Top 6 Bài soạn "Viết Báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề" (Ngữ văn 10 - SGK Cánh diều) hay nhất

6568

Mời các bạn tham khảo một số bài soạn "Viết Báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề" (Ngữ văn 10 - SGK Cánh diều) hay nhất mà Alltop đã tổng hợp trong...xem thêm ...

Top 0
(có 2 lượt vote)

Bài soạn "Viết Báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề" (Ngữ văn 10 - SGK Cánh diều) - mẫu 1

Định hướng

a) Viết báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề là viết thu hoạch sau khi nghiên cứu về một đề tài đã được thực hiện. Vấn đề nghiên cứu rất đa dạng, phong phú, có thể đó là một vấn đề đặt ra trong học tập gắn với môn học như

- Đặc điểm các nhân vật trong các đoạn trích Chiến thắng Mtao Mxây (sử thi Tây Nguyên) và Ra-ma buộc tội (sử thi Ấn Độ).

- Thân phận người phụ nữ trong các bài thơ của Hồ Xuân Hương hoặc qua các nhân vật phụ nữ trong hai vở chèo Kim Nham và Quan Âm Thị Kính.

Nhưng vấn đề nghiên cứu cũng có thể xuất phát từ thực tiễn cuộc sống, đã và đang đặt ra trong cuộc sống. Ví dụ, vấn đề văn hoá đọc qua báo cáo kết quả nghiên cứu sau đây:


Đọc văn bản: Thực trạng và giải pháp phát triển văn hóa đọc của sinh viên Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội (trang 52 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1):

Trả lời câu hỏi:

Nhan đề cho biết thông tin gì?

→ Nhan đề nêu lên những vấn đề sẽ trình bày trong văn bản

Phần tóm tắt có nhiệm vụ như thế nào?

→ Phần tóm tắt có nhiệm vụ giới thiệu những thông tin quan trọng trong bài viết. Giúp người đọc dễ nắm bắt và theo dõi vấn đề.

Nội dung chính nêu trong đoạn Giới thiệu ở đây là gì?

→ Tầm quan trọng của việc đọc sách và văn hóa đọc sách của sinh viên trường Đại học Công nghiệp Hà Nội

Đoạn này trích dẫn những gì và cách trích dẫn như thế nào?

→ Tác giả đã trích dẫn những quan điểm về văn hóa đọc. Cách trích dẫn đi từ phạm vi rộng đến hẹp.

Phương pháp nghiên cứu ở đây là gì?

→ Phương pháp nghiên cứu định tính, phương pháp điều tra

Chú ý các tiêu đề nhỏ để biết kết quả chính của bản báo cáo.

- Nhu cầu đọc

- Thói quen đọc

- Nguồn tài liệu

- Nhu cầu và hứng thú đọc

Phương tiện hỗ trợ ở đây có phù hợp không?

→ Phương tiện hỗ trợ ở đây rất phù hợp vì dễ hình dung ra vấn đề nói đến

Tên các tài liệu tham khảo được xếp theo thứ tự nào?

→ Danh mục tài liệu tham khảo được đặt cuối bài viết, được bắt đầu bằng tiêu đề “Tài liệu tham khảo”, tiếp theo liệt kê tài liệu tham khảo (sách, bài báo, nguồn ấn phẩm điện tử…) được sắp xếp thứ tự Alphabet theo họ tác giả, tên bài viết/ấn phẩm không có tác giả. Chỉ liệt kê các tài liệu tham khảo được trích dẫn trong bài. Mỗi danh mục tài liệu tham khảo bao gồm các thông tin: tên tác giả, năm xuất bản, tên tác phẩm, nơi xuất bản.

Những tài liệu tham khảo này có liên quan đến nội dung báo cáo như thế nào?

→ Những tài liệu tham khảo này có liên quan trực tiếp đến nội dung báo cáo, bổ sung nội dung để bài báo cáo đầy đủ, rõ ràng, chi tiết hơn.

b) Để viết báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề, các em cần

- Lựa chọn một vấn đề cần phải tổng kết, làm rõ thêm trong các bài đã học hoặc một vấn đề có ý nghĩa đặt ra từ cuộc sống Việc lựa chọn đề tài cho bài nghiên cứu của mình là bước đầu tiên và rất quan trọng.

- Tiến hành nghiên cứu theo một quy trình: Xác định mục đích và cách thức nghiên cứu, thu thập và lựa chọn tài liệu, ghi chép, sử dụng các công cụ tra cứu như từ điển, sách báo, Internet,…; tổng hợp kết quả nghiên cứu

- Xây dựng dàn ý (đề cương) của báo cáo kết quả nghiên cứu. Đề cương của báo cáo kết quả nghiên cứu thường có các nội dung lớn sau đây:

Phần mở đầu

+ Nêu vấn đề (đề tài) được lựa chọn để nghiên cứu.

+ Lí do, mục đích và phương pháp nghiên cứu.

Phân nội dung

+ Lần lượt trình bày các kết quả nghiên cứu về đề tài đã chọn. Triển khai các lí lẽ, dẫn chứng, lập luận chứng minh cho các luận điểm được nêu ra. 

+ Có thể trích dẫn ý kiến người khác, cước chú, lập biểu bảng, thống kê về đối tượng nghiên cứu để chứng minh cho tính chính xác trong các lập luận và nhận định của mình. 

+ Tạo sự so sánh cần thiết với các đối tượng nghiên cứu khác để tạo nên sức hấp dẫn và thuyết phục cho bài viết.

Phần kết luận

+ Khái quát ý nghĩa, tầm quan trọng của vấn đề đã được trình bày. 

+ Nêu các đề xuất, khuyến nghị của người nghiên cứu (nếu có).

- Kết quả nghiên cứu tuy mới chỉ dừng ở mức rèn luyện, tập dượt nhưng các em cần mạnh dạn tìm hiểu, cố gắng để có được những phát hiện của riêng mình, tránh việc đạo văn hoặc vay mượn phát hiện của người khác mà không dẫn nguồn tài liệu. Báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề có thể sử dụng trich dẫn, cước chủ và các phương tiện hỗ trợ phù hợp.


Thực hành

Bài tập (trang 56 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Em hãy viết báo cáo kết quả nghiên cứu về đặc điểm hình thức thơ Đường luật qua một số bài thơ trung đại đã học

a) Chuẩn bị 

- Xác định yêu cầu cần thực hiện của bài tập.

-Xem lại phần Kiến thức ngữ văn, đọc lại các bài thơ trung đại đã học, chủ ý đến các yếu tố như thể loại, thể thơ, bố cục các bài thơ, sổ cầu trong một bài, số từ trong một câu, niêm luật của bài thơ, cách gieo vần, các phép đối, phân biệt giữa thơ chữ Nôm và thơ chữ Hán.

- Đọc lại các bài thơ Đường luật đã học trong Bài 6 và các bài thơ Đường luật đã học ở Trung học cơ sở

- Sưu tầm một số ý kiến của các nhà nghiên cứu viết về thơ Đường luật. 

b) Tìm ý và lập dàn ý 

- Tìm ý cho bài viết theo gợi dẫn.

- Lập dàn ý cho bài viết:

Phần mở đầu

+ Giới thiệu chung về thơ Đường luật trung đại và ý nghĩa của việc tìm hiểu hình thức thơ Đường luật. 

+ Nêu cách thức tiến hành nghiên cứu.

Phần nội dung

+ Giới thiệu các bài thơ Đường luật trung đại đã học và cách phân loại chúng. 

+ Phân tích bố cục chung của một bài Đường luật thất ngôn bát cú, các câu đề, thực, luận, kết và vai trò của chúng trong bài thơ. Từ đó, giới thiệu thêm về thơ tứ tuyệt. Ví dụ: Bánh trôi nước (Hồ Xuân Hương).

+ Giới thiệu vấn, đối, niêm, luật trong thơ Đường luật (có thể lập bảng niệm, luật của thơ Đường luật); nêu tác dụng của các yếu tố hình thức trong việc thể hiện nội dung. 

+ Phân tích sự sáng tạo về hình thức của thơ Nôm Đường luật.

Phân kết luận

Khái quát, tổng hợp lại vấn đề đã được trình bày.

c) Viết 

- Viết báo cáo kết quả nghiên cứu theo dàn ý đã lập.

- Chú ý nêu rõ các kết quả nghiên cứu về đặc điểm hình thức của thơ Đường luật và ý kiến của bản thân về vai trò, tác dụng của việc nghiên cứu vấn đề này.

-Nêu các tài liệu tham khảo mà mình đã trích dẫn và sử dụng (nếu có). 


Bài viết tham khảo

Thơ Đường luật là một thể thơ có nguồn gốc từ Trung Quốc, thể thơ này đã phát triển mạnh mẽ ở ngay chính quê hương của nó và có sức lan tỏa mạnh mẽ sang các khu vực lân cận, trong đó có Việt Nam. Thơ Đường luật có một hệ thống quy tắc phức tạp được thể hiện ở năm điểm sau: Luật, niêm, vần, đối và bố cục. Về hình thức thơ Đường luật có nhiều loại, tuy nhiên thất ngôn bát cú được coi là một dạng chuẩn, là thể thơ tiêu biểu trong thơ ca trung đại.


Thơ thất ngôn bát cú gồm tám câu, mỗi câu bảy chữ. Đường luật là luật thơ có từ đời Đường (618- 907) ở Trung Quốc. Vậy tổng thể một bài thất ngôn bát cú gồm 56 chữ.. Có gieo vần (chỉ một vần) ở các chữ cuối của các câu 1, 2,4,6,8, hiệp vần bằng với nhau. Ví dụ như trong bài thơ Qua đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan, quy tắc này được thể hiện một cách đặc biệt rõ ràng:


Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá, đá chen hoa
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại, trời non nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta.


Các từ hiệp vần với nhau là: tà, hoa, nhà, gia, ta. Việc này góp phần tạo nên cho bài thơ sự nhịp nhàng, bớt khô cứng của một thể thơ đòi hỏi niêm luật chặt chẽ.Có phép đối giữa câu 3 với câu 4, câu 5 với câu 6 ( tức bốn câu giữa),đối tức là sự tương phản, cả sự tương đương trong cách dùng từ, cũng có thể thấy điều này rõ ràng nhất qua bài thơ Qua Đèo Ngang:


Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia


“Lom khom” đối với “lác đác”, “dưới núi” đối với “bên sông”, “ nhớ nước” đối với “thương nhà”…. Các phép đối rất chỉnh và rõ, kể cả về chữ và âm.Hay trong bài thơ “Thương vợ” của Tú Xương:


Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công.


Phép đối giữa các câu cân xứng và rất chỉnh như “Lặn lội” đối với “eo sèo”, “ quãng vắng” đối với “buổi đò đông”…. Thơ Đường mà câu 3 không đối với câu 4, câu 5 không đối với câu 6 thì gọi là “thất đối”


Bên cạnh đó thì thể thơ này cũng có luật bằng trắc rõ ràng, đặc biệt là nguyên tắc niêm. Những câu niêm với nhau tức là những câu có cùng luật. Hai câu thơ niêm với nhau khi nào chữ thứ nhì của hai câu cùng theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, thành ra bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Thường một bài thơ thất ngôn bát cú được niêm: câu 1 niêm với câu 8;câu 2 niêm với câu 3;câu 4 niêm với câu 5;câu 6 niêm với câu 7. Vần là những chữ có cách phát âm giống nhau, hoặc gần giống nhau, được dùng để tạo âm điệu trong thơ. Trong một bài thơ Đường chuẩn, vần được dùng tại cuối các câu 1, 2, 4, 6 và 8. Những câu này được gọi là “vần với nhau”. Những chữ có vần giống nhau hoàn toàn gọi là “vần chính”, những chữ có vần gần giống nhau gọi là “vần thông”. Hầu hết thơ Đường dùng vần thanh bằng, nhưng cũng có các ngoại lệ. Về bố cục, một bài thơ thất ngôn bát cú gồm 4 phần: Đề, thực,luận,kết. Hai cầu đầu tiên,câu một và câu hai là hai câu mở đầu,bắt đầu gợi ra sự việc trong bài. Hai câu thực là hai câu miêu tả, cần đối với nhau về cả thanh và nghĩa. Tiếp đến là hai câu luận, tức suy luận, yêu cầu tương tự như hai câu thực. Và cuối cùng là hai câu kết, khái quát lại sự việc, không cần đối nhau. Trong suốt thời kỳ phong kiến, thể thơ này đã được dùng cho việc thi tuyển nhân tài cho đất nước. Có nguồn gốc từ Trung Quốc, thể thơ này cũng được Việt Nam tiếp thu và sử dụng khá phổ biến, có nhiều bài thơ khá nổi tiếng thuộc thể loại này.


Đặc biệt khi Thơ mới xuất hiện, bằng sự sáng tạo của mình, các tác giả đã làm giảm bớt tính gò bó, nghiêm ngặt của luật bằng – trắc để tâm hồn lãng mạn có thể bay bổng trong từng câu thơ.


d) Kiểm tra và chỉnh sửa

Đọc lại bản báo cáo đã viết. Đối chiếu với mục Định hướng và dàn ý ở trên để phát hiện và tự sửa lỗi theo hướng dẫn sau

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 2
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 1
(có 0 lượt vote)

Bài soạn "Viết Báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề" (Ngữ văn 10 - SGK Cánh diều) - mẫu 2

Định hướng

a) Viết báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề là viết thu hoạch sau khi nghiên cứu về một đề tài đã được thực hiện. Vấn đề nghiên cứu rất đa dạng, phong phú, có thể đó là một vấn đề đặt ra trong học tập gắn với môn học như

- Đặc điểm các nhân vật trong các đoạn trích Chiến thắng Mtao Mxây (sử thi Tây Nguyên) và Ra-ma buộc tội (sử thi Ấn Độ).

- Thân phận người phụ nữ trong các bài thơ của Hồ Xuân Hương hoặc qua các nhân vật phụ nữ trong hai vở chèo Kim NhamQuan Âm Thị Kính.

    Nhưng vấn đề nghiên cứu cũng có thể xuất phát từ thực tiễn cuộc sống, đã và đang đặt ra trong cuộc sống. Ví dụ, vấn đề văn hoá đọc qua báo cáo kết quả nghiên cứu sau đây:


Đọc văn bản: Thực trạng và giải pháp phát triển văn hóa đọc của sinh viên Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội (trang 52 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1 – Cánh diều):

Trả lời câu hỏi:

Nhan đề cho biết thông tin gì?

→ Thực trạng văn hoá đọc của sinh viên trường ĐH Công nghiệp Hà Nội và cách phát triển văn hoá đọc

Phần tóm tắt có nhiệm vụ như thế nào?

→ Nêu ra ý chính của toàn bộ bài nghiên cứu

Chú ý nội dung chính của phần Giới thiệu.

→ Nhiệm vụ nâng cao chất lượng đào tạo toàn diện ở trường ĐH Công nghiệp HN

Tác giả trích dẫn những gì và cách trích dẫn như thế nào?

→ trích dẫn thông tin cụ thể từ các nguồn tham khảo, mỗi trích dẫn đều được chú thích tên tác giả và năm xuất bản. 

Phương pháp nghiên cứu ở đây là gì?

→ Nghiên cứu định tính

Chú ý các tiêu đề nhỏ để biết kết quả chính của bản báo cáo.

- Nhu cầu đọc

- Thói quen đọc 

- Nguồn tài liệu

- Nhu cầu và hứng thú đọc

Phương tiện hỗ trợ ở đây có phù hợp không?

→ Phương tiện hỗ trợ là biểu đồ kết quả khảo sát, phù hợp với bài nghiên cứu

Các bảng biểu này có tác dụng gì?

→ Giúp người đọc có thể so sánh, phân tích và nhận xét về văn hoá đọc của 2 nhóm người đọc

Nội dung chính của phần kết luận là gì?

→ Ý nghĩa của văn hoá đọc

Những tài liệu tham khảo này có liên quan đến nội dung báo cáo như thế nào?

→ Những tài liệu này được trích dẫn và sử dụng trong báo cáo

b) Để viết báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề, các em cần

- Lựa chọn một vấn đề cần phải tổng kết, làm rõ thêm trong các bài đã học hoặc một vấn đề có ý nghĩa đặt ra từ cuộc sống Việc lựa chọn đề tài cho bài nghiên cứu của mình là bước đầu tiên và rất quan trọng.

- Tiến hành nghiên cứu theo một quy trình: Xác định mục đích và cách thức nghiên cứu, thu thập và lựa chọn tài liệu, ghi chép, sử dụng các công cụ tra cứu như từ điển, sách báo, Internet; tổng hợp kết quả nghiên cứu

- Xây dựng dàn ý (đề cương) của báo cáo kết quả nghiên cứu. Đề cương của báo cáo kết quả nghiên cứu thường có các nội dung lớn sau đây:

Phần mở đầu

+ Nêu vấn đề (đề tài) được lựa chọn để nghiên cứu.

+ Lí do, mục đích và phương pháp nghiên cứu.

Phân nội dung

+ Lần lượt trình bày các kết quả nghiên cứu về đề tài đã chọn. Triển khai các lí lẽ, dẫn chứng, lập luận chứng minh cho các luận điểm được nêu ra. 

+ Có thể trích dẫn ý kiến người khác, cước chú, lập biểu bảng, thống kê về đối tượng nghiên cứu để chứng minh cho tính chính xác trong các lập luận và nhận định của mình. 

+ Tạo sự so sánh cần thiết với các đối tượng nghiên cứu khác để tạo nên sức hấp dẫn và thuyết phục cho bài viết.

Phần kết luận

+ Khái quát ý nghĩa, tầm quan trọng của vấn đề đã được trình bày. 

+ Nêu các đề xuất, khuyến nghị của người nghiên cứu (nếu có).

- Kết quả nghiên cứu tuy mới chỉ dừng ở mức rèn luyện, tập dượt nhưng các em cần mạnh dạn tìm hiểu, cố gắng để có được những phát hiện của riêng mình, tránh việc đạo văn hoặc vay mượn phát hiện của người khác mà không dẫn nguồn tài liệu. Báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề có thể sử dụng trich dẫn, cước chủ và các phương tiện hỗ trợ phù hợp 


Thực hành

Bài tập (trang 57 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1 – Cánh diều): Em hãy viết báo cáo kết quả nghiên cứu về đặc điểm hình thức thơ Đường luật qua một số bài thơ trung đại đã học

a) Chuẩn bị 

- Xác định yêu cầu cần thực hiện của bài tập.

- Xem lại phần Kiến thức ngữ văn, đọc lại các bài thơ trung đại đã học, chủ ý đến các yếu tố như thể loại, thể thơ, bố cục các bài thơ, sổ cầu trong một bài, số từ trong một câu, niêm luật của bài thơ, cách gieo vần, các phép đối, phân biệt giữa thơ chữ Nôm và thơ chữ Hán,

- Đọc lại các bài thơ Đường luật đã học trong Bài 6 và các bài thơ Đường luật đã học ở Trung học cơ sở

- Sưu tầm một số ý kiến của các nhà nghiên cứu viết về thơ Đường luật. 

b) Tìm ý và lập dàn ý 

Phần mở đầu

- Giới thiệu chung về thơ Đường luật và ý nghĩa của việc tìm hiểu hình thức thơ Đường luật

- Nêu cách thức tiến hành nghiên cứu

Phần nội dung

- Giới thiệu các bài thơ Đường luật trung đại đã học và cách phân loại chúng.

- Phân tích bố cục chung của một bài Đường luật thất ngôn bát cú, các câu đề, thực, luận, kết và vai trò của chúng trong bài thơ. Từ đó, giới thiệu thêm về thơ tứ tuyệt

- Giới thiệu vần, đối, niêm, luật trong thơ Đường luật (có thể lập bảng niêm luật của thơ Đường luật); nêu tác dụng của các yếu tố hình thức trong việc thể hiện nội dung

- Phân tích sự sáng tạo về hình thức của thơ Nôm Đường luật

Phần kết luận

- Khái quát, tổng hợp lại vấn đề được trình bày

c) Viết 

- Viết báo cáo kết quả nghiên cứu theo dàn ý đã lập.

- Chú ý nêu rõ các kết quả nghiên cứu về đặc điểm hình thức của thơ Đường luật và ý kiến của bản thân về vai trò, tác dụng của việc nghiên cứu vấn đề này.

- Nêu các tài liệu tham khảo mà mình đã trích dẫn và sử dụng (nếu có). 


Bài viết tham khảo

ĐẶC ĐIỂM THƠ ĐƯỜNG LUẬT QUA MỘT SỐ BÀI THƠ TRUNG ĐẠI

Giới thiệu

Thơ ca là một dòng chảy bất tận trong văn học Việt Nam từ quá khứ cho đến hiện tại. Mặc dù chịu nhiều ảnh hưởng từ nền văn hoá Trung Hoa nhưng văn học Việt Nam vừa có những kế thừa, vừa có sự sáng tạo và phát triển. Một trong số đó, không thể không nói đến thể thơ Đường luật được biết bao thi nhân sử dụng thời trung đại. Thể thơ Đường luật đã góp phần giúp văn học Việt Nam ngày càng phát triển với nhiều thi phẩm đáng được coi là tuyệt tác.


Nội dung

Thơ Đường luật được đưa vào dạy học trong SGK Ngữ Văn 7 với một số tác phẩm như: Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt?), Phò giá về kinh (Trần Quang Khải), Thiên Trường vãn vọng (Trần Nhân Tông), Tĩnh dạ tứ (Lý Bạch), Bánh trôi nước (Hồ Xuân Hương), Qua đèo Ngang (Bà Huyện Thanh Quan), .... Thơ Đường luật có nguồn gốc từ Trung Quốc và phát triển mạnh mẽ nhất ở thời nhà Đường. Thơ Đường phát triển qua 3 giai đoạn: sơ Đường (617 – 755), Trung đường (755 – 821), Vãn Đường (821 – 907), trong đó, thời kì thơ Đường đạt đến đỉnh cao trong khoảng năm 713 – 766. Giai đoạn này, thơ Đường là sự kết tinh của các khuynh hướng, trường phái khác nhau như: khuynh hướng hiện thực với Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị; khuynh hướng lãng mạn gắn với tên tuổi Lý Bạch; trường phái Sơn Thuỷ Điền Viên với Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên, Phái Biên Tái với Sầm Than, Cao Thích. Thơ Đường phát triển mạnh mẽ và qua con đường giao lưu, tiếp xúc văn hoá đã đi sâu vào văn học Việt Nam.


Về nội dung, thơ Đường luật được chi phối bởi 3 cảm hứng. Thứ nhất là nỗi u hoài về thế sự, nặng niềm ưu tư xã hội, đó là cảm hứng của nhà Nho. Thứ hai, thơ Đường hướng về tư tưởng Đạo giáo yêu thiên nhiên, thích xa lánh việc đời, gắn với tư tưởng lão Trang. Thứ ba, thơ Đường hướng về Phật giáo, xa lánh đời nhưng vẫn gần nhân thế. 


Về nghệ thuật, đặc điểm thơ Đường luật được tìm hiểu theo các yếu tố: Thể thơ, Cấu trúc và Luật thi. Trước hết, thể thơ Đường được phân loại như sau:


Về luật thi, tác giả Nguyễn Thị Bích Hải trong cuốn “Thi pháp thơ Đường” khẳng định: “Một bài thơ phải bảo đảm sáu yêu cầu về niêm, luật, vận, đối, tiết tấu, bố cục” [1; 195]. Trước hết, “niêm” nghĩa đen là “dính”, là nguyên tắc phân phối thanh theo chiều dọc, nó làm các liên thơ liên kết (dính) với nhau. “Luật” là luật điều tiết âm thanh theo chiều ngang (trong một dòng thơ), sao cho bằng trắc hoà hợp. Có thể tóm gọn luật thơ Đường trong câu: “nhất, tam, ngũ, bất luận / nhị, tứ, lục phân minh”. Có nghĩa là chữ thứ  tư phải là tâm đối xứng, khác thanh với hai chữ 2 và 6. Còn các chữ 1,3,5 có thể thay đổi linh hoạt. Về vần, thơ Đường luật chỉ được gieo một vần là vần bằng. Vần trắc rất ít khi được dùng. Về đối, đây là nguyên tắt bắt buộc của luật thi. Nguyên tắc này yêu cầu hai liên 3 và 4 phải là “đối liên” (cặp câu đối nhau), tức là câu 4 phải đối với câu 3, câu 6 phải đối với câu 5. 


Về cấu trúc, thơ Đường thường được chia thành 4 phần: Đề, thực, luận, kết (khai, thừa, chuyển, hợp) như sau: 

Ngoài ra, một số bài thơ Đường có thể chia làm 3 phần: 2/4/2 hoặc 2 phần 4/4. Để làm rõ những đặc điểm riêng, chúng ta có thể sử dụng bài thơ “Qua đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan đến phân tích thi luật thể thơ Đường như sau: 

Có thể nói, “Qua đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan là một tuyệt tác Đường luật Việt Nam. Tác giả vừa sử dụng ngôn ngữ Nôm của dân tộc vừa vận dụng nhuần nhuyễn thể thơ Đường luật. 


Kết luận

Thơ Đường luật kết tinh những giá trị văn hoá tốt đẹp, là đỉnh cao của thơ ca trung đại. Các thi nhân Việt Nam đã biết dựa theo thể thơ truyền thống của Trung Quốc và có những vận dụng, sáng tạo mang đậm bản sắc dân tộc. Do đó, tìm hiểu thơ Đường luật cũng chính là cách người đọc khám phá nền văn học cổ trung đại cũng như tư tưởng dân tộc qua mỗi thời kì. Vì vậy, chúng ta cần có thái độ tôn vinh, trân trọng đối với thơ Đường luật và có tinh thần nghiêm túc, cầu tiến khi học tập về thể thơ Đường. 


d) Kiểm tra và chỉnh sửa

Đọc lại bản báo cáo đã viết. Đối chiếu với mục Định hướng và dàn ý ở trên để phát hiện và tự sửa lỗi theo hướng dẫn sau

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 2
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 3
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 2
(có 0 lượt vote)

Bài soạn "Viết Báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề" (Ngữ văn 10 - SGK Cánh diều) - mẫu 3

1. Định hướng

a) Viết báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề là viết thu hoạch sau khi nghiên cứu về một đề tài đã được thực hiện. Vấn đề nghiên cứu rất đa dạng, phong phú, có thể đó là một vấn đề đặt ra trong học tập gắn với môn học như

- Đặc điểm các nhân vật trong các đoạn trích Chiến thắng Mtao Mxây (sử thi Tây Nguyên) và Ra-ma buộc tội (sử thi Ấn Độ).

- Thân phận người phụ nữ trong các bài thơ của Hồ Xuân Hương hoặc qua các nhân vật phụ nữ trong hai vở chèo Kim Nham và Quan Âm Thị Kính.

Nhưng vấn đề nghiên cứu cũng có thể xuất phát từ thực tiễn cuộc sống, đã và đang đặt ra trong cuộc sống. Ví dụ, vấn đề văn hoá đọc qua báo cáo kết quả nghiên cứu sau đây:


Đọc văn bản:

Thực trạng và giải pháp phát triển văn hóa đọc của sinh viên Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội 

Trả lời câu hỏi:

Câu 1. Nhan đề cho biết thông tin gì?

Trả lời

Nhan đề nêu lên những vấn đề sẽ trình bày trong văn bản

Câu 2. Phần tóm tắt có nhiệm vụ như thế nào?

Trả lời

Phần tóm tắt có nhiệm vụ giới thiệu những thông tin quan trọng trong bài viết. Giúp người đọc dễ nắm bắt và theo dõi vấn đề.

Câu 3. Nội dung chính nêu trong đoạn Giới thiệu ở đây là gì?

Trả lời

Tầm quan trọng của việc đọc sách và văn hóa đọc sách của sinh viên trường Đại học Công nghiệp Hà Nội

Câu 4. Đoạn này trích dẫn những gì và cách trích dẫn như thế nào?

Trả lời

Tác giả đã trích dẫn những quan điểm về văn hóa đọc. Cách trích dẫn đi từ phạm vi rộng đến hẹp.

Câu 5. Phương pháp nghiên cứu ở đây là gì?

Trả lời

Phương pháp nghiên cứu định tính, phương pháp điều tra.

Câu 6. Chú ý các tiêu đề nhỏ để biết kết quả chính của bản báo cáo.

Trả lời

- Nhu cầu đọc

- Thói quen đọc

- Nguồn tài liệu

- Nhu cầu và hứng thú đọc

Câu 7. Phương tiện hỗ trợ ở đây có phù hợp không?

Trả lời

Phương tiện hỗ trợ ở đây rất phù hợp vì dễ hình dung ra vấn đề nói đến

Câu 8. Tên các tài liệu tham khảo được xếp theo thứ tự nào?

Trả lời

Danh mục tài liệu tham khảo được đặt cuối bài viết, được bắt đầu bằng tiêu đề “Tài liệu tham khảo”, tiếp theo liệt kê tài liệu tham khảo (sách, bài báo, nguồn ấn phẩm điện tử…) được sắp xếp thứ tự Alphabet theo họ tác giả, tên bài viết/ấn phẩm không có tác giả. Chỉ liệt kê các tài liệu tham khảo được trích dẫn trong bài. Mỗi danh mục tài liệu tham khảo bao gồm các thông tin: tên tác giả, năm xuất bản, tên tác phẩm, nơi xuất bản.

Câu 9. Những tài liệu tham khảo này có liên quan đến nội dung báo cáo như thế nào?

Trả lời

Những tài liệu tham khảo này có liên quan trực tiếp đến nội dung báo cáo, bổ sung nội dung để bài báo cáo đầy đủ, rõ ràng, chi tiết hơn.

b) Để viết báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề, các em cần

- Lựa chọn một vấn đề cần phải tổng kết, làm rõ thêm trong các bài đã học hoặc một vấn đề có ý nghĩa đặt ra từ cuộc sống Việc lựa chọn đề tài cho bài nghiên cứu của mình là bước đầu tiên và rất quan trọng.

- Tiến hành nghiên cứu theo một quy trình: Xác định mục đích và cách thức nghiên cứu, thu thập và lựa chọn tài liệu, ghi chép, sử dụng các công cụ tra cứu như từ điển, sách báo, Internet,…; tổng hợp kết quả nghiên cứu

- Xây dựng dàn ý (đề cương) của báo cáo kết quả nghiên cứu. Đề cương của báo cáo kết quả nghiên cứu thường có các nội dung lớn sau đây:


DÀN Ý ĐỀ CƯƠNG

Phần mở đầu

+ Nêu vấn đề (đề tài) được lựa chọn để nghiên cứu.

+ Lí do, mục đích và phương pháp nghiên cứu.

Phần nội dung

+ Lần lượt trình bày các kết quả nghiên cứu về đề tài đã chọn. Triển khai các lí lẽ, dẫn chứng, lập luận chứng minh cho các luận điểm được nêu ra.

+ Có thể trích dẫn ý kiến người khác, cước chú, lập biểu bảng, thống kê về đối tượng nghiên cứu để chứng minh cho tính chính xác trong các lập luận và nhận định của mình.

+ Tạo sự so sánh cần thiết với các đối tượng nghiên cứu khác để tạo nên sức hấp dẫn và thuyết phục cho bài viết.

Phần kết luận

+ Khái quát ý nghĩa, tầm quan trọng của vấn đề đã được trình bày.

+ Nêu các đề xuất, khuyến nghị của người nghiên cứu (nếu có).

- Kết quả nghiên cứu tuy mới chỉ dừng ở mức rèn luyện, tập dượt nhưng các em cần mạnh dạn tìm hiểu, cố gắng để có được những phát hiện của riêng mình, tránh việc đạo văn hoặc vay mượn phát hiện của người khác mà không dẫn nguồn tài liệu. Báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề có thể sử dụng trich dẫn, cước chủ và các phương tiện hỗ trợ phù hợp.


2. Thực hành

Bài tập (trang 57 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1 Cánh diều).

Em hãy viết báo cáo kết quả nghiên cứu về đặc điểm hình thức thơ Đường luật qua một số bài thơ trung đại đã học.

a) Chuẩn bị

- Xác định yêu cầu cần thực hiện của bài tập.

- Xem lại phần Kiến thức ngữ văn, đọc lại các bài thơ trung đại đã học, chủ ý đến các yếu tố như thể loại, thể thơ, bố cục các bài thơ, sổ cầu trong một bài, số từ trong một câu, niêm luật của bài thơ, cách gieo vần, các phép đối, phân biệt giữa thơ chữ Nôm và thơ chữ Hán.

- Đọc lại các bài thơ Đường luật đã học trong Bài 6 và các bài thơ Đường luật đã học ở Trung học cơ sở

- Sưu tầm một số ý kiến của các nhà nghiên cứu viết về thơ Đường luật.

b) Tìm ý và lập dàn ý

- Tìm ý cho bài viết theo gợi dẫn.

Soạn bài Viết Báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề | Hay nhất Soạn văn 10 Cánh diều

- Lập dàn ý cho bài viết:

Phần mở đầu

+ Giới thiệu chung về thơ Đường luật trung đại và ý nghĩa của việc tìm hiểu hình thức thơ Đường luật.

+ Nêu cách thức tiến hành nghiên cứu.

Phần nội dung

+ Giới thiệu các bài thơ Đường luật trung đại đã học và cách phân loại chúng.

+ Phân tích bố cục chung của một bài Đường luật thất ngôn bát cú, các câu đề, thực, luận, kết và vai trò của chúng trong bài thơ. Từ đó, giới thiệu thêm về thơ tứ tuyệt. Ví dụ: Bánh trôi nước (Hồ Xuân Hương).

+ Giới thiệu vấn, đối, niêm, luật trong thơ Đường luật (có thể lập bảng niệm, luật của thơ Đường luật); nêu tác dụng của các yếu tố hình thức trong việc thể hiện nội dung.

+ Phân tích sự sáng tạo về hình thức của thơ Nôm Đường luật.

Phần kết luận

Khái quát, tổng hợp lại vấn đề đã được trình bày.

c) Viết

- Viết báo cáo kết quả nghiên cứu theo dàn ý đã lập.

- Chú ý nêu rõ các kết quả nghiên cứu về đặc điểm hình thức của thơ Đường luật và ý kiến của bản thân về vai trò, tác dụng của việc nghiên cứu vấn đề này.

- Nêu các tài liệu tham khảo mà mình đã trích dẫn và sử dụng (nếu có).

d) Kiểm tra và chỉnh sửa

Đọc lại bản báo cáo đã viết. Đối chiếu với mục Định hướng và dàn ý ở trên để phát hiện và tự sửa lỗi theo hướng dẫn sau


Bài viết tham khảo (3 bài)

Bài viết 1

Thơ Đường luật là một thể thơ có nguồn gốc từ Trung Quốc, thể thơ này đã phát triển mạnh mẽ ở ngay chính quê hương của nó và có sức lan tỏa mạnh mẽ sang các khu vực lân cận, trong đó có Việt Nam. Thơ Đường luật có một hệ thống quy tắc phức tạp được thể hiện ở năm điểm sau: Luật, niêm, vần, đối và bố cục. Về hình thức thơ Đường luật có nhiều loại, tuy nhiên thất ngôn bát cú được coi là một dạng chuẩn, là thể thơ tiêu biểu trong thơ ca trung đại.


Thơ thất ngôn bát cú gồm tám câu, mỗi câu bảy chữ. Đường luật là luật thơ có từ đời Đường (618- 907) ở Trung Quốc. Vậy tổng thể một bài thất ngôn bát cú gồm 56 chữ.. Có gieo vần (chỉ một vần) ở các chữ cuối của các câu 1, 2,4,6,8, hiệp vần bằng với nhau. Ví dụ như trong bài thơ Qua đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan, quy tắc này được thể hiện một cách đặc biệt rõ ràng:


Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá, đá chen hoa
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại, trời non nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta.


Các từ hiệp vần với nhau là: tà, hoa, nhà, gia, ta. Việc này góp phần tạo nên cho bài thơ sự nhịp nhàng, bớt khô cứng của một thể thơ đòi hỏi niêm luật chặt chẽ.Có phép đối giữa câu 3 với câu 4, câu 5 với câu 6 ( tức bốn câu giữa),đối tức là sự tương phản, cả sự tương đương trong cách dùng từ, cũng có thể thấy điều này rõ ràng nhất qua bài thơ Qua Đèo Ngang:


Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia


“Lom khom” đối với “lác đác”, “dưới núi” đối với “bên sông”, “ nhớ nước” đối với “thương nhà”…. Các phép đối rất chỉnh và rõ, kể cả về chữ và âm.Hay trong bài thơ “Thương vợ” của Tú Xương:


Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công.


Phép đối giữa các câu cân xứng và rất chỉnh như “Lặn lội” đối với “eo sèo”, “ quãng vắng” đối với “buổi đò đông”…. Thơ Đường mà câu 3 không đối với câu 4, câu 5 không đối với câu 6 thì gọi là “thất đối”


Bên cạnh đó thì thể thơ này cũng có luật bằng trắc rõ ràng, đặc biệt là nguyên tắc niêm. Những câu niêm với nhau tức là những câu có cùng luật. Hai câu thơ niêm với nhau khi nào chữ thứ nhì của hai câu cùng theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, thành ra bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Thường một bài thơ thất ngôn bát cú được niêm: câu 1 niêm với câu 8;câu 2 niêm với câu 3;câu 4 niêm với câu 5;câu 6 niêm với câu 7. Vần là những chữ có cách phát âm giống nhau, hoặc gần giống nhau, được dùng để tạo âm điệu trong thơ. Trong một bài thơ Đường chuẩn, vần được dùng tại cuối các câu 1, 2, 4, 6 và 8. Những câu này được gọi là “vần với nhau”. Những chữ có vần giống nhau hoàn toàn gọi là “vần chính”, những chữ có vần gần giống nhau gọi là “vần thông”. Hầu hết thơ Đường dùng vần thanh bằng, nhưng cũng có các ngoại lệ. Về bố cục, một bài thơ thất ngôn bát cú gồm 4 phần: Đề, thực,luận,kết. Hai cầu đầu tiên,câu một và câu hai là hai câu mở đầu,bắt đầu gợi ra sự việc trong bài. Hai câu thực là hai câu miêu tả, cần đối với nhau về cả thanh và nghĩa. Tiếp đến là hai câu luận, tức suy luận, yêu cầu tương tự như hai câu thực. Và cuối cùng là hai câu kết, khái quát lại sự việc, không cần đối nhau. Trong suốt thời kỳ phong kiến, thể thơ này đã được dùng cho việc thi tuyển nhân tài cho đất nước. Có nguồn gốc từ Trung Quốc, thể thơ này cũng được Việt Nam tiếp thu và sử dụng khá phổ biến, có nhiều bài thơ khá nổi tiếng thuộc thể loại này.


Đặc biệt khi Thơ mới xuất hiện, bằng sự sáng tạo của mình, các tác giả đã làm giảm bớt tính gò bó, nghiêm ngặt của luật bằng – trắc để tâm hồn lãng mạn có thể bay bổng trong từng câu thơ.


Bài viết 2

Thơ Đường luật là một thể loại thơ phổ biến trong văn học các nước khu vực văn hóa Đông Á thời trung đại  (bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam). Thơ Đường luật chú trọng đối với nghệ thuật đối khá đa dạng.


Trong hệ thống thể loại của văn học Việt Nam, thơ Đường luật  là một trong số các thể loại có lịch sử lâu đời và trong một thời gian khá đài từng có vị trí gần như là độc tôn trên thi đàn Việt Nam. Chưa đủ căn cứ để xác đinh thơ Đường luật vào Việt Nam năm nào, nhưng nếu thời điểm ra đời văn học viết Việt Nam được tính ít nhất từ thế kỷ X, thì đến nay thơ đường luật đã tồn tại ở Việt Nam ngót mười thế kỷ. Ngót mười thế kỷ, một thể thơ ngoại nhập đã được người Việt Nam sử đụng để sáng tạo biết bao giá trị. Không ai quên, với Đường luật, Nguyễn Trãi đã tạo nên một "niềm ưu ái" đầy tâm huyết. Nguyễn Bỉnh Khiêm tạo nên một phong cách triết gia trầm tĩnh, nhuần nhị. Hồ Xuân Hương để lại một phong cách trữ tình trào phúng "thi trung hữu quỷ". Bà Huyện Thanh Quan, lại xứng đáng với một phong cách Đường thi mẫu mực....


Các bài thơ đường luật đã học: Bánh trôi nước, Qua đèo Ngang, Bạn đến chơi nhà, Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác, Đập đá ở Côn Lôn,...


Bà Huyện Thanh Quan là một nữ thi sĩ nổi tiếng trong nền văn học trung đại của nước ta. “Qua Đèo Ngang” là một tác phẩm rất tiêu biểu cho phong cách thơ của bà. Bài thơ đã khắc họa khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang thoáng đãng mà heo hút, thấp thoáng sự sống con người nhưng vẫn còn hoang sơ. Đồng thời nhà thơ còn qua đó gửi gắm nỗi nhớ nước thương nhà.



Tác giả đã khắc họa khung cảnh thiên nhiên nơi Đèo Ngang trong một buổi chiều tà:

“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”


Cụm từ “bóng xế tà” gợi ra thời điểm kết thúc của một ngày. Nhà thơ đang một mình đứng trước nơi đèo Ngang. Tiếp đến câu thơ “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa” là hình ảnh ước lệ mang tính biểu tượng, khắc họa khung cảnh thiên nhiên đèo Ngang. Việc sử dụng điệp từ “chen” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” thật tinh tế. Vẻ đẹp thiên nhiên của đèo Ngang tuy hoang sơ nhưng lại tràn đầy sức sống. Khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang được nhà thơ khắc họa chỉ bằng vài nét nhưng lại hiện ra đầy chân thực và sinh động.


Và không thể thiếu trong bức tranh thiên nhiên đó là hình ảnh con người. Nghệ thuật đảo ngữ “lom khom - tiều vài chú” cho thấy hình ảnh vài chú tiều với dáng đứng lom khom dưới chân núi. Và “lác đác - chợ mấy nhà” gợi ra hình ảnh vài căn nhà nhỏ bé thưa thớt, lác đác bên sông. Nhà thơ muốn nhấn mạnh vào sự nhỏ bé của con người trước thiên nhiên rộng lớn. Con người chỉ nằm là một chấm buồn lặng lẽ giữa một thiên nhiên rộng lớn. Thiên nhiên mới là trung tâm trong bức tranh đèo Ngang.


Thiên nhiên càng cô quạnh, tâm trạng của tác giả càng cô đơn. Điều đó được bộc lộ ở những câu thơ tiếp theo:


“Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia”


Hình ảnh “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là hình ảnh thực về hai loại chim (chim đỗ quyên, chim đa đa). Việc sử dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh: tiếng kêu “quốc quốc”, “đa đa” để qua đó bộc lộ nỗi lòng nhớ thương của mình với đất nước, quê hương. Đọc đến đây, chúng ta dường như có thể lắng nghe được tiếng kêu khắc khoải, da diết đang vang lên trong vô vọng.


Câu thơ “Dừng chân đứng lại, trời, non, nước” khắc họa hình ảnh nhà thơ một mình đứng tại nơi Đèo Ngang, đưa mắt nhìn ra xa cũng chỉ thấy thiên nhiên rộng lớn phía trước (có bầu trời, có núi non, dòng sông). Sự cô đơn của nhà thơ: “một mảnh tình riêng” - tình cảm riêng tư của nhà thơ không có ai để chia sẻ:


“Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta"

Trong thơ Nguyễn Khuyến cũng từng sử dụng cụm từ “ta với ta”:

“Đầu trò tiếp khách trầu không có
Bác đến chơi đây ta với ta”


Trong “Bạn đến chơi nhà, từ “ta” đầu tiên chỉ chính nhà thơ - chủ nhà, còn từ “ta” thứ hai chỉ người bạn - khách đến chơi. Từ “với” thể hiện mối quan hệ song hành, gắn bó dường như không còn khoảng cách. Qua đó thể hiện tình bạn gắn bó tri âm tri kỷ của nhà thơ. Còn trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, cụm từ “ta với ta” ở đây đều chỉ nhà thơ, lúc này bà chỉ có một mình đối diện với chính mình, cô đơn và lẻ loi. Sự cô đơn ấy dường như chẳng thể có ai cùng chia sẻ. Như vậy, Qua đèo Ngang đã thể hiện được tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan trước khung cảnh đèo Ngang hoang sơ. Bài thơ chứa đựng những tình cảm, ý nghĩa sâu sắc.


Bảng niêm luật trong bài thơ Qua đèo Ngang:

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà

T T B B T T B

Cỏ cây chen đá lá chen hoa

T B B T T B B

Lom khom dưới núi tiều vài chú

B B T T B B T

Lác đác bên sông chợ mấy nhà

T T B B T T B

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

T T B B B T T

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

B B T T T B B

Dừng chân đứng lại trời non nước

B B T T B B T

Một mảnh tình riêng ta với ta

T T B B B T T


Đặc điểm về hình thức và nội dung: Đặc điểm về luật thanh điệu, niêm, nhịp, vần. Tất cả đều chú trọng về nhạc lí, tính nhạc. Nhiều người cho rằng, việc tạo ra thể thơ Đường luật còn có mục đích là để dùng nó làm lời cho các thể hát, điệu hát. Vì thế tính nhạc, sự hòa phối thanh sắc, ngữ nghĩa là một yêu cầu được đề cao. Và các quy định của thể thơ cũng dựa nhiều vào âm luật mà đặt ra. Về nội dung phản ánh đời sống xã hội, cụ thể ở đây là sự lầm than, cơ cực của người dân. Nó trở thành nguồn động viên tinh thần, cổ vũ người dân. Đồng thời tố cáo, lên án quan quyền, vương quyền áp bức bóc lột nhân dân. Có thể xem thể thơ này vừa được dùng để bộc lộ, thể hiện tình cảnh, tình cảm, vừa là vũ khí chiến đấu của người dân, giới trí thức.


Thơ Đường luật nói chung, luật tuyệt nói riêng, do sáng tác buộc phải tuân theo những quy định khắt khe về niêm, luật, vần, đối và cách bố cục, cho nên lựa chọn luật tuyệt tuy ưu thế là cô đọng, hàm súc, nhưng cũng hạn chế trong khả năng diễn tả cảm xúc, tâm tư theo những thay đổi thời cuộc. Bài viết trên cơ sở chỉ ra những nét đặc trưng trong thi pháp thể loại của luật tuyệt, bước đầu tìm hiểu đặc điểm hình thức thơ Đường luật qua một số bài thơ Đường luật qua một số bài thơ trung đại đã học.


Bài viết 3

PGS - TS Lã Nhâm Thìn từng nhận xét: “Thơ Nôm Đường luật là một trong những thể loại độc đáo và đạt được nhiều thành tựu lớn bậc nhất của văn học Việt Nam. Có nhiều tác giả, cũng có rất nhiều những đỉnh cao giá trị văn học thuộc về thơ Nôm Đường luật”. Quả thật, thơ Nôm Đường luật là một thể loại “có một không hai”, nó dường như luôn có ma lực hấp dẫn khiến không ít những người tâm huyết với nó đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu nhằm tìm ra ngọn nguồn của sức hấp dẫn ấy. Và chúng tôi cũng không phải là một ngoại lệ. Thơ Nôm Đường luật là một “thể loại có nguồn gốc ngoại lai”, chịu ảnh hưởng sâu sắc của thể loại thơ Đường luật Trung Quốc. Song, ảnh hưởng mà không bị “hoà loãng”, “hòa tan”. Trên bước đường dân chủ hóa, dân tộc hoá nền văn học Việt Nam, cha ông ta một mặt tiếp thu những thành tựu văn học của thơ Đường, mặt khác không ngừng Việt hoá, sáng tạo nhằm biến nó thành một di sản văn học mang đậm dấu ấn phong cách con người trung đại Việt Nam. Trong quá trình học tập, chúng tôi nhận thấy có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu về quá trình tiếp thu, Việt hoá và sáng tạo thể thơ Đường luật trong thơ Nôm của dân tộc, song xuất phát từ hệ thống cơ bản của đặc trưng thể loại thơ Đường luật thì chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập một cách sâu sắc. Với tư cách người nghiên cứu khoa học về kết quả nghiên cứu về đặc điểm hình thức thơ Đường Luật qua một số bài thơ trung đại đã học như: Qua đèo Ngang, Bạn đến chơi nhà, Bánh trôi nước,... Một mặt, để làm quen với các thao tác nghiên cứu văn học, mặt khác đây cũng là cơ hội để tiếp cận với một hiện tượng văn học vốn rất hấp dẫn và phong phú của nền văn học trung đại Việt Nam.


Thơ đường luật hay còn được gọi với cái tên là thơ luật đường. Đây là một thể thơ đường với các luật được xuất hiện từ thời nhà Đường của Trung Quốc. Là một trong những dạng thơ đường phát triển rất mạnh mẽ không chỉ trên chính quê hương của nó mà còn nổi tiếng ở một số đất nước lân cận với tư cách là thể loại thơ tiêu biểu nhất của nhà Đường nói riêng và tinh hoa của thi ca Trung Hoa nói chung. Người ta còn gọi thơ Đường luật là thơ cận thể để đối lập và phân biệt với thể loại thơ cổ thể được sáng tác không tuân theo các luật ấy. Thơ Đường luật có một hệ thống các quy tắc rất phức tạp, những quy tắc này được thể hiện ở 5 điều sau: Niêm, Luật, Đối, Vần và Bố cục. Xét về hình thức thì thơ đường luật được chia thành các dạng như: Thất ngôn bát cú: tám câu, mỗi câu sẽ có 7 chữ. Đây được xem là dạng phổ biến nhất của thể thơ Đường luật. Thất ngôn tứ tuyệt: 4 câu, mỗi câu 7 chữ. Ngũ ngôn bát cú: 8 câu, mỗi câu 5 chữ. Ngũ ngôn tứ tuyệt: 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ngoài những dạng được kể trên thì còn rất nhiều dạng không phổ biến khác. Người Việt Nam khi làm thơ đường luật cũng hoàn toàn tuân theo những nguyên tắc này.


Luật thơ Đường căn cứ trên thanh bằng và thanh trắc, và dùng các chữ thứ 2-4-6 và 7 trong một câu thơ để xây dựng luật. Thanh bằng gồm các chữ có dấu huyền hay không dấu; thanh trắc gồm các dấu: sắc, hỏi, ngã, nặng.


Nếu chữ thứ 2 của câu đầu tiên dùng thanh bằng thì gọi là bài có "luật bằng"; nếu chữ thứ 2 câu đầu dùng thanh trắc thì gọi là bài có "luật trắc". Trong một câu, chữ thứ 2 và chữ thứ 6 phải giống nhau về thanh điệu, và chữ thứ 4 phải khác hai chữ kia. Ví dụ, nếu chữ thứ 2 và 6 là thanh bằng thì chữ thứ 4 phải dùng thanh trắc, hay ngược lại. Nếu một câu thơ Đường mà không theo quy định này thì được gọi "thất luật".


Ví dụ: xét câu "Bước tới đèo Ngang bóng xế tà" trong bài Qua Đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan, có các chữ "tới" (thứ 2) và "xế" (thứ 6) giống nhau vì đều là thanh trắc còn chữ "Ngang" là thanh bằng thì đó là bài thất ngôn bát cú luật trắc.

Luật bằng trắc trong thể Thất ngôn tứ tuyệt và Thất ngôn bát cú có thể nôm na liệt kê như sau, nếu chỉ vần bằng bằng chữ "B", vần trắc bằng chứ "T", những vần không có luật để trống, thì luật trong các chữ thứ 2-4-6-7 có thể viết là:


Luật bằng trắc

Luật thơ Đường sẽ căn cứ dựa trên thanh trắc và thanh bằng, và dùng các chữ thứ 2-4-6 và 7 trong cùng một câu thơ để xây dựng luật. Thanh bằng bao gồm những chữ không có dấu hoặc dấu huyền; thanh trắc bao gồm tất cả các dấu còn lại: sắc, hỏi, ngã, nặng.


Nguyên tắc cố định của một bài thơ Đường luật là ý nghĩa của hai câu 3 và 4 phải "đối" nhau và hai câu 5, 6 cũng "đối" nhau. Đối thường được hiểu là sự tương phản (về nghĩa kể cả từ đơn, từ ghép, từ láy) bao gồm cả sự tương đương trong cách dùng các từ ngữ. Đối chữ: danh từ đối danh từ, động từ đối động từ. Đối cảnh: trên đối dưới, cảnh động đối cảnh tĩnh... Nếu một bài thơ Đường luật mà các câu 3, 4 không đối nhau, các câu 5, 6 không đối nhau thì bị gọi "thất đối".

Ví dụ: hai câu 3, 4 trong bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:


Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông rợ mấy nhà,


"Lom khom" đối với "lác đác" (hình thể và số lượng - thực ra hai câu này chưa phải đối hoàn chỉnh), "dưới núi" đối với "bên sông" (vị trí địa hình), song nếu nối hình ảnh hai câu trên "lom khom dưới núi" và "lác đác bên sông" thì vì một câu diễn tả về cảnh động, còn một câu diễn tả về cảnh tĩnh, nên sự đối lập có thể chấp nhận được. Một điểm nên chú ý là cách dùng từ láy âm "lom khom" chỉ dáng người của câu trên, và "lác đác" chỉ số lượng của câu dưới. Hai vế tiếp: "tiều vài chú" đối với "rợ mấy nhà" (đối lập về số lượng và tĩnh/động). Sự đối lập của hai vế cuối có thể coi là hoàn chỉnh. Xin xem thêm về thơ đối hoặc Câu đối Việt Nam để hiểu thêm về luật đối trong thơ. Nhị tứ lục phân minh (Câu 2,4,6 phải đối ý).


Niêm

Các câu trong một bài thơ Đường luật giống nhau về luật thì được gọi là "những câu niêm với nhau" (niêm = giữ cứng, ở đây được hiểu là giữ giống nhau về luật). Hai câu thơ niêm với nhau khi nào chữ thứ nhì trong cả hai câu cùng theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, thành ra bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Ở những câu theo nguyên tắc là cần phải niêm, nếu tác giả sơ suất mà làm thành không niêm thì bài đó bị gọi là "thất niêm". Nguyên tắc niêm trong một bài thơ Đường luật chuẩn (thất ngôn bát cú) như sau:


Câu 1 niêm với câu 8

Câu 2 niêm với câu 3

Câu 4 niêm với câu 5

Câu 6 niêm với câu 7


Còn đối với Nguyên tắc niêm ở thể thơ Thất ngôn tứ tuyệt: Câu 2 niêm với câu 3, câu 4 niêm với câu 1. Chẳng hạn với luật vần bằng:

- B - T - B B

- T - B - T B

- T - B - T T

- B - T - B B

- B - T - B T

- T - B - T B

- T - B - T T

- B - T - B B


Ví dụ: Xét trong bài thơ Qua đèo Ngang, hai câu thứ 2 và thứ 3:

Cỏ cây chen đá lá chen hoa

Lom khom dưới núi tiều vài chú

  • Vần

Vần là những chữ có cách phát âm giống nhau, hoặc gần giống nhau, được dùng để tạo âm điệu trong thơ. Trong một bài thơ Đường luật chuẩn, vần được dùng tại cuối các câu 1, 2, 4, 6 và 8. Những câu này được gọi là "vần với nhau". Nếu một bài thơ Đường luật mà chữ cuối của một trong các câu này không giống nhau về vần thì được gọi "thất vần".

Những chữ có vần giống nhau hoàn toàn gọi là "vần chính", những chữ có vần gần giống nhau gọi là "vần thông". Hầu hết thơ Đường luật dùng vần thanh bằng, nhưng cũng có các ngoại lệ.

Ví dụ: hai câu 1, 2 trong bài Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:

Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa

Hai chữ "tà" và "hoa" được xem là vần với nhau, nhưng ở đây là "vần thông" vì chỉ phát âm gần giống nhau.

  • Bố cục

Bố cục một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật theo truyền thống thường được chia gồm 4 phần: Đề, Thực (hoặc Trạng), Luận, Kết. "Đề" gồm 2 câu đầu trong đó câu đầu tiên gọi là câu phá đề, câu thứ 2 gọi là câu thừa đề, chuyển tiếp ý để đi vào phần sau. "Thực" gồm 2 câu tiếp theo, giải thích rõ ý đầu bài. "Luận" gồm 2 câu tiếp theo nữa, bình luận 2 câu thực. "Kết" là 2 câu cuối, kết thúc ý toàn bài, trong đó câu số 7 là câu "thúc" (hay "chuyển") và câu cuối là "hợp". Có người cho rằng Hai câu đề giới thiệu về thời gian, không gian, sự vật, sự việc. Hai câu thực trình bày, mô tả sự vật, sự việc. Hai câu luận diễn tả suy nghĩ, thái độ, cảm xúc về sự vật, hiện tượng. Hai câu kết khải quát toàn bộ nội dung bài theo hướng mở rộng và nâng cao


Đối ý: Một nguyên tắc cố định trong một bài thơ được sáng tác theo thể loại đường luật chính là ý nghĩa của câu thứ 3, thứ 4 phải đối nhau và cả 2 câu thứ 5, thứ 6 cũng phải đối nhau. Đối chính là sự tương phản về nghĩa của cả từ đơn, từ láy hoặc từ ghép và nó bao gồm cả sự tương đương trong cách mà tác giả sử dụng từ ngữ. Đối chữ là động từ đối động từ, danh từ với danh từ. Đối cảnh là cảnh đội đối với cảnh tĩnh, trên đối với dưới… Nếu trong một bài thơ đường luật mà các câu 3, 4 không đối nhau hoặc những câu 5, 6 không đối nhau thì được gọi “thất đối”.


Thơ thất ngôn bát cú có luật lệ gò bó khó làm nhất nhưng chính điều đó lại được người xưa ưa thích nhất, thường dùng để bày tỏ tình cảm ý chí, ngâm vịnh, xướng họa... Và trong tất cả các kỳ thi xưa đều bắt thí sinh phải làm.


Tại quê hương của Đường thi cũng là nơi mà phong trào tập cổ, sáng tác thơ Đường luật rầm rộ nhất, lý luận thi pháp thơ Đường luật Trung Quốc không có khái niệm Đề, Thực, Luận, Kết mà thay bằng khái niệm đầu liên, hàm liên, cảnh liên, vĩ liên, nói ngắn gọn bằng tổ hợp bốn từ Khởi (khai), Thừa, Chuyển, Hợp. Tuy nhiên cách phân chia này cũng không khác gì cách phân Đề, Thực, Luận, Kết về mặt ý nghĩa. Tuy nhiên, đa phần tài liệu Việt Nam vẫn đi theo cách chia Đề, Thực, Luận, Kết. Vì vậy, khi học hoặc tiếp cận Đường luật.


Một quan niệm khác áp dụng cấu trúc 2-4-2 cho bài thơ thất ngôn bát cú. Theo đó quan niệm này đứng ở góc độ không gian-thời gian nghệ thuật để khảo sát toàn bài dựa theo logic hai câu đầu và hai câu cuối bài thơ Đường luật thường yếu tố thời gian chiếm vị trí chủ đạo, còn bốn câu giữa trật tự không gian là chủ đạo và tác giả dường như dừng lại để quan sát sự vật.


Cũng cần nhắc đến quan điểm "Cảnh-Tình" của Kim Thánh Thán khi chia bài thất ngôn bát cú thành hai phần đều nhau, theo đó bốn câu trên của bài nặng về cảnh và bốn câu dưới nặng về tình.


Hiện nay, các nhà nghiên cứu có xu hướng không cố tìm quy luật chung về bố cục để áp dụng trong hàng loạt bài thơ mà áp dụng quan điểm nghiên cứu đã có từ thời Minh mạt Thanh sơ ở Trung Hoa, quan điểm bám sát và tuân thủ cách phân chia bố cục của từng bài thơ theo mạch cảm xúc của thi nhân biểu hiện trong bài. Một ví dụ là bài thơ hết sức nổi tiếng Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan hoàn toàn có thể được phân tách theo bố cục 1/7, hoặc bài Bạn đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến có thể bố cục 7/1 hoặc 1/6/1.


Khi làm thơ Đường Luật thì chúng ta phải giữ cho đúng niêm luật. Nếu không tuân theo đúng quy tắc thì dù nội dung bài thơ của bạn có hay đến mấy đi nữa thì cũng không được chấp nhận.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 3
(có 0 lượt vote)

Bài soạn "Viết Báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề" (Ngữ văn 10 - SGK Cánh diều) - mẫu 4

Định hướng

- Viết báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề là viết thu hoạch sau khi nghiên cứu về một đề tài đã được thực hiện. Vấn đề nghiên cứu rất đa dạng. phong phú, có thể đó là một vấn đề đặt ra trong học tập gắn với môn học.

- Để viết báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề, các em cần chú ý:

+ Lựa chọn một vấn đề cần phải viết báo cáo nghiên cứu tổng kết (có thể chọn vấn đề liên quan đến các bài đã học hoặc một vấn đề có ý nghĩa đặt ra từ cuộc sống).

+ Tiến hành nghiên cứu theo một quy trình: Xác định mục đích và cách thức nghiên cứu; thu thập và lựa chọn tài liệu; ghi chép, sử dụng các công cụ tra cứu như từ điển, sách, báo, Internet,...; tổng hợp kết quả nghiên cứu.

+ Xây dựng dàn ý (đề cương) của báo cáo kết quả nghiên cứu. Đề cương của báo cáo kết quả nghiên cứu thường có các nội dung lớn sau đây:

Kết quả nghiên cứu tuy mới chỉ dừng ở mức rèn luyện, tập dượt nhưng các em cần mạnh dạn tìm hiểu, cố gắng để có được những phát hiện của riêng mình; trích dẫn đầy đủ, đúng quy cách; tránh việc đạo văn hoặc vay mượn từ công trình, bài viết của người khác mà không dẫn nguồn tài liệu. Phần cuối báo cáo nêu rõ các tài liệu tham khao (nếu có).


Thực hành

Đề bài: Em hãy viết báo cáo kết quả nghiên cứu về đặc điểm hình thức thơ Đường luật qua một số bài thơ trung đại đã học.

Bài báo cáo tham khảo

Giới thiệu

Trong văn học trung đại, thơ Đường luật là một hình thức không thể thiếu góp phần làm lên vẻ đẹp của thời kì này. Nhiều nhà thơ không chỉ nhà thơ Trung Quốc mà cả những nhà thơ Việt Nam cũng sử dụng thể loại thơ này để gửi gắm tâm tư, tình cảm sâu lắng của mình vào trong đó qua những lời thơ rất đỗi giản dị và thân thuộc. Bởi vậy, hiểu được hình thức của một bài thơ Đường luật sẽ giúp ta dễ dàng hiểu hơn về nội dung của toàn bài thơ.

Cách thức tiến hành nghiên cứu

Căn cứ vào các tác phẩm văn học trung đại trong kho tàng văn học Việt Nam, ta có thể dễ dàng bắt gặp những tác phẩm được làm theo thể thơ Đường luật của một số tác giả như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương… Dựa trên việc phân tích một số bài thơ tiêu biểu nhằm làm nổi bật lên đặc điểm hình thức của thơ Đường luật.

Bài thơ Đường luật

* Hai thể thơ chính được sử dụng nhiều trong kho tàng văn học Việt Nam là

- Thất ngôn bát cú Đường luật: Câu cá mùa thu, Tự tình

- Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật: Bánh trôi nước, Tỏ lòng

* Bố cục chung của một bài thơ Đường luật

- Gồm 4 phần: đề, thực, luận, kết

- Về nguyên tắc, thơ Đường luật là đối, nó được thể hiện ở chữ thứ nhất, thứ 2, thứ 3… của câu trên phải đối với chữ thứ nhất, thứ 2, thứ 3… của câu về âm và về ý. Để nới lỏng hơn về luật thơ, người ta thường quy ước đối chữ thứ nhất, thứ ba, thứ năm không cần theo luật.

Ví dụ: trong bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến, trong câu 1 và câu 2 của bài thơ ta bắt gặp sự đối ý:

Câu 1: ao thu, trong veo

Câu 2: một chiếc thuyền câu, tẻo teo

- Về đối âm (luật bằng trắc), thơ Đường luật dựa trên thanh bằng và thanh trắc, thường xuất hiện ở các chữ 2, 4, 6 và 7 trong một câu thơ. Nếu chữ thứ hai của câu đầu tiên dùng thanh bằng thì gọi là bài có “luật bằng” và nếu chữ thứ hai câu đầu dùng thanh trắc thì bài thơ có “luật trắc”. Trong một câu, chứ thứ 2 và 6 phải giống nhau về thanh điệu và chữ thứ 4 phải khác hai chữ kia. Nếu nằm ngoài hai cách kia thì bài thơ được làm theo thể thất luật.

Ví dụ: trong hai câu thơ đầu bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến, ta có thể nhận thấy bài thơ được làm theo luật bằng:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

B B T T T B B

Hay trong bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương, bài thơ cũng sử dụng luật bằng:

Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,

B B B T T B B

- Về nguyên tắc, câu 3-4 và 5-6 phải đối nhau. Đối là sự tương phản về nghĩa của cả từ đơn, từ láy hoặc từ ghép hay đối động từ-động từ, danh từ-dạnh từ. Đối cảnh thường là cảnh động-cảnh tĩnh, cảnh trên-dưới… Nếu trong thơ luật câu 3-4 hoặc 5-6 không đối nhau thì được gọi là thất đối.

Ví dụ: Trong bài thơ Tự tình của Xuân Quỳnh, câu 5-6 đối với nhau cả về động từ, danh từ và đối cảnh:

Động từ: xiên-đâm

Danh từ: rêu-đá

Đối cảnh: mặt đất-chân mây

Kết luận

Trên đây là một số điểm nổi bật trong hình thức thơ Đường luật Việt Nam. Đó là sự kết hợp giữa luật lệ, phép đối tạo nên một sự cân đối, hài hòa trong lời thơ, ý cảnh của từng tác phẩm. Mặc dù nó đã được các tác giả tinh giản đi trong cách sử dụng cũng như luật lệ, nhưng nó vẫn mang sự đặc trưng của thơ ca Việt Nam giản dị, gần gũi và thấm đượm tình cảm của tác giả.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 4
(có 0 lượt vote)

Bài soạn "Viết Báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề" (Ngữ văn 10 - SGK Cánh diều) - mẫu 5

Bài tập: Em hãy viết báo cao kết quả nghiên cứu về đặc điểm hình thức thơ Đường luật qua một số bài thơ Đường luật qua một số bài thơ trung đại đã học.

Trả lời:

Đặc điểm hình thức thơ Đường luật qua một số bài thơ Đường luật qua một số bài thơ trung đại đã học.

GIỚI THIỆU 

Thơ Đường luật là một thể loại thơ phổ biến trong văn học các nước khu vực văn hóa Đông Á thời trung đại  (bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam). Thơ Đường luật chú trọng đối với nghệ thuật đối khá đa dạng.

2.  NGHIÊN CỨU

Trong hệ thống thể loại của văn học Việt Nam, thơ Đường luật  là một trong số các thể loại có lịch sử lâu đời và trong một thời gian khá đài từng có vị trí gần như là độc tôn trên thi đàn Việt Nam. Chưa đủ căn cứ để xác đinh thơ Đường luật vào Việt Nam năm nào, nhưng nếu thời điểm ra đời văn học viết Việt Nam được tính ít nhất từ thế kỷ X, thì đến nay thơ đường luật đã tồn tại ở Việt Nam ngót mười thế kỷ. Ngót mười thế kỷ, một thể thơ ngoại nhập đã được người Việt Nam sử đụng để sáng tạo biết bao giá trị. Không ai quên, với Đường luật, Nguyễn Trãi đã tạo nên một "niềm ưu ái" đầy tâm huyết. Nguyễn Bỉnh Khiêm tạo nên một phong cách triết gia trầm tĩnh, nhuần nhị. Hồ Xuân Hương để lại một phong cách trữ tình trào phúng "thi trung hữu quỷ". Bà Huyện Thanh Quan, lại xứng đáng với một phong cách Đường thi mẫu mực.... 

CÁC BÀI THƠ ĐƯỜNG LUẬT 

- Các bài thơ đường luật đã học: Bánh trôi nước, Qua đèo Ngang, Bạn đến chơi nhà, Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác, Đập đá ở Côn Lôn,...

- Phân tích bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:

Bà Huyện Thanh Quan là một nữ thi sĩ nổi tiếng trong nền văn học trung đại của nước ta. “Qua Đèo Ngang” là một tác phẩm rất tiêu biểu cho phong cách thơ của bà. Bài thơ đã khắc họa khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang thoáng đãng mà heo hút, thấp thoáng sự sống con người nhưng vẫn còn hoang sơ. Đồng thời nhà thơ còn qua đó gửi gắm nỗi nhớ nước thương nhà.

Tác giả đã khắc họa khung cảnh thiên nhiên nơi Đèo Ngang trong một buổi chiều tà:

“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”

Cụm từ “bóng xế tà” gợi ra thời điểm kết thúc của một ngày. Nhà thơ đang một mình đứng trước nơi đèo Ngang. Tiếp đến câu thơ “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa” là hình ảnh ước lệ mang tính biểu tượng, khắc họa khung cảnh thiên nhiên đèo Ngang. Việc sử dụng điệp từ “chen” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” thật tinh tế. Vẻ đẹp thiên nhiên của đèo Ngang tuy hoang sơ nhưng lại tràn đầy sức sống. Khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang được nhà thơ khắc họa chỉ bằng vài nét nhưng lại hiện ra đầy chân thực và sinh động.

Và không thể thiếu trong bức tranh thiên nhiên đó là hình ảnh con người. Nghệ thuật đảo ngữ “lom khom - tiều vài chú” cho thấy hình ảnh vài chú tiều với dáng đứng lom khom dưới chân núi. Và “lác đác - chợ mấy nhà” gợi ra hình ảnh vài căn nhà nhỏ bé thưa thớt, lác đác bên sông. Nhà thơ muốn nhấn mạnh vào sự nhỏ bé của con người trước thiên nhiên rộng lớn. Con người chỉ nằm là một chấm buồn lặng lẽ giữa một thiên nhiên rộng lớn. Thiên nhiên mới là trung tâm trong bức tranh đèo Ngang.

Thiên nhiên càng cô quạnh, tâm trạng của tác giả càng cô đơn. Điều đó được bộc lộ ở những câu thơ tiếp theo:

“Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia”

Hình ảnh “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là hình ảnh thực về hai loại chim (chim đỗ quyên, chim đa đa). Việc sử dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh: tiếng kêu “quốc quốc”, “đa đa” để qua đó bộc lộ nỗi lòng nhớ thương của mình với đất nước, quê hương. Đọc đến đây, chúng ta dường như có thể lắng nghe được tiếng kêu khắc khoải, da diết đang vang lên trong vô vọng.

Câu thơ “Dừng chân đứng lại, trời, non, nước” khắc họa hình ảnh nhà thơ một mình đứng tại nơi Đèo Ngang, đưa mắt nhìn ra xa cũng chỉ thấy thiên nhiên rộng lớn phía trước (có bầu trời, có núi non, dòng sông). Sự cô đơn của nhà thơ: “một mảnh tình riêng” - tình cảm riêng tư của nhà thơ không có ai để chia sẻ:

“Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta"

Trong thơ Nguyễn Khuyến cũng từng sử dụng cụm từ “ta với ta”:

“Đầu trò tiếp khách trầu không có
Bác đến chơi đây ta với ta”

Trong “Bạn đến chơi nhà, từ “ta” đầu tiên chỉ chính nhà thơ - chủ nhà, còn từ “ta” thứ hai chỉ người bạn - khách đến chơi. Từ “với” thể hiện mối quan hệ song hành, gắn bó dường như không còn khoảng cách. Qua đó thể hiện tình bạn gắn bó tri âm tri kỷ của nhà thơ. Còn trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, cụm từ “ta với ta” ở đây đều chỉ nhà thơ, lúc này bà chỉ có một mình đối diện với chính mình, cô đơn và lẻ loi. Sự cô đơn ấy dường như chẳng thể có ai cùng chia sẻ.

Như vậy, Qua đèo Ngang đã thể hiện được tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan trước khung cảnh đèo Ngang hoang sơ. Bài thơ chứa đựng những tình cảm, ý nghĩa sâu sắc.

- Bảng niêm luật trong bài thơ Qua đèo Ngang: 

- Đặc điểm về hình thức và nội dung: Đặc điểm về luật thanh điệu, niêm, nhịp, vần. Tất cả đều chú trọng về nhạc lí, tính nhạc. Nhiều người cho rằng, việc tạo ra thể thơ Đường luật còn có mục đích là để dùng nó làm lời cho các thể hát, điệu hát. Vì thế tính nhạc, sự hòa phối thanh sắc, ngữ nghĩa là một yêu cầu được đề cao. Và các quy định của thể thơ cũng dựa nhiều vào âm luật mà đặt ra. Về nội dung phản ánh đời sống xã hội, cụ thể ở đây là sự lầm than, cơ cực của người dân. Nó trở thành nguồn động viên tinh thần, cổ vũ người dân. Đồng thời tố cáo, lên án quan quyền, vương quyền áp bức bóc lột nhân dân. Có thể xem thể thơ này vừa được dùng để bộc lộ, thể hiện tình cảnh, tình cảm, vừa là vũ khí chiến đấu của người dân, giới trí thức.

KẾT LUẬN

Thơ Đường luật nói chung, luật tuyệt nói riêng, do sáng tác buộc phải tuân theo những quy định khắt khe về niêm, luật, vần, đối và cách bố cục, cho nên lựa chọn luật tuyệt tuy ưu thế là cô đọng, hàm súc, nhưng cũng hạn chế trong khả năng diễn tả cảm xúc, tâm tư theo những thay đổi thời cuộc. Bài viết trên cơ sở chỉ ra những nét đặc trưng trong thi pháp thể loại của luật tuyệt, bước đầu tìm hiểu đặc điểm hình thức thơ Đường luật qua một số bài thơ Đường luật qua một số bài thơ trung đại đã học.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 5
(có 0 lượt vote)

Bài soạn "Viết Báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề" (Ngữ văn 10 - SGK Cánh diều) - mẫu 6

I. Định Hướng

  1. Nhan đề cho biết thông tin gì?
    Trả lời:
    Nhan đề cho biết vấn đề nghiên cứu.
  2. Đoạn tóm tắt này có nhiệm vụ như thế nào?
    Trả lời:
    Đoạn tóm tắt này có nhiệm vụ tóm lược lại toàn bộ công trình nghiên cứu: đối tượng, phương pháp, kết quả, khuyến nghị.
  3. Nội dung chính nêu trong đoạn giới thiệu ở đây là gì?
    Trả lời:
    Nội dung chính nêu trong đoạn giới thiệu ở đây là tầm quan trọng của việc phát triển văn hóa đọc trong việc nâng cao chất lượng đào tạo toàn diện tại trường Đại học Công nghiệp Hà Nội.
  4. Đoạn này trích dẫn những gì và cách trích dẫn như thế nào?
    Trả lời:
    - Đoạn này trích dẫn các định nghĩa về văn hóa đọc của nhiều nhà nghiên cứu khác nhau.
    - Các khái niệm này được trích dẫn theo hai cách:
    + Trực tiếp: đoạn trích dẫn được trích nguyên văn và đưa vào trong dấu ngoặc kép.
    + Gián tiếp: Tác giả diễn giải lại kết quả, hoặc một ý nào đó của công trình nghiên cứu trước nhưng vẫn phải đảm bảo sự chính xác theo văn bản gốc.
  5. Phương pháp nghiên cứu ở đây là gì?
    Trả lời:
    Phương pháp nghiên cứu ở đây là phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp điều tra, khảo sát.
  6. Chú ý các tiêu đề nhỏ để biết kết quả chính của báo cáo.
    Trả lời:
    - Kết quả chính của báo cáo:
    + Nhu cầu đọc bao gồm: thói quen đọc, nguồn tài liệu, nhu cầu và hứng thú đọc.
    + Kĩ năng đọc.
  7. Phương tiện hỗ trợ ở đây có phù hợp không?
    Trả lời:
    Phương tiện hỗ trợ ở đây rất phù hợp.
  8. Tên các tài liệu tham khảo được xếp theo thứ tự nào?
    Trả lời:
    Tên các tài liệu tham khảo được sắp xếp theo thứ tự:
    - Tài liệu được sắp xếp theo thứ tự alphabet của tên tác giả.
    - Tài liệu không có tên tác giả thì xếp thứ tự alphabet từ đầu của tên cơ quan ban hành báo hay ấn phẩm.
    - Thông tin về tài liệu được viết theo thứ tự: họ và tên tác giả hoặc cơ quan ban hành, năm xuất bản, tên bài báo, tên tạp chí, số trang.
  9. Những tài liệu tham khảo này có liên quan đến nội dung báo cáo như thế nào?
    Trả lời:
    Những tài liệu tham khảo này liên quan đến nội dung báo cáo:
    + Những thông tin được tham khảo hoặc trích dẫn trong công trình nghiên cứu, thể hiện sự thừa nhận của người viết đối với các tác giả nghiên cứu.
    + Cơ sở cho những lập luận của người viết về vấn đề nghiên cứu.
    + So sánh và tìm ra điểm khác biệt của bản thân đối với các tài liệu đã được công bố.

II. Thực Hành

Dàn ý
a) Mở đầu:
+ Giới thiệu chung về thơ Đường luật trung đại và ý nghĩa của việc tìm hiểu hình thức thơ Đường luật.
+ Nêu cách thức tiến hành nghiên cứu.
b) Nội dung:
+ Giới thiệu các bài thơ Đường luật đã học và cách phân loại chúng.
+ Phân tích bố cục chung của một bài Đường luật thất ngôn bát cú, các câu đề, thực, luận, kết và vai trò của chúng trong bài thơ. Từ đó, giới thiệu thêm về thơ tứ tuyệt. Ví dụ: Bài thơ "Bánh trôi nước" (Hồ Xuân Hương).
+ Giới thiệu vần, đối, niêm, luật trong thơ Đường luật (có thể lập bảng niêm, luật của thơ Đường luật); nêu tác dụng của các yếu tố hình thức trong việc thể hiện nội dung.
+ Phân tích sự sáng tạo về hình thức của thơ Nôm Đường luật.
c) Kết luận:
+ Khái quát, tổng hợp lại vấn đề đã được trình bày.


Viết bài

BÀI LÀM THAM KHẢO

Đặc điểm hình thức thơ Đường luật

I. MỞ ĐẦU

Lí do chọn đề tài

Thể thơ Đường luật ra đời vào thời nhà Đường tại Trung Quốc và có sức ảnh hưởng mạnh mẽ tới các nền văn học khác trong khu vực Đông Á thời trung đại (bao gồm Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam). Thể thơ này đạt đến sự phát triển rực rỡ ngay tại chính quê hương sản sinh ra nó. Trải qua thời gian dài hình thành và phát triển, đến nay thơ Đường luật đã trở thành đối tượng nghiên cứu của những nhà khoa học nghiên cứu về văn chương trên toàn thế giới. Việc tìm hiểu hình thức thơ Đường luật đóng vai trò quan trọng trong việc tiếp cận và phân tích những nét đặc sắc về mặt nội dung trong mỗi tác phẩm.

Cách thức tiến hành nghiên cứu

Để tìm hiểu đặc điểm hình thức thơ Đường luật, tôi sẽ vận dụng phương pháp phân tích và tổng hợp lí thuyết.


II. NỘI DUNG

  • Phân loại

Trong chương trình Ngữ văn, số lượng các sáng tác thơ Đường luật khá nhiều, bao gồm: "Sông núi nước Nam" (chưa rõ tác giả), "Phò giá về kinh" (Trần Quang Khải), "Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra" (Trần Nhân Tông), "Bánh trôi nước" (Hồ Xuân Hương), "Bạn đến chơi nhà" (Nguyễn Khuyến), "Rằm tháng giêng" (Hồ Chí Minh), "Nguyên tiêu" (Hồ Chí Minh), "Cảm xúc mùa thu" (Đỗ Phủ), "Qua Đèo Ngang", (Bà Huyện Thanh Quan),...

Các sáng tác chủ yếu thuộc ba thể loại: thất ngôn bát cú và thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn tứ tuyệt. Cụ thể:

- Những bài thơ thuộc thể thất ngôn bát cú: "Bạn đến chơi nhà" (Nguyễn Khuyến), "Cảm xúc mùa thu" (Đỗ Phủ), "Qua Đèo Ngang" (Bà Huyện Thanh Quan), "Câu cá mùa thu" (Nguyễn Khuyến),...

- Những bài thơ thuộc thể thất ngôn tứ tuyệt: "Sông núi nước Nam" (chưa rõ tác giả), "Rằm tháng giêng" (Hồ Chí Minh), "Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra" (Trần Nhân Tông), "Bánh trôi nước" (Hồ Xuân Hương),...

- Những bài thơ thuộc thể ngũ ngôn tứ tuyệt: "Phò giá về kinh" (Trần Quang Khải), "Tĩnh dạ tứ" (Lí Bạch).

Các bài thơ nêu trên được phân loại theo thể thơ, dựa trên số câu và số tiếng: Thất ngôn bát cú (tám câu, mỗi câu 7 tiếng), thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 7 tiếng), ngũ ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu 5 tiếng).

  • Bố cục của bài thơ

Việc tìm hiểu bố cục bài thơ sẽ giúp người đọc có thể tiếp cận với nội dung của tác phẩm. Bố cục của một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật truyền thống bao gồm bốn phần: đề (câu 1, 2), thực (câu 3, 4), luận (câu 5, 6), kết (7, 8). Trong bài thơ "Cảm xúc mùa thu" của Đỗ Phủ cũng tuân thủ nghiêm ngặt bố cục của một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Hai câu đề, tác giả tập trung miêu tả khung cảnh mùa thu ở trên cao, hai câu thực là khung cảnh mùa thu ở dưới thấp. Tiếp đến hai câu luận thể hiện tâm trạng cô đơn của con người trước cảnh vật. Cuối cùng hai câu kết bộc lộ nỗi nhớ thương quê nhà trước khung cảnh sinh hoạt của con người.

Đối với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, bố cục cũng được triển khai bốn phần: khai, thừa, chuyển hợp tương ứng lần lượt với câu 1, 2, 3, 4. Một trong những bài thơ được viết theo thể thơ này là "Bánh trôi nước" của Hồ Xuân Hương.

  • Cách gieo vần

Trong thơ Đường luật, thể thơ sẽ quy định cách gieo vần. Đối với thể thơ tứ tuyệt hay còn gọi là tuyệt cú, thông thường chỉ gieo một vần là vần bằng ở các câu 1, 2, 4. Ví dụ trong bài thơ "Sông núi nước nam" (chưa rõ tác giả) cũng được gieo vần "ư" ở cuối các câu 1, 2, 4 ("cư", "thư", "hư") hay vần "on" ("tròn", "non", "son" ở cuối các câu 1, 2, 4 trong bài "Bánh trôi nước" của Hồ Xuân Hương.

Đối với thể thất ngôn bát cú, bài thơ thông thường cũng chỉ gieo một vần bằng ở các câu 1, 2, 4, 6, 8 (chữ cuối ở câu thứ nhất có thể gieo vần hoặc không). Bài thơ "Câu cá mùa thu" của Nguyễn Khuyến và "Cảm xúc mùa thu" của Đỗ Phủ tuân thủ rất chặt chẽ theo cách gieo vần này. Bài "Cảm xúc mùa thu" gieo vần bằng là vần "âm" ("lâm", "sâm", "âm", "tâm", "châm") còn "Câu cá mùa thu" gieo vần "eo" ("veo", "teo", " vèo", "teo", "bèo").

  • Đối

Thơ Đường luật rất chú trọng đối và phép đối tương đối đa dạng. Trong bài thơ thất ngôn bát cú, hai câu thực và hai câu luận thường đối nhau. Các chữ đối nhau phải giống nhau về mặt từ loại (cùng động từ, danh từ,...). Có khi phép đối xuất hiện giữa hai vế trong một câu; phổ biến là đối về từ, các vế của câu trên với câu dưới; có khi đối giữa hai câu thực và hai câu luận. Căn cứ vào sự tương phản hay thuận chiều về ý và lời, có thể chia thành hai loại: đối tương đồng, đối tương phản.

  • Niêm, luật

Trong thơ bát cú, câu 1 niêm với câu 8, câu 2 niêm với câu 3, câu 4 niêm với câu 5 và câu 6 niêm với câu 7 nhằm tạo ra âm điệu và sự kết dính giữa các câu với nhau. Còn luật là sự đối nhau về âm thanh bằng - trắc, đối nhau trong cùng một liên. Tiếng thứ nhất, ba, năm không cần quan tâm bằng trắc; tiếng hai, bốn sáu nhất định phải đối về mặt âm thanh.

Đối với thơ tứ tuyệt, tuân thủ quy định niêm, luật như thể thơ bát cú.

Ví dụ: Niêm, luật của bài thơ "Cảm xúc mùa thu" (Đỗ Phủ)

Thơ Đường luật có một mô hình thi luật nghiêm ngặt, chặt chẽ, hướng tới sự đối xứng, hài hòa về mặt cấu trúc của toàn bộ bài thơ. Mô hình thi luật này dựa trên cảm quan của người Trung Quốc về vũ trụ, họ cho rằng vũ trụ là thể thống nhất và giữa các bộ phận của vũ trụ luôn có sự liên thông với nhau. Các yếu tố hình thức trong thơ Đường luật góp phần làm nổi bật chủ đề, tư tưởng của bài thơ.

  • Sự sáng tạo về hình thức của thơ Nôm Đường luật

Chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của nền văn học Trung Hoa, Việt Nam cũng tiếp nhận và thừa hưởng di sản văn chương phong phú dưới nhiều hình thức khác nhau. Nổi bật là thể thơ Nôm Đường luật được hình thành dựa trên cơ sở của thơ Đường luật và ngôn ngữ dân tộc. Ông cha ta đã sáng tạo ra chữ Nôm dựa trên chữ Hán để ghi âm và biểu đạt nghĩa tiếng Việt. Thơ Nôm Đường luật mặc dù vẫn tuân thủ những quy định về hình thức của thơ Đường nhưng cũng đã có những thay đổi về nhịp điệp câu thơ, sử dụng nhiều những hình ảnh, từ ngữ gắn liền với đời sống thường ngày. Bài thơ "Tự tình" của Hồ Xuân Hương là bài thơ Nôm có sự phá cách về mặt hình thức khi niêm luật của bài thơ đã có sự thay đổi.


III. KẾT LUẬN

Đặc điểm của hình thức thơ Đường luật được biểu hiện qua: bố cục, vần, đối, niêm, luật,... tạo nên sự chặt chẽ, hài hòa cho cấu trúc của toàn bộ bài thơ. Chúng có tác dụng quan trọng trong việc thể hiện nội dung của tác phẩm cũng như thể hiện được quan niệm và phong cách sáng tác của nhà thơ.

Để có thể viết báo cáo về một vấn đề, các em cần lựa chọn đề tài có tính cấp thiết, tiến hành nghiên cứu theo một quy trình và xây dựng đề cương chi tiết. Mặc dù, kết quả nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở mức rèn luyện nhưng các em cần cố gắng hơn!

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 2
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Hi vọng bài viết trên mang lại nhiều giá trị cho bạn. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài văn hay trên Alltop.vn

Hãy đăng nhập để bình luận

Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .