Top 6 Bài soạn "Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ" (Ngữ văn 10 - SGK Kết nối tri thức) hay nhất

61k

Mời các bạn tham khảo một số bài soạn "Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ" (Ngữ văn 10 - SGK Kết nối tri thức) hay nhất...xem thêm ...

Top 0
(có 0 lượt vote)

Bài soạn "Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ" - mẫu 1

Chuẩn bị nói trang 67 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1

* Đề tài: Giới thiệu bài thơ Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử.

* Tìm ý và sắp xếp:

- Bài thơ là một bức tranh mùa xuân nơi thôn dã, tất cả đều đậm vẻ xuân, xuân trong cảnh vật và xuân trong lòng người.

- Dấu hiệu báo xuân sang: Làn nắng ửng; Khói mơ; Mái nhà tranh bên giàn thiên lý. -> Thanh tĩnh, bình dị, duyên dáng mà đằm thắm yêu thương.

- Cảnh vật thôn quê đẫm hơi xuân: Làn mưa xuân tưới thêm sức sống; Cỏ cây xanh tươi” gợn tới trời”; Niềm vui của con người khi xuân đến.

- Ngôn ngữ kết tinh với tấm lòng hồn hậu của thi nhân, Hàn Mạc Tử đã viết nên một ” mùa xuân chín” vẹn tròn, đầy đặn, thiết tha.


Chuẩn bị nghe trang 68 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1

Một số lưu ý khi nghe người khác nói:

- Chú ý lắng nghe, ghi chép;

- Đưa ra những câu hỏi cần giải đáp.


Thực hành nói và nghe trang 68 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1

Học sinh tự thực hành.


Bài nói mẫu

Không biết mùa xuân có tự bao giờ và thơ xuân có tự bao giờ, chỉ biết người ta sinh ra đã có mùa xuân đẹp đầy sức sống và thổi vào các hồn thơ, sống trong cuộc đời, nếu thiếu đi mùa xuân, thiếu đi những câu thơ xuân thì thật buồn. Mùa xuân mỗi khoảnh khắc một vẻ, lúc là "mùa xuân nho nhỏ", lúc là "mùa xuân xanh"... và đây Mùa xuân chín nghe vừa mới, vừa sôi nổi, vừa có một sức sống dồn nén đang thầm nảy nở giống như cái mới, cái lãng mạn và khao khát trong tâm hồn Hàn Mặc Tử. Mỗi dòng thơ đều phảng phất hơi xuân, đều thấm đượm cái đẹp của tâm hồn thi sĩ. Mùa xuân bắt đầu từ cái nắng mới lạ thường:


Trong làn nắng ửng khói mơ tan

Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng

 Sột soạt gió trêu tà áo biếc

Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang


Mở đầu bài thơ cái cái nắng mùa xuân, chẳng phải tia nắng, hạt nắng, cũng chẳng phải giọt nắng mà là "làn nắng". Chữ "làn" như gợi một hơi thở nhẹ nhàng, nắng như mỏng tang, mềm mại trải đều trong thơ và trong không gian. Làn nắng lại "ửng" lên trong "khói mơ tan", cảnh sắc nhẹ nhàng, đẹp dân dã mà huyền diệu. Sương khói quyện với nắng; cái "ửng" của nắng được tôn lên trong làn khói mơ màng đang "tan" ấy. Trong câu thơ này, ngòi bút thi sĩ đã hướng đến một nét thơ truyền thống, cổ điển, miêu tả cái nắng xuân vừa như có hồn, vừa như có tình chan chứa.


Khung cảnh ấy rất giản dị, chỉ có "đôi mái nhà tranh" hiện lên trong "làn nắng ửng" nhưng nó vẫn gợi lên một sức sống dân dã bình yên hết sức thân thuộc với mọi người. Nắng như đang rắc lên "đôi mái nhà tranh" chút sắc xuân và hương xuân: "Sột soạt gió trêu tà áo biếc". Cái âm thanh của gió "trêu" tà áo và cái gam màu "biếc" của lá, chính là cái tình xuân. Một chữ "trêu" đáng yêu quá, thân thương quá, như có gì đó mang hương sắc đồng quê từ những câu ca dao, hát ghẹo tình tứ thuở nào cứ ngân nga mãi trong lòng ta. Gió cũng biết kén chọn, không phải áo nào cũng "trêu", mà phải chọn áo biếc mới thật thơ, thật đẹp.


Tác giả miêu tả từ cái cụ thể, từ làn nắng, từ mái nhà tranh, từ gió rồi mới đến cái khái quát: "Trên giàn thiên lý / Bóng xuân sang". Câu thơ có một sự ngưng đọng, ngập ngừng cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng, lại mang nỗi vấn vương khi đón “bóng xuân sang". Cảm xúc ngưng tụ như nín thở ấy ẩn mình vào dấu chấm giữa dòng thơ. Bên giàn thiên lí, mùa xuân đã sang. Mùa xuân nhẹ nhàng bước đi như có thể cầm được, có thể ngắm được ngay trước mắt mỗi chúng ta. Mùa xuân hiện ra trong mắt Hàn Mặc Tử nó nhẹ nhàng, dịu dàng như thế đấy! Sau cái ngưng tụ và run rẩy như dây đàn căng lên trong tâm hồn nhà thơ thì ở những câu sau, mùa xuân lại ào đến:


Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,

 Bao cô thôn nữ hát trên đồi.

- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,

 Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi

Hình ảnh ẩn dụ "sóng cỏ" và ba chữ "gợn tới trời" đã gợi tả làn cỏ xanh dập dờn trong làn gió xuân nhè nhẹ thổi. Cỏ như xanh mãi, tươi mãi trong không gian mênh mông, bao la ấy. Gam màu "xanh tươi" đầy sức sống yên bình trong thơ Hàn Mặc Tử cứ “gợn tới trời", nó trải dài mãi như không dứt, trải mãi, trải mãi và rồi ngâm vào hồn thơ. Trong sắc xuân ấy, cây cỏ cứ xanh mãi nhưng thứ tình cảm con người đã đến độ chín rồi. "Đám xuân xanh ấy" là hình ảnh ẩn dụ chỉ các cô thôn nữ đang hát, đang "thầm thì với ai ngồi dưới trúc" kia, sẽ chín cùng mùa xuân và sẽ "theo chồng bỏ cuộc chơi”. Những cô thôn nữ dần lớn, dần “chín” và đến độ tuổi lấy chồng, theo chồng. Thiên nhiên và lòng người như quyến luyến mùa xuân dần trôi qua, tuổi xuân hồn nhiên dần trôi qua. Hàn Mặc Tử như chợt thấy buồn, thấy hẫng hụt, bâng khuâng, như mất mát đi một cái gì trong lòng khi mùa xuân đang chín... Mùa xuân chỉ thực sự "chín" khi có con người và có dư âm tiếng hát:


Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,

Hổn hển như lời của nước mây

Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,

Nghe ra ý vị và thơ ngây


Tiếng hát giữa mùa xuân thân quen quá, yêu thương quá. Tiếng hát "vắt vẻo" và "thơ ngây" của những nàng xuân, của bao cô thôn nữ chính là một nét đẹp truyền thống của dân tộc, đẹp như ca dao, dân ca, như lễ hội mùa xuân muôn thuở của cái xứ sở này. Câu thơ gợi lên cái "chín" trong tâm hồn bao cô thôn nữ qua âm thanh “vắt vẻo", trong trẻo, tươi mát của câu hát giao duyên, của trai gái nơi đồng quê, mộc mạc mà tình tứ. Tâm hồn nhạy cảm, yêu cuộc sống thiết tha của thi sĩ Hàn Mặc Tử cũng đã bắt vào lời hát ấy nhiều xao xuyến. Hai câu thơ vừa tả cảnh vừa tả người, trong cái mùa xuân khi mà vạn vật nở hoa, xanh tươi thì con người đã đến tuổi chín rồi.


Âm thanh đọng lại trong từng tiếng thơ, độ ngân rung, "vắt vẻo" hòa nhịp với âm trầm "hổn hển" thể hiện một sự chuyển đổi cảm giác rất tinh tế, tài tình. Tâm hồn thi sĩ đã hòa nhập hẳn vào cái thế giới âm thanh mùa xuân ấy. Tiếng ca như vút lên cao, như ngập ngừng, như lưu luyến giữa "lưng chừng núi". Dư âm tiếng hát dường như rung lên “vắt vẻo" gợi lên nhiều xao xuyến bâng khuâng trong lòng nhà thơ. Tiếng hát "hổn hển" được so sánh "với lời của nước mây", lời của thiên nhiên. Hai tiếng "hổn hển" như nhịp thở gấp gáp, vội vàng đầy hương xuân, tình xuân, cảm xúc vừa thực vừa mơ đến lạ kì. Lời hát của các cô thôn nữ sao mà đáng yêu thế, như hút hồn người, như tràn ngập cả không gian, góp phần làm nên một "mùa xuân chín". "Vắt vẻo”, "hổn hển", "thầm thì" là ba cung bậc của ba âm thanh mùa xuân đang chín, thấm sâu vào hồn người đến nhẹ nhàng lắng dịu, chan chứa thương yêu. Sự phong phú về giai điệu và phức điệu của khúc hát đồng quê, làm say mê mọi người, để rồi cùng nhà thơ bâng khuâng cảm nhận: "Nghe ra ý vị và thơ ngây...".


Gặp lúc mùa xuân chín ấy mà thổn thức:

Khách xa, gặp lúc mùa xuân chín

Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng

- Chị ấy, năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?


Hình ảnh của kí ức hiện lên một thoáng buồn đẹp và trải rộng mênh mông xa vắng. Nhà thơ nhớ đến con người như khao khát một tình người, một tình quê; mỗi một nỗi nhớ đều rất bâng khuâng, xao xuyến. Nhà thơ nhớ từng chi tiết, nhớ một công việc cụ thể: "gánh thóc" trong một không gian cụ thể: "Dọc bờ sông trắng nắng chang chang". Những chỉ có "chị ấy" là người đọc không thể biết đó là ai, chỉ có tác giả mới biết để mà "sực nhớ", mà thầm hỏi, mà man mác sợ "mùa xuân chín" ấy sẽ trôi qua. Hình như đó là nét thơ của Hàn Mặc Tử, là tâm hồn Hàn Mặc Tử luôn khao khát giao cảm với đời, luôn có một nỗi niềm cô đơn, trống vắng, hẫng hụt như thế.


Mùa xuân chín là một bài thơ xuân rất hay, là một bức tranh xuân mới nhất, trong sáng, rạo rực, say mê, thơ mộng mà thoáng buồn nhất. Hàn Mặc Tử với cảm hứng thiên nhiên trữ tình, màu sắc cổ điển hài hòa kết hợp với chất dân dã, trẻ trung bình dị đã làm hiện lên một bức tranh xuân tươi tắn thơ mộng. Mùa xuân đẹp với con người trẻ trung, hồn nhiên, đáng yêu. Yêu mùa xuân chín cũng là yêu đồng quê, yêu làn nắng ửng, yêu mái nhà tranh, yêu giàn thiên lí, yêu tiếng hát vắt vẻo của những nàng xuân trên "sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 1
(có 0 lượt vote)

Bài soạn "Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ" - mẫu 2

Bài Làm Tham Khảo:

Đề tài: Phân tích đánh giá về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm thơ "Mùa xuân chín" (Hàn Mặc Tử).

Dàn ý chi tiết:
a) Mở đầu:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Nêu vấn đề chính sẽ được tập trung phân tích trong bài viết.
b) Triển khai:
Trình bày lần lượt các khía cạnh đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ
- Nhan đề.
- Mạch cảm xúc.
- Sự phát triển của mạch thơ qua cách tổ chức ngôn từ nghệ thuật.
- So sánh với tác phẩm cùng đề tài, chủ đề, thể loại.
c) Kết luận:
- Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ, ý nghĩa của bài thơ.

Soạn bài Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ, Ngữ văn lớp 10, Kết nối tri thức với cuộc sống

Bài nói mẫu tham khảo:
Kính chào cô và các bạn, em tên là ..... Sau đây, em xin trình bày bài nói của mình "Giới thiệu, đánh giá về giá trị nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm "Mùa xuân chín" của Hàn Mặc Tử.


Khi nhắc đến mùa xuân trong thơ, các bạn sẽ nghĩ đến tác giả, tác phẩm nào đầu tiên? Chắc hẳn mọi người sẽ nghĩ ngay đến "Mùa xuân nho nhỏ" của Thanh Hải, "Nguyên tiêu" của Hồ Chí Minh hay bài thơ nào khác? Cùng viết về đề tài mùa xuân, nhà thơ Hàn Mặc Tử cũng gửi tới độc giả tác phẩm "Mùa xuân chín" với bức tranh thiên nhiên mùa xuân căng tràn sức sống, thể hiện tình yêu thiên nhiên, khát khao giao cảm với đời, với người của nhà thơ Hàn Mặc Tử được bộc lộ thông qua những nét đặc sắc nghệ thuật.


Trước hết, nhan đề bài thơ là sự kết hợp giữa động từ trạng thái "chín" với danh từ "mùa xuân" gợi ra liên tưởng về mùa xuân đang vào giai đoạn đẹp nhất, tràn đầy sức sống nhất. Đồng thời, nó cũng thể hiện sự tiếc nuối của thi nhân trước cảnh đẹp đang dần trôi qua, không thể tồn tại vĩnh viễn. Mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình đi từ ngoại cảnh đến tâm cảnh.


Bên cạnh đó, khi tìm hiểu bài thơ em nhận thấy mạch thơ được triển khai thông qua hệ thống hình ảnh, các biện pháp tu từ, sự phối hợp nhịp và vần trong toàn bộ bài thơ.


Thứ nhất, khung cảnh mùa xuân được khắc họa qua hình ảnh thơ giàu sức gợi: "làn nắng ửng", "khói mơ tan", "bóng xuân sang", "sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời". Tác giả đã sử dụng biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác "bóng xuân sang" để nhấn mạnh vào dấu ấn của mùa xuân. Đảo ngữ "Sột soạt gió trêu tà áo biếc" với từ láy "sột soạt" có tác dụng miêu tả âm thanh của gió thổi tình tứ, trêu đùa tà áo biếc. Nhịp thơ 2/2/3 được chuyển sang nhịp 4/3 và cách gieo vần "vàng" - "sang", "trời" - "chơi" cho thấy được không gian rộng lớn của mùa xuân.


Thứ hai, ta còn thấy được sự xuất hiện của hình ảnh con người thông qua các từ ngữ khơi gợi: "bao cô thôn nữ", "đám xuân xanh", "tiếng ca vắt vẻo", "hổn hển", "thầm thì", "ngồi dưới trúc", "khách xa", "chị ấy". Trong câu thơ "- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,/ Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi" có sự thay đổi về cách ngắt nhịp từ 2/2/3 sang 4/3 khiến cho cảm xúc bị chùng xuống. Dấu gạch ngang đầu câu khiến cho câu thơ giống như một lời nói nhằm bộc lộ sắc thái tiếc nuối tuổi xuân thì của người con gái ngay khi đang ở trong mùa xuân. "Tiếng ca" được nhân hóa "vắt vẻo" "hổn hển" và được so sánh với "lời của nước mây" đã cho thấy được vẻ đẹp và sự ngân vang của tiếng hát đang lan tỏa, hòa mình cùng với thiên nhiên mùa xuân. Tiếng hát ấy được miêu tả thông qua từ láy "vắt vẻo", "hổn hển", "thầm thĩ" tạo ra âm thanh trầm bổng khác nhau, lúc thì dồn dập, gấp gáp, lúc thì nhỏ nhẹ, thiết tha. Trong khung cảnh mùa xuân, con người hiện lên với tiếng ca trong trẻo, ngây thơ.


Thứ ba, khổ thơ cuối đã thể hiện rõ nét tâm trạng của nhân vật trữ tình - "khách xa". Hai chữ "bâng khuâng" diễn tả được cảm xúc lâng lâng buồn xen lẫn chút tiếc nuối ngẩn ngơ nhưng động từ mạnh "sực" khiến ta cảm giác về sự bất chợt, ngay tức khắc ở thời điểm đó cho thấy nỗi nhớ làng dâng trào, tràn ngập trong suy nghĩ, tâm tưởng của thi nhân. Câu hỏi tu từ "- Chị ấy, năm nay còn gánh thóc / Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?" dấu gạch ngang khiến cho câu thơ giống như một lời nói. Cách gieo vần "làng" -"sang" gợi ra sự vang vọng trong tâm tưởng của nhân vật trữ tình. Nó cho thấy sự bâng khuâng trong tâm trạng và nỗi niềm nhớ làng, nhớ quê hương của "khách xa".


Nếu như "Mùa xuân xanh" của Nguyễn Bính thể hiện một bức tranh thiên nhiên tươi tắn, hồn hậu, làm toát lên sức sống phơi phới của vạn vật lúc xuân về và cả nét chất phác "chân quê" để bày tỏ tình cảm với người con gái thì "Mùa xuân chín" của Hàn Mặc Tử lại diễn tả bức tranh mùa xuân ngập tràn sức sống, tròn đầy, rực rỡ nhất từ đó thể hiện tiếc nuối và mặc cảm thân phận của tâm hồn thi nhân trước cuộc sống. Hình ảnh trong thơ Nguyễn Bính và Hàn Mặc Tử đều gắn liền với các hình ảnh vùng quê. Nhưng điều tạo nên khác biệt của "Mùa xuân chín" chính là cách sử dụng ngôn ngữ giàu sức gợi, khắc họa nên một bức tranh xuân sống động, ở độ "chín", tràn đầy sức sống nhất.


Như vậy, bằng cách tổ chức ngôn từ độc đáo Hàn Mặc Tử đã vẽ nên bức tranh sống động với đầy đủ màu sắc, đường nét, âm thanh của thiên nhiên, con người trong mùa xuân và khát khao được giao cảm với đời, với người của một hồn thơ sâu sắc. Trên đây là phần giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm "Mùa xuân chín"! Em cảm ơn cô và các bạn đã chú ý lắng nghe.


Song hành với việc viết, sách giáo khoa Ngữ văn 10, Kết nối tri thức còn rèn luyện cho học sinh khả năng giao tiếp, thuyết trình trước đám đông. Các em sẽ có được phong thái tự tin, có chủ kiến và thái độ tranh luận phù hợp.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 2
(có 1 lượt vote)

Bài soạn "Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ" - mẫu 3

Yêu cầu

- Cung cấp được các thông tin chung về bài thơ một cách ngắn gọn: tên bài thơ, tác giả, đề tài, thì thơ

- Làm rõ được niềm hứng thú của bản thân đối với những nét đặc sắc về nội dung và hình thức của một tác phẩm thơ.

- Nêu lên quan điểm cá nhân về vấn đề thuyết trình, thuyết phục được người nghe và đặt câu hỏi để mời gọi những thảo luận xa hơn.

- Thể hiện được sự tôn trọng những cách cảm nhận, đánh giá đa dạng đối với một tác phẩm thơ.


Chuẩn bị nói và nghe

Chuẩn bị nói

* Lựa chọn đề tài: Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của bài thơ “Mùa xuân chín” (Hàn Mặc Tử)

* Tìm ý và sắp xếp ý

- Nội dung:

+ Bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy sức sống

+ Cảm xúc trong lòng người: rạo rực trong tình yêu, nuối tiếc trước cái đẹp, nỗi nhớ làng quê

- Nghệ thuật 

+ Cổ điển: những điểm tương đồng với thể thơ Đường luật (thể thơ, nhịp điệu, gieo vần)

+ Hiện đại: ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng siêu thực

- Đánh giá về thành công, giá trị, tầm ảnh hưởng của tác phẩm đối với bản thân

*Xác định từ ngữ then chốt

Có thể sử dụng các cụm từ phù hợp với kiểu bài nói này như: Về tác phẩm này, tôi xin tập trung nói về vấn đề, … Ấn tượng nổi bật nhất của tôi về tác phẩm là... Đó là lí do không thể không nói đến khi lí giải sức hấp dẫn của tác phẩm này...

*Phương tiện hỗ trợ

- Chuẩn bị bài trình chiếu Powerpoint với các thông tin chắt lọc (có thể triển khai các luận điểm thành gạch đầu dòng, dùng các kí hiệu để nhấn mạnh những chủ ngữ trọng tâm đã được xác định ở trên), cần cân nhắc về số lượng slide sử dụng. Có thể sử dụng các kênh âm thanh, kênh hình ảnh (lưu ý: hình ảnh phải tương thích với bài thơ đã chọn. Chẳng hạn với bài Mùa xuân xanh, nên chọn minh họa bằng những hình ảnh mùa xuân gắn liền với nông thôn, đồng quê). 

- Người nói cũng có thể chuẩn bị văn bản tác phẩm thơ sẽ thuyết trình để cung cấp cho người nghe trước khi trình bày bài nói.

Chuẩn bị nghe

- Tìm hiểu trước về vấn đề thảo luận cách sử dụng, xem xét các tri thức ngữ văn, đọc các tài liệu mà người nói có thể đã chuẩn bị và cung cấp

- Chuẩn bị tâm thế là nghe và đối thoại với người thuyết trình, chú ý theo dõi các người thuyết trình phân tích từ ngữ, hình ảnh, cách sử dụng thao tác phân tích.


Thực hành nói và nghe

Người nói

Người nghe

-Mở đầu: giới thiệu ngắn gọn về bài thơ, có thể sử dụng nhiều cách dẫn khác nhau để tạo không khí cho giờ học. (Ví dụ với bài thơ Mùa xuân xanh, có thể đặt câu hỏi cho người nghe như: mùa xuân là nguồn cảm hứng muôn thuở của thi ca. Có lẽ nhà thơ nào cũng ít nhất một lần từng viết về mùa xuân. Trong thơ ca Việt Nam, các bạn có biết nhà thơ nào viết nhiều nhất về mùa xuân không?) Đây không phải là yêu cầu bắt buộc nhưng để tránh nói mà như đọc, người nói cần  khơi gợi được sự tương tác từ người nghe.

Lưu ý: có thể chỉ cần chọn một phương diện nào đó về tư tưởng, tình cảm hoặc hình thức nghệ thuật của bài thơ mà mình thấy tâm đắc để thuyết trình.

-Triển khai: trình bày lần lượt các thông tin có trong bài viết theo hình thức tóm lược, kết hợp nhịp nhàng với việc trình chiếu PowerPoint (nếu có). Dành nhiều thời gian hơn để nói về những giá trị nổi bật của bài thơ mà mình cảm nhận được. Nên nhấn mạnh các thao tác mình đã sử dụng để phát hiện giá trị thẩm mỹ hay tư tưởng trong bài thơ liên tưởng, đối lập. Với bài thuyết trình về bài thơ Mùa xuân xanh, cần nhấn mạnh các phương diện: (1) nhan đề, (2) mạch thơ, (3) nhịp điệu, (4) “mùa xuân xanh”: truyền thống và hiện đại. Có thể coi đây là các mục lớn để thiết kế slide trong trường hợp người thuyết trình sử dụng phương tiện trình chiếu.

-Kết luận: khái quát lại những điều mình cảm nhận cũng như đánh giá về giá trị của bài thơ trên các phương diện hình thức và nội dung. Có thể kết bài bằng những câu khuyến khích người nghe chia sẻ những góc nhìn khác, phát hiện khác với bài thơ.

Trong khi nghe bản thuyết trình, cần:

- Có thái độ tôn trọng, đặc biệt quan tâm đến cảm xúc của người thuyết trình.

- Ghi chép những ý tưởng trong bài thuyết trình đã khiến mình thực sự thấy hứng thú, những điểm bạn còn băn khoăn, muốn trao đổi.

- Chú ý đến phong thái của người thuyết trình (ví dụ: sự tự tin, khả năng điều tiết giọng nói, ngôn ngữ, cử chỉ,...)


*Bài nói mẫu tham khảo

Chào mọi người, mình là ............... Hôm nay, mình trong vai trò là một nhà báo, mình đến từ toà soạn báo Phong Hoá. Chắc mọi người đều biết đây là tờ báo vô cùng nổi tiếng trong phong trào Thơ mới ở Việt Nam thời bấy giờ. Hôm nay, mình sẽ giới thiệu với các bạn một nhà thơ với phong cách vô cùng kì bí, độc và lạ, các bạn hãy cùng mình khám phá nhé. 

Không biết trong bốn mùa, các bạn thích mùa nào nhất? Mỗi khi vào mùa đó, bạn thường cảm thấy như thế nào? Với tôi, mùa xuân có lẽ là khoảng thời gian đẹp đẽ nhất trong năm. Chúng ta đã từng nghe “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải, “Mùa xuân xanh” của Nguyễn Bính, nhưng không biết các bạn đã ai từng nghe đến “Mùa xuân chín”? Đó là tên một thi phẩm của người với phong cách vô cùng kì bí, độc đáo và mới lạ mà mình muốn giới thiệu với các bạn. Hàn Mặc Tử.

“Mùa xuân chín” gây ấn tượng với tôi bởi chính nhan đề của nó. Bởi lẽ, đọc thơ của Hàn Mặc Tử, ta luôn thấy một sự u huyền, mơ mộng, kì bí, đượm buồn và đau thương với những hình ảnh đặc trưng là “máu”, “trăng” và “rượu”. Thế nhưng, “mùa xuân chín” lại mang đến một cảm giác hoàn toàn mới lạ, một không gian tràn đầy sức sống của cảnh xuân và tình xuân. “Chín” vốn là tính từ để chỉ trạng thái của quả cây khi đã đến giai đoạn thu hoạch, ngọt ngào, căng mọng và thơm mát. Với ý nghĩa đó, Hàn Mặc Tử đã tạo nên một “mùa xuân chín” – một mùa xuân tràn đầy sức sống, viên mãn và tròn đầy. Mùa xuân đang ở độ tươi đẹp nhất, rạng rỡ nhất, căng tràn nhựa sống nhất. 


 Mạch thơ là dòng tâm tư bất định với những chuyển kênh bất chợt: từ ngoại cảnh đến tâm cảnh, từ sắc thu đến tình thu, từ niềm say mê rạo rực đến nỗi bâng khuâng, xao xuyến, từ hiện tại về quá khứ. 


Mở đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên tươi mới, ngập tràn ánh sáng, ngập tràn sắc xuân: 

“Trong làn nắng ửng khói mơ tan

  Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng

  Sột soạt gió trêu tà áo biếc

  Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang”.


Thiên nhiên mùa xuân hiện ra ngập tràn sắc vàng của nắng hoà trong làn sương khói mờ ảo, huyền bí. Cách kết hợp từ “khói mơ tan” khiến ta hình dung những làn khói sương như đang hoà tan trong nắng tạo nên một khung cảnh đẹp như mơ. Sắc vàng của nắng càng trở nên rực rỡ với hình ảnh “đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng”. Trong khung cảnh thanh bình, yên ả ấy bỗng nhà thơ bắt gặp tiếng “sột soạt” của “gió trêu tà áo biếc”. “Sột soạt” được đảo lên đầu câu nhằm nhấn mạnh của động của cảnh vật. Gió như đang trêu đùa cùng tà áo biếc đón xuân sang, khiến không khí mùa xuân trở nên sôi động, vui tươi, đầy hứng khởi. Từ mái nhà tranh, nhà thơ di chuyển điểm nhìn đến “giàn thiên lí”. Dấu chấm đặt giữa câu thơ như một sự ngập ngừng, ngắt quãng. Bởi đó là khoảnh khắc thi nhân giật mình nhận ra “bóng xuân sang”. Mùa xuân được hữu hình hoá, có thể quan sát bằng thị giác. Bóng của mùa xuân nhẹ nhàng bước tới như thể đang đứng trước mặt nhà thơ, khiến con người ngỡ ngàng mà chiêm ngưỡng cái sắc xuân tươi đẹp ấy.


Từ điểm nhìn cận cảnh, Hàn Mạc Tử đưa tầm mắt ra xa với cái nhìn viễn cảnh. Không gian mùa xuân được rộng mở với “sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. “Sóng” được kết hợp với thảm cỏ xanh mướt khiến bạn đọc hình dung từng lớp cỏ như nối tiếp nhau, trải dài bất tận, sức sống dường như đang căng tràn một cách mãnh liệt. Ý thơ làm ta nhớ đến một câu thơ trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” của Nguyễn Du: “Cỏ non xanh tận chân trời”. Cùng diễn tả một không gian mùa xuân với thảm cỏ xanh mướt trải dài bất tận nhưng cái độc đáo của Hàn Mặc Tử là cách nói “sóng cỏ” gợi ra một sự uyển chuyển, nhẹ nhàng mà mượt mà của những lớp cỏ xuân. Phải chăng sức sống cuộn trào từ bên trong, tạo thành những đợt sóng và kết lại tạo nên một “mùa xuân chín”!


Từ cảnh thu, Hàn Mạc Tử bỗng chuyển sang tình thu, bức tranh ngoại cảnh trở về với bức tranh tâm cảnh. Phải chăng, nhà thơ dùng cảnh mở đầu là để nói tình, tả tình? Một cái tình nồng hậu, thiết tha với con người và cuộc đời. Hoà cùng với không khí tươi vui của mùa xuân, ta thấy được cái náo nức trong lòng người:


“Bao cô thôn nữ hát trên đồi

-Ngày mai trong đám xuân xanh ấy

  Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi”


“Xuân xanh” là một ẩn dụ để chỉ những cô gái trẻ trung, xinh đẹp. Tuổi xuân của họ tươi đẹp, rực rỡ như mùa xuân của đất trời. Chính vì vậy, niềm vui của những cô thôn nữ hoà trong không khí mùa xuân chính là tình xuân. Cái ửng của nắng phải chăng chính là đôi má ửng hồng của các cô gái khi “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Niềm vui của họ là tình yêu đôi lứa, là sự gắn kết trong hôn nhân đến bạc đầu. “Mùa xuân chín” không chỉ là tiết trời xuân mà còn là tình xuân. Cái “chín” trong tình yêu chính là kết quả nên vợ nên chồng. Niềm hạnh phúc của những cô gái được thể hiện trong “tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi”. Hàn Mặc Tử đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác thật tài tình. “Tiếng ca” vốn được cảm nhận bằng thính giác, nay được hữu hình hoà trong trạng thái “vắt vẻo”, cảm nhận bằng thị giác. Tiếng hát ca say sưa của con người như có sức hút, cao vút đến lưng chừng núi thể hiện niềm thiết tha yêu đời mãnh liệt. Dư âm của tiếng hát dường như còn ngập ngừng mà “vắt vẻo lưng chừng núi” tạo nên một âm thanh vang vọng khắp không gian. Từ âm thanh cao vút, hổn hển như lời của nước mây bỗng trở thành những lời thầm thì nhỏ bé:


“Thầm thì với ai ngồi dưới trúc

  Nghe ra ý vị và thơ ngây”


Câu thơ phảng phất tính tượng trưng, siêu thực trong thơ Hàn Mạc Tử. Đại từ “ai” xuất hiện như “bóng ai đậu bến sông trăng đó” (Đây thôn Vĩ Dạ) đầy bí ẩn. “Tiếng ca” vốn vang xa khắp núi rừng nay thu lại chỉ dành cho “ai”. Đó có thể là người thương, cũng có thể là với chính bản thân mình. Để rồi, khi tâm tình, sẻ chia, con người có thể lắng nghe được những “ý vị và thơ ngây” trong lòng mình. Tuy nhiên, câu thơ cũng mang theo nỗi buồn, niềm nuối tiếc của người thi sĩ trước “mùa xuân chín”. Bởi “xuân chín” rồi cũng là lúc “xuân tàn”, cái đẹp rồi cũng sẽ tàn phai. “Đám xuân xanh ấy” rồi cũng “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Tuổi xuân tươi đẹp của người thiếu nữ rồi cũng có điểm kết. Ta thấy dâng lên trong lòng nhà thơ một nỗi niềm bâng khuâng, xao xuyến, muốn níu giữ cái hương sắc tươi đẹp của cuộc đời. Để rồi, kết thúc bài thơ, Hàn Mặc Tử hoá thân trong một người “khách xa”, bày tỏ nỗi nhớ nhung của mình:


“Khách xa, gặp lúc mùa xuân chín

  Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng

  -Chị ấy, năm nay còn gánh thóc

 Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. 


Trước “mùa xuân chín”, lòng “khách xa” bỗng trào dâng nỗi nhớ làng quê thân thương. Nhớ làn nắng ửng, nhớ đôi mái nhà tranh, nhớ tà áo biếc và nhớ cả giàn thiên lý. Đó là một không gian làng quê mộc mạc, giản dị, gần gũi mà chan chứa nghĩa tình. Và trong không gian ấy, hình ảnh người chị gánh thóc trở thành trung tâm của nỗi nhớ. “Chị ấy” là một cách nói phiếm chỉ. Đó có thể là một người dân lao động bình thường nơi thôn quê của tác giả, cũng có thể là một người thân quen gần gũi, hoặc cũng có thể là cô người yêu của thi nhân. Người con gái xuất hiện trong nét đẹp lao động với tư thế gánh thóc, hoà cùng ánh nắng vàng bên bờ sông trắng. Một khung cảnh hiện lên thật thơ mộng, lãng mạn biết bao! 


Như vậy, bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử có sự hài hoà của sắc xuân, tình xuân. Một nét đặc trưng tiêu biểu làm nên sự độc đáo của “Mùa xuân chín” cũng như ngòi bút tài hoa của Hàn Mặc Tử chính là sự kết hợp tài tình giữa cái cổ điển và cái hiện đại. Trước hết, ta bắt gặp thơ Hàn Mặc Tử có những điểm giao thoa với thể thơ Đường luật, tạo nên một nét thơ phảng phất phong vị cổ điển, trang trọng. “Mùa xuân chín” được sáng tác theo thể thơ bảy chữ, ngắt nhịp 4/3. Thất ngôn và ngắt nhịp 4/3 là đặc trưng tiêu biểu của thơ Đường luật. Ngoài ra, cách gieo vần cuối những câu thơ 1, 2, 4 cũng là một điểm giao thoa với thể thơ Đường luật. Đó là những yếu tố làm nên phong vị cổ điển trong thơ Hàn Mặc Tử. Về tính hiện đại, thi sĩ họ Hàn là người chịu nhiều ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực. Một trong những đặc điểm tiêu biểu của thơ tượng trưng siêu thực đó là tạo nên những hình ảnh huyền ảo, kì bí, thậm chí là ma mị bằng những kết hợp từ mới mẻ, độc đáo thông qua nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Có thể thấy ngòi bút của Hàn Mạc Tử đã đạt đến trình độ điêu luyện trong việc sáng tạo nên những kết hợp từ ngữ mới: mùa xuân chín, bóng xuân sang, đám xuân xanh, tiếng ca vắt vẻo, nghe ra ý vị và thơ ngây. Tất cả những gì trừu tượng, không thể cảm nhận bằng mắt thường đã được nhà thơ hữu hình hoá một cách thật tài tình, độc đáo. Những nét thơ mới lạ tạo nên tính hiện đại rất riêng trong thơ Hàn Mặc Tử. Hoà cùng với dòng phát triển của Thơ mới trong thời bấy giờ, thơ Hàn Mặc Tử đã tạo ra một lối rẽ riêng - tinh tế, độc đáo và mới lạ. 


Thơ Hàn Mặc Tử bộc lộ một thế giới nội tâm mãnh liệt với những cung bậc cảm xúc được đẩy đến tột cùng. Đọc “mùa xuân chín”, ta thấy Hàn Mặc Tử đã mượn bức tranh xuân tươi đẹp, rạo rực, tràn đầy sức sống để bày tỏ cái “xuân chín” trong lòng người. “Chín” trong tình thương, “chín” trong nỗi nhớ về con người, cuộc đời và quê hương. Nổi bật hơn hết là một tấm lòng khát khao giao cảm với cuộc đời, trân trọng cái đẹp và ý thức nâng niu, giữ gìn những gì tinh tuý, đẹp đẽ của cuộc đời. Khao khát ấy trở thành sợi chỉ xuyên suốt trong những sáng tác của Hàn Mặc Tử, tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc, để tư tưởng trong những dòng thơ còn âm vang mãi cho đến hiện tại. 


Phần giới thiệu của tôi đến đây là kết thúc. Cảm ơn cô và các bạn đã lắng nghe. Nếu có câu hỏi và thắc mắc gì, mong mọi người hãy đề đạt. Tôi rất mong có thể trao đổi và lí giải những băn khoăn của mọi người. 


Trao đổi

Người nghe

Người nói

- Chia sẻ những điểm bạn thấy hợp lý và hấp dẫn trong bài thuyết trình.

- Nêu những điểm còn gây băn khoăn ở bài thuyết trình, góp ý, bổ sung một số nội dung giúp bài nói hoàn thiện hơn. Có thể dựa vào những tri thức ngữ văn trong bài để trao đổi về nội dung và các thao tác phân tích của người nói.

- Đưa ra góc nhìn khác hay cách cảm thụ khác của mình đối với bài thơ.

- Có thể đặt một số câu hỏi để người nói chia sẻ thêm những cảm xúc về bài thơ

- Trả lời những thắc mắc từ phía người nghe

- Thể hiện thái độ tiếp thu chân thành đối với những đóng góp xác đáng, nghiêm túc.

- Tự đánh giá phần trình bày của mình và chia sẻ thêm về cách trình bày đã lựa chọn.

- Phản hồi và trao đổi với các ý kiến khác với tinh thần tôn trọng và cầu thị.

Lưu ý: cả người nói và người nghe cùng bổ sung những yêu cầu phải đảm bảo khi giới thiệu, đánh giá với một tác phẩm thơ.

- Trao đổi trực tiếp hoặc sử dụng bảng sau để đánh giá phần trình bày của người nói

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 3
(có 1 lượt vote)

Bài soạn "Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ" - mẫu 4

Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật

Chuẩn bị nói và nghe

  • Lựa chọn đề tài: Đề tài của bài nói có thể được khai thác từ đề tài của bài viết.
  • Tìm ý và sắp xếp ý: Xem lại hệ thống luận điểm ở bài viết, lựa chọn những ý quan trọng nhất, thể hiện quan điểm và phát hiện của bàn thân cần được trình bày trong bài viết.
  • Xác định từ ngữ then chốt: Ghi nhớ từ ngữ quan trọng đã được dùng trong bài viết nhằm phân tích một điểm sáng nào đó ở bài thơ.
  • Phương tiện hỗ trợ: Chuẩn bị bài trình chiếu PowerPoint với các thông tin chắt lọc…

Thực hành nói và nghe

Gợi ý:

Phạm Ngũ Lão là một tác giả tiêu biểu của nền văn học Việt Nam trung đại. Bài thơ “Tỏ lòng” của ông đã để lại nhiều giá trị về nội dung và nghệ thuật.


Trước hết, tác phẩm đã thể hiện được tinh thần của thời đại nhà Trần. Đó là vẻ đẹp của hào khí Đông A, cũng như sức mạnh của con người và quân đội thời Trần. Đến với hai câu thơ đầu tiên, người đọc có thể thấy được một cách rõ nét, chân thực hình ảnh con người, quân đội thời Trần:


“Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”


Câu thơ cho thấy hình ảnh người anh hùng tay cầm ngọn giáo để chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước. Đồng thời, tác giả còn đặt người anh hùng vào không gian “giang sơn” - rộng lớn của đất nước và thời gian “kỷ thu” - vô tận, kéo dài từ năm này qua năm khác để tô đậm thêm tư thế hiên ngang của người anh hùng. Tiếp đó, hình tượng quân đội nhà Trần với tiềm lực mạnh mẽ cũng được nhà thơ thể hiện rõ ràng. Với hình ảnh “Tam quân” có nghĩa là ba quân đã cho thấy đó là một quân đội tinh nhuệ, cả về số lượng lẫn chất lượng. Không chỉ vậy, Phạm Ngũ Lão còn làm rõ sức mạnh ấy bằng hình ảnh so sánh: “tì hổ” - sức mạnh như loài hổ, “khí thôn ngưu” - khí thế hào hùng ngút trời của quân đội nhà Trần đã làm lu mờ ánh sáng của sao Ngưu. Đó chính là sức mạnh của con người, quân đội nhà Trần.


Nếu hai câu thơ mở đầu, Phạm Ngũ Lão muốn làm nổi bật vẻ đẹp của con người, đội quân nhà Trần. Thì hai câu thơ cuối, tác giả tập trung thể hiện nỗi lòng của chính mình:


“Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”


Theo tư tưởng Nho giáo, “công danh” chính là lập công để lưu danh vào sử sách, để lưu lại tiếng thơm cho đời sau. Đó chính là một món nợ lớn của bất kì đấng nam nhi nào thời xưa. “Công danh” đã trở thành lý tưởng đối với họ dưới trong triều đại phong kiến. Phạm Ngũ Lão là một người văn võ song toàn, nhưng vẫn luôn thấy bản thân còn mắc nợ - món nợ “công danh”. Nhà thơ đã mượn điển tích về nhân vật Vũ Hầu - một bề tôi trung thành nhất nhì trong lịch sử Trung Quốc để nói chí tỏ lòng. Khi nhắc đến điển tích này, Phạm Ngũ Lão tự cảm thấy “thẹn” - hổ thẹn với lòng khi chưa lập được công danh với đời. Qua đó, ta thấy được một nhân cách cao đẹp của nhà thơ, với hoài bão to lớn đáng ngưỡng mộ.


Bài thơ đã sử dụng hình ảnh giàu tính biểu tượng, kết hợp với các biện pháp tu từ góp phần thể hiện được tư tưởng nhân văn cao đẹp của tác giả. Thể thơ thất ngôn Đường luật cũng góp phần thể hiện giá trị của bài thơ.


Với “Tỏ lòng’, Phạm Ngũ Lão đã thể hiện rõ sức mạnh của “hào khí Đông A”. Đồng thời, bài thơ đã thôi thúc trong lòng người đọc một ý thức trách nhiệm với quê hương, đất nước.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 4
(có 0 lượt vote)

Bài soạn "Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ" - mẫu 5

I. Giới Thiệu, Đánh Giá Về Nội Dung Và Nghệ Thuật Thu Hứng

Dàn ý: Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật "Thu hứng".
a. Mở đầu:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Nêu nội dung khái quát cần giới thiệu, đánh giá: nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
b. Nội dung chính:
- Mạch cảm xúc của bài thơ: đi từ cảm xúc trước khung cảnh thiên nhiên đến cảm xúc về khung cảnh sinh hoạt của con người.
- Nội dung bài thơ: nỗi nhớ quê hương của nhà thơ.
- Hình thức nghệ thuật: thể thơ, nhịp thơ, hình ảnh thơ,...
c. Kết thúc:
- Khẳng định lại giá trị về nội dung và hình thức nghệ thuật của bài thơ.


2. Bài nói mẫu: Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật Thu hứng.
Em chào cô và các bạn. Em tên là Hiếu. Hôm nay, em xin được trình bày bài nói và nghe: Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật "Thu hứng" - Đỗ Phủ.


Trong những ngày thu năm 766, nhà thơ Đỗ Phủ đã sáng tác bài thơ "Thu hứng" (Bài 1). Đây là bài đầu tiên nằm trong chùm tám bài thơ thất ngôn bát cú có nhan đề chung là "Thu hứng". Bài thơ đã khắc họa khung cảnh thiên nhiên và bức tranh sinh hoạt của con người khi thu đến, đồng thời thể hiện nỗi nhớ quê hương sâu đậm của Đỗ Phủ.


Các bạn ạ, khi đọc bài thơ này, chúng ta dễ dàng thấy được mạch cảm xúc của bài thơ: đi từ tâm trạng trước không gian thiên nhiên đến cảm nhận về khung cảnh sinh hoạt của con người.


Trong bốn câu thơ đầu, nhà thơ Đỗ Phủ đã phác họa bức tranh thiên nhiên mùa thu ảm đạm, hắt hiu. Không gian rộng lớn của rừng phong được bao trùm bởi làn sương trắng xóa "Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm". Xa xa kia, núi Vu, kẽm Vu với những vách núi cao lớn đã thu hút tầm nhìn của nhân vật trữ tình. Hai địa danh này dường như cũng u ám, mờ mịt bởi làn sương dày đặc "Núi vu, kẽm Vu hơi thu hiu hắt". Từ láy "hiu hắt" càng làm cho không gian núi rừng trở nên hoang sơ, lạnh lẽo. Ở hai câu thơ tiếp theo "Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng/ Tái thượng phong vân tiếp địa âm", nhà thơ đã chuyển tầm nhìn của mình xuống dòng sông. Giữa lòng sông, sóng tung những dòng nước cuồn cuộn như muốn bao trùm lấy bầu trời. Đặc biệt, gió mây ở trên cao như đang sà xuống, làm cho mặt đất càng thêm âm u. Tất cả các cảnh vật với những sắc thái khác nhau đã tạo nên bức tranh thiên nhiên mùa thu tiêu điều, hiu hắt.


Tiếp đến, ở bốn câu thơ cuối, Đỗ Phủ khéo léo bộc lộ nỗi nhớ quê hương da diết của mình. Đứng trước khung cảnh sinh hoạt của con người, nhà thơ không thể ngăn nổi nỗi xúc động. Hai lần khóm cúc nở hoa cũng là hai năm xa nhà của Đỗ Phủ "Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ". Không chỉ vậy, hình ảnh con thuyền lẻ loi như gợi ra lênh đênh của kiếp người "Cô chu nhất hệ cố viên tâm". Câu thơ cũng đã làm nổi bật hoàn cảnh cô đơn của tác giả nơi đất khách. Nỗi nhớ quê nhà càng thêm da diết khi nhà thơ nghe thấy âm thanh rộn ràng của dao thước may quần áo mùa rét và sự dồn dập của tiếng chày nện vải.


Qua bài thơ, nhà thơ đã khắc họa nên bức tranh thiên nhiên và khung cảnh sinh hoạt của con người trong tiết trời thu ảm đạm, hắt hiu. Đồng thời, từ cảnh vật ấy, nhà thơ khéo léo bày tỏ nỗi nhớ thương quê nhà của mình.


Bên cạnh những thành công về nội dung, chúng ta không thể phủ nhận những đóng góp trong hình thức nghệ thuật của "Thu hứng" (Bài 1). Bài thơ sử dụng ngôn từ hàm súc, giàu sức gợi. Ngoài ra, cách gieo vần, ngắt nhịp, phép đối cùng lối viết tả ít gợi nhiều đã khơi gợi nỗi nhớ quê nhà một cách tinh tế của nhà thơ.


Trên đây là bài trình bày của em về Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật "Thu hứng" - Đỗ Phủ. Em xin cảm ơn cô và các bạn đã theo dõi, lắng nghe!

II. Giới Thiệu, Đánh Giá Về Nội Dung Và Nghệ Thuật Mùa Xuân Chín

Dàn ý: Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật Mùa xuân chín.
a. Mở đầu:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Nêu nội dung khái quát cần giới thiệu, đánh giá: nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
b. Nội dung chính:
- Chủ đề của bài thơ: tình yêu thiên nhiên cùng khát khao giao cảm với đời, với người của Hàn Mặc Tử.
+ Nhan đề bài thơ khiến người đọc hình dung về mùa xuân đang vào giai đoạn tươi đẹp và tràn đầy sức sống.
+ Mạch cảm xúc: đi từ ngoại cảnh đến tâm cảnh.
- Hình thức nghệ thuật: ngôn ngữ, hình ảnh thơ, các biện pháp tu từ...
c. Kết thúc:
- Khẳng định lại giá trị về nội dung và hình thức nghệ thuật của bài thơ.


2. Bài nói mẫu: Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật Mùa xuân chín.
Em chào cô và các bạn. Em xin tự giới thiệu, em tên là Hà Anh. Sau đây, em xin trình bày những ý kiến của mình về bài nói và nghe: Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật "Mùa xuân chín".


Các bạn ơi, chắc hẳn mỗi người chúng ta đã từng đọc hoặc học về một bài thơ viết về mùa xuân đúng không nào? Mình nhớ chúng ta đã từng học đoạn trích "Cảnh ngày xuân" (trích "Truyện Kiều" - Nguyễn Du) và bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" của nhà thơ Thanh Hải. Hôm nay, mình sẽ giới thiệu tới các bạn một bài thơ cũng viết về mùa xuân, nằm trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 - Kết nối tri thức với cuộc sống. Đó là bài thơ "Mùa xuân chín" của tác giả Hàn Mặc Tử.


Đọc nhan đề bài thơ, mình thấy sự kết hợp tinh tế giữa danh từ "mùa xuân" với động từ chỉ trạng thái "chín". Nhan đề ấy đã khiến mình hình dung về khung cảnh mùa xuân tươi đẹp và tràn đầy sức sống. Mạch cảm xúc bài thơ đi từ ngoại cảnh đến tâm cảnh. Mạch cảm xúc ấy được khắc họa rõ nét qua các hình ảnh thơ và ngôn ngữ tinh tế.


Đầu tiên, ở khổ thơ thứ nhất, hình ảnh thơ "làn nắng ửng", "khói mờ tan", "bóng xuân sang" đã gợi ra khung cảnh mùa xuân ấm áp. Biện pháp nhân hóa "gió trêu tà áo biếc" kết hợp với từ láy "sột soạt" và phép đảo ngữ "Sột soạt gió trêu tà áo biếc" cho thấy những tinh tế trong quan sát của nhà thơ khi xuân đến. Ngọn gió không còn là vật vô tri vô giác mà trở nên sống động với âm thanh tình tứ, đang trêu đùa tà áo biếc. Ngoài ra, biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác "bóng xuân sang" còn góp phần miêu tả dáng điệu nhẹ nhàng của mùa xuân.


Trên nền thiên nhiên mùa xuân căng tràn sức sống còn xuất hiện hình ảnh con người "Bao cô thôn nữ hát trên đồi". Lắng nghe tiếng hát ấy, nhân vật trữ tình càng thêm tiếc nuối trước độ xuân thì của người con gái "- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,/ Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc cuộc chơi". Biện pháp ẩn dụ "xuân xanh" kết hợp cùng các từ láy "hổn hển", "vắt vẻo" và biện pháp nhân hóa "tiếng ca vắt vẻo", so sánh "hổn hển như lời nước mây" đã mang đến cho người đọc vẻ duyên dáng của người con gái. Vẻ đẹp ấy hòa trong tiếng hát trầm bổng, thiết tha như tô đậm khung cảnh thiên nhiên căng tràn sức sống.


Đặc biệt, trong khổ thơ cuối, mình cảm nhận được tâm trạng chùng xuống của nhân vật trữ tình - "khách xa". Từ láy "bâng khuâng" gợi ra cảm xúc lâng lâng, xen chút buồn tiếc nuối trong lòng. Nhưng rồi, nhân vật trữ tình lại có sự chuyển biến đột ngột trong cảm xúc khi "sực" nhớ làng và "- Chị ấy, năm nay còn gánh thóc/ Dọc theo bờ sông trắng nắng chang chang?". Câu hỏi cuối bài thơ cùng đại từ nhân xưng không cụ thể "chị ấy" đã phác họa nỗi niềm cô đơn, hụt hẫng cùng tấm lòng nhớ quê hương của nhà thơ Hàn Mặc Tử.


Qua bài thơ "Mùa xuân chín", mình thấy được nét độc đáo trong hình thức nghệ thuật như cách tổ chức ngôn ngữ và hình ảnh thơ độc đáo, kết hợp với nhiều biện pháp nhân hóa, cách gieo vần chân ("vàng-sang, "trời-chơi",...). Bên cạnh đó, bài thơ đã vẽ nên bức tranh mùa xuân từ những chất liệu như âm thanh, hình ảnh, màu sắc sống động của thiên nhiên và con người. Đọc bài thơ, chúng ta không khỏi rung động trước tình yêu thiên nhiên tha thiết cùng khát khao giao cảm với đời, với người của nhà thơ Hàn Mặc Tử.


Bài trình bày của em đến đây là kết thúc. Em cảm ơn cô và các bạn đã lắng nghe.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 5
(có 0 lượt vote)

Bài soạn "Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ" - mẫu 6

* Yêu cầu:

- Cung cấp được các thông tin chung về bài thơ một cách ngắn gọn: tên bài thơ, tác giả, đề tài, thể thơ,…

- Làm rõ được niềm hứng thú của bản thân đối với những nét đặc sắc về nội dung và hình thức của một tác phẩm thơ.

- Nêu lên quan điểm cá nhân về vấn đề thuyết trình, thuyết phục được người nghe và đặt câu hỏi để mời gọi những thảo luận xa hơn.

- Thể hiện được sự tôn trọng những cách cảm nhận, đánh giá đa dạng đối với một tác phẩm thơ.


Chuẩn bị nói và nghe 

Chuẩn bị nói

* Lựa chọn đề tài: Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của bài thơ “Mùa xuân chín” (Hàn Mặc Tử)

* Tìm ý và sắp xếp ý

- Nội dung:

+ Bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy sức sống

+ Cảm xúc trong lòng người: rạo rực trong tình yêu, nuối tiếc trước cái đẹp, nỗi nhớ làng quê

- Nghệ thuật 

+ Cổ điển: những điểm tương đồng với thể thơ Đường luật (thể thơ, nhịp điệu, gieo vần)

+ Hiện đại: ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng siêu thực

- Đánh giá về thành công, giá trị, tầm ảnh hưởng của tác phẩm đối với bản thân

* Xác định từ ngữ then chốt

Có thể sử dụng các cụm từ phù hợp với kiểu bài nói này như: Về tác phẩm này, tôi xin tập trung nói về vấn đề, … Ấn tượng nổi bật nhất của tôi về tác phẩm là... Đó là lí do không thể không nói đến khi lí giải sức hấp dẫn của tác phẩm này...

* Phương tiện hỗ trợ

- Chuẩn bị bài trình chiếu Powerpoint với các thông tin chắt lọc (có thể triển khai các luận điểm thành gạch đầu dòng, dùng các kí hiệu để nhấn mạnh những chủ ngữ trọng tâm đã được xác định ở trên), cần cân nhắc về số lượng slide sử dụng. Có thể sử dụng các kênh âm thanh, kênh hình ảnh (lưu ý: hình ảnh phải tương thích với bài thơ đã chọn. Chẳng hạn với bài Mùa xuân xanh, nên chọn minh họa bằng những hình ảnh mùa xuân gắn liền với nông thôn, đồng quê). 

- Người nói cũng có thể chuẩn bị văn bản tác phẩm thơ sẽ thuyết trình để cung cấp cho người nghe trước khi trình bày bài nói.


Chuẩn bị nghe

- Tìm hiểu trước về vấn đề thảo luận cách sử dụng, xem xét các tri thức ngữ văn, đọc các tài liệu mà người nói có thể đã chuẩn bị và cung cấp.

- Chuẩn bị tâm thế là nghe và đối thoại với người thuyết trình, chú ý theo dõi các người thuyết trình phân tích từ ngữ, hình ảnh, cách sử dụng thao tác phân tích


Dàn ý: Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật một bài thơ hai-cư Nhật Bản.

a. Mở đầu

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.

- Nêu nội dung khái quát cần giới thiệu, đánh giá: nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.

b. Nội dung chính:

- Nội dung bài thơ: tâm trạng của con người trong cảnh chiều thu:

+ Hình ảnh trung tâm: "con quạ".

+ Không gian: trên cành cây khô.

+ Thời gian: chiều thu.

- Hình thức nghệ thuật:

+ Dung lượng ngắn.

+ Ngôn ngữ cô đọng, hàm súc.

+ Hình ảnh thơ gần gũi.

c. Kết thúc:

- Khẳng định lại giá trị về nội dung và hình thức nghệ thuật của bài thơ.


Bài nói mẫu: Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật một bài thơ hai-cư Nhật Bản. Chào cô và các bạn học sinh lớp 10A1, em tên là Đại Dương. Hôm nay, em xin trình bày bài nói và nghe: Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật một bài thơ hai-cư Nhật Bản.


Các bạn ơi, không biết trong ba bài thơ thuộc "Chùm thơ hai-cư Nhật Bản" được học ở chương trình Ngữ văn 10 - Kết nối tri thức thì các bạn thích bài thơ nào nhất? Đối với mình, mình ấn tượng với bài thơ đầu tiên. Đây là bài thơ do nhà thơ Ba-sô sáng tác.


Theo mình tìm hiểu, Ba-sô (1644-1694) là nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Nhật. Ông có đóng góp lớn trong việc hoàn thiện thơ hai-cư. Bài thơ hai-cư của ông mà mình muốn giới thiệu tới mọi người hết sức ngắn gọn:


"Trên cành khô cánh quạ đậu chiều thu."


Có thể thấy, khi đọc bài thơ, các bạn dễ dàng phát hiện ra hình ảnh trung tâm của bài thơ là "con quạ". Con quạ này đang đậu ở một cành cây khô. Cụm từ "trên cành khô" gợi cho chúng ta không khí man mác buồn của trời thu. Cảnh vật dường như đang lụi tàn, héo mòn theo thời gian. Bức tranh mùa thu trở nên tĩnh lặng, chỉ có một màu ảm đạm, u ám và thiếu sức sống. Trong buổi chiều thu ấy, đứng trước khung cảnh thiên nhiên như vậy, con người thêm cô độc, lẻ loi mà lâng lâng cảm xúc trong lòng.


Bên cạnh đặc sắc về nội dung, mình còn ấn tượng với những độc đáo trong hình thức nghệ thuật của bài thơ. Có thể nói, đây là lần đầu tiên mình được đọc và học một bài thơ ngắn như vậy. Chắc hẳn mọi người cũng giống như mình đúng không? Tuy dung lượng bài thơ khá ngắn, chỉ có ba câu, mỗi câu khoảng 2-3 tiếng nhưng đã làm nổi bật tâm trạng của nhà thơ. Nếu các bạn để ý thì sẽ phát hiện ra các chữ đầu dòng ở câu thơ 2, 3 không được viết hoa. Điều này giúp bài thơ giống như một câu chuyện kể, một lời bộc bạch tâm sự của con người. Ngoài ra, hình ảnh thơ cũng rất gần gũi, thân thuộc với mỗi chúng ta. Hình ảnh "cành khô", "con quạ" mang đậm tính tượng trưng cho thiên nhiên mùa thu. Nét độc đáo về nghệ thuật còn được thể hiện trong việc tác giả sử dụng ngôn ngữ thơ cô đọng, hàm súc. Bài thơ chỉ với 8 tiếng nhưng đã gợi cho người đọc khung cảnh mùa thu và bức tranh tâm trạng của con người.


Có thể nói, đọc bài thơ hai-cư của Ba-sô đã giúp mình tiếp thu thêm kiến thức về thể thơ hai-cư độc đáo của Nhật Bản. Từ đây, mình sẽ chăm chỉ đọc sách và bồi dưỡng tri thức để khám phá nhiều điều thú vị từ nền văn học của các quốc gia khác.


Như vậy, bài thuyết trình của em về: Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật một bài thơ hai-cư Nhật Bản đến đây là kết thúc. Em rất mong sẽ nhận được lời nhận xét của cô và những ý kiến đóng góp của các bạn để bài thuyết trình ngày càng hoàn thiện.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Hi vọng bài viết trên mang lại nhiều giá trị cho bạn. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài văn hay trên Alltop.vn

Hãy đăng nhập để bình luận

Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .