Top 6 Bài văn phân tích bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" của Bà Huyện Thanh Quan (Ngữ văn 8 - SGK Kết nối tri thức) hay nhất
Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" của Bà Huyện Thanh Quan (Ngữ văn 8 - SGK Kết nối tri thức) hay nhất mà Alltop.vn...xem thêm ...
Bài văn phân tích bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" - mẫu 1
Trong làng thơ Việt Nam, có những nữ sĩ để lại cho thơ ca dân tộc những dấu ấn đẹp. Nếu thơ Hồ Xuân Hương tài ba, ngạo mạn thì thơ bà Huyện Thanh Quan lại trang nhã, trữ tình và duyên dáng. Đọc thơ bà, ta thấy nỗi buồn man mác, tâm trạng hoài cổ thật thanh cao đượm sự cô đơn, trống vắng. Một trong những bài thơ đó là tác phẩm Chiều hôm nhớ nhà. Tìm hiểu bài thơ ta sẽ thấy tài thơ điêu luyện của Bà:
Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn Gác mái, ngư ông về viễn phố Gõ sừng, mục tử lại cô thôn Ngàn mây gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn
Ở hai câu đề, khoảng thời gian là trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn. Ánh sáng vẫn còn đó, nhưng chỉ còn là ánh lờ mờ của ngày tàn và đêm sắp tới. Câu thơ chỉ giới thiệu thời gian mà người đọc như cảm thấy cả không gian một vùng quê rộng lớn. Trước thiên nhiên ấy, giữa trời và đất, có một cái gì đó tràn ngập con người nhạy cảm. Buổi chiều là thời gian dễ buồn nhất và đó cũng là khoảng thời gian thường xuất hiện trong thơ của bà Huyện Thanh Quan. Con người trong cuộc sống hỗn độn, ồn ào vẫn có một lúc nào đó trở về với cái bình yên muôn thuở của thiên nhiên, về với chính lòng mình. Và lúc này chính là khoảnh khắc đó của nữ sĩ.
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn
Âm thanh từ xa vẳng đến như thúc giục, nhưng vẫn có cái trầm lặng trong đó báo hiệu cho mọi người: ngày sắp hết. Ta như gặp một nét thân quen, man mác của câu ca dao:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều.
Tâm trạng của tác giả đã phần nào được ngầm hiểu trong cách lựa chọn thời gian, không khí và thanh âm. Trong cảnh chiều, trong tiếng gọi tàn ngày đó, con người hiện ra:
Gác mái, ngư ông về viễn phố
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Câu thơ với nhịp 2/5 làm cho ta có cảm giác hoạt động con người đang giảm dần, đang đi tới kết thúc. Phép đối rất chuẩn cùng với những từ Hán Việt đã góp phần tạo nên vẻ trang nhã, cổ kính của hai câu thơ gợi tả này. Trước cảnh thiên nhiên to lớn, con người thật nhỏ, yếu thế và có phần đơn độc. Đó cũng là đặc điểm của thơ Thanh Quan. Gặp cảnh và người ở đây ta không thể không liên tưởng đến cảnh và người.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Trong Qua đèo Ngang của cùng tác giả, cảnh và người đều vậy: lặng lẽ, đượm buồn. Ta có cảm giác nhà thơ cũng đang lặng lẽ, thẩn thờ. Và con đường trước mắt bà thì sao, hai câu luận đã vẽ ra khung cảnh:
Ngàn mây gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
Khoảng đường trước mắt như vô tận. Chim bay mỏi mà chưa tới nơi, khách bước dồn mà chưa tới chốn. Con đường đi hay con đường đời đang dàn trải? Phép đối từng cặp hình ảnh ngàn mây dặm liễu, gió cuốn – sương sa, chim bay mỏi – khách bước dồn làm ý thêm nhấn mạnh. Những từ ngữ bước dồn, bay mỏi cho thấy tâm trạng chán chường, mỏi mệt của nhà thơ. Tâm trạng ấy tất dẫn đến hai câu thơ kết thúc:
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn
Không có ai để tâm sự, trời đất thì bao la, vắng lặng, trống trải, khiến tác giả quay về với nội tâm, với lòng buồn sẵn có của mình. Câu thơ cuối, vừa như một câu cảm, vừa như một câu hỏi. Ta đã từng bắt gặp những câu thơ tài ba đó trong thơ bà:
Dừng chân đứng lại, trời non nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta
(Qua đèo Ngang)
Và
Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường
(Thăng Long hoài cổ)
Qua đó, ta càng hiểu được nỗi niềm tâm sự của tác giả. Mang tiếng nói của tầng lớp quý tộc phong kiến đang trên đường suy thoái, thơ Thanh Quan biểu hiện một khía cạnh tư tưởng của văn chương thế kỉ 18 – 19, phản ánh tâm tư của lớp nho sĩ chán nản bế tắc. Tiếng thơ đó cũng biểu hiện tâm trạng hoài cổ, thiết tha nhớ nhà Lê đã suy vi. Phải chăng đó cũng là tâm tình của chế độ phong kiến đã hết thời vàng son, hết vai trò lịch sử? Đặt bài thơ của nữ sĩ vào bối cảnh lịch sử như thế, ta có biểu hiện sâu thêm cái buồn trong lòng bà: cái buồn thời đại.
Thơ bà buồn, nhưng không vì thế mà mất vẻ đẹp gợi cảm. Trái lại, nhờ vậy càng tăng thêm phần đặc sắc. Thơ bà đẹp một cách trầm lặng như chính tâm hồn bà.
Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan mãi mãi đưa đến cho chúng ta những cảm xúc chân thành, đậm đà trước nét buồn thanh tao, đưa đến những suy nghĩa sâu xa hơn về con người và xã hội. Một bài thơ đóng lại nhưng còn mở ra, tạo nên một dư âm trong lòng người đọc.
Bài văn phân tích bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" - mẫu 2
Bước vào làng văn học Việt Nam ta bắt gặp một nữ sĩ với những vần thơ trang nhã cổ điển, ấy chính là Bà Huyện Thanh Quan với bài thơ Qua Đèo Ngang và Chiều hôm nhớ nhà. Cả hai bài thơ này được làm theo thể thơ Đường luật mầu mực, phong vị cổ điển, lời ít ý nhiều. Chính nhờ điều này mà hai bài thơ sông mãi với thời gian.
Thi pháp cổ điển ấy chính là văn chương bác học, dùng nhiều điển cố, điển tích, ngôn ngữ thơ điêu luyện, chắt lọc… Trong hai bài thơ trên của Bà Huyện Thanh Quan thể hiện rõ vấn đề này. Trước hết, điểm nổi bật trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình với ngôn ngữ tinh tế mà đượm buồn. Cả hai bài thơ ta đều bắt gặp một khung cảnh gợi buồn, gợi nhớ nhất trong một ngày. Cảnh Đèo Ngang trong lúc xế bóng vắng vẻ hoang sơ:
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
(Qua Đèo Ngang)
Còn trời chiều trong bài thơ Chiều hôm nhớ nhà:
Trời chiều băng lảng bóng hoàng hôn
(Chiều hôm nhớ nhà)
Đối diện với khung cảnh này thì những người hời hợt lắm cũng phải buồn chứ không nói gì đến người giàu cảm xúc như nữ sĩ. Nếu như trong bài Qua Đèo Ngang tín hiệu nghệ thuật đầu tiên mà tác giả sử dụng là bóng xế tà thì bài thơ Chiều hôm nhớ nhà cũng đồng thời là bóng hoàng hôn. Thơ xưa khi nói về tâm sự, nỗi buồn người ta thường mượn cảnh đế ký thác đặc biệt là hình ảnh bóng chiều. Buổi chiều gợi cho ta cảm giác nhớ nhà, nhớ gia đình người thân. Đặc biệt đây lại là tâm trạng của kẻ lữ thứ xa quê, trên đỉnh đèo Ngang chỉ có:
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa thì ở
Chiều hôm nhớ nhà cũng hoang vắng đến lạnh lùng:
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn
Đây là âm thanh rõ nhất khiến ta cảm giác đầy đủ nhất. Ta nghe thấy tiêng ốc nhưng lại xa đưa, lúc khoan lúc nhặt nghe thật buồn tẻ. Cái âm thanh đó chỉ làm sâu hơn nỗi buồn của nhà thơ. Cả hai bài thơ tác giả chỉ thấy cuộn lên một nỗi buồn, nỗi buồn sâu thẳm mênh mông.. Xa chốn kinh kỳ ồn ã náo nhiệt vào làm quan ở Huế, lòng nữ sĩ có bao nỗi buồn chất chứa. Kinh thành Thăng Long nơi bà từng sông nó khác hẳn với cuộc sống nơi này – đèo Ngang. Hình ảnh con người trong hai bài thơ này chỉ thoáng bóng. Đó chính là những người dân lao động nghèo vất vả, lam lũ. Cuộc sống của họ thật tẻ nhạt, đơn sơ
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
(Qua Đèo Ngang)
Và
Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
(Chiều hôm nhớ nhà)
Thủ pháp nghệ thuật đảo ngữ nhuần nhị tạo nên một hình ảnh thưa thớt, vắng vẻ của cuộc sống con người nơi đây. Vì vậy Bà Huyện Thanh Quan không thể vui vẻ, càng không thể hững hờ trước cảnh buồn man mác đó. Nhưng nỗi niềm u hoài ấy là gì? Đó là nỗi niềm u uẩn trong lòng nữ sĩ. Bà nhớ về một thời xa xưa, dĩ vãng. Cái thời vàng son mà bà từng chứng kiến nó thật lộng lẫy tươi đẹp biết bao. Giờ đầy, trước cảnh vật, trong lòng nữ sĩ cháy bỏng lên một tâm sự nhớ nước, thương nhà sau tiếng kêu đều, khoan nhặt của chim quốc, gia gia.
Nghệ thuật chơi chữ quốc là nước, gia là nhà. Tiếng quốc kêu hay chính lời non nước, tiếng cuốc kêu hay chính hồn Thục Đế. Sự đồng điệu trong âm thanh da diết không dứt ấy làm tâm hồn nhà thơ rộn lên, nao lên trong niềm nhớ nhà nhớ nước. Tiếng cuốc kêu như ứng với tiếng gọi tha thiết, mãnh liệt nhất trong tâm tư tình cảm của bà. Tiếng gọi gửi về đất nước? Tiếng gọi gửi về quê hương?
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Răm liễu sương sa khách bước dồn
(Chiều hôm nhớ nhà)
Chiều xế bóng, mặt trời sắp tắt, bóng đêm dần bao phủ ngay cả những chú chim cũng đang tìm chốn ngủ, những bước chân lữ thứ tìm quán trọ qua đêm… Bà Huyện Thanh Quan nhớ lắm thương lắm muốn trở về, gặp lại quê hương, gặp lại người thân nhưng đành bất lực:
Kẻ chốn Chương Đài người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn
(Chiều hôm nhớ nhà)
Ở đây tác giả sử dụng điển cổ: Chương Đài để thể hiện sự mong mỏi xa cách giữa tác giả và người thân, quê hương gia đình. Lấy ai để tâm sự, giãi bày nỗi hàn ôn. Và vì vậy đối diện với mây trời non nước Đèo Ngang nữ sĩ như gặp lại chính mình:
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước
Một mảnh tinh riêng, ta với ta
Mảnh tình riêng ấy là tâm sự cô đơn, bé nhỏ trước mây trời, sông nước. Bà và cảnh đã hoà làm một bởi có chung một tâm trạng. Cảnh bao la rộng lớn nhưng buồn bởi vì chủ thể trữ tình đang chất chứa một tâm trạng u hoài. Tâm sự chất chứa ấy lại bắt gặp chính nó: ta với ta, mấy ai mà bầy tỏ, hàn huyên tâm sự. Cái cổ điển chính là mượn cảnh để tả tình, trong tình có cảnh. Vần thơ buồn nhớ, cô đơn đến vô cùng.
Hai bài thơ trên là điển hình cho phong cách thơ Bà Huyện Thanh Quan. Chất cổ điển, trữ tình hoà quyện tạo nên thành công nổi bật cho hai bài thơ. Dẫu đã gấp trang sách lại chúng ta không thể nào quên những vần thơ trác tuyệt như vậy.
Bài văn phân tích bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" - mẫu 3
Thơ của Bà Huyện Thanh Quan thấm một nỗi buồn li biệt hoặc hoài cổ, hay nói đến hoàng hôn, lời thơ trang nhã, sử dụng nhiều từ Hán Việt (bảng lảng, hoàng hôn, ngư ông, viễn phố…) tạo nên phong cách trang trọng, cổ kính, nhạc điệu trầm bổng hấp dẫn. “Chiều hôm nhớ nhà” là một bông hoa nghệ thuật chứa chan tình thương nhớ, bâng khuâng.
Ai đã từng đọc “Truyện Kiều” chắc không thể nào quên được câu thơ của Nguyễn Du nói về hoàng hôn:
“Sông sa vò võ phương trời,
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng”.
Cũng nói về hoàng hôn và nỗi buồn của kẻ tha hương, bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà” của Bà Huyện Thanh Quan là một kiệt tác của nền thơ Nôm Việt Nam trong thế kỉ XIX:
Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn.
Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn.
Câu thơ đầu tả ánh hoàng hôn một buổi chiều viễn xứ. Hai chữ “bảng lảng” có giá trị tạo hình đặc sắc: ánh sáng lờ mờ lúc sắp tối, mơ hồ gần xa, tạo cho bức tranh một buổi chiều thấm buồn:
“Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn”.
Hai chữ “bảng lảng” là nhãn tự – như con mắt của câu thơ. Nguyễn Du cũng có lần viết:
“Trời tây bảng lảng bóng vàng” (Truyện Kiều)
Chỉ qua một vần thơ, một câu thơ, một chữ thôi, người đọc cũng cảm nhận được ngòi bút thơ vô cùng điêu luyện của Bà Huyện Thanh Quan. Đối với người đi xa, khoảnh khắc hoàng hôn, buồn sao kể hết được? Nỗi buồn ấy lại được nhân lên khi tiếng ốc (tù và) cùng tiếng trống đồn “xa đưa vẳng” lại. Chiều dài (tiếng ốc), chiều cao (tiếng trống đồn trên chòi cao) của không gian được diễn tả qua các hợp âm ấy, đã gieo vào lòng người lữ khách một nỗi buồn lê thê, một niềm sầu thương tê tái. Câu thơ vừa có ánh sáng (bảng lảng) vừa có âm thanh (tiếng ốc, trống đồn) tạo cho cảnh hoàng hôn miền đất lạ mang màu sắc dân dã:
Phần thực và phần luận, các thi liệu làm nên cốt cách bài thơ được chọn lựa tinh tế, biểu đạt một hồn thơ giàu cảm xúc. Ngư ông, mục tử, lữ khách… thế giới con người được nói đến. Cảnh vật thì có ngàn mai, có gió và sương, có “chim bay mỏi” … Những thi liệu ấy mang tính chất ước lệ của thi pháp cổ (người thì có: ngư, tiều; cảnh vật, cây cỏ, hoa lá thì có: phong, sương, mai, liễu, cánh chim chiều…) nhưng với tài sáng tạo vô song: chọn từ, tạo hình ảnh, đối câu, đối từ, đối thanh, ở phương diện nào, nữ sĩ cũng tỏ rõ một hồn thơ tài hoa, một ngòi bút trang nhã. Vì thế cảnh vật trở nên gần gũi, thân thuộc với mọi con người Việt Nam. Cảnh vật mang hồn người đậm đà bản sắc dân tộc.
Chiều tà, ngư ông cùng con thuyền nhẹ trôi theo dòng sông về viễn phố (bến xa) với tâm trạng của một “ngư ông” – ông chài nhàn hạ, thoải mái. Động từ “gác mái” biểu đạt một tâm thế nhàn của ngư ông đang sống ở miền quê, đã thoát vòng danh lợi:
“Gác mái, ngư ông về viễn phố”.
Cùng lúc đó, lũ trẻ đưa trâu về chuồng, trở lại “cô thôn”, cử chỉ “gõ sừng” của mục đồng thật hồn nhiên, vô tư, yêu đời.
“Gõ sừng mục tử lại cô thôn”.
Đó là hai nét vẽ về con người, hai bức tranh tuyệt đẹp nơi thôn dã vô cùng thân thuộc đáng yêu. Hai câu luận tiếp theo mượn cảnh để tả cái lạnh lẽo, cô liêu, bơ vơ của người lữ khách trên nẻo đường tha hương nghìn dặm. Trời sắp tối. Ngàn mái xào xạc trong “gió cuốn”; gió mỗi lúc một mạnh. Cánh chim mỏi bay gấp về rừng tìm tổ. Sương sa mù mịt dặm liễu. Và trên con đường sương gió ấy, lạnh lẽo ấy chỉ có một người lữ khách, một mình một bóng đang “bước dồn” tìm nơi nghỉ trọ.
Hai hình ảnh “chim bay mỏi” và “khách bước dồn” là hai nét vẽ đăng đôi, đặc tả sự mỏi mệt, cô đơn. Con người như bơ vơ, lạc lõng giữa ”gió cuốn” và “sương sa”, đang sống trong khoảnh khắc sầu cảm, buồn thương ghê gớm. Câu thơ để lại nhiều ám ảnh trong lòng người đọc. Đảo ngữ làm nổi bật cái bao la của nẻo đường xa miền đất lạ:
“Ngàn mai, gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu, sương sa khách bước dồn”.
Bằng sự trải nghiệm của cuộc đời, đã sống những khoảnh khắc hoàng hôn ở nơi đất khách quê người, nữ sĩ mới viết được những câu thơ rất thực miêu tả cảnh ngộ lẻ loi của kẻ tha hương hay đến thế! Hai câu kết hội tụ, dồn nén lại tình thương nhớ. Nữ sĩ cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết. Câu thứ bảy gồm hai vế tiểu đối, lời thơ cân xứng đẹp: “Kẻ chốn Chương Đài người lữ thứ”. Chương Đài là điển tích nói về chuyện li biệt, nhớ thương, tan hợp của lứa đôi Hàn Hoành và Liễu thị đời nhà Hán xa xưa. Bà Huyện Thanh Quan đã vận dụng điển tích ấy một cách sáng tạo. “Chương Đài” và “lữ thứ” trong văn cảnh gợi ra một trường liên tưởng về nỗi buồn li biệt của khách đi xa nhớ nhà, nhớ quê hương da diết.
Khép lại bài thơ là một tiếng than giãi bày một niềm tâm sự được diễn tả dưới hình thức câu hỏi tu từ. “Ai” là đại từ phiếm chỉ, nhưng ai cũng biết đó là chồng, con, những người thân thương của nữ sĩ. “Hàn ôn” là nóng lạnh, “nỗi hàn ôn” là nỗi niềm tâm sự. Người lữ thứ trong chiều tha hương thấy mình bơ vơ nơi xa xôi, nỗi buồn thương không sao kể xiết:
“Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?”.
“Chiều hôm nhớ nhà” và “Qua Đèo Ngang” hai kiệt tác thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Đó là chùm thơ của Bà Huyện Thanh Quan sáng tác trong những tháng ngày nữ sĩ trên đường thiên lí vào kinh đô Huế nhận chức nữ quan trong triều Nguyễn. Có thể coi đó là những bút kí – thơ vô cùng độc đáo.
Thơ của Bà Huyện Thanh Quan thấm một nỗi buồn li biệt hoặc hoài cổ, hay nói đến hoàng hôn, lời thơ trang nhã, sử dụng nhiều từ Hán Việt (bảng lảng, hoàng hôn, ngư ông, viễn phố…) tạo nên phong cách trang trọng, cổ kính, nhạc điệu trầm bổng hấp dẫn. “Chiều hôm nhớ nhà” là một bông hoa nghệ thuật chứa chan tình thương nhớ, bâng khuâng,…
Bài văn phân tích bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" - mẫu 4
“Nhớ nước” – “thương nhà” là hai dòng tình cảm sâu sắc của Bà Huyện Thanh Quan. “Nhớ nước”, bà có bài thơ “Thăng Long thành hoài cổ”, “thương nhà”, bà có bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà”. Dưới triều Tự Đức, bà được mời về kinh nhậm chức Cung trung giáo tập để dạy các công chúa, cung phi. Sống trong cung đình, nhưng bà tự coi mình như kẻ “lữ thứ”, tấm lòng của bà luôn luôn hướng về chốn “Chương Đài”. Tâm sự “thương nhà” của bà được diễn tả một cách tài hoa trong bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà”:
“Chiều trời hảng lảng hóng hoàng hôn
…..
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?”.
Bà Huyện Thanh Quan đã chọn luật bằng vần bằng cho bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà” (Bài “Thăng Long thành hoài cổ” là luật trắc vần bằng) hợp với điệu hoài cảm của tâm hồn thi nhân. Mở đầu bài thơ là hình ảnh buổi hoàng hôn với điệu nhạc chiều êm ái, thổn thức:
“Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa dưa vẳng trống dồn”
Trong cả ba bài thơ nổi tiếng, Bà Huyện Thanh Quan đều nói đến chiều tà.
“Bước tới đèo Ngang bóng xé tà”
(Qua đèo Ngang)
“Nền củ lâu đài bóng tịch dương”
(Thăng Long thành hoài cổ)
“Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn”
Từ “bảng lảng” tả ánh sáng buổi hoàng hôn thật là đặc sắc. Cảm nhận về ánh sáng như vậy thật là thi sĩ. “Bảng lảng” là ánh nắng đã nhạt, loãng, yếu ớt của buổi chiều tàn. Ánh nắng hạ xuống thì nhạc chiều nổi lên. Điệu nhạc trầm buồn của tiếng ốc từ xa đưa lại, tiếng trống cũng xa, chỉ nghe văng vẳng nhưng dồn dập thổn thức. Cái tôi trữ tình của thi nhân lặng phía sau hình ảnh và âm thanh. Cái gì nữ sĩ nhìn thấy, gần gũi thì nhạt nhòa, tàn phai. Nữ sĩ lắng nghe, đón nhận những âm vang từ xa, cho nên khúc nhạc chiều trầm buồn đó cũng là khúc nhạc lòng của thi nhân. Nhà thơ mở rộng không gian của buổi hoàng hôn, trở về với những hình ảnh gần gũi thân quen của những người lao động:
“Gác mái, ngư ông về viễn phố
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn”
Bà Huyện Thanh Quan vẫn không thoát khỏi những đề tài “ngư, tiều, canh, mục” quen thuộc trong thơ cổ điển nhưng bà vẫn có sáng tạo riêng. Bà chỉ chọn hai nhân vật cho buổi “chiều hôm” là “ngư ông” và “mục tử’. Nét linh hoạt của câu thơ là ở những cử chỉ của nhân vật. Hai cử chỉ nghịch nhau mà lại cùng diễn tả một ý tưởng. “Gác mái” là ngư ông nghỉ ngơi, đảo vị ngữ “Gác mái” càng nhấn mạnh sự nghỉ ngơi thư thái của ngư ông. “Gõ sừng” cũng được đảo ra phía trước để nhân mạnh cử động của mục tử (người chăn trâu) nhưng là cử động trở về, nghỉ ngơi. Nhưng cả ngư ông và mục tử trên đường trở về đều có khoảng cách “ngư ông về viễn phố”, ngư ông về bến xa, “mục tử lại cô thôn”, người chăn trâu về xóm lẻ loi.
Khoảng cách ấy cũng là khoảng cách trong lòng thi nhân với quê hương xứ sở của mình, thành ra có ba con người, ngư ông, mục tử và nữ sĩ chẳng gắn bó gì với nhau cả lại cùng giông nhau ở một điểm là chiều hôm, mỗi người đều hướng về nơi chôn thân yêu của mình. Tóm lại, hai câu thực đã thể hiện một cách tài hoa chủ đề chiều hôm nhớ nhà. Chuyển sang hai câu luận, không gian thơ được mở lên chiều cao với những hoạt động của thiên nhiên trong buổi chiều hôm:
“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn”
Hình ảnh thật đẹp, thật gợi cảm. Nhà thơ đã chọn được những tín hiệu thẩm mĩ có khả năng diễn tả tâm tình của thi nhân. Hình ảnh “ngàn mai gió cuốn” vừa rộng lớn, thoáng, vừa sôi động. Rừng mai bạt ngàn càng thấy sự lẻ loi đơn chiếc của thi nhân, hình ảnh “gió cuốn” gợi sự xao động bên trong của nữ sĩ. Hình ảnh cánh chim chiều “bay mỏi” cũng gợi tâm trạng của thi nhân. Làm sao giữa không gian bạt ngàn của rừng mai mà nhận ra “chim bay mỏi”? Phải có con mắt rất tinh, nhưng như thế vẫn chưa đủ, phải là con mắt của tấm lòng. Còn “dặm liễu” thì thơ mộng mà “dặm liễu sương sa” thì vừa thơ mộng vừa lạnh lẽo. Cái lạnh của sương chiều đã thúc bước chân của người đi đường “khách bước dồn”.
Cái hay của hai câu luận là không gian được mở ra với những hình ảnh đẹp, thơ mộng, gợi cảm và chủ đề Chiều hôm nhớ nhà cũng mở ra đến chiều sâu thẳm. Chỉ tiếc là từ “dồn” (bước dồn) trong câu luận đã lặp lại từ “dồn” (trông dồn) trong câu thừa đề khiến cho bài thơ nghèo đi một chút. Dòng tình cảm ngầm chảy suốt qua các hình ảnh và nhạc điệu đến đây lộ ra tha thiết, nồng nàn:
“Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?”
Nữ sĩ dùng những từ phiếm chỉ như “kẻ”, “người”, “ai” vừa thuận với thi pháp “phi ngã” (không có cái tôi) thời bấy giờ mà cũng vừa hợp với tâm tình của thi nhân, tha thiết nhưng không ủy mị (người trí mài), nồng nàn nhưng vẫn e ấp. “Kẻ chốn Chương Đài” là tác giả dùng điển cố. Xưa có người gửi thư về cho vợ là Liễu Thị hỏi: “Cây liễu Chương Đài xanh xanh trước kia nay còn không?”. Và từ đó “Chương Đài” thành ước lệ quê nhà trong văn chương. “Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ” là kẻ ở quê nhà, người ở quán trọ (lữ thứ) xa xôi cách trở. Nữ sĩ dùng chữ “lữ thứ” thật bất ngờ. Bà đang dạy học cho các công chúa và cung phi trong cung vua, còn đâu hoa lệ và sang trọng hơn? Vậy mà nữ sĩ coi đấy cũng chẳng qua là quán trọ.
Tác giả dùng từ Hán Việt “lữ thứ” phần nào trung hòa được tinh thần ngạo mạn của bà. Cho nên trong sâu thẳm tình cảm nhớ nhà của bà là tình nhớ nước. Bà chẳng tha thiết, chẳng gắn bó gì với triều đại đương thời, nữ sĩ cảm thấy như bị lưu đày nơi đất khách quê người. Và câu hỏi tu từ “Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?” càng trào dâng lên nỗi nhớ nhà của kẻ “lữ thứ”. Bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà” được Bà Huyện Thanh Quan viết theo bút pháp tả cảnh gợi tình quen thuộc trong thơ cổ điển. Từng bình ảnh, từng âm thanh đều gợi đến tâm trạng nhớ nhà của nữ sĩ. Nỗi nhớ nhà của nữ sĩ thật là thâm trầm, sâu sắc, nhân bản.
Trong quan hệ xã hội, bà không được chia sẻ, sống với một triều đại mà bà chỉ hướng về ánh hào quang của quá khứ, “một mảnh tình riêng ta với ta” (Qua đèo Ngang) nên bà dồn tình cảm nhớ thương cho gia đình, cho những người thân yêu. Trước tình trạng lỏng lẻo của những môi quan hệ gia đình hiện nay thì một tiếng thơ (cũng là tiếng lòng) của Bà Huyện Thanh Quan cũng có giá trị tinh thần nhân bản, cao quý của gia đình.
Bài văn phân tích bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" - mẫu 5
Trong nền văn học Việt Nam trung đại, số nữ sĩ còn đứng lại với thời gian không phải là nhiều. Chúng ta thường nhắc đến 3 gương mặt tiêu biểu là Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương và Bà huyện Thanh Quan. Ba nữ sĩ này, mỗi người một vẻ, mỗi người có một đóng góp riêng cho thơ văn nước nhà.
Trong 3 nữ sĩ đó, Bà huyện Thanh Quan khiêm nhường đứng riêng một chiếu với chùm thơ khoảng 5 – 6 bài (có bài vẫn còn gây tranh cãi, bị xem là của nhà thơ khác) trong đó thường được nhắc đến hơn cả là bài thơ Chiều hôm nhớ nhà. Bài thơ Nôm Đường luật này diễn tả nỗi nhớ nhà của người nữ sĩ khi cô đơn thân gái dặm trường.
Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn
….
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?
Bài thơ đưa chúng ta vào một không – thời gian tưởng như cụ thể nhưng lại khá mơ hồ. Thời điểm “trời chiều” được cụ thể hoá trong sự “bảng lảng” của “bóng hoàng hôn” mang đến cho ta một buổi chiều như bao buổi chiều khác trong thơ ca xưa. Có nỗi nhớ của người con xa quê:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
(Ca dao)
Buồn trông cửa bề chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
(Truyện Kiều)
Câu phá đề gợi cho ta một cảm giác mệt mỏi và chậm rãi của thời gian ban chiều, một thời điểm mang tính ám ảnh văn hoá trong thơ xưa. Câu thơ bắt đầu bằng “trời chiều” và khép lại bằng “bóng hoàng hôn” như muốn hắt cả ánh vàng của nắng chiều lên con người và cảnh vật. Thời điểm chiều hôm là lúc con người trở về sum họp, quây quần cùng gia đình nhưng dường như nhân vật trữ tình trong bài thơ vẫn tạm nghỉ chân trên hành trình xa xôi và vắng vẻ. Ở không gian đó con người có thể nghe thấy “tiếng ốc xa đưa” và tiếng “vẳng trống đồn”. Những âm thanh này vốn không xa lạ nhưng khi đặt vào khung cảnh đất khách quê người thì lại gợi lên sự bâng khuâng, se buồn trong lòng người lữ khách.
Hai âm thanh đan quyện vào nhau như muốn báo hiệu sự vội vã của thời gian đang đổ dần về tối. Thời điểm “trời chiều” cùng sự báo hiệu của tiếng ốc và tiếng trống sẽ làm nền cho hai câu thực:
Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
Đến hai câu thơ này ta mới thấy hiện ra một cách rõ nét hơn những mã nghệ thuật của thơ ca nhà nho xưa (dù Nguyễn Thị Hinh có là một nữ sĩ nhưng khi sáng tác bà vẫn chịu ảnh hưởng của quan niệm văn học Nho gia). Xuân Diệu đã từng gọi bà là “Bà chúa hoàng hôn”. Đọc hai câu thực chúng ta sẽ cảm nhận rõ hơn lời khen ngợi của “nhà thơ mới nhất trong phong trào Thơ mới”. Vẫn là hình tượng quen thuộc của ngư ông và mục tử (trong bộ tứ “ngư – tiều – canh – mục”) trong thơ xưa, vẫn là động tác “gác mái”, “gõ sừng” ấy gắn liền với hai biểu tượng này. Nó nhắc ta nhớ tới những câu thơ như:
Ngư lão buông câu ngồi mép bến
Mục đồng té nước tắm đầu sông
hay:
Viễn tự chung thanh thôi khách bộ
Mục đồng xung địch dẫn ngưu qui
Nhà nho xưa quan niệm giống nhau về một cuộc sống thanh sạch gắn với nông thôn và thiên nhiên trong các nghề ngư – tiều – canh – mục. Đó là những hình ảnh đẹp mãi có sức cuốn hút đối với họ. Nó mang âm hưởng từ những vần thơ từ xa lắm, tận thời Đường ở bên Tàu với những:
Cô chu soa lạp ông
Độc điếu hàn giang tuyết
(Liễu Tông Nguyên)
hay:
Tá vấn tửu gia hà xứ hữu
Mục đồng dao chỉ Hạnh Hoa thôn
(Đỗ Mục)
Tuy nhiên giữa mảng lưới văn hoá đầy hình tượng, điển tích đó cái còn lại của Thanh Quan là gì? Đó có phải là cách dùng những từ Hán Việt “ngư ông”, “viễn phố”, “mục đồng”, “cô thôn” tạo cho bài thơ sự trang trọng và cổ kính đầy hấp dẫn? Điều này chỉ đúng một phần. Cái còn lại của dòng thơ, dấu ấn của Thanh Quan chính là ở hai tiếng “cô”, “viễn” tưởng như vô tình nhà thơ đặt theo niêm luật đăng đối ở tiếng thứ 6 của hai câu thực. Nhà thơ đâu có biết “ngư ông” và “mục tử” nghĩ gì và cũng đâu có biết họ đi về đâu. Với cái nhìn đầy màu sắc chủ quan, nhân vật trữ tình đã phổ cảm xúc của mình vào hai hình tượng đó. Con người lẻ loi trên hành trình thiên lý tự dưng lại cảm nhận về cảnh vật quanh mình như cảm nhận về thân phận của mình, thấy chúng cũng trở nên “cô”, “viễn” như thường. Chúng ta lại nhớ tới cảm xúc của người chinh phụ cô đơn ngồi trong đêm vắng tủi buồn với cả trăng – hoa vô tri, vô giác:
Hoa giãi nguyệt nguyệt in một tấm
Nguyệt lồng hoa hoa thắm từng bông
Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau.
Dấu ấn chủ quan của nhân vật trữ tình thoáng hiện ra rồi lại chìm khuất đi giữa mịt mù thiên nhiên:
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
Sự tương phản trong bức tranh thơ gợi lên một chút gì nhỏ nhoi mà yếu đuối của cánh chim và hình ảnh người khách giữa chiều tà. Vẫn là “ngàn mai” ấy, ngàn mai từng nở trắng trong thơ xưa (Tuyết mai trắng bãi, phù dung đỏ bờ – Chinh phụ ngâm) nhưng đặt cạnh hình ảnh “gió cuốn” đã gợi lên sự rộng lớn của không gian như muốn nuốt chìm cánh chim nhỏ nhoi vào trong đó, như cánh “chim hôm thoi thót về rừng” trong Truyện Kiều và xa hơn nữa là hình ảnh:
Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn
Trong thơ Lí Bạch xưa. Con người luôn thấy nhỏ bé trước thiên nhiên. Đứng trước thiên nhiên, người xưa muốn mình là một tiểu vũ trụ cố gắng hoà hợp (và cả hoà tan) vào trong đại khối, đại vũ trụ vô cùng đang bao bọc quanh mình. Người “khách” đang “bước dồn” qua “dặm liễu” kia liệu lòng có còn thôi ám ảnh về:
Tóc ai trao chửa bạc màu
Liễu ai bẻ tặng bên cầu còn tươi
(Nguyễn Bính)
Ở chốn quê nhà, nơi ly biệt, lưu luyến người thân mà “Tiễn đưa một chén quan hà, Xuân đình thoắt đã dạo ra Cao đình” (Truyện Kiều). Con người – nhân vật trữ tình (hay là một dạng phân thân của hình tượng này: “khách”) – như muốn giấu mình đi. Đó là đặc trưng phi ngã, vô ngã của thơ ca trung đại. Con người không xuất hiện trong vai trò cá nhân. Nó chỉ thể hiện mình trong các mối quan hệ cộng đồng, làng xóm, họ mạc, gia đình. Hay trở thành “Càn khôn nhất hủ nho” hoặc “Giang Hán tư quy khách” trong thơ Đỗ Phủ. Sự đơn chiếc, cô lẻ đã thấm sâu trong nó một nỗi buồn khôn tả. Nhịp “bước dồn” chỉ là vẻ bề ngoài che đi nỗi lòng nặng trĩu ưu tư của nhân vật trữ tình. Tình cảm được dồn nén và bật ra thành câu hỏi:
Kẻ chốn Chương Đài người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?
Thơ ca nhà nho xưa thường hướng tới các vấn đề thế sự, đạo lý, hay than thở về thế đạo nhân tâm, tránh nói đến tình cảm cá nhân riêng tư trong đời sống thường ngày. Tuy nhiên thơ ca nửa cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX mang trong nó sắc thái chủ tình rõ rệt, chủ trương bày tỏ những cảm xúc vốn bị đạo đức Nho giáo chế ngự bấy lâu nay. Có lẽ tiếng nói tiền khu mang tính tiên phong của Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm, Truyện Kiều, thơ Hồ Xuân Hương đã là tiền đề cho hai câu kết này. Qua điển tích “Chương Đài” cùng cặp đại từ nhân xưng “người – kẻ” chúng ta có thể thấy người mà nhân vật trữ tình hướng tới là nửa kia của mình.
Câu chuyện về bài thơ “Chương Đài liễu, Chương Đài liễu – Tích nhật thanh thanh kim tại phủ? – Túng sử trường điều tự cựu thuỳ – Giả ưng phan chiết tha nhân thủ” còn đó như minh chứng cho khao khát đoàn viên, sống trong hạnh phúc lứa đôi của người lữ thứ. Chính vì cảnh lữ thứ mà khát khao mong gặp người chia sẻ, “kể nỗi hàn ôn” càng da diết hơn. Nhu cầu sẻ chia đó vẫn thường trực trong mỗi con người tự ngàn xưa.
Bài thơ gói gọn trong thể Đường luật thất ngôn bát cú nhưng nó đã nói được tiếng lòng của người nữ sĩ. Cảm giác nhớ nhà của con người khi “Lòng còn gửi áng mây vàng” (Truyện Kiều) là điều dễ hiểu. Trong không gian tha hương thời trung đại, con người thấy lẻ loi, yếu đuối khi bị bứt ra khỏi không gian quê nhà quen thuộc nên chỉ ra khỏi nhà mười dặm đã có cảm giác “lữ thứ, hoàng hoa” là thế. Đó không chỉ là một mã nghệ thuật mà còn phản ánh một phần sự thực của tâm trạng con người.
Bài văn phân tích bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" - mẫu 6
Ai đã đọc “Truyện Kiều” hẳn không thể quên câu thơ của Nguyễn Du viết về cảnh hoàng hôn:
“Bài hát của cát và võ thuật trên bầu trời,
Hoàng hôn bây giờ lại là hoàng hôn.”
Cũng nói về hoàng hôn và nỗi buồn của người xa xứ, bài thơ Chiều nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan là một kiệt tác của thơ Nôm Việt Nam thế kỷ XIX:
“Chiều có bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa xa vọng tiếng đồn.
Gác mái, người đánh cá trở về thành phố,
Gõ tù và, người chăn cừu rời khỏi làng.
Buổi sáng gió thổi đàn chim đi,
Dặm liễu mù sương từng bước.
Câu thơ đầu tả cảnh hoàng hôn vào một buổi chiều xa. Hai chữ “panô” có giá trị tạo hình đặc biệt: ánh chiều tà mờ ảo, xa gần mơ hồ, tạo cho bức tranh một buổi chiều buồn:
“Chiều tà bóng hoàng hôn”.
Hai chữ “bàn ngoại” là nhãn – như con mắt của câu thơ. Nguyễn Du cũng đã từng viết: ‘Trời tây bóng vàng’ (Truyện Kiều). Chỉ qua một câu thơ, một câu thơ, một chữ người đọc cũng có thể cảm nhận được ngòi bút thơ vô cùng điêu luyện của Bà Huyện Thanh Quan. Với người đi xa, khoảnh khắc hoàng hôn sao mà buồn đến thế? Nỗi buồn ấy được nhân lên gấp bội khi tiếng ốc (còi và) và tiếng trống “đã xa”. Độ dài (tiếng ốc), độ cao (tiếng trống trên chòi cao) của không gian thể hiện qua những hợp âm ấy đã gieo vào lòng người lữ khách một nỗi buồn vương vấn, một nỗi niềm tê tái. Câu thơ vừa có ánh sáng (panô) vừa có âm thanh (tiếng ốc, tiếng trống) tạo nên cảnh hoàng hôn nơi xứ lạ với màu sắc dân dã:
“Chiều có bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc sên vang xa”.
Phần thực và phần luận, những chất liệu thơ làm nên cốt bài thơ đều được chọn lọc kĩ lưỡng, thể hiện một hồn thơ giàu cảm xúc. Người đánh cá, người chăn cừu, du khách… thế giới loài người được nói đến. Phong cảnh là ngàn buổi sớm, gió sương, “chim bay mỏi cánh”… Những thi liệu này mang tính chất ước lệ của thơ cổ (người có: cá, tiêu, phong cảnh, cỏ cây, hoa lá, … Có: phong, sương , mai, liễu, chim chiều…) nhưng với sự sáng tạo vô song: lựa chọn từ ngữ, tạo hình ảnh, câu đối, đối từ, đối âm, ở khía cạnh nào, nữ sĩ cũng thể hiện một hồn thơ tài hoa, một ngòi bút trang trọng. Vì thế, cảnh vật trở nên có hồn, gần gũi, thân quen đậm đà bản sắc dân tộc.
Buổi chiều người đánh cá cùng con thuyền nhẹ trôi theo dòng sông về bến xa (bến xa) với tâm trạng thư thái, thoải mái. Động từ “căn gác” diễn tả tâm trạng thanh thản của một người dân chài sống ở một vùng quê thanh bình, không bị vòng danh lợi trói buộc:
“Gác mái, người đánh cá về phố xa”.
Cùng lúc lũ trẻ đánh trâu về chuồng, về với “cô thôn nữ”. Động tác “gõ cửa” của chú mục đồng thể hiện sự hồn nhiên, vô tư, yêu đời:
“Gõ cửa, mục đồng bỏ làng”.
Đó là hai nét vẽ của con người tạo nên hai bức tranh tuyệt đẹp về một vùng đất hoang vu rất quen thuộc và đáng yêu. Hai bài tiếp theo mượn cảnh để tả người lữ khách lạnh lẽo, cô đơn, bơ vơ trên đường tha hương. Trời tối dần. Rau muống xào xạc trong “gió”: gió càng lúc càng mạnh. Con chim mệt mỏi vội bay về rừng tìm tổ. Sương mờ liễu dặm. Và trên con đường gió lạnh ấy, chỉ có một mình lữ khách, một mình “dạo chơi” tìm chốn dung thân. Hai hình ảnh “chim bay mỏi” và “khách bước lên” là hai nét tương phản, diễn tả sự mệt mỏi, cô đơn. Con người như bơ vơ, lạc lõng giữa “gió” và “sương”, sống trong giây phút buồn tủi đến rợn người. Bài thơ để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc. Nghệ thuật đảo ngữ làm nổi bật sự thênh thang của con đường xa xứ:
“Nghìn buổi sáng, gió cuốn đàn chim đi,
Hàng dặm liễu, sương bước vào.”
Với sự từng trải của cuộc đời, đã từng sống những phút hoàng hôn nơi đất khách quê người, nữ sĩ mới có thể viết nên những vần thơ diễn tả cảnh ngộ cô đơn của một người con xa xứ hồn hậu như vậy! Hai câu kết hội tụ, dồn nén niềm thương nhớ da diết. Nữ ca sĩ cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết. Câu thứ bảy gồm hai đoạn, lời ca cân đối đẹp: “Người ở Chương Đài // người đi chuyến thứ hai”. Chương Đài là câu chuyện kinh điển về chia ly, tình yêu rồi hợp tan của cặp đôi Hành Hoành và Liễu. Bà Huyện Thanh Quan đã vận dụng sáng tạo truyền thuyết đó.
“Chàng đại” và “lữ thu” trong văn cảnh gợi một trường liên tưởng về nỗi buồn chia ly của người khách phương xa. quê hương, nhớ quê hương da diết. Khép lại bài thơ là lời than thở bộc lộ tâm sự được thể hiện qua hình thức câu hỏi tu từ. “Ai” là đại từ tầm thường nhưng ai cũng biết đó là chồng, con, người thân của nữ ca sĩ. “Hàn ôn” nghĩa là nóng và lạnh; “Cầm tính” là lòng nổi. Người lữ khách trong buổi chiều tha hương ấy thấy mình lẻ loi nơi phương xa, lòng bùi ngùi khôn tả:
“Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?”
“Chiều Nhớ Nhà” là kiệt tác thơ thất ngôn bát cú của Đường Luật. Đó là tập thơ của Bà Huyện Thanh Quan sáng tác trong những ngày nữ sĩ trên đường vào kinh thành Huế nhận chức cung nữ trong triều Nguyễn. Đây có thể coi là những áng văn thơ rất độc đáo.
Thơ Bà Huyện Thanh Quan thấm đượm một nỗi buồn chia ly hay hoài niệm, thường nhắc đến hoàng hôn, ca từ trang nhã, dùng nhiều từ Hán Việt (panô, hoàng hôn, ngư phủ, phố xa…) trang nghiêm, cổ phong, du dương hấp dẫn giai điệu. “Chiều nhớ nhà” là một bông hoa nghệ thuật chan chứa tình thương, nỗi nhớ….
Hãy đăng nhập để bình luận
Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .