Top 10 Bài văn phân tích tác phẩm "Xa ngắm thác núi Lư" (Ngữ văn 8 - SGK Cánh diều) hay nhất

1066

Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích tác phẩm "Xa ngắm thác núi Lư" (Ngữ văn 8 - SGK Cánh diều) hay nhất mà Alltop.vn đã tổng hợp trong bài viết...xem thêm ...

Top 0
(có 0 lượt vote)

Bài văn phân tích tác phẩm "Xa ngắm thác núi Lư" - mẫu 1

Bài thơ có tựa đề Xa ngắm thác núi Lư (Vọng Lư sơn bộc bố) nhưng câu thơ mở đầu lại không hề nói đến ngọn thác ấy, mà miêu tả làn khói tía (tử yên) đang tỏa lên từ ngọn núi Hương Lô. Làn khói tía được “sinh” ra từ sự “giao duyên” giữa mặt trời và ngọn núi: “Nhật chiếu Hương Lô”. Nhờ sự giao duyên ấy mà không gian ở đây bỗng trở nên thi vị và thật hữu tình...


Nhưng cho dù đã đắm mình trong không gian ấy, chúng ta vẫn không quên rằng nhà thơ đang miêu tả ngọn thác núi Lư. Vậy câu mở đầu có phải lạc chủ đề không?


Ai cũng biết thơ Đường, trừ thơ trường thiên, thường có khuôn khổ gò bó, có những quy tắc rất nghiêm ngặt về số câu, số chữ... Bởi thế, để đạt được ý đồ nghệ thuật của mình, nhà thơ luôn phải chọn lựa những chữ rất “đắt” và hàm súc; phải dùng những thủ pháp nghệ thuật như gợi, ước lệ, tượng trưng... Bài thơ của Lí Bạch mà chúng ta đang nói là một bài tứ tuyệt thất ngôn; lại là một bài hay của thơ Đường, thì chắc chắn mỗi câu, mỗi chữ của ông đều có một giá trị nghệ thuật nhất định.


Quả vậy, đọc lại câu thơ ta không chỉ thấy một không gian thi vị, hữu tình mà còn cảm nhận tầm vóc vũ trụ của ngọn Hương Lô kia. Dưới mặt trời đang tỏa nắng là một ngọn núi tựa như một bình hương khổng lồ đang nghi ngút tỏa những làn khói tía vào vũ trụ. Hương Lô là một ngọn núi của dãy Lư Sơn, nơi ngọn thác đang đổ xuống. Vậy thì ở câu thơ này, Lí Bạch không chỉ tả, mà điều cốt yếu là ông muốn gợi mở tầm cao vũ trụ của ngọn thác.


Nếu như câu một là gợi thì câu hai lại tả, nhưng tả thông qua sự cảm nhận mang đậm dấu ấn chủ quan của nhà thơ: Đứng từ xa mà nhìn lại thì ngọn thác như treo (quải) trên dòng sông phía trước. Động từ “quải” (treo) gợi trí tưởng tượng của người đọc về thế dựng đứng của ngọn thác, tô đậm cảm giác về sự hùng vĩ của thiên nhiên nơi đây. Và chính ý đó đã tạo đà cho câu thơ thứ ba: Phi lưu trực há tam thiên xích.


Đến đây bức tranh ngọn thác núi Lư được hiện lên với những đường nét rõ ràng nhất. Những động từ “phi” (bay), “trực” (thẳng) có sức biểu hiện mạnh mẽ, mang lại một ấn tượng mạnh về tốc độ và sức lực của dòng chảy đang đổ xuống từ độ cao ba nghìn thước. Như vậy, sự kì vĩ, tầm vóc vũ trụ của ngọn thác mới chỉ được gợi và gợi tả ở câu một và câu hai, thì đến câu ba nó được thể hiện một cách cụ thể: Chẳng những kì vĩ mà còn mang trong mình nó một sức mạnh vô biên, sức mạnh không gì cản được.


Dường như nét bút tả ngọn thác đã đến đỉnh điểm của nó. Và chính điều ấy khiến người đọc phải sững sờ bởi hình ảnh ngọn thác:


Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.

(Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây)


Dải Ngân Hà - một dải màu sáng nhạt với những vì tinh tú nhấp nháy, vắt ngang bầu trời những đêm mùa hạ, không phải là một dòng sông thực, mà chỉ là một dòng sông trong tưởng tượng. Nói cách khác, dòng Ngân Hà chỉ là một hình ảnh tưởng tượng, có tính trừu tượng. Việc nhà thơ mang một cái trừu tượng để so sánh với cái cụ thể đã làm cho cái cụ thể trừu tượng hơn.


Nhưng nhờ đó mà hình ảnh thơ (ngọn thác) trở nên huyền ảo và mang một nét đẹp diệu kì. Trước vẻ đẹp ấy, người đọc bị chông chênh giữa hai chiều nhận thức: Thực - ảo; tiên giới - trần gian;... Điều đó không có gì lạ, mà nó chỉ khẳng định thêm cái cảm nhận về sự giao duyên, gặp gỡ giữa trời và đất mà chúng ta đã nói đến ở câu một mà thôi.


Thơ với người là một. Nét bút bay bổng, mạnh mẽ của Lí Bạch ở đây cũng chính là tâm hồn của nhà thơ. Một tầm vóc kì vĩ, một sức mạnh hào hùng và vẻ đẹp nên thơ cũng chính là những khao khát, ước vọng mà nhà thơ Lí Bạch vẫn thường vươn tới.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 1
(có 1 lượt vote)

Bài văn phân tích tác phẩm "Xa ngắm thác núi Lư" - mẫu 2

Đề tài về thiên nhiên và vẻ đẹp của non sơn luôn thu hút rất nhiều nhà văn và nhà thơ, không chỉ ở Việt Nam mà trên khắp thế giới. Bài thơ “Xa ngắm thác núi Lư” của Lí Bạch cũng là một ví dụ xuất sắc về việc sáng tạo từ cảm hứng thiên nhiên này, khi ông viết về vẻ đẹp hùng vĩ của ngọn núi Lư, với sự tráng lệ và huyền ảo độc đáo.


Ngay từ câu thơ mở đầu, Lí Bạch đã tạo ra một không gian ấn tượng, hấp dẫn và kì diệu cho người đọc bằng những hình ảnh sáng rực và cuốn hút: “Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên”.


Ở đây, từ “Nhật” đề cập đến mặt trời, trong khi “Hương Lô” có thể là một tên của một địa điểm nằm ở phía Tây Bắc của dãy núi Lư, có lẽ thường được bao phủ bởi mây mù. Tên “Hương Lô” cũng có thể gợi lên hình ảnh của một cái lò Hương, với những cột khói màu tía lan tỏa ra.


“Tử yên” ở đây nói về khói có màu tím. Câu thơ này có thể hiểu là khi ánh nắng mặt trời chiếu vào núi Hương Lô, khói tím bắt đầu bay lên. Điều này làm cho vẻ đẹp huyền ảo và thơ mộng của núi Hương Lô trở nên rõ ràng hơn, đặc biệt hơn nữa. Lí Bạch thậm chí cảm nhận như là khói màu tím đang bay lượn trong không gian, khiến cho núi Hương Lô tỏa ra một hương thơm dưới ánh sáng mặt trời.


Trong câu thơ “Giao khan bộc bố quải tiền xuyên,” “bộc” đề cập đến thác nước, nước đổ từ trên cao xuống, trong khi “bố” là một mảnh vải hoặc một dải lụa. “Giao khan” nghĩa là ngắm từ xa. Câu thơ này có thể hiểu là “Từ xa, nhìn thấy thác nước như treo trước dòng suối.” Sau khi mở đầu bằng sự kỳ vĩ và thơ mộng của không gian núi Hương Lô, Lí Bạch đã mở ra một bức tranh thiên nhiên đầy độc đáo với những tưởng tượng kỳ lạ nhưng ấn tượng đầy mạnh mẽ.


Thác nước trắng phau đổ từ trên cao tạo ra âm thanh mạnh mẽ, nhưng do nhà thơ đứng xa xa, anh chỉ có thể cảm nhận được sự hài hòa và tĩnh lặng của nó. Sự tĩnh lặng này khiến anh liên tưởng đến một dải lụa trắng đang treo ngang giữa dòng suối.


Qua hai câu thơ đầu, chúng ta cảm nhận được sự tĩnh khi ngọn Lương Lô đang tỏa ra hương thơm “sinh tử yên,” đồng thời cảm nhận sự tĩnh lặng của thác nước và dòng suối, mà thường thường liên quan đến sự vận động. Tuy nhiên, Lí Bạch đã mang lại một trải nghiệm hoàn toàn mới khi miêu tả nó như một thứ tĩnh lặng, treo giữa dòng suối giống như một tác phẩm nghệ thuật thủy mặc.


“Phi lưu trực há tam thiên xích” sử dụng từ “trực” để chỉ đường thẳng và “xích” để đo lường, để mô tả cảnh thác nước như một tác phẩm tự nhiên, nằm trên một địa hình dốc đứng thẳng.


“Tam thiên xích” mặc dù là một ước lệ, nhưng nó mang lại cảm giác chân thực, khiến chúng ta tưởng mình đang đứng trước một dòng suối mạnh mẽ đổ từ núi cao. Sự mạnh mẽ của nước từ đỉnh núi xuống tạo nên một cảm giác kinh ngạc, mong đợi và thỏa mãn trước sự kỳ diệu của tự nhiên. Sau khi chứng kiến ​​cảnh tượng tuyệt đẹp này, Lí Bạch không thể kìm lại được xúc động của mình và thể hiện sự tưởng tượng độc đáo: “Ngỡ như dòng suối là sông Ngân Hà trôi từ chín tầng mây cao xa.”


Cảnh tượng tuyệt đẹp của thác nước đổ từ đỉnh cao xuống đã khiến Lí Bạch ngỡ ngàng như trong một giấc mơ, nơi mơ và hiện thực trở nên mơ hồ và giao động. Anh tự hỏi liệu có thể rằng dòng suối này thực sự có thể là sông Ngân Hà chảy từ những tầng mây xa xôi không. Trong những dòng thơ này, chúng ta có thể thấy Lí Bạch đã tạo ra một bức tranh vô cùng tuyệt đẹp, đầy cảm hứng, mở ra cho người đọc một trải nghiệm chân thực và sống động.


Mặt khác, chúng ta cũng có thể cảm nhận được sự chân thực trong cảm xúc của nhà thơ. Anh không chỉ miêu tả lại cảnh vật thiên nhiên mà anh đã trải nghiệm và cảm nhận, mà còn đưa người đọc vào khung cảnh đó. Đây chính là tài năng đặc biệt của một thi sĩ tài ba: khả năng chuyển đổi trải nghiệm cá nhân thành từng câu thơ sâu lắng và cuốn hút.


Dưới bàn tay điêu luyện của Lí Bạch, hình ảnh của thác núi Lư trở nên kì vĩ và tráng lệ đến mức kỳ diệu. Dù chỉ sử dụng vài nét phác thảo, nhưng nhà thơ đã thành công trong việc gợi lên những liên tưởng độc đáo về sự hùng vĩ và thơ mộng của địa điểm này. Điều đặc biệt hơn nữa là Lí Bạch đã thể hiện được sợi dây cảm xúc của mình kết nối với người đọc, mang đến cho họ trải nghiệm cảm xúc chân thực và sống động nhất.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 2
(có 0 lượt vote)

Bài văn phân tích tác phẩm "Xa ngắm thác núi Lư" - mẫu 3

Lý Bạch, một trong những nhà thơ nổi tiếng hàng đầu của Trung Quốc, đã để lại một gia tài tác phẩm xuất sắc có tầm quan trọng đối với văn học Trung Quốc nói chung và thơ ca của các dân tộc Trung Quốc nói riêng. Với sự trải nghiệm rộng rãi trong các vùng đất có nền văn hóa đa dạng, tác phẩm của Lý Bạch luôn phản ánh triết lý sâu sắc thông qua lối viết nhẹ nhàng và lôi cuốn.


Lý Bạch được coi là một trong những thi tiên của Trung Quốc, và thơ của ông vẫn còn đọng mãi trong lòng độc giả đến ngày nay. Ông đã sáng tác nhiều thể loại thơ khác nhau, từ thơ về thiên nhiên, tình yêu, tình bạn đến triết lí cuộc sống. Trong tất cả các tác phẩm của ông, có một bài thơ nổi bật không thể quên, đó là “Xa Ngắm Thác Núi Lư”.


Bài thơ này mở đầu bằng hai câu thơ đầy hình ảnh: “Vọng Lư Sơn bộc bố / Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên.” Ở đây, Lý Bạch mô tả việc nhìn xa để ngắm thác nước giống như một dải lụa mềm mại treo trước mặt. Đây là một hình ảnh tinh tế và độc đáo, thể hiện sự mềm mại và đẹp đẽ của cảnh vật.


Tác giả chia sẻ khoảnh khắc anh chứng kiến dòng sông, khi mặt trời chiếu sáng xuống mặt nước tạo ra ánh sáng phản chiếu giống như dòng sông sinh ra một loạt khói màu tía. Một câu thơ duy nhất đã mang lại cho độc giả cảm xúc chân thực và hình ảnh tưởng tượng về dòng sông với những làn khói bay lên.


Từ đây, chúng ta có thể cảm nhận tính cách của tác giả. Lý Bạch là một người yêu thiên nhiên và tâm hồn lãng mạn, điều này thể hiện qua cách anh nhìn nhận và miêu tả đặc biệt của mình. Chỉ những người nghệ sĩ và tâm hồn nhạy cảm mới có thể có những suy nghĩ và góc nhìn độc đáo như vậy.


Dao khan bộc bố quải tiền xuyên

Phi lưu trực há tam thiên xích

Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên

(xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước

Thác chảy như bay đổ thẳng xuống ba nghìn thước

Ngỡ là sông Ngân rơi tự chín tầng mây)


Dòng thơ “Phi lưu trực há tam thiên xích” của Lý Bạch truyền tải hình ảnh của thác nước một cách tinh tế và đẹp đẽ. Có hai cách hiểu chính về hình ảnh này:


Thác nước được miêu tả như một dải lụa dài vô tận được treo trên vách núi. Dải lụa này kéo dài xuống đến ba nghìn thước, và từ đỉnh núi, những làn khói tím bay bay tạo ra một hình ảnh tráng lệ và hùng vĩ không thể nào tả bằng lời. Nhưng dưới đáy núi, dòng nước đổ mạnh giống như dải lụa này đang treo từ trên cao. Đây là một cách tưởng tượng phong phú và sáng tạo của Lý Bạch.


Cách hiểu thứ hai là đứng từ xa, dòng thác nước trông giống như một dòng sông treo ngay phía trước mắt. Điều này thể hiện sự sáng tạo và tưởng tượng độc đáo của nhà thơ. Cuối cùng, Lý Bạch sử dụng các từ ngữ như “nghi,” “lạc,” và hình ảnh của dải Ngân Hà như đang bị tuột khỏi mây để thể hiện cảm xúc và thái độ của mình.


Bài thơ “Xa Ngắm Thác Núi Lư” là một ví dụ xuất sắc về cách tác giả miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên. Nó thúc đẩy sự yêu mến và bảo vệ cảnh vật tự nhiên, để những hình ảnh này có thể được truyền tải và tồn tại mãi mãi trong tâm hồn của mọi người.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 3
(có 0 lượt vote)

Bài văn phân tích tác phẩm "Xa ngắm thác núi Lư" - mẫu 4

Lí Bạch là nhà thơ nổi tiếng đời Đường với phong cách thơ phóng khoáng, thể hiện một tâm hồn yêu tự do, yêu thiên nhiên. Những hình ảnh trong thơ ông luôn khiến người đọc cảm nhận được sự trong lành và kì vĩ. Bài thơ “Xa ngắm thác núi Lư” là một bài thơ đẹp như vậy, nói lên tình yêu thiên nhiên của Lí Bạch đồng thời ca ngợi sự kì vĩ của thiên nhiên.


Bài thơ đã thể hiện được sự cảm nhận tinh tế và đầy táo bạo về hình ảnh thác núi Lư.


Về phiên âm:


Nhật chiếu Hương lô sinh tử yên

Dao khan bộc bố quải tiền xuyên

Phi lưu trục há tam thiên xích

Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên


Về phần dịch thơ:


Nắng rọi Hương Lô khói tía bay

Xa trông dòng thác trước sông này

Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước

Tưởng dài Ngân hà tuột khỏi mây.


Phần nhan đề của bài thơ đã nói lên không gian, tầm ngắm của tác giả bằng từ “xa” và “ngắm”. Tác giả đứng từ xa và ngắm nhìn vẻ đẹp kì vĩ, lớn lao của dòng thác núi Lư kì vĩ, mênh mông. Chính nhan đề bài thơ đã nói lên sự tinh tế và đầy tài hoa của Lí Bạch.


Đứng ở phía xa không thể nhìn một cách tỉ mỉ từng cảnh, từng vật nhưng lại có cái nhìn bao quát và tổng thể nhất. Ông đã lấy lợi thể có điểm nhìn này để vẽ lên một bức tranh toàn cảnh tuyệt vời nhất.


Nắng rọi Hương Lô khói tía bay


Một câu thơ cất lên đầy chất thơ, đầy chất thi vị, ánh nắng như đan cài, hòa vào dòng thác kì vĩ, lớn lao như vậy. Dưới ngòi bút của Lí Bạch, thiên nhiên hiện lên sống động và thật lớn lao. Ông đã miêu tả vẻ đẹp của dòng thác trước ánh nắng mặt trời, sự phản quang của nắng đã khiến cho dòng nước chuyển thành màu tía lung linh huyền ảo. Đây thực sự là điểm mới trong cách đánh giá thiên nhiên của Lí bạch.


Xa trông dòng thác trước sông này.

Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước

Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây


Nhưng hình thơ táo bạo và đầy sức hút, giống như một bức tranh đẹp đứng chênh vênh một một vách núi hiểm trở. Hình ảnh thác nước hiện lên kì vĩ và vô cùng lớn lao.


Ở câu thơ thứ hai, phần dịch thơ đã đánh mất chữ “quải”: So với phần dịch thơ nên sự gợi hình, gợi tượng của câu thơ không còn cuốn hút nữa. Như thế mới có thể thấy được trí tưởng tưởng của nhà thơ thật tuyệt vời mà tinh tế.


Người đọc có thể hình dung được trong bức tranh này có núi cao hiểm trở, có sườn dốc chênh vênh, và có cảnh thác nước “bay thẳng xuống”.


Một hình ảnh thơ quá đẹp, quá tuyệt vời khi Lí bạch cảm chừng như “nước bay thẳng xuống ba nghìn thước”. Với động từ mạnh “bay thẳng” đã khẳng định được vẻ đẹp kì vĩ, lớn lao, hùng vĩ và có phần hiểm trở của thiên nhiên nơi đây.


Tác giả đã lấy một con số cụ thể để ước lệ tượng trưng cho chiều dài của dòng thác. Con số ấy còn gợi lên một vẻ đẹp kì vĩ, hiểm trở, tạo cảm giác ớn lạnh cho người đọc. Và chính người đọc như cảm nhận được dòng thác như đang đổ xuống ngay trước mặt mình.


Câu thơ cuối có thể nói là câu thơ đầy ấn tượng đối với người đọc. Sự tinh tế và sự liên tưởng độc đáo của nhà thơ đã tạo nên một hình ảnh cực kì “độc” và “lạ”. Không phải nhà thơ nào cũng có vốn từ phong phú như vậy để tạo nên hình ảnh thơ mới mẻ như thế.


Tưởng dài Ngân Hà tuột khỏi mây


Câu thơ lấp lánh một vẻ đẹp huyền ảo, hư hư thực thực cứ đan cài, quyện chặt lấy nhau tạo nên một bức tranh đậm chất thơ. Tác giả ví thác nước như dải Ngân Hà. Một so dánh kì lạ và đầy mới mẻ. Từ "tuột” được Lí Bạch sử dụng rất đắc điệu và làm tốt vai trò của mình trong việc chuyển thể nội dung của bài thơ. Câu thơ cuối được coi là điểm nhấn, mà “mắt nhãn” của cả bài thơ vì đã nói lên được cái hồn, cái thần thái của cả bài thơ. Hình ảnh này khiến người đọc thán phục trước tài năng thơ, tài năng ngôn ngữ và tài năng liên tưởng của Lí Bạch.


Bài thơ “Xa ngắm thác núi Lư” thực sự là một bài thơ có hình ảnh đẹp, kì vĩ và lớn lao. Thiên nhiên trong thơ Lí bạch luôn phóng khoáng và kì vĩ như chính con người của ông.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 4
(có 0 lượt vote)

Bài văn phân tích tác phẩm "Xa ngắm thác núi Lư" - mẫu 5

Cùng với Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Lí Bạch là một trong ba nhà thơ lớn nhất, vĩ đại nhất đời Đường. Thơ ông đa dạng về đề tài và cách thể hiện nhưng tựu chung đều mang vẻ đẹp lãng mạn, bay bổng, khoáng đạt, luôn hướng về lí tưởng cái đẹp, thiên nhiên, tình yêu cuộc sống. Xa ngắm thác núi Lư là một trong những bài thơ như vậy.


Bài thơ được ông viết vào những năm cuối đời, sau khi người ông phò tá bị giết, ông bị đày rồi được thả, trên đường trở về ông lại được ngao du, thưởng ngoạn thiên nhiên. Tác phẩm viết khi tuổi ông đã cao, hơn nữa lại vừa bị đi đày về nhưng lời thơ vẫn đầy hùng khí đã cho thấy tinh thần hào sảng của ông.


Cả bài thơ cho thấy bức tranh thiên nhiên mang vẻ đẹp kì vĩ, lãng mạn. Với điểm nhìn từ xa, trong câu thơ đầu tác giả đã bao quát được toàn bộ bức tranh thiên nhiên: “Nhật chiếu hương lô sinh tử yên”. Khung cảnh thật lung linh, rực rỡ: ánh nắng chiếu vào làn nước sinh ra làn khói tía, tựa như những đám mây bồng bềnh trôi, khung cảnh trở nên mờ ảo, huyền bí. Cảnh không tĩnh mà động. Trong nguyên tác chữ “sinh” tạo cho người đọc cảm giác ánh mặt trời làm nảy sinh màu sắc, khung cảnh vì thế mà sinh động hơn.


Sau câu thơ miêu tả bao quát, ba câu thơ tiếp theo đi miêu tả chi tiết, cực tả vẻ đẹp hùng vĩ của thác nước. Trong câu thơ thứ hai, thác nước như một tấm thảm khổng lồ. Thác nước là sự kết hợp của cái khổng lồ với cái mềm mại, chữ “quải” – treo khiến thác nước trở nên mượt mà, thác nước vừa thực mà lại vừa ảo.


Thác nước đang động mà chuyển thành tĩnh. Sang câu thơ tiếp theo thác nước từ trạng thái tĩnh của tấm vải chuyển qua trạng thái động: “Phi lưu trực há tam thiên xích”. Sự hùng vĩ của thác nước được thể qua cả từ ngữ và hình ảnh. Chữ “phi” đã diễn tả được tốc độ nhanh, sức chảy mạnh của dòng nước: “thác nước chảy như bay”. Còn chữ “trực” lại cho thấy thế đứng thẳng của thác nước, thật hùng vĩ biết bao.


Hình ảnh “ba nghìn thước” gợi không gian cao vòi vọi. Tất cả ngôn ngữ, hình ảnh đó đã khắc họa thành công sự hùng vĩ của thác núi Lư. Câu thơ cuối tiếp tục gợi nên vẻ đẹp kì vĩ của nó bằng trường liên tưởng độc đáo: “Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên”.


Câu thơ thứ ba và thứ tư thừa tiếp ý của nhau, bổ sung cho nhau: phải là từ chín tầng mây chảy xuống thì mới có tốc độ và cường độ nhanh, mạnh như vậy và ngược lại “thác chảy như bay” theo phương thẳng đứng thì phải là sông Ngân Hà từ “cửu thiên” rơi xuống. Bằng lớp ngôn từ cực tả, tâm hồn phóng khoáng, trí tưởng tượng phong phú, Lí Bạch đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên, thác nước núi Lư vô cùng đẹp đẽ, kì vĩ.


Bức tranh thiên nhiên kì vĩ, tráng lệ còn cho ta thấy một tâm hồn yêu thiên nhiên tha thiết, say đắm trước vẻ đẹp của thác nước núi Lư. Chữ “vọng” trong nhan đề bài thơ không chỉ là nhìn từ xa mà còn là sự chiêm ngưỡng, ngắm nhìn, bị hút hồn trước vẻ đẹp của thác nước. Qua bức tranh này ta còn thấy được tâm hồn rộng lớn, khoáng đạt mà cũng đầy mơ mộng của nhà thơ.


Bài thơ sử dụng hình ảnh thơ tráng lệ, hùng vĩ. Sự kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn làm hình ảnh thác núi Lư hiện lên chân thực mà lung linh, huyền ảo, vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh làm cho bức tranh thiên nhiên thêm phần sinh động, hấp dẫn.


Bằng lớp ngôn ngữ trau chuốt, giàu sức biểu cảm bài thơ đã khắc họa vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên. Đồng thời bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn: yêu thiên nhiên, phóng khoáng, lãng mạn của nhà thơ Lí Bạch. Qua đó còn kín đáo bộc lòng yêu quê hương đất nước của tác giả.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 5
(có 1 lượt vote)

Bài văn phân tích tác phẩm "Xa ngắm thác núi Lư" - mẫu 6

Lí Bạch- người được mệnh danh là "tiên thơ", là nhà thơ mang tâm hồn tự do, hào phóng. Thơ của Lí Bạch phong phú về đề tài, trong đó thiên nhiên là cảm hứng bất tận và thể hiện hết được phong cách của nhà thơ. "Xa ngắm thác núi Lư" là bài thơ khắc họa vẻ đẹp kì vĩ của ngọn núi Hương Lô.


Bài thơ "Xa ngắm thác núi Lư" có tên tiếng Hán là "Vọng Lư sơn bộc bố", bài thơ được viết bằng chữ Hán, theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật . Đây là bài thơ tiêu biểu viết về đề tài thiên nhiên của Lí Bạch. Nhan đề bài thơ gợi ra điểm nhìn của tác giả, nhà thơ đang ở phía xa để ngắm thác núi, từ đó tác giả có cơ hội nhìn toàn cảnh núi Lư hùng vĩ. Mở đầu bài thơ, Lí Bạch đã khắc họa bức tranh dãy Hương Lô:


Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên

(Nắng rọi Hương Lô khói tía bay)


Câu thơ đầu tiên gợi ra không gian và thời gian khi tác giả đưa độc giả dạo chơi ở núi Hương Lô. Đây là một phần của dãy núi Lư. Vẻ đẹp của Hương Lô được tái hiện vào một buổi chiều tà. Lúc xế chiều, ánh nắng chiếu vào dãy núi sinh ra làn khói tía, đó là bức tranh lung linh của tạo hóa, có chút gì đó đan xen giữa thực và ảo. Dưới ánh mặt trời, làn khói tía được sinh ra phải chăng là sự giao hòa của đất trời.


Cách tác giả dùng từ "sinh" thật đặc biệt, phải chăng sự lung linh ấy là sản phẩm giao thoa của vũ trụ. Qua việc miêu tả dãy Hương Lô, tác giả muốn nói đến rộng hơn đó là sự bao trùm của cảnh vật ở dãy núi Lư kì vĩ: huyền ảo, rực rỡ, Hương Lô hiện lên như cái lư bát khổng lồ tỏa khói nghi ngút giữa núi non hùng vĩ.


Dao khan bộc bố quải tiền xuyên

(Xa trông dòng thác trước sông này)


Ở câu thơ thứ hai, người đọc nhận ra sự xuất hiện của dòng thác. Dòng thác được tác giả sử dụng bằng từ "quải"- đó có nghĩa là treo, dòng thác được treo lơ lửng trước dòng sông như một tấm vải gợi ra cho người đọc thấy được sự mềm mại của thác nước. Từ câu thơ, ta thấy được trí tưởng tượng của tác giả thật phong phú.


Giữa dãy núi Lư kì vĩ, dòng thác của núi Hương Lô treo thẳng đứng gợi ra không gian rộng lớn, bao la của ngọn núi. Câu thơ vừa thể hiện sự mềm mại của dòng thác, vừa thể hiện sự hùng vĩ của thiên nhiên. Ở câu thơ thứ ba, Lí Bạch đã miêu tả dòng thác một cách chi tiết hơn:


Phi lưu trực há tam thiên xích

(Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước)


Bút pháp nghệ thuật ước lệ tượng trưng trong thơ cổ điển được tác giả sử dụng thật linh hoạt trong câu thơ này. Dòng "thác chảy như bay đổ thẳng xuống" thể hiện tốc độ chảy mạnh mẽ của thác nước. Từ nơi ba nghìn thước cao vời vợi, dòng nước tuôn trào từ đỉnh Hương Lô đã khiến người đọc thấy được sự khốc liệt của dòng nước: tốc độ và sức chảy ghê gớm.


Như vậy, không còn là sự mềm mại, huyền ảo từ sự thơ mộng của làn khói tía nữa mà đó còn ẩn chứa sự mạnh mẽ, mãnh liệt không gì cản nổi mà tạo hóa đã tạo nên. Đọc đến đây, cảnh thác núi Lư phần nào đã hiện rõ nét hơn và như để khẳng định khoảnh khắc ấy, tác giả đã thể hiện:


Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên

(Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây)


Sông Ngân Hà tuy chỉ là dòng sông trong tâm tưởng của tác giả, dòng sông đó thật đẹp nhưng không có thực. Sông Ngân chỉ là cách mà tác giả đang trừu tượng hóa khiến cho người đọc nhận ra vẻ đẹp huyền ảo, mê hoặc xứng tầm vũ trụ của phong cảnh thác núi Lư.


Thế nhưng, nhờ đó mà chúng ta nhận ra thác nước đó thật đẹp, như kì quan tự nhiên. Câu thơ khiến ta thấy được sự bay bổng trong tâm hồn của nhà thơ Lí Bạch, phong cách thơ lãng mạn, mạnh mẽ và phóng khoáng.


Bài thơ "Xa ngắm thác núi Lư" đã phần nào khắc họa vẻ đẹp thiên nhiên qua đôi mắt của nhà thơ Lí Bạch: đẹp, nên thơ nhưng không kém phần kì vĩ, lớn lao. Qua bài thơ, phần nào ta đã thấy được sự táo bạo, dứt khoát trong cách miêu tả tình yêu với thiên nhiên mà nhà thơ đã xây dựng, nó tương đồng với phong cách thơ mà Lí Bạch xây dựng để thuyết phục độc giả bằng tài năng thi phú của mình.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 6
(có 0 lượt vote)

Bài văn phân tích tác phẩm "Xa ngắm thác núi Lư" - mẫu 7

Lý Bạch nhà thơ kiệt xuất của nền thơ ca Trung Quốc. Thời nhà Đường ông thường được nhắc đến như một vị thánh thơ với tài năng kiệt xuất, ung dung tự tại không màng đến hư danh. Thơ của Lý Bạch được ví như một bức tranh bao gồm cả hình lẫn tình vô cùng khoáng đạt. Bài thơ Xa ngắm thác núi Lư chính là một trong những bức tranh đầy hình ảnh và âm thanh của Lý Bạch:


Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên

Dao khan bộc bố quải tiền xuyên

Phi lưu trực há tam thiên xích

Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên


Ngao du sơn thủy hữu tình chính là cuộc đời của Lý Bạch. Chính vì lẽ đó mà bài thơ Xa ngắm thác núi Lư đã hội tụ đủ mọi yếu tố những cái điển hình, đẹp nhất của thác núi Lư tuyệt mĩ của bút pháp nghệ thuật của nhà thơ. Ngay mở đầu bài thơ chính là hình ảnh thác núi Lư từ xa: Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên.


Dãy núi Lư sơn hùng vĩ, Hương Lô là một ngọn núi thuộc dãy Lư sơn này, từ xa nhìn lại hình ảnh Hương Lô như một chiếc Lư hương vô cùng tuyệt đẹp là nền cho bức tranh thiên nhiên của thác núi Lư. “Nhật chiếu” ánh nắng Mặt Trời chiếu xuống dưới dòng nước đang ào ào đổ xuống tạo nên một hình ảnh vô cùng tuyệt đẹp, sự khúc xạ ánh sáng càng làm cho vẻ đẹp ấy hoàn mĩ hơn


Hình ảnh ngọn núi Hương Lô được Lý Bạch quan sát từ xa mang đến cảm giác thật ảo không rõ ràng nhưng lại tạo hiệu ứng vô cùng xuất sắc khi đã miêu tả hình ảnh thác núi Lư đẹp mờ ảo như chốn thiên cung, và người cảm nhận được nét đẹp đó chỉ có thể là tiên thơ Lý Bạch mà thôi.


Phong cảnh Hương Lô thật đẹp, thật kì diệu nhưng cái sự ảo diệu và thu hút tầm nhìn hơn cả chính là hình ảnh của ngọn thác, điểm nhấn chính của bức tranh thơ:


Dao khan bộc bố quải tiền xuyên

Phi lưu trực há tam thiên xích

Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên


Chính nhan đề bài thơ đã nói lên toàn cảnh của bài thơ. “Xa ngắm thác” chính là việc đứng từ xa quan sát hình ảnh dòng nước từ thác núi Lư chảy xuống, như dải lụa trắng đang trào xuống. “Dao khan bộc bố quải tiền xuyên”, bức tranh tưởng chừng như vô tri vô giác chỉ có hình mà không có ảnh, nhưng chỉ một động từ “quải” thôi cũng đã đủ biến một hiện tượng đang hoạt động trở lên tĩnh lặng hơn, tất cả chỉ muốn khẳng định một điều chính là việc tựa xa ngắm thác nên chỉ có thể cảm nhận được hình ảnh là chính mà thôi.


Dòng thác như dải lụa trắng từ trên trời chảy xuống thật hoành tráng và kỹ vĩ, bức tranh tuyệt đẹp đó tưởng chỉ có vô tri vô giác nhưng đã được thi tiên Lý Bạch miêu tả đầy tiếng động: Phi lưu trực há tam thiên xích. Câu thơ thứ ba, chính là sự chuyển tiếp trạng thái của dòng thác núi Lư khi mà từ hình chuyển sang động.


“Phi lưu” dòng nước đổ xuống ào ào tưởng như bay, thác cao dựng đứng cao tận ba nghìn thước “tam thiên xích” chính vì lẽ đó nước đổ xuống như bay chả có gì ngạc nhiên, cách nói phóng đại này tưởng như không có thực nhưng lại chân thực vô cùng. Bằng con mắt đầy lãng mạn của mình, sự liên tưởng mà chỉ có thi tiên mới có Lý Bạch đã trông thấy.


Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên. Câu thơ cuối đã thể hiện được tài năng và phong cách thơ Lý Bạch. Việc tả thác tưởng chừng như đơn giản như bao bài thơ bài văn khác nhưng tả thác của Lý Bạch thì thật lạ, thật tài tình: “cái ảo và cái thực”; “cái hình và cái âm”; bút pháp nghệ thuật lãng mạn như phá cách mọi giới hạn. “Nghi thi”-cứ ngỡ là…đây là sự hoài nghi nhưng vẫn cho là thật.


Sự liên tưởng mà chỉ có Lý Bạch mới có “tưởng như dòng sông tuột khỏi mây” (lạc cửu thiên) mà tuôn xuống. Hình ảnh mây ngang trời lại dòng thác đang đổ xuống, sự trùng hợp hoặc có thể là sự kết hợp của Lý Bạch chính là hình ảnh đẹp nhất bài thơ, ngắm thác chảy mà ngờ mình đang chốn bồng lai tiên cảnh nào đó.


Có lẽ chỉ những người yêu thiên nhiên đến say đắm như Lý Bạch mới có thể cảm nhận và vẽ lên một bức tranh thác nước đẹp đến thế, tuyệt vời đến thế. Mấy người đến thác mà ngắm cảnh mà bắt được cái hay cái đẹp của thác đặc biệt là bắt gặp được đúng cái hình ảnh thi tiên đã thấy? Khoảnh khắc trôi qua tưởng đã mất nhưng chính thi tiên Lý Bạch đã làm cho hình ảnh đó bất biến với thời gian.


Bài thơ là một trong những tuyệt tác thơ của Lý Bạch, đây chính là bức tranh tả thực vô cùng xuất sắc cho thấy được phong cảnh thiên nhiên tráng lệ, hùng vĩ của thác núi Lư. Qua đây ta cũng cảm nhận và thấy được tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp nhà thơ. Những vẻ đẹp đó không những không mất đi còn trường tồn bất biến với thời gian

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 7
(có 0 lượt vote)

Bài văn phân tích tác phẩm "Xa ngắm thác núi Lư" - mẫu 8

Được mệnh danh là "tiên thơ", những sáng tác thơ của Lí Bạch là đỉnh cao của thơ ca lãng mạn Trung Quốc. Những vần thơ của Lí Bạch luôn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc với những hình ảnh thơ tươi sáng, ngôn ngữ điêu luyện cùng tâm hồn tự do, phóng khoáng. Và bài thơ "Xa ngắm thác núi Lư" (Vọng Lư sơn bộc bố) là một trong số những bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Lí Bạch.


Trước hết, câu thơ mở đầu bài thơ đã vẽ nên khung cảnh của ngọn núi Hương Lô.


Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên

(Nắng rọi Hương Lô khói tía bay)


Với câu thơ đầu tiên đã giúp người đọc cảm nhận được vị trí của người tả cảnh, dường như chủ thể trữ tình đang đứng từ xa ngắm nhìn đỉnh núi và có lẽ bởi thế mà hình ảnh ngọn núi hiện lên toàn cảnh, rõ nét. Ngọn núi Hương Lô được miêu tả dưới ánh sáng của mặt trời và để rồi dưới ánh sáng ấy, làn hơi nước đã phản quang cùng ánh nắng, tạo nên một sắc khói màu tía bủa vây khắp đỉnh núi. Thêm vào đó, với việc sử dụng động từ "sinh" đã làm cho người đọc cảm nhận thấy ánh sáng mặt trời chính là chủ thể mà với tác động của nó vạn vật sinh sôi, nảy nở, phát triển và đổi thay. Như vậy, câu thơ đầu tiên đã vẽ nên khung cảnh của ngọn núi Hương Lô, đó chính là cái nền gợi nên vẻ đẹp huyền ảo của cảnh vật.


Nếu như câu thơ đầu tiên tác giả đã miêu tả vẻ đẹp của ngọn núi Hương Lô thì ba câu thơ còn lại của bài thơ đã tập trung làm bật nổi hình ảnh thác núi Lư.


Dao khan bộc bố quải tiền xuyên

(Xa trông dòng thác nước sông này)


Động từ "quải" trong câu thơ thứ hai đã biến cảnh vật từ trạng thái động sang trạng thái tĩnh, nếu như khi nhìn từ xa lại, đỉnh núi Hương Lô là làn khói tía mù mịt bay, chân núi là dòng sông đang tuôn chảy còn khoảng giữa chân núi và đỉnh núi chính là dòng thác đang treo lơ lửng. Thế nhưng, trong câu thơ tiếp theo, cảnh vật lại chuyển từ trạng thái tĩnh sang trạng thái động, điều đó thể hiện rõ nét qua việc tác giả sử dụng liên tiếp hai động từ trong cùng một câu thơ - "phi", "lưu". Đồng thời, với câu thơ này, mặc dù tác giả trực tiếp miêu tả thác nước nhưng hơn thế nữa, qua đó giúp người đọc có thể cảm nhận được thế núi cao với sườn núi dốc đứng, bởi lẽ chỉ khi có một đỉnh núi với độ cao và dốc như vậy thì thác nước mới có tốc độ tuôn chảy đến như thế.


Phi lưu trực há tam thiên xích,

(Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước)


Cuối cùng, câu thơ khép lại bài thơ đã vẽ nên một cảnh tượng thiên nhiên mãnh liệt.


Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên

(Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.)


Câu thơ với việc sử dụng biện pháp tu từ so sánh và phóng đại, nói quá, so sánh thác nước với dải Ngân Hà đã vẽ nên một khung cảnh thiên nhiên mãnh liệt, hùng vĩ, để lại sức ám ảnh trong lòng người đọc.


Tóm lại, bài thơ với ngôn ngữ điêu luyện, hình ảnh thiên nhiên đẹp đẽ đã miêu tả một cách sinh động, hấp dẫn đỉnh núi Hương Lô với thác Lư. Đồng thời, qua đó cũng thể hiện tình yêu thiên nhiên, lòng yêu nước sâu sắc của tác giả Lí Bạch.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 8
(có 0 lượt vote)

Bài văn phân tích tác phẩm "Xa ngắm thác núi Lư" - mẫu 9

Lí Bạch (701 - 762) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất đời Đường. Ông được người đời mến mộ, gọi là Thi tiên - ông tiên làm thơ. Thơ Lí Bạch là thơ của mộ tâm hồn phóng khoáng, đầy hùng tâm, tráng chí, giàu tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu tự do và đất nước, coi thường công danh, coi trọng tình bằng hữu, sống hào hiệp, nghĩa khí.


Lí Bạch để lại trên một nghìn bài thơ, với phong cách lãng mạn bay bổng, tràn đầy cảm xúc và tưởng tượng, khắc họa thành công những hình tượng kì vĩ, hào hùng.


Lí Bạch đi nhiều, hầu như các danh lam thắng cảnh trên đất nước Trung Hoa bao la, ông đều đặt chân tới và làm thơ. "Xa ngắm thác núi Lư" là một trong những bài thơ tả cảnh tuyệt bút của ông:


“Nắng rọi Hương Lô khói tía bay.

Xa trông dòng thác trước sông này.

Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước,

Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây”


Bài thơ miêu tả cảnh thác núi Lư hùng vĩ, tráng lệ, biểu lộ một tình yêu thiên nhiên, yêu núi sông Tổ quốc.


Núi Hương Lô trong dãy Lư sơn trùng điệp ở tinh Giang Tây, Trung Quốc. Hương Lô nghĩa đen là lò hương; dáng núi như vậy nên mới được đặt tên là Hương Lô. Núi cao có mây khói bao phủ, xa trông như chiếc lò hương thiên tạo khổng lồ. Hương Lô càng trở nên nổi tiếng nhờ có thác đẹp, nhất là những ngày rực nắng, trời xanh trong.


Hai câu đầu cho thấy Lí Bạch đứng xa ngắm thác:


"Nắng rọi Hương Lô khói tía bay,

Xa trông dòng thác trước sông này "


Sau gần 13 thế kỷ, không biết Lý Bạch đến thăm thác núi Lư vào buổi sáng hay buổi chiều, chi biết đó là một ngày rất đẹp có "nắng rọi". Lưu truyền tiếng thác "như sấm động, như ngàn vạn con ngựa hí vang trời". Ở đây, nhà thơ không tả âm thanh của tiếng thác mà chỉ tả bằng mắt vì đứng rất xa ngắm thác. Nắng chiếu xuống núi, chiếu xuống thác "khói tía bay" mù mịt, bao phủ một vùng bao la. “Khói tía" là khói màu đỏ pha tím sầm. Thác núi Lư phản quang ánh mặt trời, du khách đứng xa tưởng như nhìn thấy Hương Lô có hàng ngàn vạn mảnh trầm, có muôn triệu cây hương đốt lên “khói tía bay” trông rất ngoạn mục.


Hình ảnh vừa thực vừa ảo làm hiện lên vẻ đẹp kỳ lạ của thác núi Lư. Câu thơ đầy màu sắc: màu trắng của thác, màu xanh của núi, màu vàng của nắng và màu tía của sương khói. Đằng sau câu thơ, người đọc cảm thấy Thi tiên đang đứng lặng trầm ngâm và say sưa ngắm thác núi Lư. Thác núi Lư trong xa như dòng sông treo trước mặt:


"Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước,

Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây "


Từ núi cao, thác đổ xuống, trút xuống, "nước bay thẳng xuống", tạo thành dòng trắng xóa "ba nghìn thước". Trước cảnh tượng hùng vĩ lạ lùng ấy, Lí Bạch thốt lên ngạc nhiên... Với cảm hứng lãng mạn, nhà thơ đã sáng tạo nên một hình ảnh ẩn dụ để so sánh thác núi Lư với “dải Ngân Hà tuột khỏi mây”. Một nét vẽ phóng đại thần tình ca ngợi công trình tráng lệ và kỳ vĩ của tạo hóa. Nói rằng thơ Lí Bạch tràn đầy hùng tâm và tráng chí là như vậy.


Với một tình yêu thiên nhiên đến say đắm, với một trí tưởng tượng đến phi thường, Thi tiên đã để lại một bức tranh hoành tráng về thác núi Lư bằng ngôn ngữ thi ca hiếm có. Hơn một thiên niên kỉ trôi qua, đã mấy ai được đến núi Lư Sơn Trung Quốc ngắm thác trong "nắng rọi"? Quả vậy, thác núi Lư làm cho thơ Lí Bạch trở nên vĩnh hằng, và thơ Lí Bạch cũng góp phần làm cho cảnh thác núi Lư kì vĩ in sâu vào tâm hồn nhân loại.


Bài " Xa ngắm thác núi Lư" được viết bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Trí tưởng tượng hiếm có, nét vẽ thậm xưng tráng lệ, cảm hứng lãng mạn dạt dào là những yếu tố đã làm nên cốt cách áng thơ kiệt tác này. Qua bài thơ, ta thấy rõ hồn thơ Lí Bạch: một tình yêu lớn đối với thiên nhiên và đất nước.


Nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước Trung Hoa đã soi bóng vào thơ Lí Bạch, để từ đó đi sâu vào lòng người khắp mọi nơi trên hành tinh. Bài thơ "Xa ngắm thác núi Lư" đã mở rộng tầm nhìn, làm phong phú hơn tâm hồn chúng ta trong cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên, nâng tâm hồn chúng ta lên một tầm cao nhân văn khi tiếp cận các danh lam thắng cảnh trong và ngoài nước.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 9
(có 0 lượt vote)

Bài văn phân tích tác phẩm "Xa ngắm thác núi Lư" - mẫu 10

Nếu như một thời độc giả hồ nghi tiên sinh Tản Đà được Ngọc Hoàng đầy xuống hạ giới để thực hiện xứ mệnh trời giao. Thì chúng ta chẳng có gì bỡ ngờ khi rất nhiều người cho rằng đầu thế kỉ thứ VIII - đời nhà Đường có một ông tiên thơ Lý Bạch được phái xuống trần gian. Do vậy thơ của ông mang phong cách “tiên” vừa phóng khoáng, lãng mạn lại kỳ vĩ tráng lệ. Chất thơ ấy thể hiện sâu sắc qua bài Vọng Lư sơn bộc bố.


Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên.


Dao khan bộc bố quải tiền xuyên Phi lưu trực há tam thiên xích Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên


Dịch thơ:

Nắng rọi Hương Lô khói tía bay

Xa trông dòng thác trước sông này

Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước

Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây

(Tương Như dịch)


Nhan đề bài thơ là vọng (nhìn từ xa) hơn nữa lại là dao khan (trông từ xa). Từ đó ta thấy cảnh thác núi Lư sơn thật hùng vĩ, hoành tráng, mỹ lệ. Tác giả chọn vị trí từ xa để bao quát cảnh vật, đồng thời cảnh thác nước Lư sơn hiện ra vừa thực, vừa ảo lung linh sinh sắc:


Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên

(Nắng rọi Hương Lô khói, tía bay)


Núi Lư là một ngọn núi cao, quanh năm mây mù bao phủ. Tác giả dùng hình ảnh ví von đặc biệt: ngọn núi được ví với Lô Hương giữa đất trời, mây bay chập chờn trên đỉnh Lô Hương. Đã thế tác giả lại khắc hoạ Lô Hương trong một ngày nắng đẹp.


Mặt trời phản chiếu vào Hương Lô sinh làn khói tía. Vì sao vậy? Khói thì màu trắng, mà tử yên là làn khói khá tươi đẹp, màu khói gợi sự mơ mộng, suy tư. Đến câu thơ thứ hai dòng thác hiện ra uyển chuyển:


Dao khan bộc bố quải tiền xuyên

(Xa trông dòng thác trước sông này)


Từ xa quan sát, thác nước như dải lụa trắng xoá mềm mại treo lên giữa lưng chừng núi và dòng sông. Trên thực tế núi thì cao, nước đổ thẳng xuống, và đương nhiên dòng thác sẽ không thể dội thẳng đứng được mà nó mềm mại như dải lụa được treo lên, mà lại treo lơ lửng. Ai có thể treo được một dòng thác? Đọc đến đây ta không khỏi ngỡ ngàng khi nhận thấy trên đỉnh núi Hương Lô mây bay rực rỡ, nghi ngút khói hương. Từ trong chính chỗ đó phun ra dòng thác trắng xoá bay xuống. Lạ kì thay thác chảy mà như lụa bay lơ lửng trước mắt nhà thơ. Từ quải được xem như là nhãn tự của câu thơ khiến dòng thác kỳ vĩ hơn lung linh hơn.


Phi lưu trực há tam thiên xích

(Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước)


Bằng những thanh bằng - bằng, trắc - trắc trong cụm từ (phi lưu trực há), ta cảm thấy như dòng thác lướt nhẹ như những thanh bằng. Ngọn thác cao vút đổ xuống ầm ầm bên sườn núi dựng đứng. Vậy thì tiếng thác chảy, bọt nước sẽ tạo thành màn sương và những âm thanh ào ạt, tiếng nước đổ khiến ta cảm thấy là có thật, nhưng làn khói sương mờ mờ ảo ảo ấy tạo thành bức tranh huyễn hoặc. Vì vậy khiến tác giả hồ nghi:


Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên

(Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây)


Có nhiều lúc người ta đang chứng kiến một sự thực nhưng lại không tin vào mắt mình. Cái lý trí bị lấn át bởi tình cảm. Trong hoàn cảnh này cũng vậy, dòng thác trước mắt nhà thơ là sản phẩm của sự phối hợp giữa thực và ảo, cái tỉnh và cái mơ, cõi trần gian và nơi thượng giới.


Ngỡ là tức là bản thân tác giả biết rằng nó không phải thế nhưng vẫn muốn tin là thế. Cảnh đẹp đã chắp cánh làm cho tác giả nghĩ đến dòng sông của thần thoại. Một dòng nước dội xuống từ ba ngàn thước, mà ngỡ như dòng sông Ngân rơi tựa chín tầng mây. Đây là hình ảnh đẹp nhất trong bài thơ. Trí tưởng tượng tuyệt vời, ngôn ngữ thơ ca đã nâng ngọn bút và cảm hứng lãng mạn thần tiên lên đến tuyệt đỉnh mới tạo bức tranh đẹp đến như vậy.


Cùng đề tài này, cùng tả dòng thác Lư sơn, một nhà thơ Đường khác Từ Tử Ngưng đã viết:


Hư không lạc tuyền thiên nhẫn trực

Lôi bôn nhập giang bất tạm tức

Thiên cổ trường như bạch luyện phi

Nhất diều giới phá thanh sơn sắc.


Rõ ràng khi so sánh dòng thác trong hai bài thơ này ta thấy rằng dòng thác Lư sơn trong bài thơ của Lý Bạch kỳ vĩ huyền ảo và thơ mộng hơn nhiều. Hay nói cho đúng hơn không còn vần thơ nào tả được hay hơn Lý Bạch.


Trong con mắt thi nhân cảnh vật khoáng đạt đẹp đẽ biết bao. Với bút pháp điêu luyện hồn thơ bay bổng, tấm lòng say đắm, trí tưởng tượng diệu kỳ và sự sáng tạo độc đáo, tác giả đã dựng nên bức tranh về dòng thác với muôn nghìn sắc màu làm cho người đọc không khỏi bất ngờ và nhớ mãi.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Hi vọng bài viết trên mang lại nhiều giá trị cho bạn. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài văn hay trên Alltop.vn

Hãy đăng nhập để bình luận

Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .