Top 9 Bài văn phân tích "Cầu hiền chiếu" (Ngữ văn 11 - SGK Kết nối tri thức) hay nhất

94

Mời các bạn tham khảo một số Bài văn phân tích "Cầu hiền chiếu" (Ngữ văn 11 - SGK Kết nối tri thức) hay nhất mà Alltop.vn đã tổng hợp trong bài viết dưới...xem thêm ...

Top 0
(có 0 lượt vote)

Bài văn phân tích "Cầu hiền chiếu" mẫu 1

“Chiếu cầu hiền” là bài chiếu mà vua Quang Trung- Nguyễn Huệ giao cho Ngô Thì Nhậm viết bài chiếu để chiêu mộ người có đức, có tài ra phục vụ triều đình giúp dân, giúp nước. Thay tâm nguyện của đức vua Ngô Thì Nhậm đã thể hiện cho muôn dân thấy được tấm lòng vì dân, vì nước của vua Quang Trung, cũng như sự hiểu biết và tầm nhìn xa trông rộng của đức vua.


Yêu cầu đối với một bài chiếu là rất cao, rất khắt khe, đòi hỏi người viết phải am hiểu sâu sắc hoàn cảnh lịch sử xã hội, nắm được những nhu cầu của đất nước lúc bấy giờ, phải dùng được những lời lẽ để thuyết phục được lòng dân, khiến muôn dân tâm phục khẩu phục. Ngô Thì Nhậm là một người tài giỏi có trình độ uyên tâm lỗi lạc, là người rất có tài thuyết phục lòng người. Qua tác phẩm “Chiếu cầu hiền” chúng ta đã thấy được tài năng xuất sắc của tác giả vì cách lập luận chặt chẽ lời lẽ rõ ràng, tao nhã.


Ngay từ những câu mở đầu của bài chiếu, với những lời lẽ sâu sắc, tác giả đã khiến lòng người phải nể phục.“Từng nghe người hiền ở trên đời cũng như sao sáng trên trời. Sao tất phải chầu về Bắc thần, người hiền tất phải do thiên tử sử dụng”.


Tác giả đã thay mặt nhà vua khẳng định với muôn dân rằng, người hiền tài là những tài sản quý giá của đất nước, giống như “sao sáng trên trời”, mà người tài tất phải ra giúp vua trị nước mới xứng đáng với “ý trời” đã sinh ra. Cách so sánh đầy sáng tạo của tác giả đã tăng thêm tính thuyết phục của bài chiếu. Hình ảnh “sao sáng trên trời” tượng trưng cho sự tinh anh, khiến nhà vua rất lấy làm trân trọng.


Sau khi đã chỉ ra tầm quan trọng của người tài đối với vua, đối với đất nước, tác giả lại đưa ra những khó khăn trong việc thu phục người tài ra giúp nước. Nếu không thu phục được hết người tài thì thật là phí hoài. Nếu trong cảnh chiến sự thì việc quốc sự còn nhiều nhưng nay đất nước đã thái bình, nhà vua cần có sự hợp sức của nhân tài để đất nước được phồn vinh, thịnh vượng hơn. Thế mà người hiền thì ở ẩn hoặc cố giữ lấy khí tiết của mình mà không để ý đến việc quốc gia đại sự. Hoặc có những người cũng ra giúp vua nhưng không tận tâm trong công việc. Tác giả viết cũng có người giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết”. Đây là cách phê phán nhẹ nhàng và tế nhị nhưng ẩn ở phía sau là những hàm ý rất thâm thúy.


Nhân tài là báu vật mà ông trời đã ban cho đất nước, vì vậy việc tập hợp người hiền tài giúp nước là công việc rất quan trọng hơn lúc nào hết, nhà vua luôn sớm hôm mong mỏi. Vua Quang Trung là vị vua anh minh của dân tộc, sau khi đã dẹp tan giặc, ông rất quan tâm đến đời sống của nhân dân. “Dân khổ chưa hồi sức, đức hóa chưa thấm nhuần, trẫm chăm chăm run sợ, mỗi ngày muôn việc lo toan. Nghĩ rằng: sức một ngày không chống nổi tòa nhà to, mưu lược của kẻ thù sẽ không đựng được thái bình”. Đoạn văn chứa đựng tấm lòng nhà vua vì sự bình an dân chúng và sự phồn vinh nước nhà. Những lời văn chan chứa tâm huyết của nhà vua Quang Trung cho thấy vua không lúc nào không nghĩ tới cuộc sống của nhân dân và lo toan cho quốc gia đại sự. Tấm lòng đó quả là rộng lớn và quý báu của một vị vua một lòng vì dân vì nước, dâng hiến cả cuộc đời cho dân tộc. Có một vị vua và lý tưởng cao đẹp như thế đất nước sẽ luôn được thái bình, dân chúng sẽ luôn được hưởng ấm no hạnh phúc.


Qua đó ta thấy được tình yêu nước, thương dân nồng nàn của một đức minh quân tài ba. Vua Quang Trung là một trong những vị vua đầu tiên luôn đề cao tính dân chủ trong việc tuyển dụng nhân tài giúp nước, cách nhìn xa trông rộng đó chứng tỏ nhà vua là người am hiểu quy luật phát triển của lịch sử, để thấy được tương lai sau này của đất nước. Vì trong sâu thẳm tấm lòng nhà vua luôn nung nấu một khát vọng làm sao cho dân ấm no, hạnh phúc, đất nước giàu mạnh. Đó cũng là mơ ước của nhà vua nhằm canh tân đất nước.


Bài “Chiếu cầu hiền” thể hiện cái tâm, cái tài của vua Quang Trung và cũng là cái tài, cái tâm của Ngô Thì Nhậm. Với tài năng của mình Ngô Thì Nhậm đã truyền tải hết được tấm lòng đối với dân với nước của vua Quang Trung, khiến cho muôn dân phải thán phục. Với tài năng và đức độ của vị vua anh minh này dân tộc ta đã có một thời gian được ấm no, hạnh phúc, đó là thời kì thịnh vượng của nước nhà.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 1
(có 0 lượt vote)

Bài văn phân tích "Cầu hiền chiếu" mẫu 2

Có thể nói rằng trong kho tàng văn học nước ta thì không chỉ có những bài thơ ngôn từ hay và mượt mà, hay là những áng văn xuôi đậm chất trữ tình. Mà còn có những thể loại riêng nhưng lại có thể góp phần đa dạng và phong phú cho nền văn học chung của nước ta. “Chiếu cầu hiền” của vua Quang Trung được xem là một tác phẩm đặc sắc nó là một bản chiếu vua ban và có sức mạnh to lớn của một quốc gia dân tộc.


“Chiếu cầu hiền” đã được viết khi mà vua Lê Chiêu Thống đã “mời” quân Thanh vào xâm lược nước ta. Lúc bấy giờ Nguyễn Huệ đã lên ngôi vua và đã lấy hiệu là Quang Trung. Quang Trung đã đem quân ra Bắc để quét sạch hết 20 vạn quân Thanh và cả bọn tay sai và bè lũ bán nước. Khi đã thua trận Lê Chiêu Thống cùng như đã cùng bọn quân Thanh đi theo Tôn Sĩ Nghị. Và lúc này thì triều Lê sụp đổ, thay thế vào đó là triều Nguyễn được vua Quang Trung lập lên. Có thể thấy rằng trước sự kiện trên đã có một quan thần trong triều Lê khả năng là do theo trung quân ái quốc lỗi thời với thời Lê. Và dường như hai là có thể do sợ hãi triều đại mới nên dường như tất cả đều trốn tránh ẩn nấp và cũng đã không ra phò tá giúp đỡ vua Quang Trung phát triển đất nước. Và khi đã đoán biết tình hình đất nước nhà như vậy Quang Trung cũng như đã liền phái Ngô Thì Nhậm để có thể thay mình viết chiếu cầu hiền dùng làm để kêu gọi những người tài giỏi ra cứu dân, giúp nước.


Qua hành động này ta như thấy được vua Quang Trung rất đỗi khôn ngoan khi đã nghĩ ra kế sách này. Đồng thời cũng đã thể hiện được việc nhà vua rất trọng người hiền tài trong thiên hạ. Ngô Thì Nhậm được thay vua Quang Trung viết “Chiếu cầu hiền” vì ông là người tài giỏi cũng là bậc bề tôi trung thành với vua. Thể “chiếu” được xem là văn thu mà vua chúa ban bố một mệnh lệnh cho dân chúng. Thật dễ thấy được vua Quang Trung đã đưa ra việc tìm người hiền tài chứ không phải ban bố những mệnh lệnh điều này cũng như đã thấy được vai trò to lớn và cấp thiết nhất là phải tìm được người hiền tài ra giúp dân giúp nước.


Trong bài chiếu có thể thấy được đầu tiên mà tác giả nói đến chính là vai trò cũng như là sức mạnh của hiền tài cho quốc gia. Chẳng thế mà dường như ta thấy ngay tên bài chiếu nọ đã nói lên được tất cả những vai trò to lớn của các bậc hiền tài. Và có thể nói rằng đó chính là nhan đề mà ta đã thấy được Thân Nhân Trung trước cũng đã viết đó là “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Và có thể chính vì thế tác giả cũng như đã nêu cao vai trò của người hiền tài trong cả sự nghiệp để có thể phát triển đất nước. Tác giả dường như cũng đã so sánh hiền tài như một “ sao sáng trên trời cao”. So sánh như vậy để thấy được tầm vóc của những hiền tài giống như những gì vĩnh hằng và quan trọng, rực rỡ của thiên nhiên. Đây chính là một sự tôn vinh như được khen ngợi đối với những bậc hiền tài. Mà ta như thấy được rằng dường như ở những bậc hiền tài ấy cũng như sẽ phải theo Bắc thần đó là một quy luật hiển nhiên. Người tài được biết đến là do trời sinh ra và dường như ở người tài ấy phải có phận là biết sử dụng tài năng của mình cống hiến cho đất nước. Và đây cũng là cách mà tác giả Ngô Thì Nhậm như cũng đã muốn cho sĩ phu hiền tài thấy được vua Quang Trung như thật đã biết trọng người tài và rất mực cầu hiền để cùng vua giúp nước. Từ đó như cũng đã góp phần như có thể xóa đi những nghi ngờ những nỗi sợ hãi của những bậc hiền tài. Và ta như thấy được nó rất hợp lý khi đã tạo ra chính tính chính danh và đây là một tính rất quan trọng cho chiếu cầu hiền.


Có thể thấy khi đến đoạn văn tiếp theo dường như cũng đã nói về nguyện vọng của nhà vua khi mà ông đã mong muốn những hiền tài của quốc gia ra mặt góp sức góp tài cho công cuộc xây dựng đất nước. Tác giả dường như đã đi sâu vào phân tích tình hình khó khăn của đất nước và cả chính tình hình ấy phải cần đến sự giúp đỡ của hiền tài quốc gia. Có lẽ ta như thấy được cách trình bày thẳng thắn cho thấy được ra những sự trung thực thật thà cũng như là một sự quang minh chính địa của vua Quang Trung. Cũng như thông qua đó ta thấy được sự chân thành và đó còn chính là tình cảm của nhà vua dành cho những hiền tài. Đồng thời đó còn là tâm trạng lo lắng của vua Quang Trung ở đây được ví như “trời còn tăm tối”hay là “đương ở buổi đầu của nền đại định” và cả “công việc vừa mới mở ra” đó như cũng chính là những khó khăn bức thiết của triều đại nhà Nguyễn, hơn hết đó là đất nước như cũng đang rơi vào tình thế khó khăn. Ta cũng như đã thấy được chính hình ảnh đất nước được hiện ra qua những câu văn của Ngô Thì Nhậm hiện lên thật rõ nét.


Đó chính là một đất nước mà dường như ở đời đầu mới ở buổi rất khó khăn, hơn nữa là tương lai còn chưa sáng rõ. Ở buổi đầu khó khăn như vậy thì việc thiếu nhân tài thì làm sao có thể sáng được cơ chứ, và cũng chính vì thế mà vua khẩn thiết cầu hay mời hiền tài về để có thể được phụng sự giúp đỡ vua xây dựng đất nước thái bình thịnh trị. Trong buổi đầu đó thì dường như cả “kỉ cương còn nhiều khiếm khuyết, hay ngay cả việc biên ải chưa chưa yên, và nhân dân còn nhọc mệt, đức hóa của chúng chưa nhuần thấm” cùng với đó chính là “một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn”. Khi nhìn vào thực tế thì “mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình”. Và cũng chính vì thế mà ta như thấy được vua Quang Trung như thật sáng suốt biết bao khi đã biết được tầm quan trọng của người hiền tài.


Cho đến cuối cùng thì bài chiếu như đã nêu ra đó là chính sách cầu tài của vua Quang Trung. Dường như ở phần này tác giả chỉ ra những điểm nổi bật trong những đường lối chính sách của vua mà thôi. Và chúng ta có thể đánh giá đó là những chính sách công bằng cho tất cả mọi người, và cho thấy được vua Quang Trung là một vị vua anh minh, thương yêu nhân dân


Thêm vào đó nữa chính là cách tiến cử hết sức rộng mở đó chính là việc tự mình dâng sớ tâu bày tất cả các sự việc, do các quan văn quan võ tiến cử, cho phép đang sớ tự tiến cử. Thông qua bài chiếu ta thấy được tài năng biết trọng người tài, luôn lắng nghe ý kiến của quần chúng. Và đây quả thực là một tác phẩm vừa mang ý nghĩa chính trị vừa lại là một tác phẩm văn học có giá trị.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 2
(có 0 lượt vote)

Bài văn phân tích "Cầu hiền chiếu" mẫu 3

Ngô Thì Nhậm (1746 - 1803), hiệu là Hi Doãn, quê ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (cũ), nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội. Ông đỗ tiến sĩ năm 1775, từng làm quan dưới triều Lê - Trịnh; sau đi theo Tây Sơn và có nhiều đóng góp nên được Quang Trung trọng dụng. Tác Phẩm Chiếu Cầu Hiền được viết theo yêu cầu của Vua Quang Trung, nhằm cổ vũ động viên tinh thần cho các chiến sĩ cũng như kêu gọi người tài giúp dân cứu nước.


Khi đọc tác phẩm chắc ai cũng biết là một người bình thường không thể nào có những lời văn hay, rõ ràng và có sức thuyết phục như vậy, chứng tỏ Quang Trung là một vị vua tài nhìn xa trông rộng của nhà vua anh minh Quang Trung và tình yêu nước nồng nàn của một vị vua kiệt xuất. Quang Trung xứng đáng đi vào lịch sử như một nhân vật tài ba nhất trong lịch sử trung đại nước nhà.


Mở đầu bài Chiếu tác giả đã đưa được giả thuyết của bậc hiền tài rất đơn giản mà lại có sức thuyết phục cao. Từng nghe nói rằng: Người hiền xuất hiện ở đời, thì như ngôi sao sáng trên trời cao. Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần, người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử. Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy.


Ở đây ý tác giả muốn khẳng định người hiền tài là một người có đức lẫn tài, được so sánh ví như ngôi sao sáng trên trời. Và các nhân tài đó sinh ra để giúp vua cứu nước. Cách dùng hình ảnh để nói lên một cách đơn giản mà dễ hiểu là: Hiền tài là tinh hoa của trời đất nên lẽ đương nhiên là tài đức của họ phải được cống hiến cho dân, cho nước.


Tiếp theo tác giả lại đưa ra những chi tiết về việc phân chia Nước làm hai Đàng là Đàng trong và Đàng ngoài thì đất nước trở nên khó khăn trong việc quản lý cũng như là sự đảm bảo hòa bình cho đất nước. Ngô Thì Nhậm đã dùng nhiều điển tích rút từ các sách kinh điển Nho gia, dùng lời dạy của Khổng Tử để đặt vấn đề và đưa ra cách ứng xử có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với trí thức Bắc Hà. Cách diễn đạt đó đã tạo ra ấn tượng sâu sắc, đánh trúng vào tâm lí của tầng lớp trí thức, cho nên có sức thuyết phục lớn, khiến họ không thể không mang tài đức ra giúp triều đình Tây Sơn.


Tác giả còn đưa ra nhiều dẫn chứng khác để nói lên sự nhút nhát của các nhân tài, cũng như việc lẩn tránh trách nhiệm với đất nước như: Trước đây thời thế suy vi, Trung châu gặp nhiều biến cố, kẻ sĩ phải ở ẩn trong ngòi khe, trốn tránh việc đời, những bậc tinh anh trong triều đường phải kiêng dè không dám lên tiếng. Cũng có kẻ gõ mõ canh cửa, cũng có kẻ ra biển vào sông, chết đuối trên cạn mà không biết, dường như muốn lẩn tránh suốt đời.


Tiếp theo đó là những lời của Khổng Tử và nêu lên quy luật của đất trời là những người tài đức phải giúp vua dựng nước, tác giả nói đến tình cảnh của kẻ sĩ lúc bấy giờ: mệt số người tài đức thì đi ở ẩn trong khe núi, trốn tránh việc đời, bỏ phí tài năng. Những người ra làm quan với triều Tây Sơn thì hoặc sợ hãi im lặng, hoặc làm việc cầm chừng. Một số khác ở ẩn, khác chi như người bị chết đuối trên cạn. Thậm chí một số người tự tử để giữ lòng trung với vua Lê. Đây là cách phê phán nhẹ nhàng và tế nhị nhưng ẩn ở phía sau là những hàm ý rất thâm thúy. Việc tập hợp người hiền tài giúp nước là công việc gấp gáp và quan trọng hơn lúc nào hết. Đây là những Lời nói khiêm nhường, chân thành và lập luận có lí có tình cùng chính sách sử dụng hiền tài rộng rãi của nhà vua khiến các bậc hiền tài không thể không đem tài đức ra giúp triều đại mới.


Tác giả không nói thẳng mà dùng hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng lấy trong kinh điển Nho gia. Làm như vậy vừa tế nhị, vừa có tính chất phê phán nhẹ nhàng, lại tỏ ra người viết có kiến thức sâu rộng, có tài văn chương, khiến người nghe nể trọng, không những không tự ái mà còn tự cười, tự trách về thái độ ứng xử chưa thỏa đáng của mình.


Vua Quang Trung không chỉ làm phận sự của một vị tướng tài là dẹp giặc, trừ bạo mà còn lo toan đến đời sống của người dân. Trong thực tế lịch sử sau khi đất nước đã hòa bình, yên ổn thì "dân khổ chưa hồi sức" nên đặt ra nhiều vấn đề lớn để ổn định và phát triển triều đại. "Dân khổ chưa hồi sức, đức hóa chưa thấm nhuần, trẫm chăm chăm run sợ, mỗi ngày muôn việc lo toan. Nghĩ rằng: sức một ngày không chổng nổi tòa nhà to, mưu lược của kẻ thù sẽ không dựng được thái bình". Đoạn văn chứa đựng tấm lòng nhà vua vì sự bình an dân chúng và sự phồn vinh nước nhà. Những lời văn chan chứa tâm huyết của vua Quang Trung cho thấy vua không lúc nào không nghĩ đến cuộc sống của người dân và lo toan cho quốc gia đại sự. Tấm lòng đó quả là rộng lớn và quý báu của một vị vua suốt đời dâng hiến cho dân tộc. Có một nhà vua với những lí tưởng cao đẹp như thế đất nước sẽ luôn được thái bình, dân chúng sẽ luôn được hưởng ấm no hạnh phúc.


Tác phẩm Chiếu cầu hiền là một bài văn nghị luận có tính mẫu mực, thể hiện ở sự chặt chẽ và tính logic của các luận điểm, ở tài thuyết phục khéo léo và thái độ khiêm tốn, chân thành của người viết. Các điển cố được sử dụng trong bài Chiếu cho thấy nhận thức tinh tế của người viết về đối tượng cần thuyết phục là tầng lớp trí thức. Người viết tỏ ra có trình độ hiểu biết sâu rộng, đủ khả năng thuyết phục một đối tượng như thế. Bài Chiếu cầu hiền thể hiện tầm nhìn chiến lược của vua Quang Trung trong việc nhận thức về vai trò quan trọng của hiền tài đối với đất nước. Hiền tài là nguyên khí quốc gia.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 3
(có 0 lượt vote)

Bài văn phân tích "Cầu hiền chiếu" mẫu 4

Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm được ra đời sau khi Nguyễn Huệ lên ngôi, ông đã giao cho Ngô Thì Nhậm viết bài chiếu để chiêu mộ người có đức có tài ra phục vụ triều đình, giúp dân giúp nước. Thay tâm nguyện của nhà vua, Ngô Thì Nhậm đã thể hiện cho muôn dân thấy được tấm lòng vì dân vì nước của vua Quang Trung, cũng như sự hiểu biết, tầm nhìn xa trông rộng của vua Quang Trung.


Yêu cầu của một bài chiếu là rất cao, rất khắt khe, người viết phải am hiểu sâu sắc hoàn cảnh lịch sử xã hội, nắm được những đòi hỏi của đất nước lúc bấy giờ, dùng những lời lẽ để thuyết phục được lòng dân, khiến muôn dân tâm phục khẩu phục. Ngô Thì Nhậm là một người tài giỏi, có trình độ uyên thâm lỗi lạc, là người có tài thuyết phục lòng người. Tác phẩm Chiếu cầu hiền đã thể hiện một tài năng xuất sắc của tác giả vì cách lập luận chặt chẽ, lời lẽ rõ ràng, tao nhã.


Ngay từ những câu mở đầu của bài chiếu, với những lời lẽ sâu sắc, tác giả đã khiến lòng người phải nể phục."Từng nghe: Người hiền ở trên đời cũng như sao sáng trên trời. Sao tất phải chầu về Bắc thần (ý này của Khổng Tử trong sách Luận ngữ), người hiền tất phải do thiên tử sử dụng". Tác giả đã thay mặt nhà vua mà khẳng định với muôn dân rằng, người hiền tài là những tài sản quí giá của đất nước, giống "như sao sáng trên trời", mà người tài tất phải ra giúp vua trị nước mới xứng với "ý trời" đã sinh ra. Cách so sánh đầy sáng tạo của tác giả đã làm tăng thêm ý nghĩa thuyết phục của bài Chiếu. Hình ảnh "sao sáng trên trời" tượng trưng cho sự tinh anh, khiến nhà vua rất lấy làm trân trọng.


Sau khi đã chỉ ra tầm quan trọng của người tài đối với vua, đối với dân với nước, tác giả lại đưa ra những khó khăn trong việc thu phục người tài ra giúp nước. Nếu không thu phục được hết người tài thì thật là phì hoài. "Trước đây, thời gấp vận dụng, trung châu lắm việc, người hiền ở ẩn, cố giữ tiết tháo như da bò bền, người ở triều đường không dám nói năng như hàng trượng mã. Cũng có người đánh mõ giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết, chỉ lo trốn tránh, hầu đến trọn đời". Nhà vua có ý muốn trách những người tài của đất nước. Nếu trong cảnh chiến sự thì việc quốc sự còn nhiều nhưng nay đất nước đã thái bình, nhà vua cần có sự hợp sức của nhân tài để quốc gia được phồn vinh, thịnh vượng hơn. Thế mà người hiền thì ở ẩn hoặc cố ý giữ lấy khí tiết của mình mà không để ý đến việc quốc gia đại sự. Hoặc có những người cũng ra giúp vua nhưng không tận tâm trong công việc. Tác giả viết: "Cũng có người giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết". Đây là cách phê phán nhẹ nhàng và tế nhị nhưng ẩn ở phía sau là những hàm ý rất thâm thúy.


Nhân tài là vật báu mà ông trời đã ban cho đất nước đó, vì vậy việc tập hợp người hiền tài giúp nước là công việc gấp gáp và quan trọng hơn lúc nào hết, nhà vua luôn "sớm hôm mong mỏi". Vua Quang Trung là một trong những vị vua anh minh của dân tộc, sau khi đã dẹp xong giặc, ông rất quan tâm đến đời sống của nhân dân. Trong thực tế lịch sử sau khi đất nước đã hòa bình, yên ổn thì "dân khổ chưa hồi sức" nên đặt ra nhiều vấn đề lớn để ổn định và phát triển triều đại. "Dân khổ chưa hồi sức, đức hóa chưa thấm nhuần, trẫm chăm chăm run sợ, mỗi ngày muôn việc lo toan. Nghĩ rằng: sức một ngày không chổng nổi tòa nhà to, mưu lược của kẻ thù sẽ không dựng được thái bình". Đoạn văn chứa đựng tấm lòng nhà vua vì sự bình an dân chúng và sự phồn vinh nước nhà. Những lời văn chan chứa tâm huyết của vua Quang Trung cho thấy vua không lúc nào không nghĩ đến cuộc sống của người dân và lo toan cho quốc gia đại sự. Tấm lòng đó quả là rộng lớn và quý báu của một vị vua suốt đời dâng hiến cho dân tộc. Có một nhà vua với những lí tưởng cao đẹp như thế đất nước sẽ luôn được thái bình, dân chúng sẽ luôn được hưởng ấm no hạnh phúc.


Toàn bộ bài Chiếu thể hiện rõ tình yêu nước thương dân nồng nàn của một nhà lãnh đạo tài ba. Để hợp sức dân lại xây dựng cơ nghiệp đất nước, nhà vua không loại trừ một tầng lớp xã hội nào, miễn là công dân trong nước có tài và đức đủ để gánh vác chuyện quốc gia đều được lựa chọn vào trong triều giúp vua gây dựng đất nước. "Vậy ban chiếu xuống, quan việc lớn nhỏ và dân chúng trăm họ ai có tài năng học thuật, mưu hay giúp ích cho đời, đều cho phép được dâng thư bày tỏ công việc".


Vua Quang Trung là một trong những vị vua đầu tiên luôn đề cao tối đa tính dân chủ trong việc tuyển dụng nhân tài giúp nước Cách nhìn xa trông rộng đó chứng tỏ nhà vua là người am hiểu quy luật phát triển của lịch sử, đã thấy được tương lai sau này của đất nước. Sự tiên tri đó nói lên tài phán đoán, tiên tri của một vị vua anh minh đối với quốc gia, dân tộc, bởi vì trong sâu thẳm tấm lòng nhà vua luôn nung nấu một khát vọng làm sao cho dân no ấm, hạnh phúc, đất nước giàu mạnh. Đó cũng chính là mơ ước của người dân nhằm canh tân nước nhà.


Bài Chiếu cầu hiền thể hiện cái tài, cái tâm của vua Quang Trung và cũng là cái tài, cái tâm của Ngô Thì Nhậm. Với tài năng xuất chúng của mình, Ngô Thì Nhậm đã truyền tải hết được tấm lòng đối với dân với nước của vua Quang Trung, khiến muôn dân thán phục. Với tài năng và đức độ của vị vua anh minh này, dân tộc ta đã có một thời kì được ấm no, hạnh phúc, đó là thời kì thịnh vượng của nước nhà.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 4
(có 0 lượt vote)

Bài văn phân tích "Cầu hiền chiếu" mẫu 5

Sau khi dẹp xong giặc và loạn lạc ở miền Bắc, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế và giao cho Ngô Thì Nhậm soạn Chiếu Cầu Hiền nhằm thu phục người tài ra giúp dân giúp nước. Bài chiều thể hiện tấm lòng vì dân vì nước của vua Quang Trung, đặc biệt cho thấy tầm nhìn xa trông rộng của một nhà lãnh đạo kiệt xuất.


Để viết được những tác phẩm chiếu, yêu cầu người viết phải am hiểu sâu sắc hoàn cảnh lịch sử xã hội, nắm được những đòi hỏi của đất nước lúc bấy giờ để qua đó tập hợp lại sức lực vì vận mệnh quốc gia. Đối với Ngô Thì Nhậm, ngoài những yêu cầu trên ông còn là một người sắc sảo trong nghệ thuật thuyết phục. Có thể nói bài Chiếu cầu hiền đã thể hiện một tài năng xuất sắc của tác giả vì cách lập luận chặt chẽ, lời lẽ rõ ràng, tao nhã.


Mở đầu tác phẩm, tác giả đã dẫn lời của Khổng Tử nhằm tạo dấu ấn mạnh đối với các nho sĩ: "Từng nghe: Người hiền ở trên đời cũng như sao sáng trên trời. Sao tất phải chầu về Bắc thần (ý này của Khổng Tử trong sách Luận ngữ), người hiền tất phải do thiên tử sử dụng". Đoạn mở đầu muốn khẳng định người hiền tài là những tài sản quí giá của đất nước, giống "như sao sáng trên trời", mà người tài tất phải ra giúp vua trị nước mới xứng với "ý trời" đã sinh ra. Cách so sánh đầy sáng tạo của tác giả đã làm tăng thêm ý nghĩa thuyết phục của bài Chiều. Hình ảnh "sao sáng trên trời" tượng trưng cho sự tinh anh, khiến nhà vua rất lấy làm trân trọng.


Sang đoạn tiếp theo, tác giả lại đưa ra những khó khăn trong việc thu phục người tài ra giúp nước. Điều đó làm trăn trở nhà vua vì phí hoài nhân tài một cách vô ích đó. "Trước đây, thời gấp vận dụng, trung châu lắm việc, người hiền ở ẩn, cố giữ tiết tháo như da bò bền, người ở triều đường không dám nói năng như hàng trượng mã. Cũng có người đánh mõ giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết, chỉ lo trốn tránh, hầu đến trọn đời". Nhà vua có ý muốn trách những người tài của đất nước. Nếu trong cảnh chiến sự thì việc quốc sự còn nhiều nhưng nay đất nước đã thái bình, nhà vua cần có sự hợp sức của nhân tài để quốc gia được phồn vinh, thịnh vượng hơn. Thế mà người hiền thì ở ẩn hoặc cố ý giữ lấy khí tiết của mình mà không để ý đến việc quốc gia đại sự. Hoặc có những người cũng ra giúp vua nhưng không tận tâm trong công việc. Tác giả viết: "Cũng có người giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết". Đây là cách phê phán nhẹ nhàng và tế nhị nhưng ẩn ở phía sau là những hàm ý rất thâm thúy.


Việc tập hợp người hiền tài giúp nước là công việc gấp gáp và quan trọng hơn lúc nào hết. Vì vậy, nhà vua luôn "sớm hôm mong mỏi". Vua Quang Trung không chỉ làm phận sự của một vị tướng tài là dẹp giặc, trừ bạo mà còn lo toan đến đời sống của người dân. Trong thực tế lịch sử sau khi đất nước đã hòa bình, yên ổn thì "dân khổ chưa hồi sức" nên đặt ra nhiều vấn đề lớn để ổn định và phát triển triều đại. "Dân khổ chưa hồi sức, đức hóa chưa thấm nhuần, trẫm chăm chăm run sợ, mỗi ngày muôn việc lo toan. Nghĩ rằng: sức một ngày không chổng nổi tòa nhà to, mưu lược của kẻ thù sẽ không dựng được thái bình". Đoạn văn chứa đựng tấm lòng nhà vua vì sự bình an dân chúng và sự phồn vinh nước nhà. Những lời văn chan chứa tâm huyết của vua Quang Trung cho thấy vua không lúc nào không nghĩ đến cuộc sống của người dân và lo toan cho quốc gia đại sự. Tấm lòng đó quả là rộng lớn và quý báu của một vị vua suốt đời dâng hiến cho dân tộc. Có một nhà vua với những lí tưởng cao đẹp như thế đất nước sẽ luôn được thái bình, dân chúng sẽ luôn được hưởng ấm no hạnh phúc.


Đoạn thứ ba của bài chiếu cho thấy tầm nhìn xa trông rộng của vua Quang Trung là xuất chúng, thể hiện rõ tình yêu nước thương dân nồng nàn của một nhà lãnh đạo tài ba. Để hợp sức dân lại xây dựng cơ nghiệp đất nước, nhà vua không loại trừ một tầng lớp xã hội nào, miễn là công dân trong nước có tài và đức đủ để gánh vác chuyện quốc gia đều được lựa chọn vào trong triều giúp vua gây dựng đất nước. "Vậy ban chiếu xuống, quan việc lớn nhỏ và dân chúng trăm họ ai có tài năng học thuật, mưu hay giúp ích cho đời, đều cho phép được dâng thư bày tỏ công việc".

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 5
(có 0 lượt vote)

Bài văn phân tích "Cầu hiền chiếu" mẫu 6

Ngô Thì Nhậm sinh năm 1746, là người Thanh Trì, Hà Nội. Sinh thời, ông từng làm Đông đốc trấn Kinh Bắc dưới thời chúa Trịnh, sau khi nhà nhà Lê- Trịnh bị suy vong, ông tiếp tục ra làm quan và có nhiều công lao lớn với triều đại Tây Sơn. Được Nguyễn Huệ giao phó nhiều trọng trách lớn. Những văn kiện có tính quan trọng đều do một tay Ngô Thì Nhậm soạn thảo, một trong số đó có thể nhắc đến "Chiếu cầu hiền".


Chiếu cầu hiền được Ngô Thì Nhậm viết vào khoảng năm 1788-1789, theo lệnh của Vua Quang Trung, mục đích của nó là nhằm kêu gọi những người hiền tài ra cộng sự, giúp vua xây dựng triều đại, đặc biệt là các tầng lớp trí thức sĩ phu Bắc Hà.


Mở đầu bài chiếu, tác giả khẳng định vai trò và sứ mệnh của những người hiền tài với quốc gia, dân tộc. Ngô thì Nhậm ví hiền tài như "ngôi sao sáng trên trời cao, mà sao sáng thì ắt chầu về Bắc thần", cũng như những người tài phải phò trợ cho thiên tử mình. Những người hiền mà không được đời dùng, dấu đi tài năng cũng như sao bị che đi vẻ lấp lánh, không như ý trời đã định.


Tiếp theo, tác giả nhấn mạnh về những bậc hiền sĩ ở ẩn khi thời thế suy vi, đất nước nhiều biến cố. Có người ra làm quan thì cũng không dám lên tiếng, sợ hãi, họ như những kẻ "gõ mõ canh cửa", "chết đuối trên cạn" để mà lẩn tránh việc đời. Tác giả đã đề cập đến vấn đề ấy một cách đầy tinh tế, sử dụng các thành ngữ, từ ngữ có tính tượng trưng để nói mà không xâm phạm đến những người tri thức coi trọng lòng tự tôn. Những lời viết ra khiến cho người nghe, người đọc không khỏi không suy ngẫm, để người hiền tự nhìn lại bản thân, tác giả tin rằng với những người sáng suốt, họ sẽ hiểu những điều mà con chữ phản ánh.


Những lời cầu hiền thiết tha, chân thành lại vừa khiêm tốn, thể hiện được tấm lòng của một vị vua anh minh được tác giả viết đầy xúc động: "Này trẫm đang ghé chiếu lắng nghệ, ngày đêm mong mỏi......Hay đang thời đổ nát chưa thể phụng sự chăng?".


Để thuyết phục những tri thức xưa, Ngô Thì Nhậm nêu lên thực trạng đất nước lúc bấy giờ còn nhiều điều đáng lo ngại. Triều đại lúc này đang buổi đầu chập chững, luật pháp, kỷ cương còn mắc nhiều khiếm khuyết, chốn biên ải còn trăm điều lo toan, trăn trở, một mình vừa sao có thể vẹn tròn nếu không được sự giúp sức, phò trợ từ những vị đức độ, tài năng. Ngặt nỗi, nhân dân còn chưa lấy lại sức, vua cũng vừa mới lên ngôi lòng dân khắp nơi chưa thấu rõ bởi vậy mà ngày đêm lo lắng, những khó khăn cứ chồng chất ngày một thêm. Mọi người đều hiểu được rằng: "Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình". Mà trong trời đất, bốn phương nơi đâu chắc hẳn cũng có người tài, dù nước lúc hưng, lúc suy những nhân tài thì đâu thể thiếu "...trên dải đất văn hiến rộng lớn như thế này há lại không có một người tài danh nào ra phò giúp cho chính quyền buổi bẩn đầu như trầm hay sao?".


Sau những lý lẽ thấu tình đạt lý ấy, tác giả công tuyên thỉnh nhiều chính sách khác nhau nhưng quy chung một mục đích chiêu mộ kẻ sĩ trong thiên hạ. Mọi người dân không phân biệt nam nữ, thành phần hay tầng lớp nào, nếu có tài năng, học thức đều được quyền ứng cử, một tình thần dân chủ được triển khai rõ rệt trong nhân dân, ai cũng có quyền bình đẳng góp sức mình cho đất nước "Vậy ban chiếu xuống, quan việc lớn nhỏ và dân chúng trăm họ ai có tài năng học thuật, mưu hay giúp ích cho đời, đều cho phép được dâng thư bày tỏ công việc". Những người có nghề giỏi, nghiệp hay, những người có tài năng mà lâu nay bị giấu kín cũng tự tiến cử giúp đời. Tất cả hãy vì nước mà gắng sức mà tụ họp về để cùng nhau mưu lược, kế sách phát triển quốc gia, nước nhà. " Này trời trong sáng, đất thái bình, chính là lúc người hiền gặp hội gió mây...cùng nhau hưởng phúc lành tôn vinh".


Bài chiếu tuy ngắn gọn mà chứa đựng cả một tấm lòng thiết tha với dân với nước của vị anh hùng áo vải Nguyễn Huệ. Luôn mong cầu sự ấm êm cho nhân dân, hành động vì sự bình yên, thịnh trị của xã tắc, vương triều. Một vị vua suốt đời mình tâm huyết mọi việc vì cuộc sống phồn vinh cho nhân dân. Từng lời, từng chữ viết ra đều thấm đẫm tinh thần dân tộc, thấm đẫm tình cảm lớn của một người trị vì cánh cánh nỗi lòng phát triển, dựng xây nước nhà.


"Chiếu cầu hiền" có ngôn ngữ trang trọng, lời văn đầy sự cầu thị khoan dung, khi lại thiết tha, mãnh liệt, hệ thống những lập luận thuyết phục và chặt chẽ. Tác phẩm đã cho thấy trước tầm nhìn xa trông rộng và sự chân thành của một với vua yêu nước coi trọng hào kiệt, nhân tài. Bài chiếu giúp em hiểu và trân trọng hơn giá trị của trí thức, vai trò của người giỏi đối với đất nước. Em sẽ cố gắng trau dồi bản thân, rèn sức luyện tài để sau này làm một công dân có ích cho nước nhà, góp sức tài vào sự phát triển của đất nước Việt Nam.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 6
(có 0 lượt vote)

Bài văn phân tích "Cầu hiền chiếu" mẫu 7

Kho tàng văn học Việt Nam không chỉ hay bởi những bài những bài văn có nghĩa mà còn có những thể loại khác cũng góp phần làm đa dạng và phong phú nền văn học nước mình. Trong những thể loại ấy phải kể đến tác phẩm chiếu cầu hiền của vua Quang Trung. Tác phẩm không chỉ đơn giản là một tác phẩm văn học mà còn là một bản chiếu vua ban có tác dụng đến vận mệnh của quốc gia và sự phát triển của đất nước. Có thể nói chiếu cầu hiền là một văn bản giàu ý nghĩa và thiết thực cho lịch sử nước ta lúc bấy giờ.


Chiếu cầu hiền được viết khi vua Lê Chiêu Thống rước quân Thanh vào xâm lược nước ta, Nguyễn Huệ lên ngôi vua lấy hiệu là Quang Trung rồi đem quân ra Bắc để quét sạch 20 vạn quân Thanh cùng bọn tay sai bán nước. Thua trận Lê Chiêu Thống cùng bọn quân Thanh đi theo Tôn Sĩ Nghị, triều Lê sụp đổ, triều Nguyễn được vua Quang Trung lập lên. Trước sự kiện trên một quan thần trong triều Lê có thể là do theo trung quân ái quốc lỗi thời với thời Lê, hai là có thể do sợ hãi triều đại mới nên tất cả đều trốn tránh ẩn nấp không ra phò tá giúp đỡ vua Quang Trung phát triển đất nước. Biết tình hình đất nước nhà như vậy Quang Trung đã liền phái Ngô Thì Nhậm thay mình viết chiếu cầu hiền để kêu gọi những người tài giỏi ra giúp nước.


Có thể nói vua Quang Trung rất đỗi khôn ngoan khi nghĩ ra kế sách này. Qua đó thể hiện niềm khát khao cầu hiền của nhà vua trẻ tài đức. Mặt khác thấy được sự uyên bác của Ngô Thì Nhậm khi viết ra một bức chiếu có sức thuyết phục như vậy.


Về phần Ngô Thì Nhậm, khi triều Trịnh – Lê sụp đổ, Ngô Thì Nhậm đã đi theo phong trào Tây Sơn và được cử làm Lại Bộ Tả Thị lang. Ông trở thành một quan thần tín nhiệm của vua Quang Trung.


Trước hết ta đi tìm hiểu về thể loại chiếu, chiếu được hiểu là một thể loại văn thư do nhà vua để ban bố mệnh lệnh đến dân chúng. Công văn hành chính ngày xưa gồm hai loại đó là do cấp dưới đệ trình lên nhà vua, hai là do nhà vua ban bố xuống dưới. chúng ta có thể thấy được nhiều bài chiếu trong kho tàng văn học Việt Nam. Đó là bài chiếu dời đô, hoàng lê nhất thống chí, hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Và chính những bài chiếu tiêu biểu đó đã khẳng định sức thuyết phục của thể loại chiếu. Chiếu nói chung và chiếu cầu hiền nói riêng thuộc loại văn nghị luận chính trị xã hội. Mặc dù chiếu thuộc công văn nhà nước nhưng lại viết cho những bậc hiền tài, hơn nữa đây là cầu là vua Quang Trung cầu hiền tài chứ không phải mệnh lệnh.


Đi vào bài chiếu điều đầu tiên mà tác giả nói đến chính là vai trò và sức mạnh của hiền tài cho quốc gia. Chẳng thế mà ngay tên bài chiếu nọ đã nói lên tất cả những vai trò to lớn của hiền tài, đó là nhan đề hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Và chính vì thế tác giả nêu cao vai trò của hiền tài trong sự nghiệp phát triển đất nước. Tác giả so sánh hiền tài như một “ sao sáng trên trời cao”. So sánh như vậy để thấy được tầm vóc của những hiền tài giống như những gì vĩnh hằng của thiên nhiên. Đó là một sự tôn vinh khen ngợi đối với những bậc hiền tài. Mà những bậc hiền tài ấy sẽ phải theo Bắc thần đó là một quy luật hiển nhiên. Người tài sợ trời sinh ra và người tài ấy phải có phận sự sử dụng tài năng của mình cống hiến cho đất nước. phải chăng đó cũng là cách mà tác giả muốn cho sĩ phú hiền tài thấy được vua Quang Trung biết trọng người tài và rất mực cầu hiền để cùng vua giúp nước. Từ đó góp phần xóa đi những nghi ngờ sợ hãi của những bậc hiền tài. Nó rất hợp lý khi đã tạo ra chính tính chính danh cho chiếu cầu hiền. Hơn nữa qua những lời khen ngợi hay cũng chính là lời mời gọi của tác giả đã góp phần làm cho bài chiếu thêm phần thuyết phục người nghe.


Tiếp đến là đoạn văn tiếp theo nói về nguyện vọng của nhà vua khi muốn những hiền tài của quốc gia ra mặt góp sức góp tài cho công cuộc xây dựng đất nước. Tác giả đi sâu vào phân tích tình hình khó khăn của đất nước và chính tình hình ấy phải cần đến sự giúp đỡ của hiền tài quốc gia. Cách trình bày thẳng thắn cho thấy được sự trung thực thật thà cũng như quang minh chính địa của vua Quang Trung. Chính qua đó ta thấy được sự chân thành và tình cảm của nhà vua dành cho những hiền tài. Đồng thời đó còn là tâm trạng lo lắng của Quang Trung “ trời còn tăm tối”, “ đương ở buổi đầu của nền đại định”, “ công việc vừa mới mở ra” đó là những khó khăn bức thiết của triều đại nhà Nguyễn cũng như đất nước đang rơi vào tình thế khó khăn. Hình ảnh đất nước qua những câu văn của Ngô Thì Nhậm hiện lên thật rõ nét. Đó là một đất nước đời đầu mới ở buổi đại định, tương lai còn chưa sáng rõ, thiếu nhân tài thì làm sao có thể sáng được vì thế mà vua khẩn thiết cầu hay mời hiền tài về phụng sự giúp đỡ vua. Thế rồi “ kỉ cương còn nhiều khiếm khuyết, việc biên ải chưa chưa yên, dân còn nhọc mệt, đức hóa của chúng chưa nhuần thấm” cùng với “một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn”. và thực tế thì “mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình”. Như vậy có thể thấy vua quang trung vô cùng minh bạch, biết trọng người tài, biết xem thời thế không cậy thắng mà ngông cuồng. Đó là điều dĩ nhiên và hiển nhiên về đức và tài của ông. Điều đó cho thấy nhà vua thiết tha đầy nhiệt huyết kêu gọi hiền tài vì nước vì dân mà cùng vua xây dựng một đất nước với triều đại mới. Cuối cùng tác giả để một câu hỏi: “ Huống nay trên mảnh đất văn hiến rộng lớn như thế này…buổi ban đầu của trẫm hay sao?”. Như vậy nhà vua không chỉ kiên quyết, thẳng thắn mà cũng rất tha thiết để thuyết phục những hiền tài những vị tinh tú, sáng soi lấy bầu trời tăm tối của đất nước thời bấy giờ.


Cuối cùng là chính sách cầu tài của vua Quang Trung, ở phần này tác giả chỉ ra những điểm nổi bật trong đường lối chính sách của vua. Đó là một chính sách công bằng cho tất cả mọi người từ quan viên cho đến dân chúng. Từ đó cho thấy Nguyễn Huệ hẳn là một người con rất đỗi yêu thương dân chúng, chăm lo cho cuộc sống của tất cả mọi người.


Đường lối chính sách thứ nhất của vua Quang Trung là các bậc quan viên lớn nhỏ, thứ dân trăm họ tất thảy đều có thể dâng sớ tâu bày sự việc, không sợ lời nói sơ suất mà bắt tội. qua chính sách ấy ta nhận thấy được vua Quang Trung có điểm khác so với những vị vua thời trước. Ông luôn yêu thương dân chúng, phải chăng chính xuất thân là một anh hùng áo vải cho nên vua thấu hiểu được nỗi khốn khổ và thấp cổ bé họng của nhân dân. Qua chính sách ấy thì mọi người có thể thấy sự công bằng cho tất cả những bậc dưới vua. Nếu như ngày xưa dân chúng sống trong cảnh thấp cổ bé họng, thường xuyên bị bắt nạt áp bức bóc lột của tham quan một cách thậm tệ thì đến thời vua Quang Trung những thứ dân ai ai cũng được tâu trình những bất bình mà mình muốn giải quyết.


Thêm nữa là cách tiến cử hết sức rộng mở: tự mình dâng sớ tâu bày sự việc, do các quan văn quan võ tiến cử, cho phép đang sớ tự tiến cử. Qua đây ta thấy đây là một đường lối mở rộng và đúng đắn. Nó có thể coi là một tính dân chủ của thời phong kiến. Vì không chỉ có các quan mà chính những người nhân dân cũng có quyền bày tỏ ý kiến cá nhân cũng như mọi điều ngang tai trái mắt mình nhìn thấy. dẫu có lỡ lời thì cũng không bị bắt tội. Đó chẳng phải là một chính sách đường lối công bằng và dân chủ hay sao, ai cũng có quyền lợi và nghĩa vụ góp sức và tài năng của mình để xây dựng đất nước. Một chính sách thấu tình đạt lý như thế thì làm sao không khiến mọi người nghe theo.


Như vậy có thể thấy đường lối của vua Quang Trung rất rộng mở, dễ hiểu, đúng đắn, cụ thể và dễ thực hiện. đồng thời qua chính sách ấy ta thấy được vua Quang Trung đúng là một đấng minh quân đầy bản lĩnh, tư tưởng tiến bộ, giàu lòng thương người và có khả năng thu phục lòng người. Cuối cùng tác giả cỗ vũ những người có đức có tài hãy cùng chung tay xây dựng đất nước cùng nhà vua. Lời khích lệ khép lại bài chiếu như một lời kêu gọi vui vẻ, lời mời mọc đầy hấp dẫn và giàu sức thuyết phục trong thời đại mới của tác giả: “ Nay trời trong sáng đất thanh bình, chính là lúc người hiền gặp hội gió mây…”


Như vậy với kết cấu ba phần rõ ràng cùng với những nghệ thuật so sánh cùng những hình ảnh mang đầy tính chất tượng trưng cùng với những đức tài của nhà vua đã giúp cho bài chiếu giàu sức thuyết phục và đậm chất tư tưởng tiến bộ dân chủ. Có thể nói với chính sách và đường lối của mình vua Quang Trung xứng đáng là một bậc minh quân đời đời nhớ đến. chính lòng thiết tha, thẳng thắn, kiên quyết cầu người tài đã làm nên sức thuyết phục cho bài viết. Và tác phẩm chiếu cầu hiền cho đến ngày nay vẫn sáng mãi với thời gian, nó không chỉ mang giá trị lịch sử mà còn mang giá tri văn học.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 7
(có 0 lượt vote)

Bài văn phân tích "Cầu hiền chiếu" mẫu 8

Trong kho tàng văn học Việt Nam, không chỉ có những tác phẩm thơ, truyện,… mà còn có nhiều tác phẩm thuộc thể loại khác. Chúng cũng góp phần làm phong phú thêm nền văn học nước nhà. Trong đó chiếu cầu hiền Được đánh giá là tác phẩm nổi bật cho thể loại chính luận trung đại. Phân tích Chiếu cầu hiền, ta sẽ hiểu rõ hơn phong cách nghệ thuật và tấm lòng vì nước vì dân của tác giả Ngô Thì Nhậm.


Ngô Thì Nhậm là một nho sĩ toàn tài, có nhiều đóng góp quan trọng trong sự nghiệp của triều đại Tây Sơn. Ông đã để lại nhiều tác phẩm có ý nghĩa lớn không chỉ về mặt lịch sử, văn hóa mà còn có vị trí quan trọng trong văn học Việt Nam.


“Chiếu cầu hiền” được sáng tác trong buổi cảnh triều đại Tây Sơn còn non trẻ. Vua Quang Trung mong muốn chiêu dụ người tài để đứng ra xây dựng đất nước. Vua đã giao cho Ngô Thì Nhậm trọng trách ấy để kêu gọi hiền tài có thể cùng vua chấn hưng đất nước. Phân tích Chiếu cầu hiền để hiểu hơn về mối quan hệ vua tôi.


Trước tiên, tác giả nêu ra quy luật xử thế của người hiền và mối quan hệ giữa người hiền và thiên tử. Tác giả nhấn mạnh: “Người hiền như sao sáng trên trời”. Hình ảnh so sánh nhấn mạnh và đề cao vai trò của người hiền đối với vận mệnh quốc gia, dân tộc. Hình ảnh “sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần” ám chỉ một quy luật tự nhiên. Người hiền tài, ắt sẽ một lòng phụng sự cho thiên tử để trị vì đất nước. Đây là một cách xử thế đúng đắn, thuận theo tất yếu, hợp với ý trời.


Để nhấn mạnh thêm tầm quan trọng của mối quan hệ thiên tử – hiền tài, tác giả còn khẳng định: “Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy.” Với tác giả, người hiền nếu như sống ẩn dật, không quan tâm thế sự thì cũng như ánh sáng bị che lấp, như vẻ đẹp bị vùi giấu đi. Ở đây, hiền tài như những vì sao sáng, cần ra sức phụ tá thiên tử xây dựng cơ đồ. Nếu không là đi ngược lại với ý trời, làm sai đạo lý cơ bản nhất. Chỉ với vài câu đầu, Phân tích Chiếu cầu hiền ta đã thấy được lập luận chặt chẽ, sắc bén của tác giả. Vấn đề được đặt ra tài tình, hấp dẫn và giàu sức thuyết phục.


Sau những lời khẳng định về quy luật giữa hiền tài với thiên tử, tác giả đưa ra nhận xét về cách hành xử của sĩ phu Bắc Hà. Khi thời thế suy vi, họ quay về sống đời sống ẩn dật, không dám ra làm quan. Đó là hành động bỏ phí tài năng, cũng là thể hiện sự nhu nhược, sợ hãi, không có trách nhiệm với trọng trách của mình. Nhiều người thì “ra biển vào đông”, mỗi người một phương. Tác giả không nói thẳng vào những thực trạng đáng trách ấy mà sử dụng hình ảnh của Nho gia, tạo ra cách nói tế nhị nhưng châm biếm nhẹ nhàng. Phân tích Chiếu cầu hiền càng làm nổi bật kiến thức uyên thâm, sâu rộng của bậc minh tướng.


Thời loạn thì vậy, thế nhưng hòa bình đã lập, vẫn “chưa thấy có ai tìm đến”. Tâm trạng của vua Quang Trung đầy khắc khoải, chờ mong người hiền ra tay giúp nước, phò vua. Tác giả đã sử dụng câu hỏi tu từ: “Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?” như thôi thúc, khiến người nghe suy ngẫm về nỗi trăn trở ấy. Cách đặt câu hỏi thể hiện sự khiêm tốn nhưng lại rất thuyết phục của vị minh vương. Nó tác động vào nhận thức của người nghe, buộc các bậc hiền tài phải hành động đúng với trọng trách bản thân gánh vác.


Ngoài ra, tác giả còn đưa ra thực trạng của đất nước và nhu cầu cần củng cố phát triển. Đất nước hiện giờ vừa mới giành được chủ quyền, đang bước vào giai đoạn bắt đầu xây dựng nên triều chính chưa ổn định. Bên cạnh đó, biên ải cũng chưa yên, quân giặc vẫn còn nhăm nhe xâm lược thêm lần nữa. Dân chúng còn khổ ải, những hậu quả chiến tranh gây ra còn chưa kịp hồi phục. Trong khi đó, đức của vua vẫn chưa thấm nhuần khắp nơi, chưa được nhân dân thấu hiểu. Do vậy lòng dân và ý mua chưa thuận, khó có thể phát triển đất nước. Tác giả đã đưa ra cái nhìn toàn diện về những khó khăn quốc gia đang gặp phải, không hề trốn tránh hay giấu diếm sự thật.


Chính bởi còn rất nhiều khó khăn như thế, nhu cầu cấp bách hiện tại là các bậc hiền tài phải ra trợ giúp nhà vua. “Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình. Suy đi tính lại trong vòm trời này cứ cái ấp mười nhà ắt phải có người trung thành tín nghĩa.” Tác giả đã sử dụng hình ảnh cụ thể để khẳng định vai trò, đề cao vị trí của người hiền đối với vận mệnh quốc gia. Cùng với câu nói của Khổng Tử, sự tồn tại của nhân tài trong đất nước càng thêm được khẳng định rõ ràng. Với hình ảnh, cách nói độc đáo, tác giả đưa ra kết luận, người tài cần và phải ra phục vụ hết sức mình cho triều đại mới, đưa đất nước phát triển ngang hàng với các quốc gia khác. Cùng với đó, hình ảnh vị vua Quang Trung yêu nước, thương dân, một lòng vì nghiệp lớn hiện lên rất rõ nét.


Sau cùng, tác giả đã đưa ra con đường để hiền tài cống hiến cho đất nước. Mọi tầng lớp trong xã hội đều có cơ hội cùng nhau phò trợ thiên tử bằng cách dâng thư bày tỏ ý kiến của mình về mọi vấn đề của đất nước. Quan tướng nếu có ai tài giỏi, hiền đức thì tiến cử với vua, cùng nhau xây dựng cơ đồ. Kẻ sĩ ẩn dật được phép tự mình dâng sớ tự tiến cử. Những biện pháp cụ thể ấy đã giúp cho toàn bộ dân chúng có thể hiểu rõ và thực hiện đúng trách nhiệm của mình. Chúng đều rất dễ thực hiện, thiết thực với tình hình đất nước bấy giờ.


Tác giả đưa ra lời kêu gọi, động viên mọi người, đặc biệt là các bậc hiền tài cùng nhau đứng lên xây dựng cơ đồ: “những ai có tài có đức hãy cùng cố gắng lên, ghi tên tại triều đình, cùng nhau cung kính, cùng nhau hưởng phúc lành tôn vinh.” Điều này đã thể hiện tư tưởng tiến bộ, nhìn xa trông rộng của vua Quang Trung.


Thông qua bài chiếu, ta thấy được tài năng biết tôn trọng người tài, luôn lắng nghe nhân dân của bậc minh vương. Đó là những phẩm chất rất đáng quý, hứa hẹn một tương lai rộng mở với đất nước dưới sự dẫn dắt của vị vua hiền đức ấy.


Với cách nói sùng cổ, lời văn ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, “Chiếu cầu hiền” là tác phẩm chuẩn mực cho thể loại chiếu trong văn học Việt Nam. Những giá trị nghệ thuật với sự khúc chiết đủ lí, đủ tình giúp cho những tác phẩm sau đó có thể học hỏi, tiếp nhận và dựa vào như một chuẩn mực. Nhờ vậy mà các tác giả sau có thể góp thêm nhiều tác phẩm có vị trí quan trọng với văn học nước nhà.


“Chiếu cầu hiền” với những giá trị nghệ thuật độc đáo đã giúp văn học Việt Nam có thêm nhiều màu sắc. Tác phẩm đã thể hiện tầm nhìn chiến lược của tác giả, nhà vua và triều đình Tây Sơn trong việc chiêu dụ người tài, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Giúp cho triều đại Tây Sơn có được nhiều thành tựu quan trọng trong tương lai.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 8
(có 0 lượt vote)

Bài văn phân tích "Cầu hiền chiếu" mẫu 9

Với thể loại chiếu nếu như ở chương trình Ngữ văn lớp 8 ta được biết đến với tác phẩm “Chiếu dời đô” của Lý Công Uẩn thì sang lớp 11 tìm hiểu tác phẩm cùng thể loại là “Chiếu cầu hiền” của Ngô Thì Nhậm. Ông đã từng làm quan dưới triều Lê- Trịnh, sau phục vụ cho triều đại Tây Sơn có nhiều đóng góp và được trọng dụng. Ông được vua Quang Trung giao nhiệm vụ viết bài “Chiếu cầu hiền” trong hoàn cảnh triều đại mới được gây dựng, đất nước gặp nhiều khó khăn, người tài còn vắng bóng với mục đích nhằm động viên sĩ phu Bắc Hà và những người hiền tài ra phò vua giúp nước. Văn kiện thể hiện chủ trương đúng đắn và tầm nhìn ra trông rộng của một vị vua anh minh, lỗi lạc.


Chiếu là văn kiện chính trị thuộc loại văn học chức năng, còn có tên gọi khác là “Chiếu thư”, “Chiếu chỉ”, “Chiếu bản”. Đó là văn cáo mà thiên tử hạ đạt mệnh lệnh xuống cho thần thuộc. Dù là trực tiếp nhà vua viết hay do người khác vâng theo mệnh lệnh mà viết thì cũng đều phải thể hiện được tư tưởng chính trị lớn lao có ảnh hưởng lâu dài đến vận mệnh của đất nước.


Theo như lời khuyên của chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho các nhà báo: “Trước khi cầm bút mỗi người cần trả lời ba câu hỏi: Ta viết cho ai? Viết để làm gì? Viết như thế nào?” Chỉ với mười hai từ ngắn gọn đã thâu tóm được quan điểm và nội dung của bài viết. Đối với bài văn nghị luận sâu sắc như “Chiếu cầu hiền”, khi phân tích tôi chọn cho mình điểm nhìn đứng ở vị thế của người viết. Chúng ta giải đáp từng câu hỏi để làm sáng tỏ cái hay cái đẹp của tác phẩm.


Trước tiên “Ta viết cho ai?” tức đối tượng bài chiếu hướng đến là ai? Trước tình hình chúa Trịnh ngày càng lộng quyền lấn át vua Lê, Nguyễn Huệ đã thần tốc kéo quân ra Bắc “Phù Lê diệt Trịnh”, thừa thắng đánh tan hai mươi vạn quân Thanh xâm lược, thù trong giặc ngoài được loại bỏ, thống nhất non sông về một mối, lập nên triều đại mới - triều đại Tây Sơn của vua Quang Trung Nguyễn Huệ. Một số người với quan niệm bảo thủ không nhận thấy chính nghĩa và sứ mệnh của vị vua mới đã có thái độ bất hợp tác, thậm chí nổi dậy chống lại triều đình Tây Sơn. Nhà vua đã cho viết bài chiếu trước là để thuyết phục các sĩ phu Bắc Hà có thái độ đúng đắn, hiểu được vận mệnh dân tộc và mở rộng ra là hiền tài còn ẩn mình hãy đem tài năng ra giúp nước. Chính sách chiêu hiền không giới hạn phạm vi đối tượng “các bậc quan viên lớn nhỏ, cùng thứ dân trăm họ” tất cả mọi người ai cũng có quyền, có trách nhiệm đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.


Viết để làm gì? Đúng như tên nhan đề là cầu hiền và cũng như phân tích ở trên để chiêu mộ nhân tài, những con người vừa có đức vừa có tài có tâm ra phụng sự cho dân cho nước. Mục đích ấy cho thấy tầm nhìn xa trông rộng của Nguyễn Huệ và vai trò to lớn của người hiền tài đối với vận mệnh của dân tộc. Tư tưởng đó đã được chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa qua lời dạy nhi đồng: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp được hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em.” Bởi các em chính là thế hệ tương lai của đất nước, nắm trong tay vận mệnh dân tộc Việt. Ngày nay chủ trương chiêu mộ nhân tài luôn luôn được chính quyền Trung ương Đảng đề ra và thực hiện bằng các chính sách cụ thể thiết thực về “Đào tạo nhân tài và bồi dưỡng nhân lực”.


Sau khi xác định rõ được đối tượng và mục đích điều quan trọng là phải viết như thế nào để thể hiện được mong muốn của tác giả. Ngô Thì Nhậm là người dùi mài kinh sử học rộng tài cao nên ông am hiểu tâm lí của các sĩ phu. Bởi theo quan niệm chính thống của tầng lớp Nho sĩ người xuất thân từ dòng dõi đế vương hoặc quý tộc mới xứng nối nghiệp tiên vương, mới có khả năng làm Thiên tử. Nguyễn Huệ lại xuất thân là nông dân nên ít nhiều Nho sĩ Bắc Hà không những không phục mà con tỏ vẻ khinh miệt, coi thường. Ông nắm được suy nghĩ ấy nên mở đầu tác phẩm đã dùng lời dạy của Khổng Tử để đặt vấn đề và đưa ra cách ứng xử thuyết phục đối với Nho sĩ Bắc Hà. Ông chỉ ra quy luật xuất xử của các bậc hiền tài: “Người hiền xuất hiện ở đời, thì như ngôi sao sáng trên trời cao. Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần, người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử. Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy”. Tác giả chỉ ra quy luật của vũ trụ “Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần” để khẳng định người hiền tài phải phụng sự cho dân cho nước, phải có trách nhiệm với vận mệnh dân tộc mà trước tiên là “làm sứ giả cho thiên tử” tức phục vụ cho vua là lẽ tất yếu. Nếu làm trái là không theo ý trời. Hình ảnh so sánh rất tiêu biểu, cụ thể phù hợp với tâm lí của những con người xuất thân nơi “Cửa Khổng sân Trình”.


Tiếp đó tác giả nói đến tình cảm của kẻ sĩ dành cho triều đại mới bấy giờ: một số người tài đức thì “ở ẩn trong khe núi, trốn tránh việc đời”, những người tinh anh thì sợ hãi im lặng “kiêng dè không dám lên tiếng” hoặc làm việc nửa chừng thì bỏ dở “gõ mõ canh cửa” hay người bị chết đuối trên cạn, thậm chí có cả những người tự tử để giữ lòng trung với vua Lê_cái tôi trung thành đến mù quáng. Tác giả không nói thẳng mà dùng lối nói hình ảnh mang ý nghĩa biểu trưng vừa đả kích nhẹ nhàng, vừa tế nhị sâu kín lại tỏ ra là người có học thức uyên thâm, hiểu biết sâu rộng, có tài văn chương khiến cho người nghe không những không chạnh lòng, tự ái mà hiểu ra vấn đề, tự cười tự trách bản thân mình vì có thái độ chưa đúng đắn.


Sau khi chỉ ra những thái độ tiêu cực của sĩ phu Bắc Hà, vua Quang Trung bày tỏ tâm sự, lòng chân thành của mình bằng cách đặt ra các câu hỏi khiến cho người đọc, người nghe phải suy ngẫm, trăn trở: “Nay trẫm đang ghé chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi nhưng những người học rộng tài cao chưa thấy có ai tìm đến. Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?” Nhà vua tha thiết mong mỏi những người hiền tài có thể ra giúp vua giúp nước nhưng vì lí do gì mà vẫn vắng bóng. Phải chăng Quang Trung đang tự trách mình “Ít đức”, hay vì họ viện cớ cho thời đại đổ nát. Thực sự những điều đó không đúng với hoàn cảnh thực tế bấy giờ. Nếu ít đức sao ông có thể làm nên nghiệp lớn xây dựng cơ đồ, thời đại đổ nát chẳng phải vì giặc giã phương Bắc đã dẹp, non sông quy về một mối, triều đại mới vừa được tạo dựng... và còn biết bao điều cần hơn nữa người tài giúp nước.


Thái độ chiêu hiền của nhà vua rất chân thành, ông luôn khiêm tốn, nhún nhường. Nhà vua chỉ ra tính chất của thời đại, nhu cầu của đất nước và không ngần ngại nhận khiếm khuyết bản thân và sự bất cập của triều đình mới đồng thời khẳng định sự cần của người tài với đất nước. Công việc ngày càng nhiều, trọng trách ngày càng lớn một người không thể gánh vác mà cần sự chung tay góp sức của mọi người. Hình ảnh “Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn và mưu lược của một người không thể dựng nghiệp trị bình”. Điều đó cho thấy quan điểm “lấy dân làm gốc” thật đúng đắn thể hiện một tầm nhìn chiến lược của Quang Trung. Tư tưởng ấy bao đời này vẫn được gìn giữ và tiếp nối bởi “nước có thể chở thuyền cũng có thể lật thuyền...lật thuyền mới biết sức dân mạnh như nước” là vậy. Kết thúc đoạn văn tác giả dùng lối viết trích dẫn lại lời Khổng Tử để khẳng định người hiền tài trong nước ta còn rất nhiều, vậy “Huống nay trên dải đất văn hiến rộng lớn như thế này, há trong đó lại không có lấy một người tài danh nào ra phò vua giúp cho chính quyền buổi ban đầu của trẫm hay sao?” câu hỏi đó khiến cho biết bao người tài còn ở ẩn phải trăn trở, phải suy ngẫm về thái độ của mình.


Tác phẩm là bài văn nghị luận mẫu mực, từng câu chữ, lí lẽ, dẫn chứng đều rất khéo léo và có tính thuyết phục cao. Các điển cố được sử dụng tài tình cho thấy sự am hiểu về văn học, kiến thức sâu rộng của tác giả.


Tác phẩm “Chiếu cầu hiền” đã thể hiện tầm nhìn chiến lược, cái tâm, cái tài của một vị vua tài ba, lỗi lạc. Chính sách cầu hiền luôn là một điều tất yếu cần có của mỗi triều đại dù trong bất kì hoàn cảnh, thời gian nào bởi “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”, đất nước càng phát triển càng cần có nhiều nhân tài cống hiến tài năng. Ngô Thì Nhậm đã thể hiện quan điểm, tư tưởng, chủ trương của vua Quang Trung về chính sách chiêu hiền thật xuất sắc trong tác phẩm. Những chính sách đó luôn được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp nối và không ngừng đổi mới để Việt Nam ngày càng tiến xa hơn nữa trên con đường hội nhập quốc tế.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Hi vọng bài viết trên mang lại nhiều giá trị cho bạn. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài văn hay trên Alltop.vn

Hãy đăng nhập để bình luận

Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .