Top 6 Bài soạn "Trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề" (Ngữ văn 10 - SGK Cánh diều) hay nhất
Mời các bạn tham khảo một số bài soạn "Trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề" (Ngữ văn 10 - SGK Cánh diều) hay nhất mà Alltop tổng hợp trong...xem thêm ...
Bài soạn "Trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề" - mẫu 1
Định hướng
a) Trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề là giới thiệu, thuyết trình trước người nghe về một vấn đề đã được nghiên cứu, tìm hiểu
b) Để trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề, các em cần:
- Xác định rõ người nghe là ai để có cách trình bày phù hợp.
- Hiểu rõ nội dung vấn đề để có thể trình bày một cách rõ ràng, tự tin, cảnh xác,…
- Xác định thời lượng trình bày bài thuyết trình Chuẩn bị dàn ý bài thuyết trinh và các thiết bị hỗ trợ (hiện vật, tranh ảnh, máy chiếu,..)
- Biết trình bày vấn đề theo trình tự ba phần mở đầu, nội dung và kết thúc, nói tô rằng, có cảm xúc, biết kết hợp với các yếu tố phi ngôn ngữ và các thiết bị hỗ trợ.
- Tiến hành việc chuẩn bị (có thể chuẩn bị theo nhóm, tìm hiểu tài liệu trên sách, bảo, Internet,) và dự kiến các câu hỏi mà người nghe có thể đặt ra khi thảo luận.
Thực hành
Bài tập (trang 60 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1 – Cánh diều): Em hãy trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu về vấn đề đặc điểm hình thức thơ Đường luật qua một số bài thơ trung đại đã học.
a) Chuẩn bị
- Xem lại dàn ý và bài báo cáo đã hoàn thành ở phần Viết
- Văn bản bài trình bày được chuẩn bị trên giấy hoặc tren trang trình chiếu của máy tính với hình ảnh, sơ đồ nếu cần. Tập đọc diễn cảm các bài thơ được sử dụng làm dẫn chứng
- Thảo luận với các bạn trong nhóm, nêu nội dung định trình bày
b) Tìm ý và lập dàn ý
- Xem lại và bổ sung, chỉnh sửa dàn ý ở phần Viết cho phù hợp với bài thuyết trình
c) Thực hành nói và nghe
- Dựa theo nội dung dàn ý đã chuẩn bị để thuyết trình
Bài làm tham khảo
Chào các bạn. Tôi tên là.... Hôm nay, tôi sẽ đem đến cho các bạn một chủ đề vô cùng thú vị về văn học Việt Nam. Các bạn có đoán được đó là gì không?
Mình gợi ý nhé: Đây là tên một thể thơ, có nguồn gốc từ Trung Quốc và cũng rất thịnh hành, phát triển ở Việt Nam. ....
Đúng vậy! Đó chính là thơ Đường luật!
Thơ ca là một dòng chảy bất tận trong văn học Việt Nam từ quá khứ cho đến hiện tại. Mặc dù chịu nhiều ảnh hưởng từ nền văn hoá Trung Hoa nhưng văn học Việt Nam vừa có những kế thừa, vừa có sự sáng tạo và phát triển. Một trong số đó, không thể không nói đến thể thơ Đường luật được biết bao thi nhân sử dụng thời trung đại. Thể thơ Đường luật đã góp phần giúp văn học Việt Nam ngày càng phát triển với nhiều thi phẩm đáng được coi là tuyệt tác.
Thơ Đường luật được đưa vào dạy học trong SGK Ngữ Văn 10 với một số tác phẩm như: Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt?), Phò giá về kinh (Trần Quang Khải), Thiên Trường vãn vọng (Trần Nhân Tông), Tĩnh dạ tứ (Lý Bạch), Bánh trôi nước (Hồ Xuân Hương), Qua đèo Ngang (Bà Huyện Thanh Quan), .... Thơ Đường luật có nguồn gốc từ Trung Quốc và phát triển mạnh mẽ nhất ở thời nhà Đường. Thơ Đường phát triển qua 3 giai đoạn: sơ Đường (617 – 755), Trung đường (755 – 821), Vãn Đường (821 – 907), trong đó, thời kì thơ Đường đạt đến đỉnh cao trong khoảng năm 713 – 766. Giai đoạn này, thơ Đường là sự kết tinh của các khuynh hướng, trường phái khác nhau như: khuynh hướng hiện thực với Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị; khuynh hướng lãng mạn gắn với tên tuổi Lý Bạch; trường phái Sơn Thuỷ Điền Viên với Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên, Phái Biên Tái với Sầm Than, Cao Thích. Thơ Đường phát triển mạnh mẽ và qua con đường giao lưu, tiếp xúc văn hoá đã đi sâu vào văn học Việt Nam.
Về nội dung, thơ Đường luật được chi phối bởi 3 cảm hứng. Thứ nhất là nỗi u hoài về thế sự, nặng niềm ưu tư xã hội, đó là cảm hứng của nhà Nho. Thứ hai, thơ Đường hướng về tư tưởng Đạo giáo yêu thiên nhiên, thích xa lánh việc đời, gắn với tư tưởng lão Trang. Thứ ba, thơ Đường hướng về Phật giáo, xa lánh đời nhưng vẫn gần nhân thế. Về nghệ thuật, đặc điểm thơ Đường luật được tìm hiểu theo các yếu tố: Thể thơ, Cấu trúc và Luật thi. Trước hết, thể thơ Đường được phân loại như sau:
Về luật thi, tác giả Nguyễn Thị Bích Hải trong cuốn “Thi pháp thơ Đường” khẳng định: “Một bài thơ phải bảo đảm sáu yêu cầu về niêm, luật, vận, đối, tiết tấu, bố cục” [1; 195]. Trước hết, “niêm” nghĩa đen là “dính”, là nguyên tắc phân phối thanh theo chiều dọc, nó làm các liên thơ liên kết (dính) với nhau. “Luật” là luật điều tiết âm thanh theo chiều ngang (trong một dòng thơ), sao cho bằng trắc hoà hợp. Có thể tóm gọn luật thơ Đường trong câu: “nhất, tam, ngũ, bất luận / nhị, tứ, lục phân minh”. Có nghĩa là chữ thứ tư phải là tâm đối xứng, khác thanh với hai chữ 2 và 6. Còn các chữ 1,3,5 có thể thay đổi linh hoạt. Về vần, thơ Đường luật chỉ được gieo một vần là vần bằng. Vần trắc rất ít khi được dùng. Về đối, đây là nguyên tắt bắt buộc của luật thi. Nguyên tắc này yêu cầu hai liên 3 và 4 phải là “đối liên” (cặp câu đối nhau), tức là câu 4 phải đối với câu 3, câu 6 phải đối với câu 5.
Về cấu trúc, thơ Đường thường được chia thành 4 phần: Đề, thực, luận, kết (khai, thừa, chuyển, hợp) như sau: Ngoài ra, một số bài thơ Đường có thể chia làm 3 phần: 2/4/2 hoặc 2 phần 4/4. Để làm rõ những đặc điểm riêng, chúng ta có thể sử dụng bài thơ “Qua đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan đến phân tích thi luật thể thơ Đường như sau: Có thể nói, “Qua đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan là một tuyệt tác Đường luật Việt Nam. Tác giả vừa sử dụng ngôn ngữ Nôm của dân tộc vừa vận dụng nhuần nhuyễn thể thơ Đường luật.
Thơ Đường luật kết tinh những giá trị văn hoá tốt đẹp, là đỉnh cao của thơ ca trung đại. Các thi nhân Việt Nam đã biết dựa theo thể thơ truyền thống của Trung Quốc và có những vận dụng, sáng tạo mang đậm bản sắc dân tộc. Do đó, tìm hiểu thơ Đường luật cũng chính là cách người đọc khám phá nền văn học cổ trung đại cũng như tư tưởng dân tộc qua mỗi thời kì.
Mình mong rằng với những gì vừa chia sẻ, chúng ta sẽ có thái độ tôn vinh, trân trọng hơn đối với thơ Đường luật và có tinh thần nghiêm túc, cầu tiến khi học tập về thể thơ Đường.
d) Kiểm tra và chỉnh sửa
Bài soạn "Trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề" - mẫu 2
Định hướng
a) Trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề là giới thiệu, thuyết trình trước người nghe về một vấn đề đã được nghiên cứu, tìm hiểu
b) Để trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề, các em cần:
- Xác định rõ người nghe là ai để có cách trình bày phù hợp.
- Hiểu rõ nội dung vấn đề để có thể trình bày một cách rõ ràng, tự tin, cảnh xác,…
- Xác định thời lượng trình bày bài thuyết trình Chuẩn bị dàn ý bài thuyết trinh và các thiết bị hỗ trợ (hiện vật, tranh ảnh, máy chiếu,..)
- Biết trình bày vấn đề theo trình tự ba phần mở đầu, nội dung và kết thúc, nói tô rằng, có cảm xúc, biết kết hợp với các yếu tố phi ngôn ngữ và các thiết bị hỗ trợ.
- Tiến hành việc chuẩn bị (có thể chuẩn bị theo nhóm, tìm hiểu tài liệu trên sách, bảo, Internet,) và dự kiến các câu hỏi mà người nghe có thể đặt ra khi thảo luận.
Thực hành
Bài tập (trang 60 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Em hãy trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu về vấn đề đặc điểm hình thức thơ Đường luật qua một số bài thơ trung đại đã học.
a) Chuẩn bị
- Xem lại dàn ý và bài báo cáo đã hoàn thành ở phần Viết. Chỉnh sửa bài báo cáo thành văn bản phù hợp để trình bày trong buổi thuyết trinh
- Văn bản bài trình bày được chuẩn bị trên giấy hoặc trên trang trinh chiếu của máy tính (slide) với hình ảnh, sơ đồ (nếu cần) Tập đọc diễn cảm các bài thơ sử dụng làm dân chứng
- Thảo luận với các bạn trong nhóm, nêu nội dung định trình bày
b) Tìm ý và lập dàn ý
Xem lại và bổ sung, chỉnh sửa dàn ý ở phần Viết cho phù hợp với bài thuyết trình c) Thực hành nói và nghe
Tham khảo các yêu cầu đã nêu ở Bài 1 (trang 39).
Bài làm tham khảo
Xin chào các bạn, các bạn có biết trong văn học Việt Nam có biết bao nhiêu là thể thơ hay và chính những thể thơ ấy đã làm nên những thành công cho biết bao nhiêu thi sĩ. Những thể thơ trong kho tàng thơ ca thật sự rất phong phú đặc biệt là thời thơ ca trung đại chúng ta có vay mượn Trung Quốc. Tiêu biểu trong đó có thể thơ thất ngôn bát cú.
Cách sắp xếp các thanh bằng, trắc theo kiểu "Nhất, tam, ngũ bất luận. Nhị, tứ, lục phân minh" và xen kẽ nhau. Tức là nếu tiếng thứ 2 là thanh bằng thì tiếng thứ 4 là thanh trắc, tiếng thứ 6 thanh bằng và dòng tiếp theo thì ngược lại (nếu câu đầu là 2 = bằng, 4 = trắc, 6 = bằng thì câu kế tiếp sẽ là 2 = trắc, 4 = bằng, 6 = trắc). Chẳng hạn như câu thơ trong bài:
"Canh khuya văng vẳng trống canh dồn"
Thanh B............... T............. B............
"Trơ cái hồng nhan với nước non."
Thanh T........ B.......... T.............
(Tự tình 2 - Hồ Xuân Hương).
Tiếp theo về luật thơ thông thường, thơ thất ngôn bát cú có thể làm theo 2 cách thông dụng: Thất ngôn bát cú theo Đường luật: Có quy luật nghiêm khắc về Luật, Niêm và Vần và có bố cục rõ ràng. Thất ngôn bát cú theo Cổ phong: Không theo quy luật rõ ràng, có thể dùng một vần (độc vận) hay nhiều vần (liên vận) nhưng vần vẫn phải thích ứng với quy luật âm thanh, có nhịp bằng trắc xen nhau cho dễ đọc.
Còn một cách khác là theo Hàn luật. Những bài thơ thất ngôn bát cú chữ Nôm thường được gọi là thơ Hàn luật. Ví dụ như bài thơ tự tình hai của Hồ Xuân Hương thì chúng ta thấy được những cách gieo vần của nó:
"Canh khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa, say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế, khuyết chưa tròn.
Xuyên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con."
Ở đây ta thấy chữ dồn hiệp chữ "non", "tròn", "hòn", "con". Như vậy ta thấy được đối với một bài thơ viết theo thể thơ thất ngôn bát cú thường được gieo vần ở vần chân.
Về cấu trúc của bài thơ theo thể thất ngôn bát cú thì chúng ta có bốn phần: đề thực luận kết. Hai câu đề nêu cảm nghĩ chung về người, cảnh vật, hai câu thực miêu tả chi tiết về cảnh, việc, tình để làm rõ cho cảm xúc nêu ở hai câu đề; hai câu luận: bàn luận, mở rộng cảm xúc, thường nêu ý tưởng chính của nhà thơ; hai câu kết: khép lại bài thơ đồng thời nhấn mạnh những cảm xúc đã được giãi bày ở trên.
Qua đây ta đã hiểu thế nào là một bài thơ làm theo thể thất ngôn bát cú, chúng ta có thể thấy rằng chính những luật và cấu trúc kia đã làm nên cái hay cho những bài thơ làm theo thể thơ này.
d) Kiểm tra và chỉnh sửa
Bài soạn "Trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề" - mẫu 3
Định hướng
a) Trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề là giới thiệu, thuyết trình trước người nghe về vấn đề đã được nghiên cứu, tìm hiểu.
b) Để trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề, các em cần chú ý.
- Xác định rõ người nghe là ai để có cách trình bày phù hợp.
- Hiểu rõ nội dung vấn đề để có thể trình bày một cách rõ ràng, tự tin, chính xác,...
- Xác định thời lượng trình bày bài thuyết trình. Chuẩn bị dàn ý bài thuyết trình và các thiết bị hỗ trợ (hiện vật, tranh, ảnh, máy chiếu,...).
- Biết trình bày vấn đề theo trình tự ba phần: mở đầu, nội dung và kết thúc; nói rõ ràng, có cảm xúc; biết kết hợp với các yếu tố phi ngôn ngữ và các thiết bị hỗ trợ.
- Tiến hành việc chuẩn bị (có thể chuẩn bị theo nhóm; tìm hiểu tài liệu trên sách, báo, Internet,...) và dự kiến các câu hỏi mà người nghe có thể đặt ra khi thảo luận.
Thực hành
Đề bài: Em hãy trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu về vấn đề đặc điểm hình thức thơ Đường luật qua một số bài thơ trung đại đã học.
Bài trình bày tham khảo
Chúng ta đã được học, được nghe nhiều bài thơ thời kì trung đại Việt Nam như Câu cá mùa thu, Tự tình hay bài Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan… Tất cả những bài thơ ấy đều được làm theo một thể thơ rất đặc biệt được gọi là Đường luật – một thể loại thơ xuất hiện vào thời nhà Đường ở Trung Quốc và được các nhà thơ Việt Nam sử dụng. Hôm nay, em muốn giới thiệu với mọi người nghiên cứu của mình về đặc điểm hình thức của thơ Đường luật để cùng tìm hiểu xem các nhà thơ Việt Nam đã có những sáng tạo gì để khiến nó trở nên dễ sử dụng, dễ nhớ.
Giới thiệu
Trong văn học trung đại, thơ Đường luật là một hình thức không thể thiếu góp phần làm lên vẻ đẹp văn học của thời kì này. Nhiều nhà thơ không chỉ nhà thơ Trung Quốc mà cả những nhà thơ Việt Nam cũng sử dụng thể loại thơ này để gửi gắm tâm tư, tình cảm sâu lắng của mình vào trong đó qua những lời thơ rất đỗi giản dị và thân thuộc. Bởi vậy, hiểu được hình thức của một bài thơ Đường luật sẽ giúp ta dễ dàng hiểu hơn về nội dung của toàn bài thơ.
Cách thức tiến hành nghiên cứu
Căn cứ vào các tác phẩm văn học trung đại trong kho tàng văn học Việt Nam, ta có thể dễ dàng bắt gặp những tác phẩm được làm theo thể thơ Đường luật của một số tác giả như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương… Dựa trên việc phân tích một số bài thơ tiêu biểu nhằm làm nổi bật lên đặc điểm hình thức của thơ Đường luật.
Bài thơ Đường luật
* Hai thể thơ chính được sử dụng nhiều trong kho tàng văn học Việt Nam là
- Thất ngôn bát cú Đường luật: Câu cá mùa thu, Tự tình
- Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật: Bánh trôi nước, Tỏ lòng
Ngoài ra còn có thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt.
* Bố cục chung của một bài thơ Đường luật
- Gồm 4 phần: đề, thực, luận, kết
- Về nguyên tắc, thơ Đường luật là đối, nó được thể hiện ở chữ thứ nhất, thứ 2, thứ 3… của câu trên phải đối với chữ thứ nhất, thứ 2, thứ 3… của câu về âm và về ý. Để nới lỏng hơn về luật thơ, người ta thường quy ước đối chữ thứ nhất, thứ ba, thứ năm không cần theo luật.
Ví dụ: trong bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến, trong câu 1 và câu 2 của bài thơ ta bắt gặp sự đối ý:
Câu 1: ao thu, trong veo
Câu 2: một chiếc thuyền câu, tẻo teo
- Về đối âm (luật bằng trắc), thơ Đường luật dựa trên thanh bằng và thanh trắc, thường xuất hiện ở các chữ 2, 4, 6 và 7 trong một câu thơ. Nếu chữ thứ hai của câu đầu tiên dùng thanh bằng thì gọi là bài có “luật bằng” và nếu chữ thứ hai câu đầu dùng thanh trắc thì bài thơ có “luật trắc”. Trong một câu, chứ thứ 2 và 6 phải giống nhau về thanh điệu và chữ thứ 4 phải khác hai chữ kia. Nếu nằm ngoài hai cách kia thì bài thơ được làm theo thể thất luật.
Ví dụ: trong hai câu thơ đầu bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến, ta có thể nhận thấy bài thơ được làm theo luật bằng:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
B B T T T B B
- Về nguyên tắc, câu 3-4 và 5-6 phải đối nhau. Đối là sự tương phản về nghĩa của cả từ đơn, từ láy hoặc từ ghép hay đối động từ-động từ, danh từ-dạnh từ. Đối cảnh thường là cảnh động-cảnh tĩnh, cảnh trên-dưới… Nếu trong thơ luật câu 3-4 hoặc 5-6 không đối nhau thì được gọi là thất đối.
Ví dụ: Trong bài thơ Tự tình của Xuân Quỳnh, câu 5-6 đối với nhau cả về động từ, danh từ và đối cảnh:
Động từ: xiên-đâm
Danh từ: rêu-đá
Đối cảnh: mặt đất-chân mây
Kết luận
Trên đây là một số điểm nổi bật trong hình thức thơ Đường luật Việt Nam. Đó là sự kết hợp giữa luật lệ, phép đối tạo nên một sự cân đối, hài hòa trong lời thơ, ý cảnh của từng tác phẩm. Mặc dù nó đã được các tác giả tinh giản đi trong cách sử dụng cũng như luật lệ, nhưng nó vẫn mang sự đặc trưng của thơ ca Việt Nam giản dị, gần gũi và thấm đượm tình cảm của tác giả.
Trên đây là toàn bộ những nghiên cứu, phân tích và tổng hợp của em về hình thức của thơ Đường luật, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của bạn bè và thầy cô để bản nghiên cứu của em ngày càng hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn.
Bài soạn "Trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề" - mẫu 4
Câu 1 (trang 58 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Em hãy trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề đặc điểm hình thức thơ Đường Luật qua một số bài thơ Trung đại đã học.
Trả lời:
Xin chào các bạn, các bạn có biết trong văn học Việt Nam có biết bao nhiêu là thể thơ hay và chính những thể thơ ấy đã làm nên những thành công cho biết bao nhiêu thi sĩ. Những thể thơ trong kho tàng thơ ca thật sự rất phong phú đặc biệt là thời thơ ca trung đại chúng ta có vay mượn Trung Quốc. Tiêu biểu trong đó có thể thơ thất ngôn bát cú.
Cách sắp xếp các thanh bằng, trắc theo kiểu "Nhất, tam, ngũ bất luận. Nhị, tứ, lục phân minh" và xen kẽ nhau. Tức là nếu tiếng thứ 2 là thanh bằng thì tiếng thứ 4 là thanh trắc, tiếng thứ 6 thanh bằng và dòng tiếp theo thì ngược lại (nếu câu đầu là 2 = bằng, 4 = trắc, 6 = bằng thì câu kế tiếp sẽ là 2 = trắc, 4 = bằng, 6 = trắc). Chẳng hạn như câu thơ trong bài:
"Canh khuya văng vẳng trống canh dồn"
Thanh B............... T............. B............
"Trơ cái hồng nhan với nước non."
Thanh T........ B.......... T.............
(Tự tình 2 - Hồ Xuân Hương).
Tiếp theo về luật thơ thông thường, thơ thất ngôn bát cú có thể làm theo 2 cách thông dụng:
Thất ngôn bát cú theo Đường luật: Có quy luật nghiêm khắc về Luật, Niêm và Vần và có bố cục rõ ràng.
Thất ngôn bát cú theo Cổ phong: Không theo quy luật rõ ràng, có thể dùng một vần (độc vận) hay nhiều vần (liên vận) nhưng vần vẫn phải thích ứng với quy luật âm thanh, có nhịp bằng trắc xen nhau cho dễ đọc.
Còn một cách khác là theo Hàn luật. Những bài thơ thất ngôn bát cú chữ Nôm thường được gọi là thơ Hàn luật.
Ví dụ như bài thơ tự tình hai của Hồ Xuân Hương thì chúng ta thấy được những cách gieo vần của nó:
"Canh khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa, say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế, khuyết chưa tròn.
Xuyên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con."
Ở đây ta thấy chữ dồn hiệp chữ "non", "tròn", "hòn", "con". Như vậy ta thấy được đối với một bài thơ viết theo thể thơ thất ngôn bát cú thường được gieo vần ở vần chân.
Về cấu trúc của bài thơ theo thể thất ngôn bát cú thì chúng ta có bốn phần: đề thực luận kết. Hai câu đề nêu cảm nghĩ chung về người, cảnh vật, hai câu thực miêu tả chi tiết về cảnh, việc, tình để làm rõ cho cảm xúc nêu ở hai câu đề; hai câu luận: bàn luận, mở rộng cảm xúc, thường nêu ý tưởng chính của nhà thơ; hai câu kết: khép lại bài thơ đồng thời nhấn mạnh những cảm xúc đã được giãi bày ở trên.
Qua đây ta đã hiểu thế nào là một bài thơ làm theo thể thất ngôn bát cú, chúng ta có thể thấy rằng chính những luật và cấu trúc kia đã làm nên cái hay cho những bài thơ làm theo thể thơ này.
Bài soạn "Trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề" - mẫu 5
Soạn bài Trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề, Ngữ văn lớp 10, Cánh Diều
I. Dàn Ý
a) Mở đầu:
+ Giới thiệu chung về thơ Đường luật trung đại và ý nghĩa của việc tìm hiểu hình thức thơ Đường luật.
+ Nêu cách thức tiến hành nghiên cứu.
b) Nội dung:
+ Giới thiệu về thể thơ.
+ Giới thiệu bố cục của bài thơ Đường luật.
+ Giới thiệu cách gieo vần, đối, niêm, luật trong thơ Đường luật.
+ Giới thiệu về thơ Nôm Đường luật.
c) Kết luận:
+ Khái quát, tổng hợp lại vấn đề đã được trình bày.
II. Thực Hành
BÀI LÀM THAM KHẢO
Xin chào cô và các bạn, em tên là.... Sau đây, em xin trình bày bài báo cáo kết quả nghiên cứu của mình về đặc điểm hình thức thơ Đường luật.
Lý do em chọn đề tài này để thuyết trình là bởi việc tìm hiểu hình thức thơ Đường luật đóng vai trò quan trọng trong việc tiếp cận và phân tích những nét đặc sắc về mặt nội dung trong mỗi tác phẩm.
Để tìm hiểu đặc điểm hình thức thơ Đường luật, em sẽ vận dụng phương pháp phân tích và tổng hợp lí thuyết làm cơ sở cho những lập luận của mình.
Ở trong phần Nội dung, em tập trung vào chỉ rõ các đặc điểm của hình thức thơ Đường luật.
Soạn bài Trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề, Ngữ văn lớp 10, Cánh Diều
Trước hết, về thể thơ, thơ Đường luật bao gồm một số thể thơ chủ yếu như: thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn tứ tuyệt. Trong chương trình Ngữ văn, số lượng các sáng tác thơ Đường luật khá nhiều. Có thể kể đến một số bài thơ thuộc thể thất ngôn bát cú như "Cảm xúc mùa thu" (Đỗ Phủ), "Câu cá mùa thu" (Nguyễn Khuyến),... Những bài thơ thuộc thể thất ngôn tứ tuyệt là "Sông núi nước Nam"(chưa rõ tác giả), "Rằm tháng giêng" (Hồ Chí Minh)... và một số bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt là "Phò giá về kinh" (Trần Quang Khải), "Tĩnh dạ tứ" (Lý Bạch). Các bài thơ nêu trên được phân loại theo thể thơ, dựa trên số câu và số tiếng. Cụ thể là, thể thất ngôn bát cú gồm có 8 câu, mỗi câu có 7 tiếng; thể thất ngôn tứ tuyệt gồm bốn câu, mỗi câu 7 tiếng; thể ngũ ngôn tứ tuyệt gồm bốn câu, mỗi câu 5 tiếng.
Tiếp theo, về bố cục, việc xác định bố cục sẽ giúp người đọc có thể dễ dàng hơn trong việc hiểu nội dung của tác phẩm. Thể thơ thất ngôn bát cú truyền thống được triển khai theo bố cục bốn phần là đề, thực, luận, kết. Còn với thể thất ngôn tứ tuyệt và ngũ ngôn tứ tuyệt được triển khai bốn phần là khai, thừa, chuyển, hợp.
Ngoài ra, chúng ta cũng cần chú ý quy định cách gieo vần trong thơ Đường luật. Thơ Đường luật thường gieo vần bằng: thể thất ngôn bát cú gieo vần các câu: 1, 2, 4, 6, 8; thể thất ngôn tứ tuyệt gieo vần ở các câu: 1, 2, 4.
Kế đến là phép đối. Trong thể thơ bát cú Đường luật, hai câu thực và hai câu luận thường đối nhau. Phép đối có thể xuất hiện giữa hai vế trong một câu hoặc đối vế ở câu trên với vế ở câu dưới. Căn cứ vào sự tương phản hay thuận chiều về ý và lời, có thể chia thành hai loại: đối tương đồng, đối tương phản.
Ngoài ra, thơ Đường luật có sự quy định chặt chẽ về niêm và luật. Trong thơ bát cú, câu 1 niêm với câu 8, câu 2 niêm với câu 3, câu 4 niêm với câu 5 và câu 6 niêm với câu 7 nhằm tạo ra âm điệu và sự kết dính giữa các câu với nhau. Còn luật là sự đối nhau về âm thanh bằng - trắc, đối nhau trong cùng một liên. Tiếng thứ nhất, ba, năm tự do về luật; tiếng hai, bốn sáu nhất định phải đối về mặt âm thanh. Đối với thơ tứ tuyệt, tuân thủ quy định niêm, luật như thể thơ bát cú.
Thông qua việc tìm hiểu đặc điểm hình thức thơ Đường luật, em nhận thấy văn học nước ta cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc và thừa hưởng di sản này dưới nhiều hình thức khác nhau. Nổi bật là thể thơ Nôm Đường luật được hình thành dựa trên cơ sở của thơ Đường và ngôn ngữ dân tộc. Ngoài việc tuân thủ những quy định của thơ Đường luật, thơ Nôm vẫn có những sự thay đổi về nhịp điệu và sử dụng các hình ảnh, từ ngữ gắn liền với đời sống thường ngày.
Tóm lại, đặc điểm của hình thức thơ Đường luật tạo nên sự chặt chẽ, hài hòa cho cấu trúc của toàn bộ bài thơ. Chúng có tác dụng quan trọng trong việc thể hiện nội dung của tác phẩm cũng như thể hiện được quan niệm sáng tác của nhà thơ.
Phần báo cáo về kết quả nghiên cứu đặc điểm hình thức thơ Đường luật của em đến đây là kết thúc, em xin cảm ơn cô và các bạn đã lắng nghe.
Bài soạn "Trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề" - mẫu 6
Đề bài: Em hãy trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề đặc điểm hình thức thơ Đường Luật qua một số bài thơ Trung đại đã học.
Phương pháp giải:
- Xem lại dàn ý và báo cáo bài đã hoàn thành ở phần viết chính sửa lại báo cáo thành văn bản phù hợp để trình bày trong buổi thuyết trình văn bản bài trình bày được chuẩn bị trên giấy hoặc trên trang chiếu của máy tính với hình ảnh, sơ đồ, tập đọc diễn cảm các bài thơ sử dụng làm dẫn chứng.
- Thảo luận với các bạn trong nhóm, trình bày nội dung trước lớp.
Lời giải:
Dàn ý
Mở đầu
- Gửi lời chào và giới thiệu về bản thân.
- Giới thiệu về vấn đề chính trong bài nói: báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề đặc điểm hình thức thơ Đường Luật qua một số bài thơ Trung đại đã học
Nội dung
- Giới thiệu một số bài thơ Đường luật đã học hoặc được biết đến.
- Phân tích bố cục chung của một bài thơ Đường luật qua một số bài thơ đã tìm hiểu.
- Giới thiệu về quy luật vần, đối, niêm, luật trong thơ Đường luật.
Kết luận
- Tổng kết lại những vấn đề vừa nói ở trên.
- Gửi lời chào và cảm ơn người nghe.
Bài làm
Xin chào thầy/cô và các bạn. Mình là Nguyễn Văn A. Mình khá hứng thú với thơ Đường luật nên đã tìm hiểu kĩ về nó. Sau đây, mình xin phép được trình bày kết quả nghiên cứu của mình.
PGS - TS Lã Nhâm Thìn từng nhận xét: “Thơ Nôm Đường luật là một trong những thể loại độc đáo và đạt được nhiều thành tựu lớn bậc nhất của văn học Việt Nam. Có nhiều tác giả, cũng có rất nhiều những đỉnh cao giá trị văn học thuộc về thơ Nôm Đường luật”. Quả thật, thơ Nôm Đường luật là một thể loại “có một không hai”, nó dường như luôn có ma lực hấp dẫn khiến không ít những người tâm huyết với nó đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu nhằm tìm ra ngọn nguồn của sức hấp dẫn ấy. Và chúng tôi cũng không phải là một ngoại lệ. Thơ Nôm Đường luật là một “thể loại có nguồn gốc ngoại lai”, chịu ảnh hưởng sâu sắc của thể loại thơ Đường luật Trung Quốc. Song, ảnh hưởng mà không bị “hoà loãng”, “hòa tan”. Trên bước đường dân chủ hóa, dân tộc hoá nền văn học Việt Nam, cha ông ta một mặt tiếp thu những thành tựu văn học của thơ Đường, mặt khác không ngừng Việt hoá, sáng tạo nhằm biến nó thành một di sản văn học mang đậm dấu ấn phong cách con người trung đại Việt Nam. Trong quá trình học tập, chúng tôi nhận thấy có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu về quá trình tiếp thu, Việt hoá và sáng tạo thể thơ Đường luật trong thơ Nôm của dân tộc, song xuất phát từ hệ thống cơ bản của đặc trưng thể loại thơ Đường luật thì chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập một cách sâu sắc. Với tư cách người nghiên cứu khoa học về kết quả nghiên cứu về đặc điểm hình thức thơ Đường Luật qua một số bài thơ trung đại đã học như: Qua đèo Ngang, Bạn đến chơi nhà, Bánh trôi nước,... Một mặt, để làm quen với các thao tác nghiên cứu văn học, mặt khác đây cũng là cơ hội để tiếp cận với một hiện tượng văn học vốn rất hấp dẫn và phong phú của nền văn học trung đại Việt Nam.
Thơ đường luật hay còn được gọi với cái tên là thơ luật đường. Đây là một thể thơ đường với các luật được xuất hiện từ thời nhà Đường của Trung Quốc. Là một trong những dạng thơ đường phát triển rất mạnh mẽ không chỉ trên chính quê hương của nó mà còn nổi tiếng ở một số đất nước lân cận với tư cách là thể loại thơ tiêu biểu nhất của nhà Đường nói riêng và tinh hoa của thi ca Trung Hoa nói chung. Người ta còn gọi thơ Đường luật là thơ cận thể để đối lập và phân biệt với thể loại thơ cổ thể được sáng tác không tuân theo các luật ấy. Thơ Đường luật có một hệ thống các quy tắc rất phức tạp, những quy tắc này được thể hiện ở 5 điều sau: Niêm, Luật, Đối, Vần và Bố cục. Xét về hình thức thì thơ đường luật được chia thành các dạng như: Thất ngôn bát cú: tám câu, mỗi câu sẽ có 7 chữ. Đây được xem là dạng phổ biến nhất của thể thơ Đường luật. Thất ngôn tứ tuyệt: 4 câu, mỗi câu 7 chữ. Ngũ ngôn bát cú: 8 câu, mỗi câu 5 chữ. Ngũ ngôn tứ tuyệt: 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ngoài những dạng được kể trên thì còn rất nhiều dạng không phổ biến khác. Người Việt Nam khi làm thơ đường luật cũng hoàn toàn tuân theo những nguyên tắc này.
Luật thơ Đường căn cứ trên thanh bằng và thanh trắc, và dùng các chữ thứ 2-4-6 và 7 trong một câu thơ để xây dựng luật. Thanh bằng gồm các chữ có dấu huyền hay không dấu; thanh trắc gồm các dấu: sắc, hỏi, ngã, nặng.
Nếu chữ thứ 2 của câu đầu tiên dùng thanh bằng thì gọi là bài có "luật bằng"; nếu chữ thứ 2 câu đầu dùng thanh trắc thì gọi là bài có "luật trắc". Trong một câu, chữ thứ 2 và chữ thứ 6 phải giống nhau về thanh điệu, và chữ thứ 4 phải khác hai chữ kia. Ví dụ, nếu chữ thứ 2 và 6 là thanh bằng thì chữ thứ 4 phải dùng thanh trắc, hay ngược lại. Nếu một câu thơ Đường mà không theo quy định này thì được gọi "thất luật".
Ví dụ: xét câu "Bước tới đèo Ngang bóng xế tà" trong bài Qua Đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan, có các chữ "tới" (thứ 2) và "xế" (thứ 6) giống nhau vì đều là thanh trắc còn chữ "Ngang" là thanh bằng thì đó là bài thất ngôn bát cú luật trắc.
Luật bằng trắc trong thể Thất ngôn tứ tuyệt và Thất ngôn bát cú có thể nôm na liệt kê như sau, nếu chỉ vần bằng bằng chữ "B", vần trắc bằng chứ "T", những vần không có luật để trống, thì luật trong các chữ thứ 2-4-6-7 có thể viết là:
Luật bằng trắc
Luật thơ Đường sẽ căn cứ dựa trên thanh trắc và thanh bằng, và dùng các chữ thứ 2-4-6 và 7 trong cùng một câu thơ để xây dựng luật. Thanh bằng bao gồm những chữ không có dấu hoặc dấu huyền; thanh trắc bao gồm tất cả các dấu còn lại: sắc, hỏi, ngã, nặng.
Nguyên tắc cố định của một bài thơ Đường luật là ý nghĩa của hai câu 3 và 4 phải "đối" nhau và hai câu 5, 6 cũng "đối" nhau. Đối thường được hiểu là sự tương phản (về nghĩa kể cả từ đơn, từ ghép, từ láy) bao gồm cả sự tương đương trong cách dùng các từ ngữ. Đối chữ: danh từ đối danh từ, động từ đối động từ. Đối cảnh: trên đối dưới, cảnh động đối cảnh tĩnh... Nếu một bài thơ Đường luật mà các câu 3, 4 không đối nhau, các câu 5, 6 không đối nhau thì bị gọi "thất đối".Ví dụ: hai câu 3, 4 trong bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông rợ mấy nhà,
"Lom khom" đối với "lác đác" (hình thể và số lượng - thực ra hai câu này chưa phải đối hoàn chỉnh), "dưới núi" đối với "bên sông" (vị trí địa hình), song nếu nối hình ảnh hai câu trên "lom khom dưới núi" và "lác đác bên sông" thì vì một câu diễn tả về cảnh động, còn một câu diễn tả về cảnh tĩnh, nên sự đối lập có thể chấp nhận được. Một điểm nên chú ý là cách dùng từ láy âm "lom khom" chỉ dáng người của câu trên, và "lác đác" chỉ số lượng của câu dưới. Hai vế tiếp: "tiều vài chú" đối với "rợ mấy nhà" (đối lập về số lượng và tĩnh/động). Sự đối lập của hai vế cuối có thể coi là hoàn chỉnh. Xin xem thêm về thơ đối hoặc Câu đối Việt Nam để hiểu thêm về luật đối trong thơ. Nhị tứ lục phân minh (Câu 2,4,6 phải đối ý).
Niêm
Các câu trong một bài thơ Đường luật giống nhau về luật thì được gọi là "những câu niêm với nhau" (niêm = giữ cứng, ở đây được hiểu là giữ giống nhau về luật). Hai câu thơ niêm với nhau khi nào chữ thứ nhì trong cả hai câu cùng theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, thành ra bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Ở những câu theo nguyên tắc là cần phải niêm, nếu tác giả sơ suất mà làm thành không niêm thì bài đó bị gọi là "thất niêm".
Nguyên tắc niêm trong một bài thơ Đường luật chuẩn (thất ngôn bát cú) như sau:
Câu 1 niêm với câu 8
Câu 2 niêm với câu 3
Câu 4 niêm với câu 5
Câu 6 niêm với câu 7
Còn đối với Nguyên tắc niêm ở thể thơ Thất ngôn tứ tuyệt: Câu 2 niêm với câu 3, câu 4 niêm với câu 1. Chẳng hạn với luật vần bằng:
- B - T - B B
- T - B - T B
- T - B - T T
- B - T - B B
- B - T - B T
- T - B - T B
- T - B - T T
- B - T - B B
Ví dụ: Xét trong bài thơ Qua đèo Ngang, hai câu thứ 2 và thứ 3:
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Vần
Vần là những chữ có cách phát âm giống nhau, hoặc gần giống nhau, được dùng để tạo âm điệu trong thơ. Trong một bài thơ Đường luật chuẩn, vần được dùng tại cuối các câu 1, 2, 4, 6 và 8. Những câu này được gọi là "vần với nhau". Nếu một bài thơ Đường luật mà chữ cuối của một trong các câu này không giống nhau về vần thì được gọi "thất vần". Những chữ có vần giống nhau hoàn toàn gọi là "vần chính", những chữ có vần gần giống nhau gọi là "vần thông". Hầu hết thơ Đường luật dùng vần thanh bằng, nhưng cũng có các ngoại lệ.
Ví dụ: hai câu 1, 2 trong bài Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:
Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Hai chữ "tà" và "hoa" được xem là vần với nhau, nhưng ở đây là "vần thông" vì chỉ phát âm gần giống nhau.
Bố cục
Bố cục một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật theo truyền thống thường được chia gồm 4 phần: Đề, Thực (hoặc Trạng), Luận, Kết. "Đề" gồm 2 câu đầu trong đó câu đầu tiên gọi là câu phá đề, câu thứ 2 gọi là câu thừa đề, chuyển tiếp ý để đi vào phần sau. "Thực" gồm 2 câu tiếp theo, giải thích rõ ý đầu bài. "Luận" gồm 2 câu tiếp theo nữa, bình luận 2 câu thực. "Kết" là 2 câu cuối, kết thúc ý toàn bài, trong đó câu số 7 là câu "thúc" (hay "chuyển") và câu cuối là "hợp". Có người cho rằng Hai câu đề giới thiệu về thời gian, không gian, sự vật, sự việc. Hai câu thực trình bày, mô tả sự vật, sự việc. Hai câu luận diễn tả suy nghĩ, thái độ, cảm xúc về sự vật, hiện tượng. Hai câu kết khải quát toàn bộ nội dung bài theo hướng mở rộng và nâng cao
Đối ý: Một nguyên tắc cố định trong một bài thơ được sáng tác theo thể loại đường luật chính là ý nghĩa của câu thứ 3, thứ 4 phải đối nhau và cả 2 câu thứ 5, thứ 6 cũng phải đối nhau. Đối chính là sự tương phản về nghĩa của cả từ đơn, từ láy hoặc từ ghép và nó bao gồm cả sự tương đương trong cách mà tác giả sử dụng từ ngữ. Đối chữ là động từ đối động từ, danh từ với danh từ. Đối cảnh là cảnh đội đối với cảnh tĩnh, trên đối với dưới… Nếu trong một bài thơ đường luật mà các câu 3, 4 không đối nhau hoặc những câu 5, 6 không đối nhau thì được gọi “thất đối”.
Thơ thất ngôn bát cú có luật lệ gò bó khó làm nhất nhưng chính điều đó lại được người xưa ưa thích nhất, thường dùng để bày tỏ tình cảm ý chí, ngâm vịnh, xướng họa... Và trong tất cả các kỳ thi xưa đều bắt thí sinh phải làm.
Tại quê hương của Đường thi cũng là nơi mà phong trào tập cổ, sáng tác thơ Đường luật rầm rộ nhất, lý luận thi pháp thơ Đường luật Trung Quốc không có khái niệm Đề, Thực, Luận, Kết mà thay bằng khái niệm đầu liên, hàm liên, cảnh liên, vĩ liên, nói ngắn gọn bằng tổ hợp bốn từ Khởi (khai), Thừa, Chuyển, Hợp. Tuy nhiên cách phân chia này cũng không khác gì cách phân Đề, Thực, Luận, Kết về mặt ý nghĩa. Tuy nhiên, đa phần tài liệu Việt Nam vẫn đi theo cách chia Đề, Thực, Luận, Kết. Vì vậy, khi học hoặc tiếp cận Đường luật.
Một quan niệm khác áp dụng cấu trúc 2-4-2 cho bài thơ thất ngôn bát cú. Theo đó quan niệm này đứng ở góc độ không gian-thời gian nghệ thuật để khảo sát toàn bài dựa theo logic hai câu đầu và hai câu cuối bài thơ Đường luật thường yếu tố thời gian chiếm vị trí chủ đạo, còn bốn câu giữa trật tự không gian là chủ đạo và tác giả dường như dừng lại để quan sát sự vật.
Cũng cần nhắc đến quan điểm "Cảnh-Tình" của Kim Thánh Thán khi chia bài thất ngôn bát cú thành hai phần đều nhau, theo đó bốn câu trên của bài nặng về cảnh và bốn câu dưới nặng về tình.
Hiện nay, các nhà nghiên cứu có xu hướng không cố tìm quy luật chung về bố cục để áp dụng trong hàng loạt bài thơ mà áp dụng quan điểm nghiên cứu đã có từ thời Minh mạt Thanh sơ ở Trung Hoa, quan điểm bám sát và tuân thủ cách phân chia bố cục của từng bài thơ theo mạch cảm xúc của thi nhân biểu hiện trong bài. Một ví dụ là bài thơ hết sức nổi tiếng Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan hoàn toàn có thể được phân tách theo bố cục 1/7, hoặc bài Bạn đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến có thể bố cục 7/1 hoặc 1/6/1.
Khi làm thơ Đường Luật thì chúng ta phải giữ cho đúng niêm luật. Nếu không tuân theo đúng quy tắc thì dù nội dung bài thơ của bạn có hay đến mấy đi nữa thì cũng không được chấp nhận.
Trên đây là tất cả những kiến thức mình biết, được học và tìm hiểu về thơ Đường luật/ Cảm ơn thầy/cô và tất cả các bạn đã chú ý lắng nghe. Mình rất mong nhận được những cảm nhận, lời góp ý của cả lớp về bài nói này.
Thực hành nói và nghe:
- Chuẩn bị giấy, bút.
- Tìm hiểu trước về vấn đề chuẩn bị nghe để có sự so sánh, đối chiếu.
- Chú ý lắng nghe, tôn trọng người nói.
- Ghi chép ngay những câu hỏi, thắc mắc, góp ý của mình về bài nói.
Giáo viên sẽ kiểm tra và chỉnh sửa.
Hãy đăng nhập để bình luận
Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .