Top 5 nữ nhà thơ nổi danh nhất trong phong trào thơ mới
Ghi nhận những đóng góp của những gương mặt thơ ca nữ trong phong trào Thơ mới, có thể ta không nhắc đến họ như những cây đại thụ, như những phong cách nghệ thuật...xem thêm ...
Anh Thơ (1918 - 2005)
Anh Thơ (25 tháng 1 năm 1918 - 14 tháng 3 năm 2005), tên thật là Vương Kiều Ân, các bút danh khác: Hồng Anh, Tuyết Anh, Hồng Minh; là một nhà thơ nữ Việt Nam. Anh Thơ sinh tại thị trấn Ninh Giang, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương; quê quán: thị xã Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Cha bà là một nhà nho đậu tú tài và ra làm công chức cho Pháp nên phải thuyên chuyển nhiều nơi, Anh Thơ cũng phải đổi trường học từ Hải Dương sang Thái Bình rồi về lại Bắc Giang mà vẫn chưa qua bậc tiểu học. Ban đầu, bà lấy bút danh Hồng Anh, sau mới đổi thành Anh Thơ.
Anh Thơ sáng tác từ sớm, năm 17 tuổi với tập Bức tranh quê bà được nhận giải khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn. Sau đó bà tham gia viết bài cho báo Đông Tây và một vài báo khác. Bà không được đi học nhiều ở nhà trường, nhưng vốn ham thích văn học từ sớm, và phần nào cũng chịu ảnh hưởng từ gia đình bên ngoại - cũng là một gia đình Nho giáo, mặt khác phải sống cuộc đời tù túng, buồn tẻ của một cô gái lớn lên trong gia đình Nho phong. Giữa lúc phong trào "Thơ mới" đang diễn ra sôi nổi, Anh Thơ đã tìm đến thơ như một con đường giải thoát và tự khẳng định giá trị của người phụ nữ trong xã hội đương thời. Từ 1931, Anh Thơ đã có thơ đăng báo. Tập thơ đầu - Bức tranh quê (in 1941) - gồm 45 bài, là những cảnh nông thôn được sắp xếp theo trình tự bốn mùa và được miêu tả bằng sự quan sát độc đáo, nhạy cảm. Có thể xem đây là tập thơ mở đầu cho một khuynh hướng riêng trong phong trào Thơ mới: tập trung toàn bộ cảm hứng vào phong cảnh làng quê, làm sống lại vẻ đẹp nghìn đời của nông thôn Việt Nam. Những bức tranh thiên nhiên tưởng chừng như khách quan vô tình này không phải không chứa đựng sự khao khát sống và yêu đương của tâm hồn thiếu nữ muốn thoát ra khỏi sự ràng buộc nặng nề của xã hội đương thời. Trước 1945, bà còn có 1 tiểu thuyết viết về thân phận người phụ nữ (Răng đen, 1943) và 2 tập thơ chung với các tác giả khác (Xưa - 1943 và Hương xuân - 1944.
Bà là một trong những hội viên đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam (năm 1957), ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (khóa 1 và 2). Từ năm 1971 đến năm 1975 bà làm biên tập viên tạp chí Tác phẩm mới. Bà cũng là ủy viên Thường vụ Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam. Bà mất tại Hà Nội do bệnh ung thư phổi. Nhà thơ Anh Thơ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2007.
Tác phẩm nổi tiếng: "Bức tranh quê", "xưa"....
Hằng Phương (1908 - 1983)
Là một trong những nữ sĩ đầu tiên của nền văn học Việt Nam hiện đại, Hằng Phương đã góp vào gia tài văn chương Việt những thi phẩm sâu sắc. Cùng với các gương mặt nhà thơ nữ khác của phong trào Thơ mới (Anh Thơ, Mộng Tuyết, Vân Đài, Mộng Sơn, Ngân Giang, Thu Hồng, Cẩm Lai, Nguyễn Thị Manh Manh), Hằng Phương (1908 - 1983) được xem là nhà thơ nữ tiên phong của thơ Việt Nam hiện đại. Bà có những đóng góp nhất định đối với sự vận động, phát triển của thơ Việt giai đoạn 1932 - 1945.
Nhà thơ Hằng Phương, tên thật là Lê Hằng Phương, sinh ra trên vùng đất học Gò Nổi (làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam) trong một gia đình trí thức danh tiếng. Cha bà là nhà văn, nhà nghiên cứu Hán Nôm nổi tiếng Sở Cường Lê Dư. Ông bà Vũ Ngọc Phan – Hằng Phương kết hôn năm 1925. Trải qua những biến thiên của thời cuộc, hai ông bà đã gắn bó chung thủy từ mối tình đầu đi qua gần trọn thế thế kỷ XX, vượt qua mọi khó khăn, thử thách để âm thầm cống hiến cho nền văn hóa, học thuật dân tộc những tác phẩm giá trị. Chính sự hi sinh thầm lặng cho cả gia đình của bà là nguồn động lực to lớn để nhà văn Vũ Ngọc Phan thực hiện những công trình văn học sử nổi tiếng của mình.
Nữ sĩ Hằng Phương xuất hiện rất sớm trong phong trào Thơ mới. Tác phẩm đầu tiên của bà là bài thơ Nhớ con nhỏ Bội Trinh đăng trên báo Phụ nữ tân văn năm 1929. Trước 1945, bà có thơ đăng trên nhiều tờ báo trong Nam ngoài Bắc như Đàn bà, Tri tân, Ngày nay, Trung Bắc tân văn, Hà Nội trung văn (ở Hà Nội), Trung lập, Phụ nữ tân văn (ở Sài Gòn). Năm 1943, Hằng Phương cùng với Vân Đài, Mộng Tuyết, Anh Thơ ra tập thơ chung có nhan đề Hương xuân (Thơ Hằng Phương trong thi tập này có các bài Tết xưa, Trăng lên, Trên đò suối, Tư cố hương, Bình minh, Tịch mịch, Nhớ mẹ, Chiều hè đứng bên sông, Phật tụng, Thu nhớ quê nhà). Tập thơ in tại Hà Nội, do nhà Nguyễn Du xuất bản, trang bìa in rõ “Hương xuân - những vần thơ hay của mấy nữ thi sĩ Vân Đài – Hằng Phương – Mộng Tuyết – Anh Thơ”. Đây “được xem là tuyển tập thơ nữ bằng chữ quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam”. Mặc dù ra mắt độc giả khi phong trào Thơ mới vừa khép lại thời kỳ vàng son với những đỉnh cao chói lọi của các nhà thơ nam, tập thơ nữ Hương xuân vẫn gây được tiếng vang trong đời sống văn học lúc bấy giờ. Bởi đây “không chỉ có ý nghĩa khẳng định sự góp mặt của các nhà thơ nữ mà còn khẳng định tiếng thơ riêng của các nhà thơ nữ tiêu biểu trong dòng chung Thơ mới”. Không chỉ xuất hiện rất sớm trên thi đàn với tư cách là một trong những nhà thơ nữ đầu tiên của thơ ca Việt Nam hiện đại, Hằng Phương còn có vị trí xứng đáng trong phong trào Thơ mới. Điều này được khẳng định qua việc ghi nhận của Hoài Thanh – Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam.
Tác phẩm nổi bật: "Hương xuân" ''Mùa gặt", "Hương đất nước'', ''Lòng quê''..
Mộng Tuyết (1914 -2007)
Nữ thi sĩ Mộng Tuyết (9/1/1914 – 1/7/2007), tên thật là Thái Thị Úc (Út, Sửu); còn có các bút danh Hà Tiên Cô, Thất Tiểu Muội, Nàng Út, Bách Thảo Sương, Bân Bân nữ sĩ; quê sinh ở làng Mỹ Đức (Hà Tiên), nay thuộc tỉnh Kiên Giang. Đương thời Thơ mới 1932 - 1945, nữ sĩ là thành viên nhóm “Hà Tiên tứ tuyệt” (cùng Đông Hồ, Lư Khê, Trúc Hà); là vợ nhà thơ Đông Hồ; từng cộng tác với các báo khắp trong Nam ngoài Bắc như Nam phong tạp chí, Phụ nữ tân văn, Tiểu thuyết thứ Năm, Hà Nội báo, Đông Tây, Con Ong, Sống, Trung Bắc Chủ nhật, Tri tân…Và các tập thơ Lời hoa (in chung, 1934), Phấn hương rừng (được Tự lực văn đoàn khen tặng, nữ sĩ đã cùng Đông Hồ ra Hà Nội nhận giải thưởng, 1939) và tập Hương xuân (1943, tuyển tập thơ nữ đầu tiên ở Việt Nam, in chung cùng Vân Đài, Hằng Phương, Anh Thơ)…
Giữa thời Thơ mới, thơ Mộng Tuyết đã được các nhà phê bình Mộc Khuê (Kiều Thanh Quế), Hoài Thanh – Hoài Chân, L.H.V (Lê Huy Vân), Ái Lang… cùng quan tâm tìm hiểu, giới thiệu. Những năm 50, bà cùng chồng là thi sĩ Đông Hồ lên Sài Gòn mở nhà sách, nhà xuất bản Bốn Phương, Yiễm Yiễm thư trang. Tháng 3 năm 1969, chồng mất, bà lui về sống ẩn dật tại quận Tân Bình. Sau năm 1995, bà lui về sống đến hết đời tại Nhà lưu niệm thi sĩ Đông Hồ ở tại thị xã Hà Tiên (nay thuộc Thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang). Mộng Tuyết mất ngày 1 tháng 7 năm 2007 tại Bệnh viện Đa khoa Kiên Giang.
Tác phẩm nổi tiếng: "Phấn hương rừng" " Hương Xuân"....
Manh Manh (1914 -1951)
Manh Manh tên thật là Nguyễn Thị Kiêm, sinh năm 1914 tại TX. Gò Công, tỉnh Tiền Giang, trong một gia đình trí thức. Bà học Trường Nữ Áo Tím ở Sài Gòn (nay là Trường Trung học phổ thông Nguyễn Thị Minh Khai, TP. Hồ Chí Minh). Năm 1932, sau khi tốt nghiệp Bằng Thành chung, bà dạy học ở Trường Áo Tím một thời gian; sau đó bước vào làng báo ở Sài Gòn với tư cách là cộng tác viên thường trực của tờ Phụ nữ tân văn; đồng thời, cũng là cộng tác viên của các tờ báo khác: Công luận, Nữ lưu, Việt Nam…Sau những bước “khai sơn phá thạch” của Phan Khôi và Lưu Trọng Lư trong phong trào đổi mới thi ca vào năm 1932, bà ra sức cổ súy cho phong trào “thơ mới” bằng cách viết bài, diễn thuyết và sáng tác thơ theo phong cách mới.
Trong Báo Phụ nữ tân văn số Xuân Quý Dậu ra ngày 19-1-1933, bà cho công bố bài thơ “Viếng phòng vắng”, được sáng tác theo thể “thơ mới” với kiểu dích dắc, không viết hoa một số câu đầu hàng, thể hiện sự thay đổi về hình thức thơ. Bài thơ đã gây nên sự chú ý của đông đảo độc giả, nhất là trong giới văn nghệ sĩ:
“Gió lọt phòng không
tạt hơi dông
lạnh như đồng
Ngồi mơ tưởng
Ngày xưa phất phưởng
Dấy động tơ lòng…
Trải đã mấy trăng
Hỡi nhện giăng
Với rêu lan
Tấm vách cũ
Từ khi người chủ
Một giấc lặng trang...”.
Đặc biệt, ngày 26-7-1933, tại cuộc diễn thuyết ở Hội Khuyến học Sài Gòn, bà đã phê phán quyết liệt trường phái “thơ cũ” và tiếp tục cho trình làng một thi phẩm mang phong cách “thơ mới” có tên là “Canh tàn”, để tỏ thái độ ủng hộ phong trào “thơ mới” đang hồi phôi thai. Cuộc diễn thuyết của bà đã tạo nên tiếng vang lớn, được đông đảo dư luận, nhất là các nhà thơ trẻ đồng tình và ủng hộ. Sau đó, bà còn sáng tác thêm một số bài thơ nữa đăng trên Báo Phụ nữ tân văn, như “Hai cô thiếu nữ”, “Bà La Fugie nhà thám hiểm và họa sĩ”; đặc biệt, bà đã sáng tác một bài thơ có tính cách tuyên ngôn cho việc cổ súy phong trào “thơ mới”; đó là thi phẩm “Bức thư gởi cho tất cả ai ưa hay là ghét lối thơ mới”. Đồng thời, bà còn có một cuộc tranh luận nảy lửa với ông Nguyễn Văn Hanh tại Hội Khuyến học Sài Gòn ngày 9-1-1935 về “thơ cũ” và “thơ mới”. Hành động dũng cảm của bà trên diễn đàn văn học đã được nhiều người nể phục. Ngoài việc hô hào cho “thơ mới”, bà còn đi diễn thuyết ở khắp nơi để cổ vũ cho sự bình đẳng nam nữ, được nữ giới hoan nghênh nhiệt liệt.
Năm 1936, bà còn tích cực tham gia phong trào Đông Dương Đại hội do Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) phát động. Lúc này, tuy mới 22 tuổi, nhưng bà là một trong hai phụ nữ được cử vào Ủy ban lâm thời tổ chức Đông Dương Đại hội tại Sài Gòn, bên cạnh các nhà cách mạng nổi tiếng thời đó, như Nguyễn An Ninh, Trịnh Đình Thảo, Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn Văn Nguyễn…Năm 1950, bà sang Pháp. Năm 2005, bà mất tại Paris (Pháp). Bà đã góp phần không nhỏ vào nền văn học nước nhà.
Sách “Việt Nam thi nhân tiền chiến” (quyển thượng) viết: “Trong hồi dậy men của nền thơ mới, nữ sĩ Manh Manh là người đàn bà đầu tiên đáp ứng tiếng gọi đàn của nhà tiên phong Phan Khôi... Chúng ta ngày nay nhìn lại việc qua, giữa cái cũ kỹ từ nghìn đời sừng sững như cổ thành kiên cố; thế mà, bỗng chốc, một Phan Khôi táo bạo nổ phát súng cách mạng thi ca; người nữ chiến sĩ tiền phong anh dũng và hăng say hoạt động để bảo vệ và củng cố nền tảng thơ mới bén rễ và sống mạnh, ta phải kể Nguyễn Thị Manh Manh, một tay đã đóng góp công lao không nhỏ cho nền văn học đất nước”.
Một số tác phẩm nổi tiếng: "Hai cô thiếu nữ”, “Bà La Fugie nhà thám hiểm và họa sĩ”, " Bức thư gởi cho tất cả ai ưa hay là ghét lối thơ mới”
Vân Đài (1904 - 1964)
Vân Đài sinh ngày 29 tháng 1 năm 1904 tại Hà Nội, nhưng tổ tiên quê ở xã Hà Mô, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa, đến đời sau dời về Hà Nội. Bà là con ông Đào Huống Mai. Khi đến trưởng thành, bà kết hôn cùng bác sĩ Huỳnh Kim Vinh quê ở Trà Vinh ra Bắc học tập, rồi bà theo chồng về Trà Vinh. Ít lâu sau, vợ chồng bà lên lập nghiệp ở Sài Gòn. Chồng chết, bà lại trở ra Bắc, về sau tái giá với kỹ sư viễn thông Nguyễn Văn Tường. Khi toàn quốc kháng chiến (1946), bà gia nhập bộ đội ngay từ đầu, rồi có mặt ở chiến khu Việt Bắc. Bà từng làm Hội trưởng Hội Dục anh, chăm sóc hàng trăm trẻ mồ côi... Kết thúc cuộc chiến (1954), bà công tác ở báo Phụ nữ Việt Nam, rồi chuyển sang báo Văn học, và tham gia Ban chấp hành Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam. Nữ sĩ Vân Đài mất ngày 31 tháng 12 năm 1964.
Bà là một trong ba nữ nhà thơ nổi tiếng nhất của Hà Nội thời ấy, bên cạnh Hằng Phương và Mộng Tuyết. Trên thi đàn Việt Nam bấy giờ, bà được trọng vọng có lẽ không kém gì Anh Thơ, Thu Hồng. Hoài Thanh viết trong Thi nhân Việt Nam: “Chọn Vân Đài, tôi phân vân quá. Bài nào cũng được. Không có gì sâu sắc. Nhưng lời thơ bao giờ cũng nhẹ nhàng êm ái. Ít khi tiếng Nam có vị ngọt ngào như thế. Ấy cũng vì Vân Đài chỉ ưa nói những gì rất mong manh, rất bình yên.
Tác phẩm nổi tiếng: "Hương Xuân" (tập thơ in chung với Hằng Phương, Anh Thơ và Mộng Tuyết, Nhà xuất bản Nguyễn Du, 1943); "Về quê Mẹ"
Hãy đăng nhập để bình luận
Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .