Top 8 Bài văn phân tích vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trong bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" của Phan Bội Châu (lớp 11) hay nhất
Phan Bội Châu vị lãnh tụ của phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX. Mặc dù mang trong mình tâm huyết lớn lao song sự nghiệp của ông lại không thành, nhưng lòng yêu...xem thêm ...
Bài văn phân tích vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trong bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" - mẫu 1
Xuất dương lưu biệt không những là một bài thơ hay, mà còn là một mốc quan trọng đánh dấu cuộc đời hoạt động cứu nước sôi nổi cùng thơ văn cổ động lòng yêu nước và đấu tranh cách mạng đầy nhiệt huyết của nhà chí sĩ Phan Bội Châu. Bài thơ được ứng khẩu trong hoàn cảnh tác giả tạm biệt bạn bè đồng chí để lên đường. Xuất dương lưu biệt là bài ca hào sảng và hùng tráng về chí nam nhi của nhân vật trữ tình mang vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng.
Bài thơ Xuất dương lưu biệt là giờ phút con hổ được về rừng, con cá kình được ra biển khơi, con đại bàng được tung cánh, dù phía trước còn biết bao khó khăn và nguy hiểm, nhưng chúng có cái hanh phúc được vẫy vùng. Sau một thời gian tham gia các phong trào yêu nước nhưng không đem lại hiệu quả, Phai Bội Châu đã trăn trở suy tư để tìm ra một con đường cứu nước mới để đưa nước Việt Nam hùng mạnh như các nước ở Đông Á (Trung Quốc, Nhật Bản). Đến năm 1905 ông giã biệt bạn bè để sang Nhật cầu giúp đỡ. Xuất dương lưu biệt là những lời lẽ tỏ rõ quyết tâm của ông trước khi lên đường:
Làm trai há phải lạ trên đời.
Há đế càn không tự chuyển dời.
Câu thơ thể hiện rõ quan niệm về chí nam nhi của Phan Bội Châu, làm trai trước hết phải được sự nghiệp anh hùng. Chúng ta bắt gặp ý thơ này trong bài Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão:
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thỉnh nhân gian thuyết Vũ hầu
Hay trong thơ của Nguyễn Công Trứ.
Chí làm trai nam bắc đông tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn biển.
Quan niệm của cụ Phan giống với các nhà nho thuở xưa, đã là con người sống trong trời đất này, phải làm được một điều gì đấy, đã sinh ra làm kẻ nam nhi cũng phải mong có điều lạ. Nhưng tới câu thơ thứ hai, ý thơ cửa Phan Bội Châu đã bắt đầu khác: Lẽ nào dể trời đất chuyền vần lấy sao. Nghĩa là Phan Bội Châu đã thoát ra khỏi tư tưởng thiên mệnh của người xưa. Xưa kia người anh hùng tiết tháo Đặng Dung chua chát nhận ra thời vận (tức ý trời) là nhân tố quyết định nên sự thành bại. chứ không phải do tài năng của bản thân:
Thời lai đồ điếu thành công dị.
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
(Gặp thời thì anh hùng thật, người câu cá cũng dễ dàng làm nên công trạng/vận đã hết thì anh hùng cũng chỉ nuốt hận mà thôi).
Với Phan Sào Nam thì ngược lại, ông đặt con người ngang tầm với càn khôn (đất trời). Càn khôn xoay vần cuộc đời thi cớ gì con người không xoay vần được càn không. Người xưa nói: Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên (Mưu việc do con người, nhưng thành công là bởi ý trời). Phan Bội Châu không đề cập chuyện thành bại ở đây nhưng ý chí dám xoay lại càn khôn thì không chỉ là ngang tàng, bướng bỉnh mà có phần tự tin, lạc quan. Thoát khỏi tư tưởng thiên mệnh là bước đột khởi để người chí sĩ cách mạng thực hiện chí nam nhi của mình. Sau khi so mình với càn khôn, tác giả lại so mình với đồng loại:
Uu bách niên trung tri hữu ngã
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy
(Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai?).
Hào kiệt xưa kém thua càn khôn nhưng với đồng loại thì tự cho mình là xuảt chúng, không bao giờ chịu ở trong đám đông tầm thường. Với Phan Bội Châu thì khác nhiều, ông vừa đánh giá cao cá nhân anh hùng, nhưng cũng không cho cá nhân ấy là duy nhất. Câu thơ thứ ba của bài rất gần với ý thơ của Nguyền Công Trứ.
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải cỏ danh gì với núi sông.
Nhưng ở câu thơ thứ tư thì lại rất khác. Tác giả đặt vai trò của cá nhân mình bình đẳng với các cá nhân khác, tuy rằng đó mới chỉ là một câu nghi vấn: Sau này muôn thuở, há không ai? Nhưng đã chứng tỏ Phan Bội Cháu không coi mình Là duy nhất. Bản thân là một nhà nho, nhưng không vì thế mà Phan Bội Châu giữ lấy sự cố hữu của nhà nho, trái lại ông là con người của thực tiễn, hăm hớ với trào lưu đổi mới. Đầu tiên đó là sự dổi mới của tư tưởng nhận thức.
Non sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.
Nhà thơ đã đặt số phận của đất nước bên cạnh số phận cùa mỗi người, điều này không phải đến Phan Bội Châu mới có. Nhưng có lẽ ít ai nói được điều đó da diết thống thiết như cụ Phan. Nước đã mất đồng nghĩa với anh hùng chịu nhục. Nhục thì phải đứng lên rửa nhục, làm được điều đó thì xứng đáng là anh hùng. Việc học cũng phải quan niệm lại. Nếu như ở Nguyên Khuyến hay Tú Xương:
Sách vở ích gì cho buổi ấy
Hay:
Ông nghè ông cống cũng nằm co.
Chỉ là niềm cảm khái cho đạo thánh hiền đến buổi lụi tàn, thì ở Phan Bội Châu là sự phê phán đến gay gắt. Sách vở thánh hiền vô dụng mà còn ngồi tong thì chỉ là hoài, là nghi mà thôi. Sau đổi mới về tư tưởng, nhận thức là sự đổi mới về hành động:
Muốn vượt biển đông theo cách gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
(Nguyện trục trường phong đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phỉ).
Sóng gió ở đây không phải là sóng gió bình thường, mà là gió dài (trường phong), sóng bạc (bạch lãng) tức sóng to gió lớn (phong ba bão táp). Người hào kiệt không những không sợ sóng gió mà còn coi sóng gió là bạn đường (những khó khăn nguy hiểm trên dường hoạt động) là đối tượng để mình dua sức, đua tài.
Hai câu thơ cuối thế hiện ý chí mạnh mẽ của Phan Bội Châu, mong muốn được ra đi bất chấp mọi khó khăn gian khổ. Câu thơ gợi một cảm giác bừng bừng tráng khí chứ không mang một chút lo âu, cũng chẳng hề nghĩ đến quan san muôn dặm hay lữ thứ tha hương. Nhiệt huyết cứu nước cứu nòi đã lấn át đi tất cả. Câu thơ vượt Biển Đông cũng ngầm ý là sang Nhật Bản, đất nước nhờ biết duy tân mà trở nên hùng cường, đánh thắng cả nước Nga hùng mạnh, là tấm gương sáng cho các dân tộc noi theo.
Vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trong tác phẩm đã được thế hiện rõ nét trong chí làm trai của tác giả. Nó thể hiện khát vọng độc lập tự do cùa các bậc chí sĩ yêu nước thuở xưa.
Trong bối cảnh đất nước Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu (á – tế – á — ca), sự xuất hiện của Phan Bội Châu với sứ mệnh hai vai gánh vác cả sơn hà đã thổi vào lịch sử văn học một luồn sinh khí hào hùng chưa từng có. Qua vẻ đẹp lãng mạn mà hào hùng của nhân vật trữ tình, Phan Bội Châu muôn hát vang chí nam nhi, trở thành gạch nối giữa lí tưởng cao đẹp của nhà nho chân chính với lí tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa của người cộng sản, mà tiêu biểu là Nguvền Ái Quốc – Hồ Chí Minh.
Bài văn phân tích vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trong bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" - mẫu 2
“Xuất dương lưu biệt” là một bài thơ đặc sắc của Phan Bội Châu. Tác phẩm có sức lôi cuốn và lay động mạnh mẽ. Một trong những yếu tố làm nên điều đó chính là vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình được khắc họa rõ nét qua bài thơ.
Vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trước hết được bộc lộ qua những quan niệm mới mẻ về chí làm trai:
“Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời”
Nhân vật trữ tình có quan niệm mới mẻ và táo bạo về chí hướng của mình. Sinh ra làm đàn ông thì phải “mong có điều lạ”, tức là phải làm được những điều phi thường, mạnh mẽ. Mỗi người phải tự quyết định tương lai của mình, phải trở thành người chủ động trước thời thế chứ không phụ thuộc vào hoàn cảnh. Đó chính là ý chí hào hùng của con người trong mọi thời đại.
Không chỉ vậy, vẻ đẹp hào hùng và lãng mạn còn được thể hiện qua tầm vóc của con người trong vũ trụ và sự tự ý thức trách nhiệm về vị trí của mình:
“Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai?”
Tác giả trăn trở về sứ mệnh của bản thân, phải để lại được tên tuổi, làm được những điều mà giữa trăm năm này nhất định “phải có ta chứ”. Sự tự tin đã làm nên vẻ đẹp lãng mạn và sự ý thức về tầm vóc lớn lao đã tạo nên vẻ đẹp hào hùng. Hai vẻ đẹp này không tách rời mà ngược lại hòa quyện với nhau tạo nên chất sử thi lãng mạn nổi bật. Chính vì đã sớm nhận thức được trách nhiệm lớn lao của mình, nhân vật trữ tình đã dấy lên những khát vọng mạnh mẽ, táo bạo về một cuộc ra đi hoành tráng:
“Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi”
“Mong đuổi theo ngọn gió dài đi qua biển Đông” trở thành một ước vọng vừa bay bổng, vừa kỳ vĩ. Tuy nhiên, ở bản dịch thơ, “tiễn ra khơi” chỉ khắc họa một cuộc đưa tiễn bình thường, chưa làm nổi bật được tư thế, tầm vóc của con người trong vũ trụ như ở nguyên tác. “Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi” – “Ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên” như một sự thăng hoa vừa lãng mạn vừa hào hùng trong cảm xúc. Bài thơ kết thúc với một hình ảnh tuyệt đẹp tương xứng với những khát vọng lớn lao và tư thế hào hùng của người chí sĩ trong buổi lên đường. Con người như hòa quyện vào thiên nhiên, trở thành trung tâm của bức tranh. Khí thế của con người lan tỏa ra muôn trùng con sóng bạc và chính những con sóng cũng cùng hòa chung một nhịp đập với trái tim sôi sục, cháy bỏng của con người.
Qua quan niệm, tư tưởng và tầm vóc của con người, bài thơ đã xây dựng thành công vẻ đẹp hào hùng và lãng mạn của nhân vật trữ tình. Những khát vọng mạnh mẽ đã trở thành nhựa sống rào rạt chảy trong suốt bài thơ. Chính điều đó đã tạo nên sức lôi cuốn mạnh mẽ. Và có lẽ, những điều lãng mạn và hào hùng đó được nảy mầm và nở hoa từ hạt giống của tình yêu nước thiết tha, sâu nặng của tác giả.
Để làm nên vẻ đẹp đó, Phan Bội Châu đã sử dụng những nét nghệ thuật độc đáo. Giọng thơ đầy nhiệt thành, tâm huyết và có lúc thiết tha, rạo rực. Hình ảnh thơ vừa lãng mạn, vừa hùng vĩ. Những hình ảnh lớn lao liên tục xuất hiện từ đầu đến cuối bài thơ như “càn khôn”, “trăm năm”, “non sông”, “bể Đông”, “muôn trùng sóng bạc”,…đã chắp thêm đôi cánh cho những ước vọng lãng mạn, mạnh mẽ, táo bạo.
Có thể nói, Phan Bội Châu đã xây dựng thành công hình tượng một người chí sĩ mang vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng. Đặt trong hoàn cảnh thực tế, cuộc ra đi này vốn dĩ là một cuộc ra đi âm thầm và lặng lẽ. Nhưng tư thế và tầm vóc mà nhà thơ tái hiện lại qua bài thơ đã thể hiện phần nào sự tự tin, nhiệt huyết sôi sục trong lòng người cách mạng yêu nước. Điều đó càng góp phần khẳng định vẻ đẹp vừa lãng mạn lại không kém phần hào hùng của nhân vật trữ tình. Bài thơ trở nên hấp dẫn, lôi cuốn có lẽ là bởi vậy.
Bài văn phân tích vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trong bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" - mẫu 3
Bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" là một bài thơ tiêu biểu trong cuộc đời hoạt động cách mạng của nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu, bài thơ mang ý nghĩa là lời chia tay, từ biệt bạn bè và đồng chí để lên đường sang Nhật, dấy lên phong trào Đông Du. Bài thơ là một bài ca hào sảng về lí tưởng yêu nước cao cả, khí phách anh hùng và khát vọng cứu nước đầy nhiệt huyết của Phan Bội Châu, đặc biệt bài thơ có sức lay động mạnh mẽ nhờ vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình.
Vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình được bộc lộ rất rõ nét trong bài thơ, đầu tiên là quan điểm mới mẻ của Phan Bội Châu về chí làm trai:
"Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời."
Có thể nói đây là một quan niệm mới mẻ và táo bạo về chí làm trai của nhân vật trữ tình, sinh ra làm đấng nam nhi phải có cái "lạ", nghĩa là phải làm được những điều phi thường, hơn người. Phải là người chủ động, quyết định tương lai và chí hướng của mình, không phụ thuộc và bị tác động bởi hoàn cảnh, thời thế. Làm trai trước hết phải có sự nghiệp anh hùng, phải tự tin và lạc quan để mưu đồ nghiệp lớn, đây là một lẽ sống đẹp, thể hiện một vẻ đẹp tâm thế lẫm liệt, phi thường, tầm vóc lớn lao sánh ngang vũ trụ.
"Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Say này muôn thuở há không ai?"
Vẻ đẹp hào hùng lãng mạn của Phan Bội Châu còn được hình tượng hóa qua tầm vóc của con người trong vũ trụ, ý thức tự giác trước trách nhiệm của mình đối với thời thế và cuộc đời. Nhà thơ khẳng định dứt khoát một sứ mệnh của bản thân, đó là cống hiến cho đời, lưu danh thiên cổ, trong khoảng trăm năm phải để lại tên tuổi vẻ vang, không chịu ở trong đám tầm thường, Phan Bội Châu không phủ nhận những anh hùng khác, mà chỉ không coi anh hùng là cá nhân duy nhất, đồng thời động viên thế hệ trẻ hãy hướng đến tương lai. Có thể thấy, nhà chí sĩ có một ý thức trách nhiệm công dân rất cao cả, chính đáng, xuất phát từ chính lòng yêu nước sôi sục và tha thiết.
"Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông."
Phan Bội Châu chỉ ra rõ mối quan hệ giữa cá nhân với đất nước, vai trò của cá nhân đối với vận mệnh đất nước, cũng như nhận thấy rõ bối cảnh thời cuộc, ông cho rằng sách vở thánh hiền trong thời buổi bây giờ không có tác dụng gì khi nước mất nhà tan. Đây là một thái độ phủ nhận có phần gay gắt nhưng cũng cho thấy tư tưởng tiến bộ, tiên phong của Phan Bội Châu, ông nói về nỗi nhục mất nước nhưng cũng hé mở con đường để rửa nỗi nhục đó.
"Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi."
Để có thể thực hiện được trách nhiệm lớn lao của mình, nhân vật trữ tình đã dấy lên khát vọng về một chuyến đi bất chấp khó khăn gian khổ. Những hình ảnh kì vĩ lớn lao như: "vượt bể Đông", "cánh gió", "muôn trùng", "sóng bạc" đã diễn tả một tư thế hăm hở, đầy tự tin và lạc quan vào một tương lai tươi sáng đang chào đón. Khát vọng lớn lao rất tương xứng với một tư thế hào hùng của nhà chí sĩ trong buổi lên đường, con người như được hòa nhập vào thiên nhiên, trở thành trung tâm của vũ trụ, "muôn trùng sóng bạc" đã hòa chung vào sự thăng hoa khí thế anh hùng, cùng hòa nhịp đập với trái tim sôi sục của nhân vật trữ tình.
Qua bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương", tác giả Phan Bội Châu đã tạo dựng rất thành công hình tượng người chí sĩ cách mạng yêu nước với vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng. Vẻ đẹp hào hùng và lãng mạn khiến bài thơ trở thành một bài tráng ca, khúc hát lên đường đầy hào sảng của người anh hùng suốt một đời không biết mỏi mệt vì đất nước, nhân dân.
Bài văn phân tích vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trong bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" - mẫu 4
Ưu bách niên trung tri hữu ngã
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy
(Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai?).
Hào kiệt xưa kém thua càn khôn nhưng với đồng loại thì tự cho mình là xuất chúng, không bao giờ chịu ở trong đám đông tầm thường. Với Phan Bội Châu thì khác nhiều, ông vừa đánh giá cao cá nhân anh hùng, nhưng cũng không cho cá nhân ấy là duy nhất. Câu thơ thứ ba của bài rất gần với ý thơ của Nguyền Công Trứ.
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải cỏ danh gì với núi sông.
Nhưng ở câu thơ thứ tư thì lại rất khác. Tác giả đặt vai trò của cá nhân mình bình đẳng với các cá nhân khác, tuy rằng đó mới chỉ là một câu nghi vấn: Sau này muôn thuở, há không ai? Nhưng đã chứng tỏ Phan Bội Cháu không coi mình Là duy nhất. Bản thân là một nhà nho, nhưng không vì thế mà Phan Bội Châu giữ lấy sự cố hữu của nhà nho, trái lại ông là con người của thực tiễn, hăm hớ với trào lưu đổi mới. Đầu tiên đó là sự đổi mới của tư tưởng nhận thức.
Non sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.
Nhà thơ đã đặt số phận của đất nước bên cạnh số phận của mỗi người, điều này không phải đến Phan Bội Châu mới có. Nhưng có lẽ ít ai nói được điều đó da diết thống thiết như cụ Phan. Nước đã mất đồng nghĩa với anh hùng chịu nhục. Nhục thì phải đứng lên rửa nhục, làm được điều đó thì xứng đáng là anh hùng. Việc học cũng phải quan niệm lại. Nếu như ở Nguyên Khuyến hay Tú Xương:
Sách vở ích gì cho buổi ấy
Hay:
Ông nghè ông cống cũng nằm co.
Chỉ là niềm cảm khái cho đạo thánh hiền đến buổi lụi tàn, thì ở Phan Bội Châu là sự phê phán đến gay gắt. Sách vở thánh hiền vô dụng mà còn ngồi tong thì chỉ là hoài, là nghi mà thôi. Sau đổi mới về tư tưởng, nhận thức là sự đổi mới về hành động:
Muốn vượt biển đông theo cách gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
(Nguyện trục trường phong đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phỉ).
Sóng gió ở đây không phải là sóng gió bình thường, mà là gió dài (trường phong), sóng bạc (bạch lãng) tức sóng to gió lớn (phong ba bão táp). Người hào kiệt không những không sợ sóng gió mà còn coi sóng gió là bạn đường (những khó khăn nguy hiểm trên dường hoạt động) là đối tượng để mình dua sức, đua tài.
Hai câu thơ cuối thế hiện ý chí mạnh mẽ của Phan Bội Châu, mong muốn được ra đi bất chấp mọi khó khăn gian khổ. Câu thơ gợi một cảm giác bừng bừng tráng khí chứ không mang một chút lo âu, cũng chẳng hề nghĩ đến quan san muôn dặm hay lữ thứ tha hương. Nhiệt huyết cứu nước cứu nòi đã lấn át đi tất cả. Câu thơ vượt Biển Đông cũng ngầm ý là sang Nhật Bản, đất nước nhờ biết duy tân mà trở nên hùng cường, đánh thắng cả nước Nga hùng mạnh, là tấm gương sáng cho các dân tộc noi theo.
Vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trong tác phẩm đã được thế hiện rõ nét trong chí làm trai của tác giả. Nó thể hiện khát vọng độc lập tự do cùa các bậc chí sĩ yêu nước thuở xưa.
Trong bối cảnh đất nước Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu (á - tế - á - ca), sự xuất hiện của Phan Bội Châu với sứ mệnh hai vai gánh vác cả sơn hà đã thổi vào lịch sử văn học một luồn sinh khí hào hùng chưa từng có. Qua vẻ đẹp lãng mạn mà hào hùng của nhân vật trữ tình, Phan Bội Châu muôn hát vang chí nam nhi, trở thành gạch nối giữa lí tưởng cao đẹp của nhà nho chân chính với lí tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa của người cộng sản, mà tiêu biểu là Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Bài văn phân tích vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trong bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" - mẫu 5
Trong lí luận văn học, người ta thường quan niệm nhân vật trữ tình là hình tượng văn học trực tiếp thổ lộ những cảm xúc, tình cảm, tâm trạng trong tác phẩm. Nhân vật trữ tình không có diện mạo, ngôn ngữ, hành động... cụ thể, chi tiết như nhân vật tự sự. Trong một bài thơ trữ tình, nhân vật trữ tình có thể là chính tác giả, cũng có thể là nhà thơ hóa thân vào nhân vật khác, tạo thành nhân vật trữ tình nhập vai. Ở bài Lưu biệt khi xuất dương, nhân vật trữ tình chính là nhà thơ - nhà chiến sĩ cách mạng Phan Bội Châu. Bởi vậy, nói đến vẻ đẹp của nhân vật trữ tình trong bài thơ này cũng tức là nói đến vẻ đẹp tâm hồn của tác giả. Sinh thời, Phan Bội Châu rất tâm đắc câu thơ của Viên Mai (Trung Quốc):
Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch,
Lập thân tối hạ thị văn chương.
Có thể tạm dịch là:
Mỗi bữa không quên ghi sử sách,
Lập thân hèn nhất ấy văn chương.
Như thế cũng có nghĩa là Phan Bội Châu không muốn lấy văn chương làm lẽ sống. Nhưng do yêu cầu của cách mạng, trong hơn nửa thế kỉ cầm bút, ông đã sử dụng cả chữHán lẫn chữ Nôm, sáng tác một khối lượng tác phẩm đồ sộ, gồm hàng trăm bài thơ, bài văn và hàng chục cuốn sách, bằng nhiều thể loại khác nhau. Trong đó, bài thơ Lưu biệt khi xuất dương là một trong những tác phẩm tiêu biểu, vẻ đẹp của bài thơ này trước hết là vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật trữ tình - tác giả.
Thơ Phan Bội Châu phản ánh cuộc đời cách mạng của nhà chí sĩ lúc lạc quan đắc ý, lúc thất bại đau buồn. Bởi vậy, khi phân tích thơ văn của ông không thể không tìm hiểu kĩ hoàn cảnh ra đời của một tác phẩm. Nói ở phạm vi hẹp hơn, ta chỉ có thể hiểu được vẻ đẹp của nhân vật trữ tình trong bài Lưu biệt khi xuất dương nếu hiểu được kĩ lưỡng hoàn cảnh ra đời của bài thơ này.
Vào cuối thế kỉ XIX, sau cái chết oanh liệt của Cao Thắng và của Phan Đình Phùng, phong trào cần Vương đã thất bại. Dẫu trên rừng Yên Thế (thuộc địa phạn tỉnh Bắc Giang) vẫn còn đì đoàng tiếng súng của nghĩa quân Hoàng Hoa Thám, nhưng thực chất, giặc đã làm chủ tình thế. Dần dần, chúng đặt ách đô hộ lên cả ba kì. Đất nước ta lúc này thật là tăm tối. "Câu chuyện "Bình Tây phục quốc" tưởng chỉ là một mớ kí ức tê tái" (Đặng Thai Mai) của người Việt Nam. Nhưng rồi, nhờ truyền thống quật cường của dân tộc, nhờ ảnh hưởng của "tân thư" từ nước ngoài..., đến những năm đầu thế kỉ XX, cả một lớp nhà nho đầy nhiệt huyết đã thức tỉnh với những phong trào: Duy Tân, Đông Du, Đông kinh nghĩa thục, chống thuế ở Trung Kì... Họ tập hợp nhau lại, bất liên lạc với những lực lượng chống Pháp ở trong nước. Nhiều cậu học sinh cắt nghiến búi tóc trên đầu, quyết tâm đoạn tuyệt với lối học cử tử để đi tìm lí tưởng mới. Họ thoát li gia đình và xuất dương, đi Tàu, đi Nhật, đi Xiêm — "tất cả chí hướng của thế hệ trí thức yêu nước đã nhằm vào một mục tiêu vĩ đại: "khôi phục nước nhà" (Đặng Thai Mai). Trong bối cảnh ấy, năm 1905, Phan Bội Châu cùng với Tiểu La Nguyễn Thành lập tổ chức Duy Tân hội. Sau đó, theo chủ trương của hội, Phan Bội Châu chia tay bè bạn sang Trung Quốc và Nhật Bản, tranh thủ sự giúp đỡ của những nước này đối với phong trào cách mạng Việt Nam.
Trước khi lên đường, vào lúc chia tay, Phan Bội Châu đã sáng tác bài Xuất dương lưu biệt (có nghĩa là: Để lại lúc từ biệt ra nước ngoài) bằng chữ Hán theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Bài thơ này đã nhanh chóng được phổ biến rộng rãi và được dịch ra tiếng Việt. Bản dịch của Tôn Quang Phiệt là bản dịch khá thành công, tuy có một vài chỗ chưa lột tả hết tinh thần nguyên tắc. Bài Lưu biệt khi xuất dương thể hiện rõ tư thế hào hùng, sự quyết tâm cao độ và những ý tưởng mới mẻ của nhân vật trữ tình - nhà cách mạng Phan Bội Ghâu buổi đầu ra nước ngoài tìm đường cứu nước.
Mở đầu bài thơ, nhân vật trữ tình trực tiếp thể hiện một lí tưởng sống, một khát vọng lớn lao. Là đấng nam nhi sinh ra ở đời thì phải làm được những việc lớn lao phi thường (điều lạ) phải chủ động xoay chuyến đất trời, không thể để cho trời đất tự chuyển vần (Há để càn khôn tự chuyển vần) lấy sao? Ý tưởng táo bạo này có lần đã được họ Phan nhắc đên với thái độ đầy lạc quan trong bài Chơi xuân:
Giang sơn còn tô vẽ mặt nam nhi,
Sinh thời thế phải xoay nên thời thế.
Đúng là làm trai, khát vọng được làm những việc to lớn vốn được Phan Bội Châu tâm niệm từ rất sớm. Sau này, ông đã kể lại trọng một tác phẩm tự thuật: "Từ lúc bé đọc sách hiểu được ít nhiều nghĩa lí vẫn không thiết gì sống theo thói thường như người xung quanh" (Phan Bội Châu niên biểu). Nhưng cũng phải đến những năm đầu thế kỉXX, khi họ Phan có điều kiện xuất dương cứu nước, khát vọng làm trai trong con người này mới được thể hiện đầy đủ. Thực ra, từ xa xưa, chí làm trai đã thường được nói đến trong văn học. Phạm Ngũ Lão — một viên tướng lừng danh thời Trần đã từng đánh đông dẹp bắc, vẫn thấy chưa trả xong "món nợ" của kẻ làm trai và cảm thấy thẹn thùng khi nghe chiến tích của Khổng Minh Gia Cát Lượng:
Công danh nam tử còn vương nạ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu.
(Thuật hoài)
Trong buổi "giã nhà" cùng ba quân ra chiến trường, hình ảnh người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn dường như đẹp hơn, hùng dũng hơn:
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.
Và Nguyễn Công Trứ cũng đã không chỉ một lần tâm niệm:
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.
(Đi thi tự vịnh)
"Chí làm trai" là tư tưởng rất đáng trân trọng, là sức mạnh tinh thần giúp cho nhiều người lập nên những công tích vang dội, có ích cho đất nước, cho xã hội. Đối với Phan Bội Châu, thực hiện chí nam nhi chính là chủ động tiến hành sự nghiệp cứu nước. Trong hoàn cảnh ra đời của bài thơ như đã trình bày ở trên, việc khẳng định chí nam nhi càng có ý nghĩa cao cả.
Đến hai câu thực, ý tưởng của nhân vật trữ tình được triển khai rõ hơn: "Giữa khoảng trăm năm này cần phải có ta chứ, chẳng nhẽ ngàn năm sau lại không có ai (để lại tên tuổi) ư?". Người xưa quan niệm một kiếp người là một trăm tuổi. Do đó, "giữa khoảng trăm năm" có nghĩa là cuộc sống một cá nhân trong thực tại. Còn ngàn năm sau là nói đến lịch sử, nói đến tương lai. Câu đầu của phần thực, người dịch chuyển chữ ta thành chữ tớ. Tớ nói được cái hăm hở, lạc quan, trẻ trung, nhưng lại làm mất đi sự trịnh trọng đường hoàng không thật phù hợp với nội dung của đoạn thơ: long trọng tuyên bố về một lẽ sống, một tư thế vào đời của đấng tu mi nam tử. Hơn nữa, câu thơ dịch thanh thoát đọc êm tai, nhưng lại làm mất đi âm điệu chắc nịch, nói như "đinh đóng cột" của tác giả. Hai câu thơ trên thoạt xem dường như có chút ngông nghênh tự phụ, thực ra là bộc lộ ý thức sâu sắc về cái "tôi" cá nhân tích cực. Cái "tôi" này chẳng những khẳng định trách nhiệm đối với hiện tại, tức là đối với vận mệnh hôm nay của đất nước, mà còn khẳng định nghĩa vụ đối với lịch sử muôn đời. Thật là tư thế của con người có chí khí lớn, muốn vươn tới đỉnh cao của lịch sử, phóng tầm mắt tới nghìn đời sau. Tư thế ấy càng được khẳng định hiên ngang hơn nữa ở hai câu luận:
Non sông đã chết, sống chí nhục
Hiền thánh đã vắng thì đọc sách cũng ngu thôi.
Ở con người này, số phận gắn làm một với số phận đất nước, sống chết cùng non sông, vinh nhục cùng Tổ quốc, ở con người này dường như không có chút băn khoăn về quan hệ cá nhân, quan hệ đời tư. Một tư thế sử thi hùng vĩ biết bao! Ở đây, nhân vật trữ tình tuy nói về mình nhưng cũng là nói cho cả một thế hệ, cả một dân tộc đang chuyển mình theo một lí tưởng cứu nước mới, phù hợp với thời đại mới. Hiền thánh đã chết, kinh sử mất thiêng, nhà thơ dứt khoát hướng thẳng về tương lai, đầy lạc quan tin tưởng. Bài thơ kết bằng hai câu tuyệt đẹp, đầy cảm hứng lãng mạn:
Muốn vượt, biển Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
Đúng là con đại bàng cất cánh bay ra biển khơi, bay vào thời đại. Hình ảnh thơ, nếu hiểu đúng như nguyên tắc, còn lãng mạn và hào hùng hơn nữa:
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.
(Ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên).
Lưu biệt khi xuất dươnglà bài thơ tiêu biểu cho tư tưởng và phong cách Phan Bội Châu ở giai đoạn đầu của cuộc đời cách mạng, khi ông xuất dương ra đi cứu nước theo đường lối cách mạng mới mà ông xiết bao tin tưởng. Bài thơ mang khẩu khí của bậc trượng phu đội trời đạp đất. Cái hay của bài thơ xuất phát từ vẻ đẹp của nhân vật trữ tình với khát vọng làm nên sự nghiệp lớn lao, với khí thế hăm hở và "một dự cảm mới mẻ" (Nguyền Huệ Chi). Bởi vậy, bài thơ có giá trị khích lệ, động viên, tuyên truyền cách mạng mạnh mẽ, nhất là đối với thế hệ thanh niên yêu nước hồi đầu thế kỉ XX.
Bài văn phân tích vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trong bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" - mẫu 6
Phan Bội Châu không chỉ được biết đến là một nhà cách mạng mà ông cỏn nổi danh như một cây bút xuất sắc của thơ ca những năm đầu thế kỉ XX. Thơ của ông đã trở thành một thứ vũ khí lay động hàng triệu con tim yêu nước. “Xuất dương lưu biệt” là một bài thơ như vậy. Nhân vật trữ tình trở thành một hình tượng nổi bật trong thi phẩm thể hiện rõ nội dung tư tưởng mà tác giả gửi gắm.
Không thể đánh đồng nhân vật trữ tình là tác giả, tuy nhiên đối với bài thơ này, có thể đồng nhất giữa nhân vật trữ tình với cái tôi tác giả bởi nó đã hòa quyện với nhau làm một. Như vậy, hình tượng nhân vật trữ tình xuất hiện trước hết là để nói cái chí của tác giả. Đó là một đấng nam nhi với tư tưởng mới mẻ và tiến bộ:
“Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời”
Đã mang trên mình trọng trách của một đấng nam nhi thì phải làm được những “điều lạ”. Ca dao có câu: “Làm trai cho đáng nên trai/ Khom lưng chống gối gánh hai hạt vừng” hay Nguyễn Công Trứ cũng từng tuyên bố: “Làm trai đứng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông”. Phan Bội Châu cũng trăn trở về chí làm trai của mình. Theo ông, đã làm trai thì phải sống một cách chủ động, dám đương đầu với mọi gian nan thử thách, có thể xoay chuyển được “càn khôn” chứ không để mặc số phận, hoàn cảnh. Khi ý thức được điều đó, nhân vật trữ tình cũng ý thức được trách nhiệm và vị trí của mình:
“Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai?”
Xác định được vị thế của mình, tác giả dõng dạc: “Giữa khoảng trăm năm này, phải có ta chứ”, nghĩa là phải lưu lại tên tuổi của mình cho muôn đời sau. Sống chính là phải cống hiến, phải giúp ích cho quốc gia, dân tộc. Điều này càng làm rõ hơn cho quan niệm làm trai của tác giả.
Muốn làm được điều đó,người chí sĩ phải là người hiểu được thời thế, hiểu được trách nhiệm của bản thân và hiểu được hoàn cảnh lịch sử của đất nước lúc bấy giờ. Nhân vật trữ tình đã sớm tỉnh táo để nhận thức rõ hiện thực:
“Non sông đã chết, sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài”
Khi đất nước mất đi chủ quyền, phong trào Cần Vương đã đi vào ngõ cụt của sự thất bại, “Thánh hiền đã vắng thì có đọc sách cũng ngu thôi!”. Tác giả đã nói lên lẽ vinh – nhục như một sự đau đớn về vận mệnh của đất nước, từ dó trăn trở về nhiệm vụ của mình trước thời cuộc. Tuy không hoàn toàn phủ nhận về nền học vấn “thánh hiền” nhưng ông đã quyết liệt, mạnh bạo khẳng định về sự lỗi thời, lạc hậu của những điều đã cũ. Mặc dù là một nhà Nho nhưng ông đã thẳng thắn chỉ ra điều đó. Vì sớm được tiếp xúc với tư tưởng dân chủ tư sản, sớm tiếp thu những điều mới mẻ, tiến bộ đã thôi thúc nhân vật trữ tình đi đến một cuộc “cách mạng” mới, ra đi để tìm đường cứu nước:
“Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi”
Ba chữ “tiễn ra khơi” ở bản dịch thơ chưa đủ cho thấy tầm vóc cùng với tư thế kì vĩ, hoàng tráng của con người trong thiên nhiên ở nguyên tác. “Mong muốn đuổi theo ngọn gió dài đi qua biển Đông/ Ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên” như một bức tranh tuyệt đẹp về buổi lên đường. Đó là một vẻ đẹp vừa lãng mạn, vừa hào hùng của nhân vật trữ tình với khát khao muốn được vượt qua biển Đông theo ngọn gió mới cùng với những đợt sóng bạc dâng trào của niềm hứng khởi, quyết tâm. Đến đây, nhân vật trữ tình đã hoàn toàn bộc lộ hết vẻ đẹp của mình, đó không chỉ là một cái tôi đầy tinh thần trách nhiệm trước cuộc đời mà còn là một cái tôi hào hùng lãng mạn.
Không chỉ vậy, đằng sau những quan niệm, những tư tưởng và khát khao đó chính là cái tôi yêu nước thiết tha, sâu nặng. Nói về chí làm trai, về tư thế và tầm vóc của mình, về khao khát ghi danh và khát vọng hành động cuối cùng cũng chỉ để thể hiện một trái tim yêu nước cháy bỏng và quyết tâm đi tìm đường cứu nước. Trong hoàn cảnh đất nước lâm nguy, điều này lại càng đáng được trân trọng. Giọng điệu của nhân vật trữ tình cũng thay đổi theo những cung bậc cảm xúc cụ thể. Đầu tiên chính là lãng mạn, hào hùng khi khẳng định vị thế và khao khát muốn được lập công danh, muốn được khẳng định mình. Sau đó nghĩ về quốc gia dân tộc mà đau nỗi đau mất nước, ý thức được trách nhiệm của bản thân khi nhìn lại hiện thực và quyết liệt trước những tín điều đã cũ. Từ đó tác giả đã ngang tàng, mạnh bạo khẳng định khát vọng hành động của bản thân, vẽ nên một tư thế hào hùng, lãng mạn. Từ giọng điệu đến những hình ảnh lớn lao, kỳ vĩ như “càn khôn”, “non sông”, “bể Đông” đã phần nào cho thấy tình yêu nước nồng nàn mà vĩ đại của tác giả.
Như vậy, hình tượng nhân vật trữ tình xuyên suốt trong toàn bộ bài thơ chính là một con người đầy tinh thần trách nhiệm trước cuộc đời, trước vận mệnh dân tộc. Bằng giọng thơ nhiệt huyết, hình ảnh thơ kì vĩ, Phan Bội Châu đã xây dựng hình tượng một nhà cách mạng giàu lòng yêu nước với những tư tưởng táo bạo, mạnh mẽ, khí phách ngang tàng và khát vọng sục sôi trong công cuộc cứu nước. Đây cũng chính là tiếng lòng thiết tha, rạo rực của tác giả.
Bài văn phân tích vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trong bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" - mẫu 7
Trong bài thơ Lưu biệt khi xuất dương,hình tượng nhân vật trữ tình hiện lên thật đẹp đẽ, hùng vĩ gắn với lý tưởng tự khẳng định mình và lòng yêu nước thiết tha:
Làm trai phải lạ trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời
Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai
Non sông đã chết sống thêm nhục
liền thánh làm chi học cũng hoài
Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
Bài thơ nguyên văn làm bằng chữ Hán có tên Xuất dương lưu biệt.Như ta đã biết, sau khi vận động thành lập hội Duy tân (1905) Phan Bội Châu tranh thủ viện trợ nước ngoài đào tạo cốt cán cho phong trào yêu nước. Bài thơ được làm trong buổi chia tay với các đồng chí của mình trước khi tác giả lên đường. Trên đây là bản dịch thơ của Tôn Quang Phiệt. Nhân vật trữ tình trong bài thơ có một khát vọng lớn lao: Làm trai phải lạ trên đời Há để càn khôn tự chuyển dời.
Ý thức cá nhân của con người ấy thể hiện rất rõ. ‘Làm trai’ tức là ý thức về trách nhiệm của thân phận ‘Chí nam nhi nam bắc đông tây’. ‘Làm trai phải lạ trên đời!’. ‘Phái lạ’ là sao? ‘Phải lạ’ là phải có điều gì khác hẳn, vượt lên hẳn mọi thứ tầm thường trên đời. Nói như Nguyễn Công Trứ thì đó là ‘Phải có danh gì với núi sông’. Phan Bội Châu đã ghi dấu ấn với sông với núi bằng khát vọng xoay trời chuyển đất: ‘Há để càn khôn tự chuyển dời’. Không để đất trời vần xoay, phải chế ngự sự biến dối ấy bằng những hành động, việc làm xứng đáng với thân nam nhi. Kháng định chí làm trai, tiến thêm một bước là khẳng định một cái ‘Tôi’ kỳ vĩ:
Ti ong khoảng trăm năm cần có tớ
San nảy muôn thuở há không ai.
Lời nói hùng khí ấy chỉ có thể thốt lên từ một bậc anh hùng. Trong khoảng trăm năm của cuộc đời cần có ta gánh vác. Câu thơ khẳng định vai trò cá nhân đối với vận mệnh đất nước và cũng là thể hiện một cái ‘tôi’ đầy trách nhiệm sẵn sàng gánh vác kế trăm năm nghiệp vuông trên của cơ đồ xã tắc. Trong thời cuộc rối ren đẩu thế kỷ XX, khi bao kẻ chỉ chăm chăm ‘nằm co’ cho khuôn vừa thòi thế, sự vùng vẫy của cái tôi kia thật đáng trân trọng.
Tin ở bản thân cái ‘tôi’, nhân vật trữ tình còn tin ở tương lai ‘sau này muôn thuở há không ai’. Sau này nghìn năm lại không có ai lưu danh muôn thuở vì dân vì nước hay sao? Cau thơ có dáng dấp một câu hỏi nhưng cũng là một câu khẳng định ắt sau này có người làm nên nghiệp lớn, lưu danh muôn thuở cứu dân cứu nước. Đó không là ta thì sẽ là một người hậu thế. Lời thơ bày tỏ niềm tin tưởng vào tương lai, đó giống như sự trao lịch sử vào tay hậu thế. Bàn về chí làm trai, bàn về cái ‘tôi’ ở đời, nhà thơ đặt nhân vật trữ tình hoàn cảnh cụ thể của đất nước:
Non sông đã chết sống thêm nhục
liên thánh lùm chi học cũng hoài.
Luận về lẽ sống chết ở đời để khẳng định, đề cao tư tưởng mới mẻ của nhân vật trữ tình. ‘Non sông đã chết sống thêm nhục’. Nếu như chí làm trai gắn số phận kẻ làm trai với trách nhiệm xoay trời chuyển đất thì nước nhà có sa cơ ‘đã chết’ cái nhục thuộc về sự sống kẻ làm trai. Nhận trách nhiệm chung về mình, đó là biểu hiện cao độ của lòng tự trọng con người. ở đây lòng tự trọng được thể hiện ở nỗi đau mất nước, nỗi nhục quốc thể.
Đặc biệt, tư tưởng nhân vật trữ tình đối với nghiệp bút nghiên là một tư tưởng vô cùng mới mẻ ‘Hiền thánh làm chi học cũng hoài’. Tư tưởng ấy khẳng định: đạo Nho, chữ Nho, quan điểm nhà Nho (hiền thánh) đã không còn hợp thời hợp thế. Chúng không còn tác dụng thúc đẩy sự phát triển của dân tộc. Vậy, trong thời đại mới cần xếp bút nghiên nắm lấy vũ khí mà tranh đấu cho lòng tự tôn dân tộc, lòng tự trọng cá nhàn. Tư tưởng này hết sức mới mẻ, táo bạo thoát ra khỏi lề lối sáo mòn gò ép của tư tưởng Nho gia thúc giục con người lên đường tranh đấu.
Vậy lên đường tranh đấu bằng cách nào?
Muốn vượt biển Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
Hình tượng nhân vật trữ tình không còn hiện lên trong khuôn khổ những tư tưởng ý chí mà vụt hóa thành con người của hành động. Câu thơ khắc họa một cuộc tiễn đưa hào hùng của lịch sử. Hình ảnh tư thế người ra đi vô cùng lớn lao kì vĩ ‘vượt bể Đông theo cánh gió’ để ‘Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi’. Phải là ‘bể Đông’ ‘cánh gió’ mới xứng đáng với sự kỳ vĩ của ước mơ người anh hùng. ‘Muôn trùng sóng bạc’ của quê hương tiễn đưa người anh hùng ra đi vì chí lớn. Bài thơ khép lại nhưng mở ra hy vọng cho tương lai đất nước dựa vào cuộc ra đi hào hùng của bậc anh hùng hào kiệt.
Hình tượng nhân vật trữ tình trong bài thơ hiện lên ở nhiều phương diện: tư tưởng khát vọng, hành động. Qua đó bộc lộ những quan điểm mới mẻ, tiến bộ về nhân sinh quan. Bài thơ kết thúc ớ hình ảnh người ra đi đẹp hào hùng gieo vào lòng người những đợi chờ hy vọng.
Hóa thân vào nhân vật trữ tình của bài thơ, Phan Bội Châu thể hiện khát vọng ý chí cá nhân làm nên nhiều biến động đổi thay trong lịch sử. Ở nhà thơ, thơ là người và người cũng như thơ. Nhắc đến thư để ta thêm muôn phần ngưỡng mộ con người nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu.
Bài văn phân tích vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trong bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" - mẫu 8
Tố Hữu đã từng viết trong bài thơ “Theo chân Bác” của mình:
“Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng
Bạn cùng ai đất khách dãi dầu”
Nhắc đến Phan Bội Châu là nhắc đến một nhà cách mạng yêu nước với hướng đi mới về độc lập dân tộc. Với nhiều nhà văn, nhà thơ, sáng tác văn học là cuộc đời. Nhưng Phan Bội Châu thì khác, ông dùng ngòi bút của mình như một công cụ để phục vụ cách mạng, thể hiện lòng yêu nước và cái “tôi” của người chí sĩ cách mạng. Trong một bộ sưu tập đồ sộ những tác phẩm gắn liền với tinh thần dân tộc, nổi bật bài thơ “Xuất dương lưu biệt” – một sáng tác bộc lộ ước mơ lớn của ông ở nơi đất khách quê người. Qua tác phẩm, ta còn thấy hình tượng nhân vật trữ tình được khắc họa rõ nét, phản ánh cả cuộc đời của một nhà Nho dám dũng cảm không đi theo lối mòn xưa cũ.
Nhân vật trữ tình được hiểu là một cách bộc lộ tình cảm cảm xúc trong tác phẩm văn học, trực tiếp chính là tác giả, hay gián tiếp bằng cách tác giả hóa thân vào nhân vật trong thơ để thể hiện. Đôi khi, nhân vật trữ tình chỉ biểu hiện qua câu thơ, ý chữ chứ không có đối tượng biểu đạt cụ thể. Nhưng dù bằng cách này hay cách khác, đây cũng là một nét đẹp nghệ thuật trong thơ ca, được các nhà thơ thường sử dụng để diễn tả tâm trạng. Với “Xuất dương lưu biệt”, nhân vật trữ tình không ai ngoài tác giả. Nỗi niềm “dân là dân nước, nước là nước dân” của Phan Bội Châu qua từng ý thơ, nhịp điệu, biện pháp tu từ đều rõ ràng hơn bao giờ hết. Là người khơi nguồn cho văn chương trữ tình cách mạng, sáng tác của ông – đặc biệt trong bài thơ này mang đến vẻ đẹp vừa lãng mạn vừa hào hùng với tấm lòng sôi trào hi vọng cứu nước.
Tấm lòng ấy thể hiện qua hai câu thơ đầu một quan niệm mới về chí làm trai và tầm vóc con người trong vũ trụ. Là một đấng nam nhi “đầu đội trời, chân đạp đất”, người thanh niên phải sống sao cho phi thường, hiển hách. Khó khăn, thử thách, gian nan cuộc đời đâu dễ làm chùng bước những con người nắm giữ vận mệnh núi sông. Việc cần làm là đối mặt với chúng, xoay chuyển càng khôn, đổi dời thời thế, biến không thể thành có thể, chứ lẽ nào họ đi an phận, nhàn hạ ở quê nhà, ngày ngày trôi qua một cách tẻ nhạt, chán chường, buông xuôi số phận. Điều đó được khẳng định qua cuộc đời của Phan Bội Châu – “vị anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập, được mấy mươi triệu con người yêu quý”. Vốn tài năng văn chương của ông quá đủ để ông ghi tên mình trong tiếng tăm lịch sử, nhưng ông tâm niệm việc cần làm nhất lúc bấy giờ chính là tìm ra con đường cứu nước mới, giải phóng dân tộc khỏi vòng nô lệ, khỏi khổ đau dưới ách thống trị đế quốc. Ông cầm bút do yêu cầu cách mạng, xem đó như một việc phụ trợ cho công cuộc tuyên truyền, vận động, khơi dậy lòng yêu nước sâu thẳm chất chứa trog tim mỗi người, bởi một bài thơ luôn có sức thu hút hơn vạn lời kêu gọi. Đó chẳng phải nhà thơ đã trực tiếp lấy bản thân mình làm minh chứng hùng hồn cho quan niệm mới về chí làm trai phải phục vụ Tổ quốc, nhân dân hay sao?
“Sinh vi nam tử yếu hi kì
Khẳng khứa càng khôn tự chuyển di”
Hai câu thơ trên với giọng thơ ngang tàng, khỏe khoắn, từ ngữ mạnh mẽ, bộc lộ bản lĩnh thách thức cuộc đời của người thanh niên trong thời đại mới. Là con người tồn tại, ai cũng gánh trên vai ít nhiều những trách nhiệm khác nhau. Với người thanh niên cũng vậy. Trách nhiệm của họ trước hết là phải luôn kết nối giữa con đường của mình và hướng đi của quê hương, dẫn dắt Tổ quốc này đến một tương lai tươi sáng, thoát khỏi chuỗi ngày bị trị đau đớn, lầm than. Đó cũng là vẻ đẹp của nhân vật trữ tình được thể hiện qua hai câu thực:
“U bách niên trung tư hữu ngã
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”
Bằng cách sử dụng phép đối “Ư bách niên trung” – “Khởi thiên tải hậu” và “hữu” – “vô”, tác giả vừa khẳng định vai trò của bản thân giữa cuộc thế, vừa nương theo một khát vọng chính đáng về sự tín nhiệm thế hệ mai sau. Trong một trăm năm có ông tồn tại, cống hiến và giúp ích cho đời, đất nước đã có những bước chuyển quan trọng, tuy không hoàn toàn thoát khỏi ách đô hộ của thực dân nhưng phần nào làm cháy lên ngọn lửa hi vọng độc lập của nhân dân. Rồi đây, khi con người không thể vượt qua cái gọi là “sinh, lão, bệnh, tử”, đất nước mất đi một nhân tài như ông thì liệu tương lai còn được trông đợi? Câu hỏi tu từ là sự phân vân của tác giả, ông như cổ vũ tinh thần yêu nước của thế hệ trẻ, đồng thời cũng gợi một chút lo lắng của mình cho quê hương. Ở bản dịch thơ, chữ “ta” của bài thơ gốc được dịch thoát nghĩa thành “tớ”. Từ “tớ” này mang chút hóm hỉnh, lạc quan, có nét trẻ trung của thanh niên, nhưng lại thiếu đi sự nghiêm túc, mạnh mẽ, quan trọng khi khẳng định tư thế hiên ngang vào đời của câu thơ chữ Hán. Đoạn thơ nói về ước mơ cao cả và niềm tin của một con người sống với trách nhiệm lớn – cái “tôi” cá nhân vĩ đại sẵn sàng chịu trách nhiệm với bản thân và với non sông, đất nước.
Vẻ đẹp của nhân vật trữ tình ở hai câu luận tiếp tục được diễn tả qua thái độ của tác giả trước hoàn cảnh đất nước và những tín điều xưa cũ. Phan Bội Châu sinh ra trong bối cảnh nước mất nhà tan. Dù không phải chứng kiến hằng ngày những trận chiến đẫm máu, tàn khốc hiện lên trước mắt, nhưng đối mặt với kiếp sống nghèo nàn của nhân dân, tiếng than, tiếng oán, tiếng hận như cứa vào tâm can nhà thơ. Cũng như Trần Hưng Đạo từng viết: “ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa. Chỉ căm tức chưa xẻ thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù.” Có lẽ, tác giả cũng từng đau rất nhiều vì hiện thực phũ phàng, xót xa:
“Giang sơn tử sĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si!”
Nỗi nhục này, ai sẽ thấu hiểu cho ông? Vinh và nhục – sống và chết, ranh giới mỏng manh đặt ra thử thách làm sao khôi dậy sự độc lập và hưng thịnh của nước nhà. Sự tồn vong dân tộc như tảng đá đè nặng trong lòng, ngày nào chưa giành lại tự do, nhà thơ vẫn còn cảm thấy khổ sở. Tấm lòng đó làm thổi bùng lên ý chí sắt thép của con người không cam chịu sống nô lệ, đúng với truyền thống đạo lí ngàn đời của ông cha ta. Lúc bấy giờ, sách vở thánh hiền đã chẳng còn giúp ích được gì trong thời loạn lạc. Nhà thơ bàn về việc học bằng cách tự giãi bày, bộc bạch, thẳng thắn đối diện với quan niệm đã lạc hậu rồi. Phải thay đổi, vì chỉ có thế mới có được tư tưởng sáng suốt nhất, làm cương lĩnh cho sự nghiệp cứu nước khẩn cấp, cần thiết tức thì. Bám vào học hành chỉ có lối mòn duy nhất, nay đã thành ngõ cụt, cũng sẽ không tránh khỏi lạc đường. Tất nhiên, hướng đi mới chính là ánh sáng, là tương lai, là bộ mặt mới của quốc gia này. Cuối bài, tác giả kết thúc bằng hai câu thơ diễn tả tư thế và khát vọng hành động buổi lên đường “xuất dương” sang xứ sở lạ:
“Nguyện trục trường phong Đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”
Các hình ảnh khoa trương, phóng đại được tác giả sử dụng làm thiên nhiên như hòa nhập vào con người, cùng đồng hành thực hiện lí tưởng lớn lao. Các hình ảnh này trong bản dịch thơ là “bể Đông”, “cánh gió”, “muôn trùng sóng bạc”, mang đầy vẻ đẹp lãng mạn, nhẹ nhàng, êm ả, bình lặng, giảm đi khí thế hùng mạnh, vĩ đại. Ngược lại ở bài thơ chữ Hán, cụm từ “nhất tề phi” vẽ nên biểu tượng con người được chắp đôi cánh lớn bay lên vượt tầm thực tại, xuyên qua bầu trời thẳng đến vũ trụ bao la. Qua đó, đọc giả cảm nhận được hai tầng nghĩa của cùng một câu thơ, vừa đẹp lãng mạn vừa mang tính sử thi. Nếu như tính sử thi trong văn học trung đại gắn với vua, mang tính “trung quân ái quốc”, thì ở bài thơ này, tác giả đã kế thừa truyền thống văn học và nâng khuynh hướng này lên với văn học hiện đại, gắn với yếu tố cá nhân và cộng đồng. Nét hiện đại này tạo hiệu quả tích cực, làm cho bài thơ thêm hấp dẫn và phát huy mục đích cổ vũ lẽ sống tích cực ở thế hệ trẻ: sống để phục vụ Tổ quốc, nhân đân.
Vào những năm đầu thế kỉ XX, khi nước nhà lâm vào chế độ thực dân nửa phong kiến, có một nhà chí sĩ cách mạng đã lãnh tụ nhiều phong trào cứu nước mới. Bài thơ “lưu biệt khi xuất dương” là lời giã từ của người trước khi lên thuyền đến nơi chân trời mới. Bài thơ mang tư tưởng tiếp nối truyền thống yêu nước trong văn học trung đại, lại mở ra nhiều ý độc đáo, đặc biệt mà văn học hiện đại đang trong quá trình khai thác. Sự hòa quyện, tổng hợp ấy làm nổi bật lên vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trữ tình trong bài. Tác phẩm đã hoàn thành tốt vai trò, mục đích của nó khi khích lệ những thanh niên tran đầy nhiệt huyết tham gia con đường giải phóng dân tộc, đi theo tiếng gọc quê hương và thực hiện trách nhiệm “làm trai” giữa đời như Nguyễn Công Trứ từng nói:
“Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”.
Hãy đăng nhập để bình luận
Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .