay đổi. Chí làm trai, khát vọng làm được những việc to lớn vốn được Phan Bội Châu ấp ủ, tâm niệm ngay từ rất sớm. Cái chí khí đó càng được thể hiện rõ ở những câu thơ sau. Tác giả ý thức và tự khẳng định cái tôi rất tự tin, rất có trách nhiệm và đầy tự do. Đó là cái tôi công dân đầy tinh thần trách nhiệm trước cuộc đời. Ở đây, tác giả dùng phép bình đối chỉ thời gian, giữa cái hữu hạn với cái vô hạn. Đó là nhân vật trữ tình đang tự đứng giữa cuộc đời một cách can đảm, do ý thức được sứ mệnh của mình trong lịch sử và cũng do sự thôi thúc của khát vọng lập công danh. Hai câu luận nói về sự thực nhức nhối. Cao hơn nữa thì chí làm trai với khát vọng lưu danh, đó là ý thức về nôn sông đã mất chủ quyền. Phan Bội Châu đã cho người đọc thấy được nhận định thực trạng lịch sử bằng một cái nhìn dứt khoát, cái nhìn tinh tế, tỉnh táo của ông về thời cuộc.


Tác phẩm dừng lại với những câu kết thể hiện tâm huyết và nhãn quan thực tiễn. Tác giả đã ý thức được nỗi đau mất nước và gắn liền trách nhiệm công dân với vận mệnh của đất nước. Một khi “non sông đã chết” – đất nước đã mất thì sống cũng chỉ thêm nhục mà thôi. Với nhãn quan thực tiễn, tác giả nhận thấy lối học cũ nơi “cửa Khổng sân Trình” đã lỗi thời không còn giúp gì được cho đất nước. Hai câu thơ bộc lộ thái độ quyết liệt và tình cảm đau đớn của tác giả trước thực trạng của đất nước. Thể hiện khát vọng vượt biển Đông tìm lối thoát cho đất nước, để dân tộc có một con đường tươi sáng hơn. Những câu thơ bộc lộ cảm hững khoáng đạt, tư thế hào hùng và đặc biệt là niềm lạc quan của người ra đi.


Qua bài Xuất dương lưu biệt, hình ảnh Phan Bội Châu trong những năm tháng đầu ra nước ngoài tìm đường cứu nước hiện lên khá đầy đủ. Đây là một con người có lòng yêu nước sâu sắc, ý thức sâu sắc về cái “tôi”, có khát vọng làm nên sự nghiệp to lớn, có tư thế hăm hở tự tin, có cái nhìn mới mẻ, táo bạo…Bài thơ là lời tự bạch chân thành, bản thân hình ảnh tác giả – nhân vật trữ tình của bài thơ – có tác dụng động viên khích lệ, tuyên truyền tinh thần cách mạng. Bài thơ này còn tiêu biểu cho bút pháp Phan Bội Châu với khẩu khí của bậc anh hùng.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 4
(có 0 lượt vote)

Bài văn cảm nhận về bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" - mẫu 5

Hoàn cảnh ra đời của bài thơ Xuất dương lưu biệt là những năm đầu thế kỷ XX, đất nước ta đã mất chủ quyền, hoàn toàn lọt vào tay thực dân Pháp. Tiếng trống, tiếng mõ Cần Vương đã tắt, báo hiệu sự bế tắc của con đường cứu nước theo tư tưởng phong kiến do các sĩ phu lãnh đạo. Phan Bội Châu lúc này mới ba mươi tám tuổi, là hình ảnh tiêu biểu của một thế hệ cách mạng mới, quyết tâm vượt mình, bỏ qua mớ giáo lý đã quá lỗi thời của đạo Khổng để đón nhận tư tưởng tiên phong trong giai đoạn, mong tìm ra bước đi mới cho dân tộc, nhằm tự giải phóng mình. Phong trào Đông du được nhóm lên cùng với bao nhiêu hy vọng…


Bài thơ đã thể hiện rất sinh động tư thế, ý nghĩ của Phan Bội Châu trong buổi xuất dương tìm đường cứu nước. Hai câu đề nói rõ nhận thức của nhà thơ về chí làm trai – một nhận thức làm cơ sở cho mọi hành động:


Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời.


Thực ra chí làm trai chẳng phải đến bây giờ mới được Phan Bội Châu khẳng định. Trước đó, trong thơ trung đại, ta vẫn thấy Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Công Trứ nhắc đến (ở các bài Thuật hoài, Chí nam nhi). Nhưng điều đó không có nghĩa là ở bài thơ của Phan Bội Châu, lý tưởng nhân sinh kia đã mất đi sự mới lạ, thôi thúc. Nó chính là điều nung nấu bao năm của tác giả bây giờ được nói ra, trước hết như lời tự vấn, tự nhủ, tự mình nâng cao tinh thần mình: đã làm trai là phải làm nên chuyện lạ, đó là trời đất không để "tự chuyển dời". Đây là một tư tưởng táo bạo, cách mạng đối với người xuất thân từ cửa Khổng sân Trình trong thời điểm ấy. Với hai câu thực, nhà thơ tiếp tục khẳng định tư thế của kẻ làm trai giữa vũ trụ và trong cuộc đời:


Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở, há không ai?


Ý thức về cái "tôi" đã hiện lên rõ ràng, không rụt rè, dè dặt. Đó là nhân vật trữ tình đang tự đứng giữa cuộc đời một cách can đảm, do ý thức được sứ mệnh của mình trong lịch sử và cũng do sự thôi thúc của khát vọng lập công danh. Hai câu luận nói về sự thực nhức nhối:


Non sông đã chết sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.


Đến hai câu này, ta cũng thấy nổi lên ý chí làm trai với khát vọng lưu danh theo một nội dung mới, đó là ý thức về non sông đã mất chủ quyền, "hiền thánh" thần tượng một thuở giờ còn đâu nữa. Hai câu thơ nhận định thực trạng lịch sử bằng một cái nhìn dứt khoát. "Hiền thánh còn đâu học cũng hoài" – đây quả là một câu thơ thể hiện khí thế sục sôi của Phan Bội Châu, cho thấy cái nhìn tỉnh táo của ông về thời cuộc. Hai câu kết của bài thơ có cái khí thế gân guốc và ý thức được sự ra đi một cách sôi trào, đầy dũng khí:


Muốn vượt biển Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.


"Vượt biển Đông" là cách nói có vẻ khoa trương nhưng đó là hành động sắp diễn ra. Người ra đi trong niềm hứng khởi vô biên "muôn trùng sóng bạc" tiễn chân như một yếu tố kích thích. Đó chính là bạn đồng hành trong cuộc ra đi hùng tráng này.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 5
(có 0 lượt vote)

Bài văn cảm nhận về bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" - mẫu 6

Phan Bội Châu là một nhà yêu nước của đầu thế kỉ XX, một chí sĩ cách mạng luôn mang trong mình tinh thần kháng chiến chống Pháp mạnh mẽ đồng thời ông cũng là một nhà văn hóa lớn có nhiều đóng góp cho lĩnh vực văn chương trong đó có tác phẩm “Xuất dương lưu biệt”. Bài thơ thể hiện chí làm trai của Sào Nam Tử (Bút danh) với hoài bão lớn lao, khát vọng cứu nước sục sôi và tầm nhìn tư tưởng tiến bộ của tác giả. Tác phẩm đã để lại cho em cũng như biết bao độc giả khác nhiều ấn tượng bởi nó toát lên con người của cụ Phan.


Vào những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX thực dân Pháp sang xâm lược và thi hành chính sách cai trị tàn bạo đối với nhân dân Việt Nam, đã có biết bao anh hùng hảo hán yêu nước đứng lên chống giặc nhưng thế giặc mạnh như chẻ tre lại có vũ khí hiện đại hơn ta rất nhiều nên dân ta đẫm máu đau thương. Phan Bội Châu nhận thức được vấn đề dân tộc nên ông quyết định tìm con đường cứu nước khác là lập hội Duy Tân sang Nhật cầu viện. Đây là một tư tưởng tiến bộ, mở ra cho dân tộc con đường cứu nước mới nhưng do còn phạm phải sai lầm nên lịch sử đã không lựa chọn. Bài thơ “Xuất dương lưu biệt” được sáng tác khi khát vọng cứu nước của đấng nam nhi đang trên đà thuận lợi với chủ trương cứu nước của ông bằng cách đưa thanh niên Việt Nam sang Nhật học tập sự tiến bộ để về giúp dân giúp nước giải phóng dân tộc. Bài thơ là cảm xúc tình cảm của tác giả lúc từ biệt khi ra nước ngoài.


Tư tưởng bao trùm lên tác phẩm là chí làm trai của người nam tử có tinh thần yêu nước, có hoài bão, có khát vọng lớn lao. Điều đó được thể hiện ngay ở nhan đề tác phẩm với từ “Xuất dương” nghĩa là đi ra ngoài biển khơi nó gắn với hoạt động cách mạng cụ thể của cụ Phan. Ông cũng như bao trang nam tử khác luôn thấm nhuần triết lí Nho gia về phận nam nhi. Ông khẳng định:


“Sinh vi nam tử yếu hi kì
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di”

(Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời)


Chí làm trai theo Phan Bội Châu người nam tử phải làm được chuyện lạ ở trên đời, một con người có khát vọng gắn với thế sự, gắn với thời cuộc. Con người ấy là con người chủ động trong tâm thế, tư thế không chấp nhận để cho trời đất tự xoay vần. Gắn với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ thì người nam nhi ấy phải phải lập lại thời thế, đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại độc lậptự do cho đất nước. Chí làm trai và tinh thần yêu nước của Phan Bội Châu đã tiếp nối truyền thống dân tộc và kế thừa tư tưởng của tiền nhân như Phạm Ngũ Lão, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi…Ông tự hào mình là đấng nam nhi thì quyết phải sống cho ra sống với ý thức cá nhân cao độ, tinh thần tự nhiệm, tự mình của người nam tử được thể hiện:


“Ư bách niên trung tu hữu ngã
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”

(Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai?).


Tác giả lấy cái hữu hạn của “bách niên” đối với cái vô hạn “thiên tải”, lấy cái phủ định để khẳng định. Chí làm trai tiếp tục được thể hiện trong ý thơ này với mong muốn làm chuyện lớn lao vượt ra khỏi giới hạn của bản thân, với ý thức tự nhiệm tự mình đặt trọng trách dân dân tộc lên vai mà gánh vác việc đời. Ông hỏi mình trong khoảng trăm năm cần thiết phải có ta, há ngàn năm sau lại không có ai? Và câu hỏi cũng là câu trả lời để khẳng định nay ta là ta thì nghìn năm sau mới có hậu thế, anh hùng dân tộc đời nào cũng có cũng làm nên việc lớn việc lạ. Câu thơ là một ý thơ sâu sắc thể hiện vai trò cá nhân tác giả trước bối cảnh của lịch sử với tinh thần tự thân gánh vác mọi trách nhiệm mà lịch sử giao phó. Tư tưởng ấy để lại bài học quý báu cho thanh niên Việt Nam đúng như lời Bác Hồ nói: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà... nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”. Tuổi còn trẻ còn khỏe còn sung sức phải hết mình học tập tu dưỡng để giúp nước giúp đời làm giàu làm đẹp cho quê hương để cho Việt Nam sánh vai được sánh vai với các cường quốc năm châu. Một điểm nhìn mới của cụ Phan đáng được ghi nhận nữa là ông nhìn thấu sự lỗi thời, lạc hậu của quan điểm Nho gia.


“Giang sơn tử hĩ sinh đồ huế
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si”

(Non sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài).


Dân tộc mất đi chủ quyền, đất nước bị giặc giày xéo người nam tử hoặc sống chỉ thêm nhục nhã, thừa thãi vô nghĩa hoặc sống cho ra sống lập lại “càn khôn”, lấy lại hồn nước cho dân tộc. Ông như đang nhắn nhủ tới những người dân Việt Nam hãy thức tỉnh, hãy đứng lên chống Pháp, hãy đổi mới hướng tư duy bởi “hiền thánh” tức cựu học, nho học không còn phù hợp với thời đại mới, cần phải theo đuổi cái tâm học thực tế để canh tân đất nước, tránh đi theo giáo lí lỗi thời và lối mòn sáo rỗng không giúp ích được gì cho sự nghiệp cứu nước hiện tại và tương lai. Lời nhắn nhủ ấy mở rộng ra cho ta thấy ý nghĩa sâu sắc thời đại nào thì phù hợp với quan niệm, tư tưởng của thời đại đó, những điều lạc hậu không còn phù hợp với bối cảnh thực tại thì nên loại bỏ và cần tiếp thu tư tưởng mới, tiến bộ. Trong hai câu thơ trên bản dịch thơ sử dụng từ “hoài” là chưa hợp lí bởi theo nguyên tác chữ Hán “Si” có nghĩa u mê, mê muội một điều gì đó mất lí trí, “hoài” mang mức độ nhẹ hơn, chưa thực sự lột tả được bản chất từ Hán gốc.


Cuối cùng là hình ảnh con người của một Phan Bội Châu có hoài bão lớn lao, khắc họa tư thế hiên ngang, hăm hở tràn đầy hy vọng ở buổi lên đường. Ông nguyện (mong muốn) ruổi theo gió lớn đi ra biển Đông “Nguyện trục trường phong Đông hải khứ”câu thơ mang hai nét nghĩa trừu tượng và cụ thể. Với nét nghĩa trừu tượng thể hiện mong muốn vượt lên chính mình, vượt qua giới hạn bản thân làm nên việc lạ ở trong khoảng trăm năm.Với nét nghĩa cụ thể để chỉ phong trào Đông Du, chỉ những người thanh niên mong muốn học tập cái mới để giúp nước. Tuy nhiên bản dịch thơ trong sách giáo khoa từ “Cánh gió” gợi sự mỏng manh chưa lột tả được thần sắc của “trường phong” là cơn gió lớn, cơn gió dài nó là sự quyết tâm ra đi cứu nước của tác giả. Để rồi ngàn con sóng bạc đầu cùng bay lên “Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi” hình ảnh con sóng mang nét nghĩa thực chỉ sóng biển và nghĩa biểu trưng chỉ ý chí, khát vọng của người chí sĩ cách mạng. Như vậy thì “Nhất tề phi” (Cùng một lúc bay lên) là chỉ sóng hay ý chí, khát vọng hay cả hai cùng hòa quyện vào nhau bay lên? Theo tôi đó là cả hai yếu tố từ ngoại cảnh bên ngoài và nội tâm bên trong cùng tạo thành một quyết tâm cao cho ý chí cứu nước được thể hiện. Hai câu kết với hai hình ảnh kì vĩ, lớn lao “trường phong” và “thiên trùng bạch lãng” với vị ngữ “nguyện trục” và “nhất tề phi” thể hiện chí khí hào hùng của người chí sĩ cách mạng. Ta đã từng bắt gặp hình ảnh “trường phong” trong bài “Hành lộ nan” của Lí Bạch:


“Trường phong phá lãng hội hữu thì
Trực quải vân phàm tế thương hải”

(Cưỡi gió vượt sóng ắt có lúc/
Dong thẳng buồm mây vút bể xanh)


Như vậy, bằng tài năng của một người nghệ sĩ và ý chí của người cách mạng đã hòa quyện vào nhau làm nên tác phẩm có ý nghĩa. “Xuất dương lưu biệt” vừa thể hiện được tư thế quyết tâm hăm hở của Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất dương cứu nước vừa là tác phẩm thơ văn thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam. Cụ Phan là một trong những tấm gương tiêu biểu cho phong trào cứu nước ở đầu thế kỉ XX được nhân dân yêu mến, kính phục ngày nay nhiều trường học và con đường được mang tên ông để tưởng nhớ đến vị anh hùng dân tộc.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 6
(có 0 lượt vote)

Bài văn cảm nhận về bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" - mẫu 7

Sê khốp đã từng có ý kiến rằng: “Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không bao giờ là nhà văn cả, nếu anh không có giọng riêng, anh ta có trở thành nhà văn hiện thực”. Vâng, mỗi nhà văn, nhà thơ muốn để lại dấu ấn cho độc giả thì phải có đặc trưng, phong cách của riêng mình. Cây đại thụ lớn góp phần vào nền văn học Việt Nam có thể gọi tên Phan Bội Châu. Tác phẩm Lưu biệt khi xuất dương là một bài thơ mang đậm khi thế dân tộc, lý tưởng cao đẹp của ông.


Phan Bội Châu trong một lần lên đường sang Nhật Bản vào năm 1905 đã cảm hứng sáng tác bài thơ Lưu biệt khi xuất dương. Thực trạng khó khăn của nước ta lúc bấy giờ đang trong tình cảnh mất nước, dân lầm than trước ách đô hộ tàn bạo của bọn thực dân Pháp. Ngòi bút rắn chắc, hiện thực của Phan Bội Châu không chối bỏ thực tại mà nhìn thẳng vào nó với chất văn sắc bén, có thể cảm hóa được lòng người, mang lý tưởng cao đẹp mà đấng nam nhi phải hoàn thành trong cõi đời này đó là khôi phục lại giang sơn, dựng xây nước nhà.


Phải sống cao đẹp, cho xứng đáng với danh xưng nam nhi của mình chính là cảm hứng về chí làm trai, trách nhiệm của người con đất Việt xuyên suốt bài thơ. Cảm hứng lãng mạn sục sôi khí thế, hừng hực nhiệt huyết được thể hiện trong bài:


"Làm trai phải lạ ở trên đời

Há để càn khôn tự chuyển dời"


Đối với ông, sinh ra là đấng nam nhi thì phải có lý tưởng cao đẹp, không tầm thường, không sống mặc kệ đời mà phải biết vùng lên, thay đổi số phận, vận mệnh đất nước, làm những điều mà người ta chưa làm, phải “lạ ở trên đời” là thế. Bởi chí làm trai thường đi cùng với cái mộng công danh “Công danh nam tử còn vương nợ” (Phạm Ngũ Lão), hay phải vùng vẫy tứ phương “Chí làm trai nam, bắc, tây, đông/ Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể” (Nguyễn Công Trứ). Khi đưa ra lý tưởng sống của nam nhi, chí làm trai thì ở hai câu tiếp theo tác giả đi đến khẳng định mình giữa cuộc đời rộng lớn này:


“Trong khoảng trăm năm cần có tớ

Sau này muôn thuở há không ai?”


Ở đây Cái Tôi cao đẹp được nói lên thật dõng dạc. Nhưng cái tôi này là cái tôi của nghĩa cử cao đẹp, của đáng nam nhi với những điều cao đẹp, chủ động gánh trên vai trọng trách, phụng sự nước nhà chứ không phải cái tôi hưởng thụ, trốn tránh trách nhiệm, mặc kệ đời. Một lẽ sống anh hùng thật cao cả, vượt lên trên tất cả, không tầm thường, tiếng đồn vang xa.


Khác với những tác phẩm văn học ngoài kia, trước những điều không tốt trong hiện thực Phan Bội Châu luôn có thái độ thẳng thắng, chấp nhận nhìn thẳng vào mọi thứ để mà lên tiếng cho cái đẹp. Ông thấm thía nỗi đau mất nước, dân sống nghèo đói, cơ cực từng ngày. “Non sông đã chết” một sự khẳng định thẳng thắng, dứt khoát nhưng đầy sự đau đớn, ông không để mình lún vào cảnh bi thương, không chấp nhận điều đó mà câu thơ ẩn chứa khí thế sục sôi của một tinh thần sung sức, dũng cảm, hiếu chiến, muốn giành lại quê hương:


“Non sông đã chết, sống thêm nhục

Hiền thánh còn đâu học cũng hoài”


Hai câu thơ cho thấy sự nhìn nhận rất đúng đắn về thời thế lúc bấy giờ, tác giả đã tỉnh táo nhận ra rằng Nho học không phù hợp với nước ta khi này “hiền thánh còn đâu học cũng hoài”. Tuy nhiên không vì thế mà mặc kệ, tiếp tục đi theo hướng cũ không hiệu quả mà ông có suy nghĩ mang tầm lớn lao, hiên ngang của một nam tử giàu lòng yêu nước.


“Muốn vượt biển Đông theo cánh gió

Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi”


Một ý chí vươn tầm cao, đầy liều lĩnh “Muốn vượt biển Đông”, vượt mọi giới hạn, khả năng để tiến xa hơn dựng xây lại đất nước của tác giả đi cùng một hình ảnh ẩn dụ “muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi” là một ý chí, sự quyết tâm chắc chắn, đầy khát khao.


Khép lại tám dòng thơ ngắn ngủi của Phan Bội Châu nhưng âm hưởng về niềm kiêu hãnh, sự hi vọng trong khát vọng lớn lao của người chí sĩ Cách mạng còn vang mãi. Bài thơ sẽ là một khúc ca vang lên đánh thức lòng yêu nước, thái độ sống đẹp cho mọi thế hệ người dân Việt Nam.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 7
(có 0 lượt vote)

Bài văn cảm nhận về bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" - mẫu 8

Phan Bội Châu tuy văn tài lỗi lạc nhưng không bao giờ xem văn chương là cứu cánh của đời mình. Ông chỉ muốn dùng nó để xốc người đời (đặc biệt là tầng lớp thanh niên) đứng dậy làm cách mạng, cứu nước, cứu dân. Với định hướng này, sáng tác của ông có được một âm hưởng đầy kích thích, khiến người đọc không thể ngồi yên một khi đã được tiếp xúc với nó. Bài Xuất dương lưu biệt chính là một ví dụ điển hình. Bài thơ được mở ra không phải với những tình cảm bịn rịn, nhớ nhung, hiện lên lồ lộ là lí tưởng và hoài bão của một con người đang quyết xoay chuyển càn khôn, vũ trụ:


Sinh vị nam tử yếu họ kì

Khẳng hứa càn khôn tự chuyển đi

(Làm trai phải lạ ở trên đời

Há để càn khôn tự chuyển dời)


Lưu biệt là để lại cho người đưa tiễn một cái gì đó như lời dặn dò hay bài thơ trước lúc rong ruổi đường xa. Ở đây, bản thân bài thơ là lời dặn dò, là tiếng nói khích lệ. Nhà thơ hiểu rằng hơn lúc nào hết, cả người ở lại lẫn người ra đi cần có một niềm tin, nếu chưa phải vào kết quả hành động thì cũng vào cái đúng của hành động mà mình đã lựa chọn. Quan niệm về chỉ làm trai của các nhà nho xưa đã nhắc lại trên tinh thần này. Không thể nói điều được nhà thơ phát biểu ở hai câu thơ là hoàn toàn mới mẻ. Trước Phan Bội Châu, bao nhiêu con người ưu tú đã nói về chỉ làm trai với nhiệt tình cháy bỏng và với một hình thức ngôn từ rất gây ấn tượng.


Ngay câu thơ thứ nhất của Phan Bội Châu, có thể nói, cũng thoát thai từ hai câu chữ Hán mở đầu bài Chỉ nam nhi của Nguyễn Công Trứ: "Thông minh nhất nam tử - Yếu vi thiên hạ kì" (Một người trai thông minh ắt phải làm được những việc khiến thiên hạ phải thấy kì lạ). Vậy vấn đề ở đây không phải là xét tính độc đáo của tư tưởng mà là xét mục đích của việc phát biểu tư tưởng trong một hoàn cảnh cụ thể. Nêu lên tín niệm của các trang nam tử muôn đời, thực chất Phan Bội Châu đang muốn nhắc nhở, cật vấn chính bản thân: lẽ nào để trời đất xoay vần tới đâu thì tới, còn mình là kẻ đứng ngoài, vô cạn? Là câu hỏi nhưng cũng là một lời đáp. Tính hai mặt này của lời thơ ngay từ đầu đã tạo được cho thi phẩm một không khí dồn nén và thúc giục rất rõ rệt. Từng chữ, từng lời cứ bện chặt lấy tâm trí người đọc, khiến họ không thể lảng tránh vấn đề đã được nhà thơ đặt ra một cách tâm huyết. Hai câu tiếp theo của bài thơ vẫn đi theo mạch đó:


bách niên trung tu hữu ngã

Khởi thiên tải hậu cách vô thuỳ

(Trong khoảng trăm năm cần có tớ,

Sau này muôn thuở, há không ai?)


Câu trước không chỉ đơn giản xác nhận sự có mặt của nhân vật trữ tình giữa thế gian mà còn hàm chứa một tâm niệm: Ta hiện diện không phải như một sự kiện ngẫu nhiên, vô ích và vì vậy ta phải làm được một điều gì đó có ý nghĩa cho đời. Câu sau có thể diễn ý: Ngàn năm sau lẽ nào chẳng có kẻ nối tiếp công việc của người trước? Như vậy, hai câu 3 - 4 đã thể hiện thật đậm nét cái tôi đầy trách nhiệm của nhà thơ: thấy việc không thể không làm, không ỷ lại cho ai. Hơn thế, cái tôi ấy thật rõ lịch sử là một dòng chảy liên tục, có sự góp mặt, sự tham gia gánh vác bổn phận của nhiều thế hệ. Đây có thể xem là một nét mới trong tư tưởng của Phan Bội Châu so với không ít bậc tiền bối vốn nhìn lịch sử như một vòng chu chuyển khép kín, khi đại nghiệp không thành dễ rơi vào tình trạng thở than tuyệt vọng. Tác giả hoàn toàn dự cảm được tính chất khó khăn của sự nghiệp cứu nước mà mình đứng ra đảm trách, nhưng dự cảm đó không làm ông nao núng. Ông có sẵn lòng tin không chỉ vào mình mà còn vào bao kẻ sau mình.


Tư tưởng của ông và tính cách của ông là vậy. Ta hiểu vì sao sau này, lúc kiểm điểm cuộc đời, dù cay đắng cho bản thân, Phan Bội Châu vẫn có được lời nói hết sức vô tư, hồn hậu: “Chúc phường hậu tử tiến mau? (Từ giã bạn bè lần cuối cùng - 1940). Cảm nhận ý nghĩa các câu thơ theo hướng đó, ta dễ nhận ra cải “non” của từ tớ trong bản dịch (nguyên tác là ngã). Phan Bội Châu không phải là kẻ tự thị. Ông phát ngôn nhân danh những kẻ làm trai, những người yêu nước nói chung trong cuộc đời!


Bốn câu đầu bài thơ nghiêng về nói tới cái lẽ thường của đấng nam nhi, dù đọc chúng, người đọc vẫn nhận ta nỗi bức xúc trong tâm trạng tác giả. Sang hai câu 5, nỗi bức xúc ấy được biểu hiện trực tiếp hơn, qua việc nhà thơ nêu lên hiện trạng thê thảm của đời sống lúc bấy giờ:


Giang sơn tử hí sinh đồ nhuế

Hiển thánh liêu nhiên tụng diệc si!

(Nong sông đã chết, sống thêm nhục,

Hiền thánh còn đầu, học cũng hoài)


Đúng là những câu thơ đau đớn. Đau đớn cho việc mất nước. Đau đớn cho sự tồn tại trơ trơ nhục nhã của mình khi cơ đồ của dân tộc đã bị đắm chìm. Đau đớn cho cái học, kiễu học mà bản thân từng một thời theo đuổi, giờ đã thành vô ích, vô vị... Là người chịu ảnh hưởng của Tân thư (tức sách báo tuyên truyền cho tự tưởng dân chủ tư sản phương Tây, tư tưởng cải cách xã hội theo mô hình Âu - Mĩ... được dịch qua hoặc được viết bằng Hán văn, đưa tới từ Trung Quốc), Phan Bội Châu tuy không phủ nhận hoàn toàn Nho giáo nhưng không còn giữ thái độ sùng kính đối với nó. Cái gì tỏ ra không còn có ích cho sự nghiệp cửu nguy giống nòi thì ông dứt khoát từ giã. Có thể xem đây là hệ quy chiếu mà ông đã dùng để nhìn nhận, đánh giá mọi vấn đề của đời sống xã hội và mọi ứng xử của kẻ sĩ lúc ấy.


Trước đây, Nguyễn Khuyến từng than: "Sách vở ích gì cho buổi ấy - áo xiêm nghị lại thẹn thân già" (Ngày xuân dặn các con). Câu thơ đầy chiêm nghiệm, có niềm tủi thẹn và thoáng nghi ngờ về tính hữu dụng của cái học từ chương “nhai văn nhả chữ” trong bối cảnh đất nước đã lọt vào tay giặc (mà nhà thơ gọi bóng gió là ngày loạn). Với Phan Bội Châu, thái độ không dừng ở mức nghi ngờ. Tình thế đất nước vào buổi ông lên đường đã khác nhiều, hơn nữa, với cá tính mạnh mẽ của một con người ưa hành động, tràn đầy nhiệt huyết, ông đã đưa vào bài thơ của mình những từ, cụm từ đầy cảm hứng phủ định, rất gây ấn tượng: tử hĩ (chết rồi), nhuế (thừa), si (ngu). Phải nói rằng với cách dùng từ ngữ mạnh bạo như thế, thơ ông có khả năng tác động tới độc giả rất sâu sắc. Đằng sau sự hấp dẫn của cách nói là sự hấp dẫn của cốt cách một con người! Các từ nhục, hoài trong bản dịch thơ sự thực chưa truyền lại đầy đủ khí lực dồi dào của các từ nhuế, si trong nguyên tác.


Phải hành động, phải hành động - tự mạch thơ toát lên lời giục giã. Hai câu cuối đến như một cơn gió mạnh, bốc nhà thơ thoát khỏi những tủi thẹn, day dứt, đau buồn. Việc lạ (kì) mà nhân vật trữ tình nung nấu thực hiện được khởi đầu từ điểm này chăng:


Nguyện trục trường phong Đông hải khứ

Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi

(Muốn vượt bể Đông theo cảnh gió,

Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi)


Người có hiểu biết về phong trào Đông Du hẳn sẽ nhận ra tính tự nhiên, hợp logic của việc nhà thơ liên tưởng tới Đông hải cùng hình ảnh thiên trùng bạch lãng. Nhật Bản - niềm hi vọng mới của các sĩ phu yêu nước như Phan Bội Châu - ở phía đông, giữa biển khơi, cách nước ta muôn dặm hải trình. Chính vì vậy, sang Nhật cũng đồng nghĩa với chuyện vượt bể. Tuy nhiên, trong hai câu thơ, các hình ảnh chủ yếu mang ý nghĩa biểu tượng. Câu thơ dịch không hoàn toàn bám sát ý nguyên tác, đã chuyển một khát vọng, một dự cảm, một liên tưởng bất chợt thành sự tường thuật - miêu tả thực tế, do vậy, chưa truyền đạt được phong độ hào hùng, niềm hăm hở dấn thân cùng trí tưởng tượng bay bổng của nhà thơ. Tâm thế cùng tư thế của nhân vật trữ tình lúc này là muốn lao ngay vào môi trường hoạt động mới mẻ, sôi động, bay lên làm quẫy sóng đại dương hay bay lên cùng những đợt sóng trào sôi vừa thoáng hiện trong tâm tưởng.


Trong bài thơ, có rất nhiều từ, cụm từ chỉ các đại lượng không gian, thời gian lớn cùng một số hình ảnh kì vĩ thể hiện bối cảnh mang tính chất vũ trụ đã được sử dụng: càn không giang sơn, bách niên trung, thiên tải hậu, Đông hải, trường phong, thiên trùng bạch lãng... Nhớ lại các bài như Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão, Cảm hoài của Đặng Dung, Chim trong lồng của Nguyễn Hữu Cầu,... ta thấy đây là bối cảnh khá đặc trưng của thơ tỏ chí thời trung đại. Như vậy, bối cảnh vũ trụ hoàn toàn không phải là hiện tượng cá biệt ở một vài bài thơ nào đó, bởi con người trong thơ xưa về cơ bản chưa phải là con người cá nhân có thể mà là con người vũ trụ. Tuy nhiên, với trường hợp bài Xuất dương lưu biệt, vẫn có thể nói rằng bối cảnh ấy có tác dụng tô đậm các phẩm chất rất riêng và nổi bật của nhân vật trữ tình: tự tin, dám đối thoại cùng trời đất, lịch sử, ý thức rõ về cái vinh, cái nhục của đời; có khát vọng khẳng định cái tôi trong hành động dấn thân vì đất nước, dân tộc... Nói tóm lại, phải có bối cảnh ấy thì chí vá trời lấp biển của nhà thơ mới được khắc tạo ấn tượng đến như thế.


Xuất dương lưu biệt là bài thơ từ biệt mà cũng là bài thơ mời gọi lên đường. Nó hoàn toàn tương xứng với tầm vóc của một con người được cả dân tộc ngưỡng vọng và tin tưởng vào thời điểm lịch sử lúc bấy giờ.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Hi vọng bài viết trên mang lại nhiều giá trị cho bạn. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài văn hay trên Alltop.vn

Hãy đăng nhập để bình luận

Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .