Top 12 Bài văn phân tích tác phẩm "Cô Tô" của Nguyễn Tuân (Ngữ văn 6 - SGK Kết nối tri thức) hay nhất

124

Nguyễn Tuân (1910-1987) là nhà văn nổi tiếng, có sở trường về thể tùy bút và kí. Ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật năm 1996. Tác phẩm của...xem thêm ...

Top 0
(có 0 lượt vote)

Bài văn phân tích tác phẩm "Cô Tô" của Nguyễn Tuân - mẫu 1

Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Ông sáng tác nhiều về đề tài cuộc sống mới, con người mới trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta. “Cô Tô” là một bút ký in trong tập ký cùng tên, xuất bản năm 1976. Nguyễn Tuân đã ghi lại những ấn tượng tốt đẹp của mình về cảnh sắc tuyệt vời của quần đảo Cô Tô trong vịnh Bắc Bộ và hình ảnh những ngư dân cần cù lao động, góp phần làm giàu cho Tổ quốc. Đồng thời thể hiện tình yêu thiên nhiên và con người đằm thắm, thiết tha của mình qua thiên bút ký này.


Đầu tiên, Nguyễn Tuân đã khắc họa đôi nét cảnh cơn bão ở Cô Tô. Tác giả quan sát và cảm nhận trận bão bằng những giác quan. Đầu tiên là xúc giác: “Mỗi viên cát bắn vào má vào gáy lúc này buốt như một viên đạn mũi kim”; Rồi đến thính giác “Gió liên thanh quật lia lịa…, Sóng thúc lẫn nhau mà vào bờ âm âm rền rền…, Nó rít lên rú lên…”; Và cả thị giác: “Sóng cát đánh ra khơi, bể đánh bọt sóng vào, trời đất trắng mù mù toàn bãi như là kẻ thù bắt đầu thả hơi ngạt; Gác đào ủy nhiều khuôn cửa kính bị gió vây và dồn, bung hết; Kính bị thứ gió cấp 11 ép, vỡ tung”. Có thể thấy, cơn bão giống như một kẻ thù đang dàn trận để đánh bại con người.


Phong cảnh Cô Tô sau khi cơn bão đi qua hiện lên như một bức tranh tuyệt đẹp. Trên cái nền là bầu trời xanh tươi sáng và mặt nước màu lam biếc, nổi bật lên màu xanh mượt của cây, màu vàng giòn của cát và màu trắng của sóng xô dào dạt vào đảo. Cảnh thiên nhiên được miêu tả từ cao xuống thấp. Từ nóc đồn trên đảo, Nguyễn Tuân nhìn ra bao la Thái Bình Dương bốn phương tám hướng, quay gót 180 độ mà ngắm cả toàn cảnh đảo Cô Tô. Cảnh đẹp được thu vào tầm mắt khiến nảy sinh trong lòng nhà văn một cảm xúc mãnh liệt: “càng thấy yêu mến hòn đảo như bất cứ người chài nào đã từng đẻ ra và lớn lên theo mùa sóng ở đây”.


Đọc đoạn trích này, người đọc không thể nào quên cảnh mặt trời mọc trên biển Đông. Đây là một bức tranh lộng lẫy, huy hoàng hiếm có. Cảnh mặt trời mọc được miêu tả trong một không gian rộng lớn, bao la, trong trẻo, tinh khôi: “Sau trận bão, chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây hết bụi”. Tác giả đã dùng hình ảnh so sánh đặc sắc, ví mặt trời sau khi lên “tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn, hồng hào”. Còn mặt bể là “một mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng’”.


Tiếp đến là hoạt động trên đảo vừa khẩn trương, tấp nập lại vừa vui vẻ, thanh bình. Quanh cái giếng nước ngọt đảo Thanh Luân sớm nay có không biết bao nhiêu là người đến gánh và múc. Người dân chài gánh nước ngọt từ giếng xuống thuyền, chuẩn bị cho mười tám thuyền lớn nhỏ cùng ra khơi đánh cá hồng, vẻ thanh bình của cuộc sống còn được thể hiện ở suy ngẫm và liên tưởng của nhà văn trước hình ảnh: “Chị Châu Hoà Mãn địu con, thấy nó dịu dàng yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền móm cá cho lũ con lành”. Nguyễn Tuân cảm nhận rất tinh tế về sắc thái riêng của cuộc sống ở Cô Tô. Điều đó được thể hiện qua so sánh: “Cái giếng nước ngọt ở ria một hòn đảo giữa bể, cái sinh hoạt của nó vui như một cái bến và đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền”. Biển Cô Tô đẹp mê hồn. Sức hấp dẫn của biển cả và những sản vật mà nó hào phóng ban tặng cho con người đã thu hút biết bao chàng trai ra biển để làm giàu cho cuộc sống và cho Tổ quốc. Chủ nhân của vùng đảo tươi đẹp này là những ngư dân ngày đêm bám biển. Họ “ăn sóng nói gió” và đã quen chịu đựng những khó khăn gian khổ do thời tiết khắc nghiệt gây nên.


Kết thúc bài kí là cảnh đoàn thuyền chuẩn bị ra khơi và chị Châu Hoà Mãn địu con đứng trên bãi biển tiễn chồng. Đó là những hình ảnh tiêu biểu của cuộc sống lao động khoẻ khoắn, vui tươi của những ngư dân cần cù, chất phác trên đảo Cô Tô.


Cảnh thiên nhiên, cảnh sinh hoạt của con người trên đảo và vùng biển Cô Tô được miêu tả trong đoạn trích thật tươi đẹp, trong sáng và đa dạng qua ngòi bút điêu luyện, giàu cảm xúc của Nguyễn Tuân. Đặc biệt, cảnh mặt trời mọc trên biển là một bức tranh huy hoàng, lộng lẫy đầy chất thơ.


Đoạn trích trên đây đã giúp người đọc hiểu thêm về một cảnh quan nổi tiếng của đất nước. Từ đó càng thêm yêu mến, gắn bó và tự hào về Tổ quốc Việt Nam giàu đẹp.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 1
(có 0 lượt vote)

Bài văn phân tích tác phẩm "Cô Tô" của Nguyễn Tuân - mẫu 2

Nguyễn Tuân là nhà văn nổi tiếng, có sở trường về thể tuỳ bút và kí. Tác phẩm của Nguyễn Tuân luôn thể hiện phong cách độc đáo, tài hoa và sự hiểu biết phong phú nhiều mặt. Bài văn Cô Tô là phần cuối của bài ký cùng tên. Đoạn trích đã phần nào ghi lại được những ấn tượng về thiên nhiên, con người lao động ở vùng đảo Cô Tô mà nhà văn thu nhận được trong chuyến ra thăm đảo.


Mở đầu là cảnh Cô Tô trong cơn bão. Tác giả quan sát và cảm nhận trận bão bằng những giác quan. Đầu tiên là xúc giác: “Mỗi viên cát bắn vào má vào gáy lúc này buốt như một viên đạn mũi kim”; Rồi đến thính giác “Gió liên thanh quật lia lịa…, Sóng thúc lẫn nhau mà vào bờ âm âm rền rền…, Nó rít lên rú lên…”; Và cả thị giác: “Sóng cát đánh ra khơi, bể đánh bọt sóng vào, trời đất trắng mù mù toàn bãi như là kẻ thù bắt đầu thả hơi ngạt; Gác đào ủy nhiều khuôn cửa kính bị gió vây và dồn, bung hết; Kính bị thứ gió cấp 11 ép, vỡ tung”.


Tiếp đến nhà văn miêu tả vẻ đẹp của đảo Cô Tô sau cơn bão. Cảnh thiên nhiên hiện lên thật trong sáng, tinh khôi trong buổi sáng đẹp trời: “Bầu trời trong sáng, cây thêm xanh mượt, nước biển lại lam biếc, đậm đà hơn hết cả mọi khi, và cát lại vàng giòn hơn nữa”. Ngỡ như đất trời biển Cô Tô được rửa sạch, được tái tạo để hoá thành một cảnh sắc trong sáng tuyệt vời. Để “vẽ” được bức tranh toàn cảnh của đảo Cô Tô sau cơn bão, tác giả phải công phu lắm mới chọn được những hình ảnh tiêu biểu: bầu trời, nước biển, cây trên đảo, bãi cát, và đi với những hình ảnh ấy là một loạt tính từ chỉ màu sắc và ánh sáng: Bầu trời thì trong trẻo, sáng sủa, cây trên biển thì xanh mượt, nước biển lam biếc, cát lại vàng giòn. Có được cảnh sắc đẹp như vậy là do nhà văn đã chọn được vị trí quan sát từ trên điểm cao trên nóc đồn để nhìn ra bao la Thái Bình Dương bốn phương tám hướng, quay gót 180 độ mà ngắm toàn cảnh đảo Cô Tô. Sau cơn bão, thiên nhiên ở đảo Cô Tô hiện lên thật là đẹp. Phải chăng bức tranh đảo Cô Tô đẹp bởi có tình người của Nguyễn Tuân?


Thật là thiếu sót nếu ta không nói đến cảnh mặt trời mọc trên biển trong bức tranh thiên nhiên của đảo Cô Tô. Cảnh tượng được Nguyễn Tuân miêu tả hùng vĩ, rực rỡ và tráng lệ biết bao. Cảnh Cô Tô có cái màu xanh lam biếc của biển buổi chiều, lại có cái màu đỏ rực rỡ của mặt trời buổi sớm nhô lên biển lúc hừng đông. Nguyễn Tuân đã thức dậy từ canh tư ra mãi thấu đầu mũi đảo để ngồi rình mặt trời lên. Đoạn văn này, Nguyễn Tuân đã thực sự mang đến cho người đọc những dòng viết tài hoa về cảnh tượng vô cùng độc đáo. Sau trận bão, chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây bụi. Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Quả trứng hồng hào, thăm thẳm và đứng bệ đặt lên một mâm bạc, đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng. Những so sánh thật bất ngờ, những liên tưởng thật thú vị. Nhưng đến liên tưởng tiếp theo thì mới thực sự tài hoa, mới in đậm phong cách Nguyễn Tuân: “Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông”. Màu sắc hài hoà giữa đỏ, hồng, bạc, ngọc trai, chi tiết tạo hình rất độc đáo quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ đặt lên mâm bạc khổng lồ; hình ảnh từ ngữ sang trọng: “Mâm lễ phẩm, bạc nén, trường thọ”. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp vừa hùng vĩ đường bệ, vừa phồn thịnh và bất diệt, lại rực rỡ, tráng lệ làm lên một ấn tượng riêng đặc sắc về trời biển Cô Tô.


Tiếp đến, cuộc sống của người dân trên biển càng làm cho bức tranh đảo Cô Tô thêm sinh động. Cảnh sinh hoạt và lao động trên đảo trong một buổi sáng được tác giả tập trung miêu tả vào một địa điểm là cái giếng nước ngọt ở rìa đảo. Tại đây, những người dân chài gánh nước ngọt từ giếng xuống thuyền. Khung cảnh thật thanh bình, nhịp điệu của cuộc sống lao động khẩn trương, tấp nập, đông vui: “Cái giếng nước ngọt của đảo Thanh Luân sớm nay có không biết bao nhiêu là người đến gánh và múc. Múc nước giếng vào thùng gỗ, vào những cong, những ang gốm màu da lươn [...] Từ đoàn thuyền sắp ra khơi đến cái giếng ngọt, thùng và cong và gánh nối tiếp đi đi về về, vẻ thanh bình của cuộc sống còn được thể hiện trong một hình ảnh mang nét riêng của Cô Tô, lại hàm chứa ý nghĩa Trông chị Châu Hoà Mẫu địu con, thấy nó dịu dàng yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền mớm cả cho lũ con lành”. Được chứng kiến cảnh đó, Nguyễn Tuân đã có sự cảm nhận về sắc thái riêng một cách tinh tế, khi ông so sánh Cái giếng nước ngọt ở ria một hòn đảo giữa bể, cái sinh hoạt của nó vui như một cái bến và đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền. Vui như một cái bến thì nơi nào cũng có, nhưng đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền thì chính là cái sắc thái riêng của không khí trong lành và tình người đậm đà trên biển Cô Tô.


Cảnh thiên nhiên và sinh hoạt của con người vùng đảo Cô Tô hiện lên thật trong sáng và tươi đẹp qua ngôn ngữ điêu luyện và sự miêu tả tinh tế, chính xác, giàu hình ảnh và cảm xúc của Nguyễn Tuân. Bài văn cho ta hiểu biết và yêu mến một vùng đất của Tổ quốc - quần đảo Cô Tô.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 2
(có 0 lượt vote)

Bài văn phân tích tác phẩm "Cô Tô" của Nguyễn Tuân - mẫu 3

Ký là một thể loại văn tự sự có những yêu cầu riêng so với truyện ngắn hoặc tiểu thuyết. Một trong những đặc trưng khác biệt đó là tính chân thực, khách quan (chứ không phải là hư cấu, tưởng tượng). Cách ghi chép của bài kí tưởng như đơn giản, nhưng thực ra không phải thế. Người viết ký phải đem đến cho bạn đọc những bức tranh, những câu chuyện vốn có thực ở ngoài đời thông qua cách nhìn riêng, cách cảm nhận riêng. Đó chính là “cái tôi” của tác giả. Bởi thế, có những cảnh, những người vẫn chung sống quanh ta, nhưng đến một lúc nào đó, có ánh sáng của nghệ thuật soi vào, thế giới hiện thực ấy bỗng nhiên thức dậy sinh động lạ thường như có bàn tay của phép lạ. Cô Tô của Nguyễn Tuân là một trường hợp như vậy, một định nghĩa điển hình về thể kí. Ở bài kí nhỏ này (thực ra là một đoạn trích), ta thấy được một cái nhìn nghệ sĩ thật tinh tế, tài hoa.


Bức tranh toàn cảnh của Cô Tô được giới thiệu ở phần đầu giống như một cánh cửa mở ra giúp kẻ lữ hành có một cái nhìn khái quát. Nhưng, dù chỉ khái quát, ấn tượng mà vùng đất, vùng trời nơi đây để lại khá sâu. Chúng ta có cảm giác như bước vào một vùng thời gian và không gian không giống như bất cứ nơi nào. Nhà văn như làm mới lại một cái gì đã cũ. Hình như ở đây, người nghệ sĩ đã có một cái nhìn xuyên thời gian để nối liền hiện tại với quá khứ, một quá khứ từ trăm năm, nghìn năm. Câu văn có ba mệnh đề thì hai mệnh đề trước đó như một quy trình của sự phục sinh. Thì ra cái trong trẻo mà ta có được bây giờ trong cảm nhận đã được sàng lọc từ lâu, từ khi quần đảo Cô Tô "mang lấy dấu hiệu của sự sống con người", và phải qua "giông bão". Cái nhìn trải nghiệm vừa có một trầm tích văn hoá lịch sử xa xôi sâu lắng vừa rất đỗi non tơ. Giữ cho bầu trời Cô Tô trong sáng như hôm nay là một tâm hồn rất trẻ. Độ tươi trẻ và đằm thắm mặn mà của trời biển Cô Tô cần đến một sự tinh tế mới phần biệt được màu “xanh mượt" của cây trên núi đảo, với màu “lam biếc” của nước biển ngoài khơi, cả cái màu “vàng giòn” nhảy múa. Tất cả như xôn xao, sống dậy sau cơn giông tố dập vùi.


Nâng lên một độ cao hơn nữa, ta có thêm độ rộng, độ rộng của tầm nhìn trước một “bao la Thái Bình Dương bốn phương tám hướng”, một cái nhìn thoáng đãng, mà tuyệt không có cảm giác vạng lạnh, cô đơn. Vì càng mở ra độ rộng, ta càng có độ sâu. Người lữ hành “nhập cuộc” với lòng thương mến vô bờ "như bất cứ người chài nào đã từng đẻ ra và lớn lên theo mùa sóng ở đây". Bởi Cô Tô có bao nhiêu bạn hữu, những Tô Bắc, Tô Trung, Tô Nam... sát cánh cùng nhau, cũng như cái ấm áp của “Anh em bộ binh và hải quân cùng đóng sát nhau trong cái đồn khố xanh cũ ấy”.


Cảnh mặt trời mọc trên biển Cô Tô thật hoành tráng và rực rỡ lạ thường. Được chiêm ngưỡng nó, với nhà văn là một hạnh phúc hiếm hoi. Để “rình mặt trời lên” phải dậy từ canh tư, đi từ còn tối đất, trên con đường lạ lẫm: “những tảng đá đầu sư”. Nhưng với bao nhiêu háo hức, hồi hộp trong lòng, ông chẳng ngại. Thậm chí còn như trẻ lại. Và quả nhiên, trời cũng chiều người, nhà văn được chứng kiến một cảnh tượng kì thú. Mặt trời mọc “tròn trĩnh, phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn”. Táo bạo và tài hoa không dừng ở sự so sánh. Hoặc nói đúng hơn, vẫn là so sánh nhưng mở dần ra theo chiều liên tưởng thú vị liên tiếp bất ngờ. Nguyễn Tuân đã đặt cái “quả trứng hồng hào” ấy lên một cái mâm bạc, mà đường kính của nó “rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng” thì thật là đài các, sang trọng. Rồi nhà văn so sánh cảnh tượng thiên nhiên với mâm lễ phẩm nhưng không phải để long trọng dâng lên một thứ quyền uy tối thượng nào (cho phù hợp với cái nghi thức quý phái cao sang) mà đột ngột thân tình: “mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông”. Cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân nếu so với những cái gì trước đày (trước 1945), nó đã đổi chiều. Nhà văn đã tự làm một cuộc cách mạng trong cảm quan của mình trước cuộc sống.


Trung tâm sự sống - sự sống của con người nơi đây là cái giếng nước ngọt của đảo Thanh Luân. Nếu cảnh mặt trời mọc là cảnh của chiêm bao, của mơ mộng, nó thật nghệ sĩ, tài hoa thì cái giếng nước ngọt là tiêu biểu cho cái thực thuần phác và đầy ắp tình người. Cái “thực” ấy được miêu tả theo lối chứng minh cho một cảm nhận trực giác (lòng giếng vẫn còn rớt lại vài cái lá cam lá quýt), nghĩa là không phải một thứ giếng tiên trong thần thoại, cổ tích thời nào. Trước hết, cái giếng ấy thân thuộc biết bao với dân trên đảo. Người ta đến đó để tắm gội, để múc nước mang về, nghĩa là rất giống một thứ giếng làng có gốc đa, bến nước của chốn quê hương các vùng châu thổ. Cái cảm giác có thực của nó được nhận biết không phải bằng trí tưởng tượng mà trên da thịt con người, từ những gầu nước của nó mà nhà văn vừa đi ngắm cảnh mặt trời mọc trở về đang “dội lên đầu lên cổ lên vai lên lưng”. Còn những người lao động bình thường thì có thể múc nước đổ vào mọi thứ: vào thùng gỗ, vào những cong, những ang gốm màu da lươn. Chỉ có một điều khác là cái giếng nước ngọt ấy do vị trí đặc thù của nó ở rìa một hòn đảo giữa nước mặn mênh mông, mà sinh hoạt của con người, xung quanh nó “vui như một cái bến và đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền”. Không chỉ thân thuộc, cái giếng ấy còn như một thứ dòng sữa nuôi người, của mẹ nuôi con. Cảm nhận thứ hai này bất chợt hiện ra khi người viết tìm được một ý tưởng mới lạ trong cái cử chỉ quen thuộc của chị Châu Hoà Mãn địu con. Nhìn cử chỉ “dịu dàng yên tâm” như thế nào của người mẹ, nhà văn mới tìm ra được cái âu yếm nuôi người của biển cả. Hình ảnh người mẹ dịu con gợi “hình ảnh biển cả là mẹ hiền mớm cá cho lũ con lành”. Thì ra biển cả tuy hung dữ thế mà rất đỗi khoan dung.


Như vậy đoạn trích “Cô Tô” đã khắc họa được khung cảnh thiên nhiên và sinh hoạt của con người trên vùng đảo Cô Tô thật trong sáng và tươi đẹp.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 3
(có 0 lượt vote)

Bài văn phân tích tác phẩm "Cô Tô" của Nguyễn Tuân - mẫu 4

Cô Tô là một trong những bài kí tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Tuân. Khi đọc tác phẩm này, khung cảnh thiên nhiên và sinh hoạt của con người trên vùng đảo Cô Tô thật sẽ được khắc họa vô cùng chân thực.


Tác giả quan sát và cảm nhận trận bão bằng những giác quan. Đầu tiên là xúc giác: “Mỗi viên cát bắn vào má vào gáy lúc này buốt như một viên đạn mũi kim”; Rồi đến thính giác “Gió liên thanh quật lia lịa…, Sóng thúc lẫn nhau mà vào bờ âm âm rền rền…, Nó rít lên rú lên…”; Và cả thị giác: “Sóng cát đánh ra khơi, bể đánh bọt sóng vào, trời đất trắng mù mù toàn bãi như là kẻ thù bắt đầu thả hơi ngạt; Gác đào ủy nhiều khuôn cửa kính bị gió vây và dồn, bung hết; Kính bị thứ gió cấp 11 ép, vỡ tung”. Cơn bão hiện lên vô cùng dữ dội.


Quần đảo Cô Tô vừa trải qua cơn bão. Cảnh vật và sự sống như bừng lên, trong sáng, cây cối trên núi đảo xanh mướt như để thi màu sắc với biển. Nước biển màu xanh lam lẫn từng đợt sóng vào bãi cát vàng. Theo nhà văn thì những ngày động biển cá sẽ vắng mặt biệt tích nhưng sau đó thì những mẻ lưới lại nặng thêm, ông kể việc đi tham quan của mình để giới thiệu rằng Cô Tô có cả Tô Bắc, Tô Trung, Tô Nam và nếu trèo lên góc đồi thì nhìn ra bao la Thái Bình Dương, bốn phương tám hướng.


Thật là đẹp cái nắng ở Cô Tô. Nắng soi vào người chiếu ánh trắng lên trên hàm răng. Nắng làm nổi gân cái buồm cánh dơi, nhuộm tươi lại lá buồm nâu cũ. Nhà thơ dùng lối văn miêu tả so sánh vừa lạ vừa sống động: “Sau trận bão, chân trời, ngấn bể sạch như tâm kính lau hết bụi… vài chiếc nhạn mùa thu chao đi chao lại trên mâm bể, sáng dần lên cái chất bạc nén”. Tiếp đến ông quan sát và tả lại màu nước biển của Cô Tô. Đó là một màu xanh luôn biến đổi, mà các dạng màu xanh này phải tìm ở vốn tự vị mới hết được.


Nguyễn Tuân đã để cho màu xanh của nước biển có sự biến hóa linh hoạt. Màu xanh của cỏ cây, núi đồi, không thể đủ phô diễn nhà văn phải so sánh, ví von như màu xanh của áo thư sinh Kim Trọng, Tư mã Giang Châu… Và ông vẫn chưa thỏa mãn với những màu xanh ấy mà còn nói: “màu xanh nước biển chiều nay như trang sử của loài người “nghĩa là như thân tre khi người ta dùng nó để viết… có những màu xanh chỉ miêu ta do cảm quan của nhà văn làm em không hiểu nổi ví như “màu xanh dầu xăng của những người thiếu quê hương”.


Đặc biệt nhất là khung cảnh mặt trời mọc được miêu tả tinh tế. Cả một bầu trời, một chân trời được nhà văn vẽ lên trên giấy: “Quả trứng hồng hào thăm thẳm, và đường bệ đặt lên mâm bạc đường kính rộng cả bằng một cái chân trời màu ngọc trai nước biển, ửng hồng”. Sức tưởng tượng của nhà văn vượt ra khỏi tầm nhìn trở lại trong tâm linh đề minh họa cái bầu trời một buổi sáng kia: “Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông”. Và nhà văn bỗng gặp cả một cảnh kỳ thú tìm thấy từ trong ngữ của minh hòa vào với thiên nhiên trước mắt. “Vài chiếc nhạn mùa thu chao đi chao lại trên mâm bể sáng dần lên các chất bạc nến. Một con hải âu bay ngang là là nhịp cánh”.


Nguyễn Tuân đã khắc họa được nét đẹp chân thực của Cô Tô. Tác phẩm đã đem đến cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 4
(có 0 lượt vote)

Bài văn phân tích tác phẩm "Cô Tô" của Nguyễn Tuân - mẫu 5

Nguyễn Tuân (1910 - 1987), là một nhà văn nổi tiếng được xếp vào hàng một trong chín nhà văn tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại, với sở trường chủ yếu là tùy bút và kí. Trước cách mạng tháng tám các chủ đề của Nguyễn Tuân chủ yếu xoay quanh những vẻ đẹp “vang bóng một thời” với những tác phẩm khá thành công như: Vang bóng một thời, Chiếc lư đồng mắt cua, hay Một chuyến đi... Sau cách mạng, ông tìm đến với chủ đề mới về ngợi ca quê hương đất nước, vẻ đẹp của con người trong lao động, với các tác phẩm tiêu biểu như tùy bút Sông Đà, tập ký Cô Tô, Tùy bút kháng chiến... Đoạn trích Cô Tô là phần cuối của tác phẩm ký Cô Tô, ghi lại những ấn tượng của tác giả về thiên nhiên, con người và cuộc sống lao động sau một chuyến ra thăm đảo Cô Tô.


Tác giả cảm nhận cảnh cơn bão ở Cô Tô qua nhiều giác quan. Đầu tiên là xúc giác: “Mỗi viên cát bắn vào má vào gáy lúc này buốt như một viên đạn mũi kim”; Rồi đến thính giác “Gió liên thanh quật lia lịa…, Sóng thúc lẫn nhau mà vào bờ âm âm rền rền…, Nó rít lên rú lên…”; Và cả thị giác: “Sóng cát đánh ra khơi, bể đánh bọt sóng vào, trời đất trắng mù mù toàn bãi như là kẻ thù bắt đầu thả hơi ngạt; Gác đào ủy nhiều khuôn cửa kính bị gió vây và dồn, bung hết; Kính bị thứ gió cấp 11 ép, vỡ tung”. Cơn bão giống như một kẻ thù đang dàn trận để đánh bại con người.


Tiếp đến, tác giả Nguyễn Tuân đã đi vào miêu tả lại vẻ đẹp trong sáng, tươi trẻ của đảo Cô Tô sau khi trận bão đi qua. Tác giả đã dùng một loạt các tính từ chỉ màu sắc và ánh sáng có sức gợi mạnh mẽ để tái hiện dáng vẻ tinh khôi, trong sáng của đảo Cô Tô sau khi bão tan như: trong trẻo, sáng sủa, xanh mượt, lam biếc, vàng giòn. Không chỉ đặc sắc ở việc dùng lựa chọn từ ngữ mà tài năng của Nguyễn Tuân còn bộc lộ ở cách mà tác giả lựa chọn những cảnh sắc tiêu biểu để gợi ra khung cảnh của Cô Tô như: bầu trời, nước biển, cây trên núi, bãi cát. Đó đều là những hình tượng tiêu biểu của một vùng đảo, cho người đọc những hình dung cơ bản nhất về bức tranh mà Nguyễn Tuân định tái hiện - đảo Cô Tô sau bão. Đứng từ một điểm cao nơi đóng quân của bộ đội, Nguyễn Tuân phóng tầm mắt ra xa mở ra khung cảnh bao la và vẻ đẹp tươi sáng của đảo bằng hai từ “trong trẻo và sáng sủa”. Thiên nhiên nơi đây ngập tràn sức sống với hình ảnh “cây trên núi lại thêm xanh mượt”, gợi ra dáng vẻ sạch sẽ, mướt mát, tinh khiết của cây cối, cùng với đó là màu “lam biếc” đậm đà của nước biển, và sự “vàng giòn” của cát biển, đem đến cho chúng ta một bức tranh khoáng đạt, trong trẻo, với những gam màu nhẹ nhàng, thanh sạch. Bên cạnh đó sự chuyển đổi cảm giác từ thị giác với những gam màu xanh, vàng sang vị giác với các tính từ “đậm đà”, “giòn” đã bộc lộ những cảm nhận tinh tế, sâu sắc của Nguyễn Tuân về vẻ đẹp độc đáo, thanh khiết vô cùng nơi đảo xa. Đồng thời cũng để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả không chỉ là vẻ đẹp của Cô Tô và còn là nghệ thuật dùng từ ấn tượng, đạt đến trình độ thượng thừa của tác giả.


Sang phần tiếp theo của đoạn trích, hình ảnh đảo Cô Tô lại được tác giả tái hiện qua quang cảnh mặt trời mọc trên biển - một cảnh tượng tráng lệ, hùng vĩ và tuyệt đẹp. Ở đoạn này toàn bộ bức tranh tranh trẻo, thanh khiết sau bão đã trở thành nền tảng để làm nổi bật lên vẻ đẹp rực rỡ của bình minh. Hình ảnh mặt trời mọc được đặt trong một khung cảnh rộng lớn, khoáng đạt và trong trẻo với hình ảnh so sánh hết sức độc đáo: “Sau trận bão chân trời, ngấn bể sạch như một tấm kính lau mây hết bụi”, điều đó dễ dàng khiến khán giả liên tưởng đến hình ảnh một vòm trời cao rộng, xanh trong không một gợn mây. Cùng với đó là màu nước biển trong tác phẩm cũng “lam biếc” đậm đà, tạ nên bức phông nền đồng nhất “nước trời một sắc, phong cảnh ba thu” vô cùng thích hợp để làm nổi bật vẻ tuyệt diệu của cảnh mặt trời mọc. Cảnh bình minh trong Cô Tô cũng được Nguyễn Tuân miêu tả một cách đặc biệt: “Mặt trời tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ đặt lên một mâm bạc, đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển ửng hồng”.


So sánh thú vị của Nguyễn Tuân khi biến hình ảnh mặt trời thành một loại thức ăn, việc chuyển đổi cảm giác này mang lại cảm giác chân thực hơn cả, mặt trời trở nên gần gũi, với vẻ đẹp ấm áp “phúc hậu” và thân thuộc với con người. Hơn thế nữa việc sử dụng các tính từ “tròn trĩnh”", “phúc hậu”, “đầy đặn”, "hồng hào", “thăm thẳm” đã đem đến cho người đọc những cảm nhận rõ nét về dáng hình của mặt trời buổi bình minh. Nó khác xa với những cảnh bình minh trừu tượng, xa xăm trong văn học xưa và nay. Khi mà ở đó người ta chỉ thấy được vẻ rực rỡ của những tia nắng, của bầu trời trong xanh, chứ không bao giờ hình dung ra dáng vẻ thật sự của mặt trời, cũng không nhận biết được thực ra vẻ đẹp của bình minh chân chính phải xuất phát từ dáng vẻ mặt trời lúc ló rạng. Không chỉ vậy với sự kỳ vĩ tuyệt vời đó Nguyễn Tuân đã ví sự xuất hiện của mặt trời tựa như một “mâm lễ” quý giá thiêng liêng, một món quà mà tạo hóa hoan hỉ ban tặng cho con người để mừng sự “trường thọ”. Tô điểm thêm cho quang cảnh bình minh rực rỡ là sự xuất hiện của vài “chiếc nhạn”, của cánh hải âu là là, gợi cảm giác thanh bình, chậm rãi nơi biển khơi. Có thể nói rằng trong Cô Tô, Nguyễn Tuân đã thực sự tinh tế và khéo léo khi chọn lọc những từ ngữ và hình ảnh so sánh vô cùng chính xác để đặc tả mặt trời, từ đó làm nổi bật lên vẻ đẹp tráng lệ, rực rỡ và hùng vĩ của bình minh nơi đây.


Với “chủ nghĩa xê dịch” của mình, Nguyễn Tuân luôn đi tìm tòi cái đẹp ở khắp mọi miền Tổ quốc. và trong việc tìm tòi của mình nhà văn ngoài chú ý đến vẻ đẹp của thiên nhiên, thì con người với cuộc sống lao động cũng là một đề tài mà tác giả đặt trọng tâm. Ở Cô Tô cũng không ngoại lệ, sau việc tái hiện vẻ đẹp thiên qua bức tranh trong trẻo, tinh khiết của đảo sau bão và cảnh bình minh rực rỡ huy hoàng, thì Nguyễn Tuân bắt đầu đi vào tìm hiểu những vẻ đẹp của con người trong lao động. Cảnh sinh hoạt được mở ra xoay quanh cái giếng nước ngọt ở rìa đảo rồi mở rộng ra cảnh con thuyền chuẩn bị ra khơi cùng cảnh dân chài gánh nước ngọt từ giếng xuống thuyền. Trong cảm nhận của Nguyễn Tuân cảnh sinh hoạt ở giếng nước ngọt, vui vẻ tấp nập như một cái bến. Tuy nhiên lại “đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền”, nghĩa rằng sự sinh hoạt ở đây luôn mang một sắc thái phóng khoáng dễ chịu, bớt đi cái ồn ào, kẻ mua người bán tranh giành, cãi vã khiến người ta khó chịu.


Với chỉ một câu như vậy tác giả đã dễ dàng cho người đọc những hình dung sơ lược về tính cách của người dân đảo Cô Tô, náo nhiệt, sôi động nhưng hiền hòa, phóng khoáng. Nguyễn Tuân đã chỉ ra sự cảnh lao động vừa tấp nập, khẩn trương, vừa thanh bình ấy trong nhiều ý văn, ví như cảnh “Cái giếng nước ngọt đảo Thanh Luân sớm nay không biết có bao nhiêu người đến và múc”, hay câu “Từ đoàn thuyền sắp ra khơi đến cái giếng ngọt, thùng và cong gánh nối tiếp nhau đi đi về về”. Những lời tả ấy của tác giả đã tái hiện một khung cảnh con người chăm chú lao động, miệt mài với công việc không ngừng nghỉ, cũng làm nổi bật sự đông đúc và dồi dào của giếng nước ngọt với hình ảnh đoàn người nối tiếp nhau "đi đi về về" múc nước đổ lên thuyền chuẩn bị ra khơi. Bên cạnh dáng vẻ khẩn trương, tấp nập của những người dân chài thì cảnh sinh hoạt của đảo Cô Tô còn hiện lên với dáng vẻ thanh bình, chậm rãi trong hình ảnh chị Châu Hòa Mãn địu con mà tác giả “thấy nó dịu dàng và yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền mớm cá cho lũ con lành”.


Đoạn trích Cô Tô là một trong những đoạn trích xuất sắc nhất của tập ký cùng tên. Qua ngòi bút uyên bác, tài hoa lối sử dụng từ ngữ điêu luyện, chính xác và tinh tế nhà văn Nguyễn Tuân đã tái hiện thật sinh động vẻ đẹp của thiên nhiên đảo Cô Tô và cảnh sinh hoạt lao động của những con người nơi đây. Thông qua đó bộc lộ tấm lòng yêu thiên nhiên, tha thiết với những vẻ đẹp kỳ vĩ của đất nước, cũng như tấm lòng sâu nặng, ngợi ca của tác giả với vẻ đẹp của con người trong công cuộc lao động đổi mới và xây dựng đất nước.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 5
(có 0 lượt vote)

Bài văn phân tích tác phẩm "Cô Tô" của Nguyễn Tuân - mẫu 6

Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Một trong những sáng tác nổi bật của ông là đoạn trích Cô Tô, Nguyễn Tuân đã khắc họa lên khung cảnh thiên nhiên và sinh hoạt của con người trên vùng đảo Cô Tô thật trong sáng và tươi đẹp.


Khung cảnh Cô Tô sau cơn bão được tác giả tóm gọn lại bởi hai từ “trong trẻo, sáng sủa”. Sau đó nhà văn bắt đầu khắc họa thiên nhiên Cô Tô. Điểm nhìn của Nguyễn Tuân đã xuất phát từ trên cao xuống dưới thấp. Xuất phát từ nóc đồn trên đảo, nhà văn đã nhìn ra phía mặt biển rộng lớn để chiêm ngưỡng thiên nhiên của Cô Tô. Trên cái nền là bầu trời xanh tươi sáng và mặt nước màu lam biếc, nổi bật lên màu xanh mượt của cây, màu vàng giòn của cát và màu trắng của sóng xô dào dạt vào đảo. Màu xanh bao trùm lên Cô Tô, nhưng với những sắc thái khác nhau. Toàn bộ cảnh đẹp được thu vào tầm mắt khiến nhà ăn “càng thấy yêu mến hòn đảo như bất cứ người chài nào đã từng đẻ ra và lớn lên theo mùa sóng ở đây”.


Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, khung cảnh Cô Tô còn được khắc họa qua cảnh mặt trời mọc. Đây là một bức tranh lộng lẫy, huy hoàng hiếm có. Nhà văn đã miêu tả thật tinh tế: “Sau trận bão, chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây hết bụi. Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ đặt lên một mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển ửng hồng” . Hình ảnh so sánh độc đáo. Cảnh tượng thật hùng vĩ, đường bệ y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông.


Cuối cùng, trong nền thiên nhiên ấy, không thể thiếu đi sự xuất hiện của con người. Hoạt động trên đảo vừa khẩn trương, tấp nập lại vừa vui vẻ, thanh bình. Quanh cái giếng nước ngọt đảo Thanh Luân sớm nay có không biết bao nhiêu là người đến gánh và múc... Người dân chài gánh nước ngọt từ giếng xuống thuyền, chuẩn bị cho mười tám thuyền lớn nhỏ cùng ra khơi đánh cá hồng. Và vẻ đẹp của cuộc sống còn được thể hiện ở suy ngẫm và liên tưởng của nhà văn trước hình ảnh: “Chị Châu Hoà Mãn địu con, thấy nó dịu dàng yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền móm cá cho lũ con lành”. Một hình ảnh cuộc sống rất đỗi đời thường xuất hiện trong trang văn của Nguyễn Tuân.


Tóm lại, đoạn trích “Cô Tô” đã khắc họa được cho người đọc hình ảnh một Cô Tô thật sinh động, chân thực. Thiên nhiên và con người nơi đây đẹp đẽ, hiền hòa làm sao.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 6
(có 0 lượt vote)

Bài văn phân tích tác phẩm "Cô Tô" của Nguyễn Tuân - mẫu 7

Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn trong nền văn học Việt Nam. Đến với đoạn trích Cô Tô, ông đã khắc họa lên khung cảnh thiên nhiên và sinh hoạt của con người trên vùng đảo Cô Tô thật trong sáng và tươi đẹp.


Nguyễn Tuân đã miêu tả đôi nét cảnh Cô Tô trong cơn bão. Nhà văn cảm nhận qua nhiều giác quan: “Mỗi viên cát bắn vào má vào gáy lúc này buốt như một viên đạn mũi kim”; Rồi đến thính giác “Gió liên thanh quật lia lịa…, Sóng thúc lẫn nhau mà vào bờ âm âm rền rền…, Nó rít lên rú lên…”; Và cả thị giác: “Sóng cát đánh ra khơi, bể đánh bọt sóng vào, trời đất trắng mù mù toàn bãi như là kẻ thù bắt đầu thả hơi ngạt; Gác đào ủy nhiều khuôn cửa kính bị gió vây và dồn, bung hết; Kính bị thứ gió cấp 11 ép, vỡ tung”. Một cơn bão vô cùng dữ dội, khủng khiếp.


Sau đó, nhà văn miêu tả lại vẻ đẹp trong sáng, tươi trẻ của đảo Cô Tô sau khi trận bão đi qua. Ông đã dùng một loạt các tính từ chỉ màu sắc và ánh sáng có sức gợi mạnh mẽ để tái hiện dáng vẻ tinh khôi, trong sáng của đảo Cô Tô sau khi bão tan như: “trong trẻo, sáng sủa, xanh mượt, lam biếc, vàng giòn”. Cùng với đó, Nguyễn Tuân đã lựa chọn ra những cảnh sắc tiêu biểu để gợi ra khung cảnh của Cô Tô sau bão như: “bầu trời, nước biển, cây trên núi, bãi cát”.


Lựa chọn điểm nhìn từ trên cao - ở nơi đóng quân của bộ đội, Nguyễn Tuân phóng tầm mắt ra xa mở ra khung cảnh bao la và vẻ đẹp tươi sáng của đảo bằng hai từ “trong trẻo và sáng sủa”. Thiên nhiên nơi đây ngập tràn sức sống với hình ảnh “cây trên núi lại thêm xanh mượt” gợi ra dáng vẻ sạch sẽ, mướt mát, tinh khiết của cây cối, cùng với đó là màu “lam biếc” đậm đà của nước biển, và sự “vàng giòn” của cát biển đem đến cho chúng ta một bức tranh khoáng đạt, trong trẻo, với những gam màu nhẹ nhàng, thanh sạch. Bên cạnh đó sự chuyển đổi cảm giác từ thị giác với những gam màu xanh, vàng sang vị giác với các tính từ “đậm đà”, “giòn” đã bộc lộ những cảm nhận tinh tế, sâu sắc của Nguyễn Tuân về vẻ đẹp độc đáo, thanh khiết vô cùng nơi đảo xa.


Đặc biệt nhất là đoạn văn miêu tả cảnh mặt trời mọc trên biển, một cảnh tượng tráng lệ, hùng vĩ và tuyệt đẹp. Hình ảnh mặt trời mọc được đặt trong một khung cảnh rộng lớn, khoáng đạt và trong trẻo với hình ảnh so sánh hết sức độc đáo “Sau trận bão chân trời, ngấn bể sạch như một tấm kính lau mây hết bụi”. Cùng với đó là màu nước biển trong tác phẩm cũng “lam biếc” đậm đà, tạo nên bức phông nền đồng nhất “nước trời một sắc, phong cảnh ba thu” vô cùng thích hợp để làm nổi bật vẻ tuyệt diệu của cảnh mặt trời mọc. Câu văn miêu tả của Nguyễn Tuân thật tinh tế: “Mặt trời tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ đặt lên một mâm bạc, đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển ửng hồng”. Hình ảnh so sánh độc đáo đã cho thấy tài năng của Nguyễn Tuân.


Cuối cùng là khung cảnh sinh hoạt của người dân trên đảo. Trong cảm nhận của Nguyễn Tuân, cảnh sinh hoạt ở giếng nước ngọt, vui vẻ tấp nập như một cái bến. Tuy nhiên lại “đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền” nghĩa rằng sự sinh hoạt ở đây luôn mang một sắc thái phóng khoáng dễ chịu, bớt đi cái ồn ào, kẻ mua người bán tranh giành, cãi vã khiến người ta khó chịu. Với chỉ một câu như vậy tác giả đã dễ dàng cho người đọc những hình dung sơ lược về tính cách của người dân đảo Cô Tô, náo nhiệt, sôi động nhưng hiền hòa, phóng khoáng.


Như vậy, đoạn trích Cô Tô đã thể hiện được tài năng ngôn từ của nhà văn Nguyễn Tuân. Đây quả là một tác phẩm độc đáo.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 7
(có 0 lượt vote)

Bài văn phân tích tác phẩm "Cô Tô" của Nguyễn Tuân - mẫu 8

Bài văn “Cô Tô” là phần cuối của bài kí Cô Tô của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác phẩm ghi lại những ấn tượng về thiên nhiên, về con người lao động của vùng đảo Cô Tô mà nhà văn thu nhận được trong chuyến đi ra thăm đảo.


Mở đầu đoạn trích, nhà văn đã khắc họa khung cảnh đảo Cô Tô trong cơn bão. Tác giả quan sát và cảm nhận trận bão bằng những giác quan. Đầu tiên là xúc giác: “Mỗi viên cát bắn vào má vào gáy lúc này buốt như một viên đạn mũi kim”; Rồi đến thính giác “Gió liên thanh quật lia lịa…, Sóng thúc lẫn nhau mà vào bờ âm âm rền rền…, Nó rít lên rú lên…”; Và cả thị giác: “Sóng cát đánh ra khơi, bể đánh bọt sóng vào, trời đất trắng mù mù toàn bãi như là kẻ thù bắt đầu thả hơi ngạt; Gác đào ủy nhiều khuôn cửa kính bị gió vây và dồn, bung hết; Kính bị thứ gió cấp 11 ép, vỡ tung”. Có thể thấy, cơn bão giống như một kẻ thù đang dàn trận để đánh bại con người.


Nhưng sau cơn bão, đảo Cô Tô hoàn toàn thay đổi. Tác giả tóm gọn khung cảnh này chỉ bằng hai từ “trong trẻo, sáng sủa”. Nhà văn đã lựa chọn điểm nhìn xuất phát từ trên cao xuống dưới thấp. Nhà văn đã nhìn ra phía mặt biển rộng lớn để chiêm ngưỡng thiên nhiên của Cô Tô. Trên cái nền là bầu trời xanh tươi sáng và mặt nước màu lam biếc, nổi bật lên màu xanh mượt của cây, màu vàng giòn của cát và màu trắng của sóng xô dào dạt vào đảo. Màu xanh bao trùm lên Cô Tô, nhưng với những sắc thái khác nhau. Toàn bộ cảnh đẹp được thu vào tầm mắt khiến nhà ăn “càng thấy yêu mến hòn đảo như bất cứ người chài nào đã từng đẻ ra và lớn lên theo mùa sóng ở đây”. Bức tranh thiên nhiên hiện lên với nét chân thực nhất.


Đặc sắc hơn cả là đoạn văn miêu tả cảnh mặt trời mọc: “Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ đặt lên một mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển ửng hồng”. Cách so sánh độc đáo, cho thấy tài năng sử dụng ngôn ngữ bậc thầy của Nguyễn Tuân. Đồng thời, vẻ đẹp của Cô Tô hiện lên thật tráng lệ, hùng vĩ và tuyệt đẹp.


Nhưng không dừng lại ở đó, để cho bài văn thêm hấp dẫn hơn, nhà văn đã miêu tả khung cảnh sinh hoạt của con người. Hoạt động trên đảo vừa khẩn trương, tấp nập lại vừa vui vẻ, thanh bình. Quanh cái giếng nước ngọt đảo Thanh Luân sớm nay có không biết bao nhiêu là người đến gánh và múc... Người dân chài gánh nước ngọt từ giếng xuống thuyền, chuẩn bị cho mười tám thuyền lớn nhỏ cùng ra khơi đánh cá hồng. Đặc biệt là hình ảnh liên tưởng “Chị Châu Hoà Mãn địu con, thấy nó dịu dàng yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền móm cá cho lũ con lành”. Khung cảnh sinh hoạt của Cô Tô khiến cho thiên nhiên Cô Tô trở nên có sức sống hơn.


Như vậy, đoạn trích Cô Tô của Nguyễn Tuân đã khắc họa vẻ đẹp của huyện đảo Cô Tô thật sinh động, chân thực.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 8
(có 0 lượt vote)

Bài văn phân tích tác phẩm "Cô Tô" của Nguyễn Tuân - mẫu 9

Bài kí Cô Tô của Nguyễn Tuân là một tác phẩm đặc sắc mà ở đó đoạn tả mặt trời mọc trên biển đã để lại cho người đọc sự thích thú, ham mê và trí tưởng tượng sâu sắc nhất.


Cảnh mặt trời mọc trên biển là một bức tranh rất đẹp và đầy chất thơ. Đây là đoạn văn miêu tả đẹp nhất của bài kí. Như một “sản phẩm quí”, vẻ đẹp của thiên nhiên như dâng sẵn, đón chờ, nhưng không phải ai cũng có thể cảm nhận được vẻ đẹp ấy một cách đầy đủ và tinh tế. Chính vì thế mà ngắm nhìn bình minh Cô Tô đối với Nguyễn Tuân không phải là một thú vui hưởng thụ, dễ dãi, thụ động mà là cả một cuộc đi tìm cái đẹp một cách công phu, đầy sự khám phá, sáng tạo. Như một nghệ sĩ đi săn lùng cái đẹp, Nguyễn Tuân đã dậy từ canh tư, lúc còn tối đất, cố đi mãi trên đá đầu sư, ra thấu đầu mủi đảo. Và ngồi đó rình mặt trời lên. Người đọc cảm mến tác giả vì lòng yêu quí, tôn thờ “cái đẹp” và cảm phục, thích thú vì công phu tìm kiếm cái đẹp của người nghệ sĩ, hồi hộp cùng tác giả chờ đón cái “đẹp” xuất hiện.


Rạng đông được tác giả miêu tả trong một câu rất súc tích và giàu sức gợi cảm. Chân trời, ngấn bể "sạch như một tấm kính lau hết mây, hết bụi" - cảnh rất thực mà đẹp thần tiên, trong trẻo, tinh khiết. Nguyễn Tuân đã khéo léo, tinh tế tạo ra cái “phông”, cái nền cho vầng dương hiện trên mặt biển: Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh và phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Hình ảnh so sánh mà tác giả đã dùng ở đây thật là đặc sắc, vừa rất thực mà cũng rất mơ, rất kì ảo. “Thực” là vì qua làn hơi nước của mặt biển, mắt thường có thể nhìn rõ hình dáng “tròn trĩnh” của vầng thái dương. Mặt trời lúc ấy dịu êm, chưa chói lóa, chưa làm nhức mắt, khiến cho người ta có thể ngắm nhìn và có cảm giác vầng mặt trời hiền hòa phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn.


Hình ảnh so sánh “rất mơ” rất kì ảo vì nó là kết quả của óc quan sát, nhận xét tinh tế và kết hợp với trí tưởng tượng phong phú, táo bạo của tác giả. Không dừng ở đó, óc quan sát sắc sảo, tâm hồn tinh tế, kết hợp với trí tưởng tượng phong phú, táo bạo của Nguyễn Tuân đã biến những lời văn miêu tả của ông thành một bức tranh sơn mài tráng lệ. Sự am hiểu của tác giả về hội hoạ tăng thêm hiệu lực cho ngòi bút miêu tả, đoạn văn giàu chất tạo hình và màu sắc khiến nó sáng rực lên, đẹp một vẻ đẹp kì ảo mà lại rất thực.


Người đọc chưa hết sững sờ trước hình ảnh so sánh mặt trời tròn trĩnh, phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn, thì lại sững sờ trước một vẻ đẹp kì ảo khác: Quả trứng hồng hào, thăm thẳm và đường bệ đặt lên một mâm bạc, đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng. Ba tính từ đặt liên tiếp cạnh nhau (hồng hào, thăm thẳm, đường bệ) có tác dụng tả màu sắc, trạng thái, hình dáng mặt trời làm cho nó nổi bật lên trên cái mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng. Màu hồng và màu ánh bạc là hai màu sắc có sức gợi cảm của tranh sơn mài, cũng là hai màu sắc chủ đạo của bức tranh này.


Vẻ đẹp của mặt trời mọc trên biển Cô Tô quả là tặng vật vô giá của thiên nhiên ban cho người lao động suốt đời gắn bó với biển cả. Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông. Câu văn đẹp, một vẻ đẹp cổ điển, mẫu mực. Hình ảnh so sánh vầng mặt trời và bầu trời trên biển Cô Tô như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh... là một hình ảnh hết sức trang trọng, uy nghi, lộng lẫy và giàu chất nhân bản vì nó hướng tới “Con người”, vì “Con người”, kính trọng người lao động.


Ta như có cảm giác thiên nhiên vĩ đại đang tự đẹp lên vì “Con người”, đang cung kính dâng lễ phẩm trong buổi lễ mừng thọ tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông. Và cùng lúc, chúng ta đón nhận mâm lễ phẩm của Nguyễn Tuân, một mâm lễ phẩm sang trọng, ông dâng cho muôn thuở văn chương: những trang viết tài hoa, huy hoàng của ông! Đến đây, người đọc cảm phục Nguyễn Tuân vì tài văn chương mà cũng vô cùng kính trọng cái “tâm” rất đẹp của ông. Cái “Tâm” rất đẹp của Nguyễn Tuân luôn hướng về người dân lao động của đất nước mình.


Bức tranh bình minh trên biển Cô Tô sẽ giảm đi rất nhiều vẻ đẹp nếu như nhà văn không điểm vào đó mấy cánh chim không khi nào thiếu vắng trên biển. Vài chiếc nhạn mùa thu chao đi chao lại trên mâm bể sáng dần lên cái chất bạc nén. Một con Hải âu bay ngang là là nhịp cánh. Đôi nét chấm phá cuối cùng đã hoàn tất bức tranh, làm cho bức tranh sống động, đầy chất thơ. Đây là những cánh chim xưa thường chấp chới, sáng lên trong những áng thơ cổ điển. Trong đoạn văn này, những cánh chim biển nhỏ nhoi có tác dụng rất lớn: nó thổi hồn thơ vào văn xuôi. Phải chăng đó là nét tài hoa của ngòi bút văn chương Nguyễn Tuân.


Đoạn kí của Nguyễn Tuân đã giúp em chiêm ngưỡng, thưởng thức vẻ đẹp lộng lẫy, tráng lệ và kì diệu của mặt trời mọc trên biển Cô Tô. Cảm ơn nhà văn với trí sáng tạo đã khám phá, đã “vẽ” lên trong văn chương vẻ đẹp của Cô Tô, giúp ta thêm yêu vùng đảo xa xôi này. Cảm ơn Nguyễn Tuân đã dạy ta cả cách đến với “Cái đẹp”.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 9
(có 0 lượt vote)

Bài văn phân tích tác phẩm "Cô Tô" của Nguyễn Tuân - mẫu 10

Nguyễn Tuân (1910 - 1987) quê ở Hà Nội, là nhà văn nổi tiếng, sở trường về thể tùy bút và kí. Tác phẩm của Nguyễn Tuân luôn thể hiện phong cách độc đáo, tài hoa, sự hiểu biết phong phú nhiều mặt và vốn ngôn ngữ giàu có, điêu luyện. Bài văn Cô Tô là phần cuối của bài kí Cô Tô - tác phẩm ghi lại những ấn tượng về thiên nhiên, con người lao động ở vùng đảo Cô Tô mà nhà văn Nguyễn Tuân thu nhận được trong chuyến ra thăm đảo.


Cô Tô là một quần đảo gồm nhiều đảo nhỏ trong vịnh Bái Tử Long (thuộc vịnh Bắc Bộ), cách bờ biển tỉnh Quảng Ninh khoảng 100 km. Ngoài cá, biển Cô Tô còn nổi tiếng về mực, ngọc trai, hải sâm, bào ngư. Và tất nhiên ngoài sự thuận lợi, phong phú về hải sản, Cô Tô cũng gặp khó khăn từ thiên nhiên như bất cứ một quần đảo nào khác, đó là dông bão. Người đọc biết được khó khăn ấy không ở môn học địa lí mà ở ngay những câu văn mở đầu của đoạn trích. Tác giả đã bốn ngày ở đảo. “Ngày thứ năm trên đảo Cô Tô là một ngày trong trẻo, sáng sủa.


"[...], sau mỗi lần dông bão, bao giờ bầu trời Cô Tô cũng trong sáng như vậy”. Và bắt đầu từ thời điểm đó, buổi sáng vào “ngày thứ năm”, Nguyễn Tuân kể lại chuyến đi thăm đảo của ông. Mục đích là đi thăm người, nhưng ai cấm được cặp mắt ông xem cảnh? Nguyễn Tuân cùng một nhóm người leo dốc. Trên đường đi, ông quan sát và so sánh: “Cây trên núi đảo lại thêm xanh mượt, nước biển lại lam biếc đậm đà hơn hết cả mọi khi, và cát lại vàng giòn hơn nữa”. Trong câu văn ấy, ngoài nghệ thuật so sánh nhà văn còn vận dụng các tính từ như “mượt, đậm đà, giòn” để làm tăng thêm độ tươi, láng mịn, độ trong của cỏ cây, cát và nước biển. Và tác giả cũng không quên đề cập tới nguồn lợi kinh tế chính của người dân vùng đảo: Cá có biệt tăm trong những ngày biển động thì lại tràn về lúc biển lặng.


Mục đích của việc leo dốc là “lên đồn Cô Tô hỏi thăm sức khỏe anh em bộ binh và hải quân cùng đóng sát nhau trong cái đồn khố xanh cũ ấy”. Trong câu văn, tác giả không quên nhắc tới “đồn khố xanh”, cái đồn dành cho “sắc lính trong quân đội thuộc địa dưới chế độ thực dân Pháp. Lính khố xanh canh giữ các công sở, địa phương, chân có quấn xà cạp màu xanh để phân biệt với các sắc lính khác”. Nó là một chứng tích lịch sử về chủ quyền quốc gia. Gặp nhau tay bắt mặt mừng, khách nhìn tận mắt, nghe tận tai vóc dáng và giọng nói cười của chú là biết ngay “sức khỏe” của chú. Và chú cũng không quên mời khách “trèo lên nóc đồn” để hòa mình vào khoảng bao la của Thái Bình Dương, mặc sức mà ngắm toàn cảnh đảo Cô Tô, và phóng tầm mắt nhìn qua những hòn đảo khác. Thế là hết ngày thứ năm trên đảo...


Qua ngày thứ sáu, nhà văn đón mặt trời trên đảo Thanh Luân. Đây là một đoạn văn tiêu biểu về nghệ thuật chọn lựa hình ảnh để so sánh làm tăng vẻ đẹp vốn đã quyến rũ của cảnh mặt trời lên trên đảo Thanh Luân. Nhà văn đã thức từ canh tư, cố đi qua “đá đầu sư”, viên đá tròn trơn láng đã được so sánh cụ thể như thế. Chân trời, ngấn bể thì được so sánh “sạch như tấm kính lau hết mây hết bụi”. So sánh như thế thì chắc không bầu trời nào trong sáng hơn. Hình ảnh mặt trời lên ở đảo được tác giả miêu tả thật tuyệt vời.


Cả một đoạn văn dài tác giả sử dụng phép so sánh, ví chân trời như cái “mâm bạc”. Đặt trên cái mâm bạc ấy là mặt trời “tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng”. Tất cả “y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông”. Một so sánh trang trọng, rực rỡ và tráng lệ khiến người đọc choáng ngợp trước vẻ đẹp kì vĩ của cảnh mặt trời mọc ở đảo sau ngày bão dông. Đấy là quà tặng của nhà văn cho cả thiên nhiên lẫn con người vùng đảo hòa hợp và kiên cường qua tài dùng từ gợi hình để so sánh.


Ba đoạn văn ở phần cuối tác giả miêu tả cảnh sinh hoạt của người dân trên đảo khi mặt trời đã lên cao chung quanh “Cái giếng nước ngọt ở ria một hòn đảo giữa bể, cái sinh hoạt của nó vui như một cái bến và đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền”. Cùng với lối viết so sánh để nhấn mạnh về lối sống thân tình của người dân vùng bốn bề đều là biển mặn. Ở một vùng đất như thế thì cái giếng nước ngọt là điểm tập trung quý vô cùng. Người ở đảo gặp nhau lúc ra giếng tắm, lúc đến múc và gánh nước về nhà để dùng, kể cả “bao nhiêu là thuyền của hợp tác xã đang mở nắp sạp đổ nước ngọt vào”. Sinh hoạt của người dân ở giếng nước ngọt là như thế.


Nhà văn cũng không quên đề cập đến một gia đình mà cả chồng lẫn vợ đều có mặt ở giếng nước ngọt sáng hôm ấy: gia đình anh hùng Châu Hòa Mẫn. Anh thì quẩy mười lăm gánh nước cho thuyền của mình. Buổi sáng hôm ấy hợp tác xã Bắc Loan Đầu của anh cho mười tám thuyền lớn nhỏ cùng ra khơi. Và như anh cho biết: “Đi ra khơi, xa lắm mà có khi mười ngày mới về. Nước ngọt cho vào sạp, chỉ để uống. Vo gạo thổi cơm cũng không được lấy nước ngọt. Vo gạo bằng nước bể thôi”.


Nước ngọt quý đến như vậy đấy. Còn giữa đám đông người gánh nước nối tiếp đi về, nhà văn “Trông chị Châu Hòa Mẫn địu con, thấy nó dịu dàng yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền mớm cá cho lũ con lành”. Từ cái giếng nước ngọt “đậm đà mát nhẹ” tới hình ảnh của chị Châu Hòa Mẫn địu con, đoạn văn đã giới thiệu cho người đọc nhận ra sự cần mẫn và tình người chan hòa vui vẻ và đậm đà của con người trên đảo.


Sử dụng ngôn ngữ điêu luyện, chọn hình ảnh so sánh độc đáo, tinh tế và giàu màu sắc, Nguyễn Tuân đã mang đến cho người lọc cảnh thiên nhiên đẹp đến tuyệt vời, tình người chan hòa, hiền hậu ở đảo Cô Tô. Không chỉ yêu thương thêm Tố quốc, người còn mong muốn được đến thăm hòn đảo đáng yêu quý này, ít nhất là một lần trong đời.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 10
(có 0 lượt vote)

Bài văn phân tích tác phẩm "Cô Tô" của Nguyễn Tuân - mẫu 11

Nguyễn Tuân là một trong những tác giả lớn của văn học Việt Nam. Các tác phẩm của ông luôn thể hiện một cái nhìn mới mẻ, độc đáo về con người và thiên nhiên đặc biệt là trong các bài kí. Bài kí Cô Tô là một trong những tác phẩm viết về vẻ đẹp kì thú của một huyện đảo thuộc vịnh Bắc Bộ - huyện đảo Cô Tô. Đoạn trích Cô Tô trong sách giáo khoa đã cho thấy cái nhìn tinh tế, nhạy cảm của Nguyễn Tuân về con người và thiên nhiên nơi đây.


Đoạn trích ghi lại những khoảnh khắc của Cô Tô ở ba khung cảnh khác nhau: Cô Tô sau cơn bão, cảnh mặt trời mọc và khung cảnh sinh hoạt trên đảo. Ở mỗi lớp cảnh, Nguyễn Tuân lại cho thấy cách quan sát tinh tế, tài hoa và nghệ thuật điều khiển từ ngữ tài ba của mình.


Mở đầu là khung cảnh Cô Tô sau cơn bão, Nguyễn Tuân bắt đầu điểm nhìn của mình từ bầu trời, đó là một ngày “trong trẻo, sáng sủa” khi mây đen và bụi bẩn đã bị xua tan hết. Điểm nhìn tiếp tục di chuyển xuống hàng cây, mặt nước và xa hơn là cả trong lòng biển mênh mông, rộng lớn: “Cây trên núi đảo lại thêm xanh mượt”, “nước biển lại lam biếc đậm đà hơn”, “cát lại vàng giòn hơn nữa”. Chỉ trong một câu văn ngắn Nguyễn Tuân đã sử dụng hàng loạt các tính từ chỉ màu sắc (xanh, lam, vàng), cùng với nghệ thuật chuyển đổi cảm giác (cát vàng giòn) cho ta thấy thiên nhiên đẹp đẽ, tinh khôi, trong trẻo và giàu sức sống.


Điều đặc biệt để làm nổi bật vẻ đẹp thiên nhiên Cô Tô, Nguyễn Tuân đã tỏ ra vô cùng tinh tế trong cách xử lí ngôn từ. Sự kết hợp các từ ngữ vô cùng độc đáo, những từ chỉ màu sắc luôn đi kèm thêm một tính từ khác: xanh đi cùng mượt, lam biếc kết hợp với đậm đà, vàng kết đôi với giòn. Với sự kết hợp từ ngữ linh hoạt Nguyễn Tuân đã cho người đọc hình dung đầy đủ, rõ nét hơn về vẻ đẹp của Cô Tô. Qua đó còn cho thấy khả năng quan sát tinh tế, tình yêu thiên nhiên tha thiết của ông. Bởi nếu không có tình yêu sâu đậm với thiên nhiên nơi đây thì Nguyễn Tuân sẽ không thể nào nhận ra những vẻ đẹp tiềm ẩn của chúng.


Sau đó tác giả cùng với mọi người quay gót ngắm toàn cảnh Cô Tô, ngắm sự thanh bình, trời biển đã thuộc về nhân dân ta khiến cho bức tranh trở nên đầy đủ hơn. Bức tranh thiên nhiên Cô Tô sau cơn bão tràn ngập màu sắc, sức sống và xen vào đó là cả niềm tự hào của tác giả về quê hương, xứ sở.


Là một con người ưa khám phá, tìm tòi để phát hiện những vẻ đẹp tuyệt mĩ của tạo hóa, Nguyễn Tuân đã không bỏ qua cảnh mặt trời mọc trên đảo Cô Tô. Để không bỏ lỡ khoảnh khắc mặt trời mọc, ngay từ canh tư tác giả đã ra thấu đầu mũi đảo. Và khoảnh khắc mặt trời từ từ xuất hiện thật tráng lệ, lúc này chân trời, ngấn bể “sạch như tấm kính lau hết mây hết bụi”. Bằng trí tưởng tượng phong phú, Nguyễn Tuân đã ghi lại khoảnh khắc mặt trời mọc thật huy hoàng, rực rỡ: mặt trời “tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn”, quả trứng ấy chính là lễ vật mà thiên nhiên ban tặng và được đặt trên một chiếc mâm mà đường kính của mâm bằng cả cái chân trời màu ngọc trai ửng hồng.


Mâm lễ vật này thiên nhiên ban tặng cho sự trường thọ của những người dân chài lưới. Với việc sử dụng hàng loạt biện pháp so sánh, Nguyễn Tuân đã vẽ nên khung cảnh mặt trời mọc vô cùng hùng vĩ, tráng lệ. Nguyễn Tuân cũng thật tài hoa khi miêu tả những con nhạn bay, miêu tả chúng tác giả không dùng từ con mà dùng “vài chiếc nhạn mùa thu chao đi chao lại” khiến người đọc hình dung cánh nhạn như những chiếc thoi đưa trên mặt biển với tốc độ di chuyển nhanh, khiến bức tranh càng trở nên sống động và thơ mộng hơn.


Sau sự huy hoàng, rực rỡ của thiên nhiên là cuộc sống hết sức bình dị của người dân trên đảo. Tác giả đã chọn cái giếng nước ngọt để đặt bút miêu tả cuộc sống con người nơi đây. Ông hòa vào nhịp sống của mọi người để cảm nhận đầy đủ nhất hơi thở, nhịp sống của con người trên đảo Cô Tô. Hình ảnh so sánh “cái giếng trên đảo như một cái bến nhưng đậm đà, mát mẻ hơn mọi cái bến trong đất liền” quả là một sự so sánh độc đáo, thú vị.


Mọi người gánh và múc nước nhộn nhịp để chuẩn bị cho cuộc sống, cho những chuyến ra khơi mới. Nhịp sống rộn ràng của gia đình anh chị Châu Hòa Mãn vô cùng ấm áp, bình dị. Hình ảnh chị Châu Hòa Mãn địu con khiến nhà văn bỗng liên tưởng chị như người mẹ hiền mớm cá cho lũ con lành, sự liên tưởng đó thật bất ngờ và thi vị. Cuộc sống sinh hoạt trên biển vừa sôi động, mạnh mẽ nhưng đồng thời cũng nhẹ nhàng, đời thường.


Đoạn trích "Cô Tô" đã cho ta thấy những nét đặc sắc nghệ thuật của ngòi bút Nguyễn Tuân. Những trường liên tưởng độc đáo, bất ngờ kết hợp với việc sử dụng đa dạng các biện pháp so sánh, ẩn dụ,… ngôn từ miêu tả điêu luyện và con mắt quan sát tinh tường đã góp phần làm nổi bật vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Cô Tô.


Ba khung cảnh, ba bức tranh được Nguyễn Tuân vẽ nên thật đẹp đẽ, tài tình. Tất cả đều cho thấy nét tài hoa trong việc xử lí ngôn ngữ của ông. Qua bức tranh đó, Nguyễn Tuân vừa ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, con người nơi Cô Tô vừa ngợi ca vẻ đẹp của đất nước, dân tộc Việt Nam.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 11
(có 0 lượt vote)

Bài văn phân tích tác phẩm "Cô Tô" của Nguyễn Tuân - mẫu 12

Nguyễn Tuân được đánh giá là người nghệ sĩ bậc thầy của nghệ thuật ngôn từ. Có lẽ chưa ở nhà văn Việt Nam hiện đại nào, nghệ thuật tu từ lại được khai thác triệt để đến vậy. Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, khi mỗi sáng tác là một khám phá khác nhau cái tôi cá nhân cá thể, đã là vậy. Sau cách mạng, hòa mình vào đời sống chiến đấu và dựng xây của toàn dân tộc, mỗi sáng tác còn là sự mở rộng khám phá sự đa dạng, phong phú và sinh động đời sống đất nước. Và càng mở rộng sự khám phá, tài năng ngôn ngữ văn chương của Nguyễn Tuân càng có cơ hội bộc lộ, nở rộ. Có rất ít nhà văn lựa chọn con đường sáng tạo như là một "phu chữ" trên cánh đồng văn chương như vậy, và càng ít hơn, những nhà văn không ngừng bồi đắp được cái khiếu ngôn ngữ của mình và gặt hái được nhiều thành công như Nguyễn Tuân.


Cô Tô là một bài kí thu hoạch nhân chuyến đi thực tế quần đảo này, đã thể hiện nhiều nét tài năng ngôn ngữ văn chương của Nguyễn Tuân. Trích đoạn được giới thiệu trong sách giáo khoa nằm ở phần cuối của bài kí, miêu tả vẻ tươi đẹp của thiên nhiên và con người trên quần đảo sau cơn bão biển. Ngay bắt đầu vào đoạn này, Nguyễn Tuân đã có mấy câu miêu tả khái quát rất giàu sức gợi: "Ngày thứ năm trên đảo Cô Tô là một ngày trong trẻo, sáng sủa.


Từ khi có vịnh Bắc bộ và từ khi quần đảo Cô Tô mang lấy dấu hiệu của sự sống con người thì, sau mỗi lần dông bão, bao giờ bầu trời Cô Tô cũng trong sáng như vậy. Cây trên núi đảo lại thêm xanh mượt, nước biển lại lam biếc đặm đà hơn hết cả mọi khi, và cát lại vàng giòn hơn nữa. Và nếu cá có vắng tăm biệt tích trong ngày động bão, thì nay lưới càng thêm nặng mẻ cá giã đôi". Ở đây xuất hiện nhiều cấp độ so sánh, không đơn thuần chỉ là so sánh vẻ "trong trẻo, sáng sủa" của ngày hôm nay với vẻ "thiên hôn địa ám" của mấy ngày bão tràn về đảo, mà là một sự so sánh ngầm rất ấn tượng, trong cách dùng các tổ hợp hàm ý so sánh: "từ khi... thì... bao giờ... cũng... như vậy", "lại thêm", "lại... hơn hết cả", "nếu... thì nay".


Điều này không chỉ cho thấy Nguyễn Tuân đã phải cất công thế nào để tìm hiểu về Cô Tô khi viết bài kí này, mà quan trọng hơn, xuất phát từ niềm tự hào khi được chứng kiến "sự chiến đấu dũng cảm của con người" trước thiên tai, và nữa, bởi lòng "yêu mến hòn đảo như bất cứ người chài nào đã từng đẻ ra và lớn lên theo mùa sóng ở đây".Nếu như mấy câu mở đầu bao quát lấy Cô Tô ở vẻ đẹp của thiên nhiên (bầu trời, cây núi, mặt biển, bãi cát), của cuộc sống con người (lưới thêm nặng mẻ cá giã đôi) thì ở những trang viết sau, Nguyễn Tuân đi vào miêu tả chi tiết một vài vẻ đẹp tiêu biểu ấy. Vẫn khai thác phép so sánh, nhưng với một sự hiểu biết sâu rộng và vốn ngôn ngữ phong phú, Nguyễn Tuân có được những trang viết đáng được coi là tuyệt bút.


Chúng ta có thể tìm hiểu bút lực và sự tài hoa của Nguyễn Tuân bằng việc phân tích và so sánh cách viết hai đoạn văn dưới đây:Đoạn một: "Nước bể Cô Tô sao chiều nay nó xanh quá quắt đến như vậy? Ai dám bảo rằng mình đã thuộc tên của hết thảy loài cá trên khắp biển lớn biển con? Ai đã ghi chép cho hết những hình trang trí trên mình cá? Cái màu xanh luôn luôn biến đổi của nước bể chiều nay trên biển Cô Tô như là thử thách cái vốn từ vị của mỗi đứa tôi đang nổi gió trong lòng. Biển xanh như gì nhỉ? Xanh như lá chuối non? Xanh như lá chuối già? Xanh như mùa thu ngả cốm làng Vòng? Nước biển Cô Tô đang đổi từ vẻ xanh này sang vẻ xanh khác. Nó xanh như cái mầu áo Kim Trọng trong tết Thanh Minh? Đúng một phần thôi.


Bởi vì con sóng vừa dội lên kia đã gia giảm thêm một chút gì, đã pha biển sang màu khác. Thế thì nước biển xanh như cái vạt áo nước mắt của ông quan Tư Mã nghe đàn tì bà trên con sóng Giang Châu thì có đúng không? Chưa được ư? Thế thì nó xanh như một màu áo cưới, được không? Hay là nói thế này: nước biển chiều nay xanh như một trang sử của loài người, lúc con người phải viết vào thân tre? Nghe hơi trừu tượng phải không? Mà kìa, nhìn cho kỹ mà xem, nước biển đang xanh cái màu xanh dầu xăng của những người thiếu quê hương. Cũng không phải là sợ lai căng, nghe như nó vẫn chưa trúng vẫn chưa được phải không? Sóng cứ kế tiếp cái xanh muôn vẻ mới, và nắng chiều luôn luôn thay màu cho sóng. Mà chữ thì không tài nào tuôn ra kịp với nhịp sóng. Đua với sóng, chỉ có mà thua thôi.


Chao ôi nước biển Cô Tô chiều nay xanh cái màu xanh của Ngọc Bích, hoặc là chao ôi nó xanh như một niềm hy vọng trên cửa bể. Nghe nó lại càng chung chung, chưa sướng gì nhưng thôi, hãy tạm khoanh lại đó đã".Đoạn hai: "Mặt trời lại rọi lên ngày thứ sáu của tôi trên đảo Thanh Luân một cách thật quá là đầy đủ. Tôi dậy từ canh tư. Còn tối đất, cố đi mãi trên đá đầu sư, ra thấu đầu mũi đảo. Và ngồi đó rình mặt trời lên. Điều tôi dự đoán, thật là không sai. Sau trận bão, chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây hết bụi. Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ đặt lên một mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng. Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông".


Ở đoạn thứ nhất, màu xanh nước biển là chủ đề vẫy gọi các so sánh, liên tưởng. Nó đứng ở vị trí trung tâm vẫy gọi các hình ảnh tương đồng khác. Từ những sự vật hiện tượng cụ thể: lá chuối non, lá chuối già, mùa thu ngả cốm làng Vòng đến những điều trừu tượng hơn: màu áo Kim Trọng trong tết Thanh Minh (từ trong câu Kiều: Tuyết in sắc ngựa câu giòn/ Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời), cái vạt áo nước mắt của ông quan Tư Mã nghe đàn tì bà trên con sóng Giang Châu (từ trong thơ Tì bà hành của Bạch Cư Dị: Giang Châu Tư Mã thanh sam thấp/ Giang Châu Tư Mã đượm màu áo xanh), hay cảm tính hơn: màu áo cưới, một trang sử của loài người, cái màu xanh dầu xăng của những người thiếu quê hương... để rồi đi đến tạm chấp nhận hai điều được đem ra để so sánh dẫu còn "chung chung": Ở chiều cụ thể, màu xanh của ngọc bích, một cái màu biến ảo theo chính độ tuổi của ngọc cũng như những môi trường khác nhau mà viên ngọc được thành hình, và ở chiều cảm tính, niềm hy vọng trên cửa bể, vừa có cái gì đó man mác buồn theo cái ý vẫn lấy từ Truyện Kiều, "Buồn trông ngọn cỏ rầu rầu/ Chân mây mặt đất một màu xanh xanh", vừa ánh lên khát vọng và niềm tin, trong cái cách mà người dân chài chờ đợi mẻ cá đầy và sự may lành mỗi lần ra khơi.


Ở đoạn thứ hai, không còn là sự so sánh của cái này với những cái khác nữa, mà là cái nọ vẫy gọi cái kia trong một trò dượt đuổi liên tiếp những hình dung, so sánh. Cái việc ngắm "hụt" cảnh bình minh trên biển Trà Cổ Sa Vỹ trên đường ra đảo khiến cho việc ngắm cảnh mặt trời lên ở đây được chuẩn bị chu đáo. Không chỉ là "dậy từ canh tư", "cố đi mãi trên đá đầu sư, ra thấu đầu mũi đảo", mà còn trong hành động "rình" mặt trời lên, cứ như thể nếu lộ liễu quá thì mặt trời sẽ không lên tỏ nữa, dù đã dự đoán "sau trận bão, chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây hết bụi", không còn gì có thể che lấp mặt trời. Vậy mà, cảnh mặt trời mọc trên biển vẫn đẹp rực rỡ đến sững sờ! Một lần nữa, cảnh đẹp Cô Tô lại "thử thách cái vốn tự vị" của tác giả vốn đã sẵn "nổi gió trong lòng".


Và để lột hiện bức tranh mặt trời lên, biện pháp so sánh lại được huy động. Đầu tiên là mặt trời tỏ "tròn trĩnh phúc hậu" được đem ra so sánh với "lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn". Tất cả được "đặt lên một mâm bạc" mà "đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng". Rồi cả cái mâm ấy lại "y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông"... Nếu như ở đoạn thứ nhất, màu xanh nước biển là trung tâm của mọi so sánh, như hải đảo Cô Tô giữa biển trời vịnh Bắc bộ, nơi sóng bể tràn vào rồi lại loang rộng ra xa, thành những vòng sóng; thì ở đoạn thứ hai, mỗi so sánh lại tạo thành những con sóng nối tiếp, tạo thành nhịp sóng, nơi những người chài lưới Cô Tô vượt sóng ra khơi.


Đó là vẻ đẹp trong sáng, kì vĩ của Cô Tô, bên cạnh vẻ đẹp bình dị thường ngày của nó. Như bên cái giếng nước ngọt ở ria hòn đảo, nơi người dân sinh hoạt và lấy nước cho mỗi chuyến xa khơi, "vui như một cái bến và đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền". Chỉ đến chỗ này, khi hòa vào không khí sinh sống và lao động của người dân, cái màu xanh nước biển "xanh như mầu hy vọng trên cửa bể" mới thực sự được định hình. Nó không còn cái man mác buồn trước nỗi bấp bênh, chìm nổi của thân phận con người khi xưa, mà nó ánh ỏi lên niềm vui sống, trong phong thái, dáng hình của chị Châu Hòa Mãn địu con tiễn chồng ra khơi, "dịu dàng yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền mớm cá cho lũ con lành".

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Hi vọng bài viết trên mang lại nhiều giá trị cho bạn. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài văn hay trên Alltop.vn

Hãy đăng nhập để bình luận

Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .