Top 12 Đoạn văn, bài văn cảm nhận, phân tích bài "Mưa xuân II" (Ngữ văn 8 - SGK Chân trời sáng tạo) hay nhất
Mời các bạn tham khảo một số Đoạn văn, bài văn cảm nhận, phân tích bài "Mưa xuân II" (Ngữ văn 8 - SGK Chân trời sáng tạo) hay nhất mà Alltop.vn tổng hợp trong...xem thêm ...
Đoạn văn cảm nhận bài "Mưa xuân II" (Ngữ văn 8 - SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 1
Bức tranh thôn quê trong bài "Mưa Xuân II" của Nguyễn Bính được miêu tả rất chi tiết và sống động. Tác giả đã sử dụng những hình ảnh mùa xuân như mưa, gió, hoa lá, cây cối, đồng ruộng để tạo nên một không gian yên bình, thanh tịnh và đầy sức sống. Tôi cảm nhận được sự đẹp đẽ, hài hòa và tự nhiên của thiên nhiên trong bức tranh này. Những cây cối, hoa lá, cỏ dại, đồng ruộng được miêu tả rất chi tiết và sống động, tạo nên một bức tranh về cuộc sống thôn quê đầy màu sắc và sinh động. Ngoài ra, tác giả cũng miêu tả đến những con người sống trong thôn quê, những người đi trẩy hội, trẻ em chơi đùa, người dân làm việc trên đồng ruộng, tạo nên một bức tranh về cuộc sống đầy tình cảm và sự đoàn kết. Tôi cảm thấy bức tranh này rất đẹp và tinh tế, tạo nên một cảm giác yên bình và thanh tịnh, giúp cho người đọc có thể tạm quên đi những lo toan trong cuộc sống và tìm lại được sự bình yên trong tâm hồn. Bên cạnh những hình ảnh về thiên nhiên và con người, tác giả cũng miêu tả đến những âm thanh của thôn quê như tiếng chuông đánh, tiếng trống hội đình, tiếng trẻ em cười đùa, tiếng trâu rền rĩ trên đồng ruộng. Tất cả những âm thanh này tạo nên một bức tranh âm nhạc đầy sức sống, giúp cho người đọc cảm nhận được sự sống động và sinh động của cuộc sống thôn quê. Bên cạnh đó, tác giả cũng sử dụng những từ ngữ tươi sáng, màu sắc để miêu tả bức tranh thôn quê, như "lúa mát mình", "hoa xanh", "mặt ruộng trắng phau phau", tạo nên một bức tranh đầy màu sắc và tươi mới của mùa xuân. Tôi cảm thấy bức tranh thôn quê trong bài "Mưa Xuân II" của Nguyễn Bính là một bức tranh đẹp và sống động, tạo nên một cảm giác yên bình, thanh tịnh và đầy sức sống. Bức tranh này giúp cho người đọc có thể tìm lại được sự bình yên trong tâm hồn và cảm nhận được sự đẹp đẽ của cuộc sống thôn quê.
Đoạn văn cảm nhận bài "Mưa xuân II" (Ngữ văn 8 - SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 2
Thơ của Nguyễn Bính mang đậm phong vị dân gian, một trong những bài thơ tiêu biểu phải kể đến “Mưa xuân II”. Khi đọc bài thơ, tôi đã cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên căng tràn sức sống, cũng như cảm xúc mà tác giả muốn gửi gắm. Cảnh sắc thiên nhiên được khắc họa với những sự vật vô cùng quen thuộc của làng quê. Cây cam, cây quýt cành giao nối, những chiếc lá đón lấy cơn mưa. Đám cỏ dại đang nở ra những chùm hoa xanh. Đàn bướm bay mà không ướt cánh, còn nhện cũng vừa mới giăng tơ trắng ngần. Xa xa, dãy núi thật hùng vĩ, thấp thoáng là đàn cò trắng bay là mặt ruộng. Vạn vật đều tươi mới, căng tràn sức sống dưới cơn mưa xuân. Và trong nền thiên nhiên đó, con người cũng xuất hiện, hòa mình vào với không khí náo nức của ngày xuân. Những người đang sắm sửa đi trẩy hội đông vui, nhộn nhịp biết bao. Qua bài thơ, tôi cảm nhận được con người và tự nhiên có mối quan hệ gắn bó khăng khít, gần gũi và có sự giao hòa với nhau.
Đoạn văn cảm nhận bài "Mưa xuân II" (Ngữ văn 8 - SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 3
Đông qua là lúc xuân lại đến. Đó là lúc những cành đào khoe sắc, những cành mai chớm nở. Đến với “Mưa xuân II” của Nguyễn Bính, ta như đắm chìm trong không khí thiên nhiên dễ chịu với mưa xuân phảng phất. Mưa xuân đến phảng phất bay trên bầu trời, những hạt mưa nhỏ li ti trắng xóa mang đến cảm giác thật mát lành. Nó không ồ ạt như mưa mùa hè, mà nhẹ nhàng phảng phất bay trên bầu trời. Hình ảnh những cây cam, những đàn bươm bướm, những người đi trẩy hội đang được hòa mình vào mùa xuân, được hưởng trọn cái không khí mùa xuân mang lại. Mưa xuân đến là lúc những cành cam trổ mầm, là những bờ cỏ dại nở hoa xanh, là những bụi sương mù phảng phất bay trong gió sớm. Tất cả đã đem lại một không khí mùa xuân bừng sức sống, dồi dào mà cũng thật căng tràn nhiệt huyết.Cụm từ nhân hóa “ngửa lòng bàn tay” như thấy rằng tất cả cảnh vật cũng đang chìm đắm, đang tận hưởng sự dễ chịu mà mùa xuân mang đến. Những âm thanh của trống hội đình, tiếng xe lửa, tiếng đàn cò bay như là âm thanh sống động mà chỉ mùa xuân mới có vậy. Nguyễn Bính đã miêu tả mùa xuân với mưa xuân len lỏi qua từng ngõ ngách, sau đó là mang đến âm thanh những hình ảnh sống động đẹp đẽ. Ôi cái khung cảnh mùa xuân thật khiến lòng người mê đắm. Qua bài thơ “Mưa xuân II” của Nguyễn Bính, ta như được chìm đắm vào thế giới mùa xuân với rực rỡ âm thanh và hình ảnh căng tràn sức sống. Cái nhẹ nhàng, cái phảng phất, cái bừng nở làm thức tỉnh cảnh vật. Tất cả đã tạo nên một bài thơ rất đẹp về mùa xuân.
Đoạn văn cảm nhận bài "Mưa xuân II" (Ngữ văn 8 - SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 4
Làm nên hồn quê, không thể không có vai trò của lời quê. Nguyễn Bính đã gọi dậy cả hồn quê chính trong mỗi một lời quê đó. Cái cách tả buổi tối theo lối quê: “Bốn bên hàng xóm đã lên đèn”, cái cách đo khoảng cách đường xá: “Thôn Đoài cách có một thôi đê”, cách dùng thành ngữ để hờn trách: “Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn”, cách diễn tả nỗi đơn lẻ của mình (thương mình) vòng qua nỗi đơn chiếc của con thoi (thương đối tượng khác): “Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh / Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em”, cách tả mưa: “Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay”, cách ước đếm thời gian: “Anh ạ mùa xuân đã cạn ngày”... tất cả đều đượm vẻ quê. Nghĩa là cách nói cụ tượng bằng chính những sự vật bình dị, mộc mạc gắn bó với thôn ổ từ bao đời nay, hoặc lối nói gián tiếp bóng gió. Thế giới tâm tình của một cô gái quê được gọi dậy bằng những lời quê ấy. Bởi chính những lời quê kia đã kết lắng trong nó tâm tình của dân quê. Và đến lượt nó, chính lời quê cũng góp phần nuôi dưỡng bảo lưu hồn quê trong mỗi một người quê. Có thể nói rằng, vai trò của cảnh trong bài thơ này rất quan trọng, là vì nó có một giá trị độc lập. Đành rằng đã là văn chương thì ở đâu cảnh hay chuyện hay có là gì đi nữa rốt cuộc cũng đều để gửi cái tình, nhưng đôi lúc cái dụng công của tác giả ngỡ như trải đều cho tình lẫn cảnh, hoặc tình lẫn chuyện... đến nỗi ta không biết cái nào là chính, cái nào là phụ.
Đoạn văn cảm nhận bài "Mưa xuân II" (Ngữ văn 8 - SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 5
Bài thơ Mưa xuân II của Nguyễn Bính đã đem đến cho tôi nhiều cảm xúc khi đọc. Vẻ đẹp thiên nhiên được khắc họa với vẻ giản dị, mộc mạc nhưng cũng rất thơ mộng, tràn đầy sức sống. Cơn mưa xuân dường như đã khiến cho vạn vật bừng tỉnh sau một mùa đông dài lạnh lẽo. Những cây cam, cây quýt hay cỏ dại đang tận hưởng không khí mùa xuân tươi mát, chúng thi nhau ra hoa xanh tốt. Cả loài vật cũng đang hưởng ứng cái không khí mùa xuân đến, bươm bướm cứ bay không ướt cánh, còn nhện thì giăng tơ sợi trắng ngần. Mùa xuân đến, con người cũng vui tươi hơn, rộn ràng hơn. Người đi trẩy hội, nô nức và nhộn nhịp. Cảnh sắc mùa xuân còn xuất hiện thêm hình ảnh những đàn cò trắng bay lượn và hình ảnh đoàn tàu đang chạy. Mọi hoạt động đều được diễn ra thường xuyên, nhưng khi mùa xuân đến mọi thứ như nhộn nhịp và hào hứng hơn. Cơn mưa càng làm cho cảnh vật thêm tươi đẹp hơn. Qua bài thơ, tác giả cũng thể hiện cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến trước khung cảnh thiên nhiên trong cơn mưa xuân.
Đoạn văn cảm nhận bài "Mưa xuân II" (Ngữ văn 8 - SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 6
Hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ hiện ra thật sinh động. Mùa xuân của đất trời và vạn vật đang tưng bừng sống lại sau những ngày đông tàn cũng đánh thức luôn nhịp hồi sinh trong con người, mùa ăn chơi, mùa tháng rộng ngày dài đầy rạo rực. Tiếng trống chèo thân thuộc ngàn năm trên mảnh đất này lại vang lên trên những sân đình. Hội chèo làng Đặng hát ở thôn Đoài... Những địa danh chỉ nghe qua đã đủ gợi hồn quê kiểng. Những đám hội ở thôn quê luôn vui như... hội, bởi vì người ta đâu chỉ được xem hát, xem trò, được thưởng thức nghệ thuật, mà có lẽ còn quan trọng hơn thế-đấy là nơi gặp gỡ, giao cảm, nơi tìm kiếm và hẹn hò của những lứa đôi. Từ hình ảnh thiên nhiên ấy, tác giả đã gợi mở cho chúng ta về một tình yêu mới nhen nhóm, diễn ra trên cái nền của một làng quê vào cữ mùa xuân.
Đoạn văn cảm nhận bài "Mưa xuân II" (Ngữ văn 8 - SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 7
Đó là vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên của làng quê Việt Nam, mà ở đây là miền Bắc, từ đèo Hải Vân trở ra. Trong bài thơ ta nhận ra đặc thù không thể lẫn của thời tiết, khí hậu và cảnh sắc của miền Bắc, nó rất khác với miền Nam do cấu tạo địa lý của đất nước ta, đặc biệt là vào cữ đông - xuân. Ấy là những cảnh giá lạnh, ẩm ướt, bầu trời thật thấp và âm u, với loài hoa xoan màu trắng tím nở thành chùm, thành ngù như lẫn vào mây trắng và sương mù, thứ hơi nước lãng đãng bốc lên từ hồ, ao, nửa như mây, nửa như mưa, huyền hoặc vô cùng, thêm một bước nữa- quá mù ra mưa, thì đó là thứ mưa bụi, hay mưa phùn, hay cũng là mưa bay, mưa lay phay, thứ mưa không ướt áo, mưa không ướt đất ấy thực là một vẻ đẹp mê hồn và là đặc thù của mùa xuân đất Bắc mà bao người đi xa vẫn nhớ đến nao lòng.Cảnh trí ở đây được dùng làm đất sống cho câu chuyện tình và đến lượt câu chuyện tình lại tạo nên phần hồn cho cảnh. Và như thế cảnh và tình trong Mưa xuân đã quyện vào nhau như xác với hồn để cùng tạo nên một bức tranh quê chân thực và sống động, mang đậm dấu ấn Nguyễn Bính.
Đoạn văn cảm nhận bài "Mưa xuân II" (Ngữ văn 8 - SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 8
Mưa xuân thường đến rất nhẹ nhàng, êm ái như gieo vào lòng người những xuyến xao. Mưa xuân đến, hoa xoan rụng từng lớp, từng lớp vẽ nên một bức tranh quê trong tiết trời ấm áp của mùa xuân. Giữa cảnh sắc thiên nhiên hoa xoan tím nồng nàn, trong làn mưa xuân "phơi phới" bay, hội chèo làng Đặng đi qua ngõ, tiếng trống chèo ở thôn Đoài đã rung lên, cô thôn nữ bâng khuâng và xao xuyến. Hương sắc ấy, âm thanh ấy là hồn quê xứ sở thanh bình. Hoa xoan và làn mưa xuân là những hình ảnh thân thuộc, bình dị, dân dã của làng quê được nói đến nhiều trong thơ ca dân tộc. Mưa xuân là một khúc tâm tình êm dịu mà buồn, cái buồn lặng lẽ cứ nén sâu vào tâm hồn. Nhà thơ chân quê đã tạo nên một không gian nghệ thuật dân dã thân thuộc, bình dị, mến thương để diễn tả những rung động vui buồn, xôn xao trong tâm hồn thiếu nữ giữa những ngày hội xuân, những ngày khao khát yêu thương.
Bài văn phân tích bài "Mưa xuân II" (Ngữ văn 8 - SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 1
Nhắc đến mùa xuân, là nhắc đến vô vàn những tác phẩm sống động, tươi mới của thiên nhiên. Nguyễn Bính cũng đã đem đến một mùa xuân tươi mới, căng tràn nhựa sống như thế qua tác phẩm “Mưa xuân II”. Bài thơ là những cảm xúc, những cái giản dị mà tác giả đã cảm nhận được khi mùa xuân đến.
Mưa xuân cũng là dấu hiệu báo mùa xuân tới. Mưa phảng phất, mưa lớt phớt bay, mưa len lỏi vào từng cành cây kẽ lá, như đang thức tỉnh từng loài cây thức dậy sau những ngày mùa đông giá rét. Những từ láy “tà tà” “thưa thưa”, “phau phau” như cho thấy cảnh vật đang cùng hòa mùa vào mùa xuân, cùng hưởng trọn cái sự mát mẻ, cái nhựa sống mà mùa xuân mang đến. Vần liền “đưa” “thưa” diễn tả mưa xuân đang bay trong gió, mang hương thơm, mang nhựa sống của cảnh vật đi khắp nơi. Tác giả hỏi “Nào ai nhìn thấy rõ mưa xuân?”, mưa xuân có ít, có lớt phớt bay không rõ ràng, nhưng cái mát lành, dễ chịu mà nó mang lại thì vẫn luôn len lỏi trong không khí.
Những hình ảnh tơ nhện, buơm bướm, những người đi trẩy hội như không biết mưa xuân đang đến. Nhưng những âm thanh về tiếng trống hội đình thì chỉ khi xuân đến mới xuất hiện. Thiên nhiên thay đổi, từ cằn cỗi ở mùa đông thì nay khi mưa xuân đến những cây cam cũng bắt đầu trổ mầm, cỏ cũng nở hoa xanh. Thiên nhiên thay đổi, con người cũng thay đổi theo. Thiên nhiên thay đổi con người cũng bừng sức sống. Con người gắn bó với thiên nhiên, cùng cảm nhận những chuyển giao, những ban tặng tốt lành mà mùa xuân mang đến. Tác giả đặt từng cảm xúc, lưu luyến, chìm đắm trong từng hạt mưa xuân. Đó là sự chân quý đặt trong từng lời văn. Nguyễn Bính từng thì thầm về tác phẩm của mình rằng “Tôi yêu và trân quý lắm những gì mà thiên nhiên đem lại cho con người, nó len lỏi, nó hiện hữu trong cả cuộc sống của tôi”.
Đọc “Mưa xuân II” của Nguyễn Bính, ta có lẽ không thể quên cái nhựa sống mãnh liệt, cái mưa xuân phảng phất len lỏi trong từng cảnh vật con người. Con người luôn trân quý thiên nhiên, cũng như thiên nhiên luôn mang đến những điều kì diệu cho cuộc sống.
Bài văn phân tích bài "Mưa xuân II" (Ngữ văn 8 - SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 2
Nguyễn Bính từng thì thầm về tác phẩm của mình rằng: Tôi yêu và trân quý lắm những gì mà thiên nhiên đem lại cho con người, nó len lỏi, nó hiện hữu trong cả cuộc sống của tôi. Cũng có lẽ vì thế trong cuộc đời cầm bút, thiên nhiên, đặc biệt mùa Xuân nơi đồng quê, gốc rạ, hàng cau… của quê hương miền Bắc bao giờ cũng để lại trong tâm khảm thi nhân những xúc cảm khó quên.
Trong văn học Việt Nam có không ít những thi nhân cũng đã từng nặng lòng với mùa Xuân, đem vào thơ của mình những vần thơ xuân độc đáo. Xuân Diệu “thi sĩ của mùa Xuân”, người nhìn thấy xuân qua khi xuân vừa tới, xuân già khi xuân hãy còn non lại nhận ra mùa Xuân đến với “Một ít nắng, vài ba sương mỏng thắm/ Mấy cành xanh, năm bảy sắc yêu yêu”. Trong trái tim của vị thi sĩ yêu đời đến mức đắm say này, tình xuân luôn đầy ăm ắp, lai láng.
Đoàn Văn Cừ lại có khả năng tái hiện chân thực cảnh sinh hoạt ngày Tết với bánh chưng, mùi thuốc pháo, vị mứt gừng, với những phong vị dân gian của cô yếm thắm che môi cười, em bé nép đầu bên mẹ, anh hàng tranh, thầy khóa hí hoáy viết thơ xuân... (Chợ Tết). Hàn Mặc Tử cũng có những ý thơ về mùa Xuân thật trong trẻo, khiến độc giả vẫn còn ngân nga mãi: “Trong làn nắng ửng: Khói mơ tan/ Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng/ Sột soạt gió trêu tà áo biếc/ Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang...”(Mùa Xuân chín).
Nhưng trong phong trào thơ ca hiện đại, từ những ngày đầu làm nên “Cuộc cách mạng trong thi ca” cho đến sau này, người viết nhiều về mùa Xuân hơn cả có lẽ là Nguyễn Bính. Nguyễn Bính có hẳn những thi phẩm lấy nhan đề từ xuân như Rượu xuân, Xuân về, Nhạc xuân, Xuân, Vườn xuân, Thơ xuân, Mùa Xuân xanh, Xuân tha hương, Gái xuân, Xuân vẫn tha hương, Xuân thương nhớ, Xuân về nhớ cố hương,... Và hồn thơ ấy vẫn mãi vẹn nguyên, trong trẻo, mang đậm hồn quê chưa bao giờ thay đổi:
Mưa xuân (II)
Chiều ấm mùi hương thoảng gió đưa
Tà tà mưa bụi rắc thưa thưa
Cây cam cây quít cành giao nối
Lá ngửa lòng tay hoa đón mưa.
Nào ai nhìn thấy rõ mưa xuân
Tơ nhện vừa giăng sợi trắng ngần
Bươm bướm cứ bay không ướt cánh
Người đi trẩy hội tóc phơi trần.
Đường mát da chân lúa mát mình
Đôi bờ cỏ dại nở hoa xanh
Gò cao đứng sững trâu kềnh bụng
Nghếch mõm nghe vang trống hội đình.
Núi lên gọn nét đá tươi màu
Xe lửa về Nam chạy chạy mau
Một toán cò bay là mặt ruộng
Thành hàng chữ nhất trắng phau phau.
Bãi lạch bờ dâu sẫm lá tơ
Làng bên ẩm ướt giọng chuông mờ
Chiều xuân lưu luyến không đành hết
Lơ lửng mù sương phảng phất mưa.
(1958)
Mùa Xuân trong thơ ca thật quen thuộc với những cành đào, cánh chim én đưa thoi giữa bầu trời trong sáng hay cánh chim chiền chiện liệng rợp trời, những làn gió se sắt, hanh hao còn sót lại của ngày đông. Đi vào thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Bính, ta như được hít thở không khí êm dịu, thảnh thơi giữa những mảnh vườn làng, bến sông quê, cái náo nức của những hội hè, đình đám, như được sống cùng trái tim yêu đằm thắm, mộc mạc của những anh trai làng, những cô thôn nữ. Nhưng có lẽ điều làm nên chất riêng và khí vị của mùa Xuân đất Bắc vẫn là mưa xuân.
Mưa xuân I được viết năm 1936, khi Nguyễn Bính 18 tuổi. Đó là một trong những bài thơ ở buổi đầu tiên của một hồn quê sáng trong như lụa. Chẳng thấy ở đây những vất vả lo toan thường nhật, những tang thương khắc khổ của xã hội nông thôn Việt Nam trong chế độ thực dân nửa phong kiến, khi “Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay/ Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy”, nơi “Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm” của vùng đồng bằng chiêm trũng Bắc Bộ.
Mưa xuân II ra đời sau đó 22 năm, khi nhà thơ tròn 40 tuổi, khi đã trải qua nhiều biến thiên, dâu bể của một đời người, từ Bắc vào Nam rồi lần hồi từ Nam về đất Bắc. Nguyễn Bính từng đã trải qua những năm tháng tha hương từ Hà Nội nghìn năm văn hiến, lúc ngược tàu lên Phú Thọ, đến cố đô Huế cổ kính rồi vào Sài Thành hoa lệ.
Gần hai mươi năm trời sống biền biệt trong cảnh tha hương, tâm hồn chân quê ấy luôn thường trực khắc khoải, da diết nỗi nhớ cố hương. Những tháng ngày lang bạt ấy, Nguyễn Bính đã để lại cho đời những vần thơ lắng đọng, ngậm ngùi, tủi hờn, xót xa: Giang hồ sót lại tình tôi/ Quê người đắng khói, quê người cay men (Anh về quê cũ). Hay Chén rượu tha hương trời: đắng lắm/ Trăm hờn nghìn giận suốt mùa đông (Xuân tha hương).
Mưa mùa Xuân của đất Bắc - những hạt mưa li ti, bay lất phất trong gió, mỏng manh chưa đủ để làm ướt áo nhưng lại khiến lòng người tơ vương. Trong thơ xuân của mình, Nguyễn Bính luôn hướng đến việc khắc họa một mùa Xuân đậm hơi thở của xuân đất Bắc. Những giọt mưa xuân đó cũng đã từng không ít lần nhỏ xuống hồn thơ nhạy cảm của Nguyễn Bính những chấm lạnh:
Chiều ấm mùi hương thoảng gió đưa
Tà tà mưa bụi rắc thưa thưa
Cây cam cây quít cành giao nối
Lá ngửa lòng tay hoa đón mưa.
Bài thơ gồm 7 khổ, được viết theo thể thơ 7 chữ. Không cần ngày tháng cụ thể, chỉ biết đó là một buổi chiều thoang thoảng gió với những làn mưa bụi rắc thưa thưa. Mưa không làm ướt áo, mưa không đủ nặng hạt để làm những đàn bươm bướm bay ướt đôi cánh mỏng. Nhưng mưa xuân lại trở thành dấu khắc của thời gian đánh thức trong tâm hồn nhân vật trữ tình những nỗi niềm xao xuyến. Dưới làn mưa xuân giăng giăng ấy bức tranh cảnh vật nơi chốn làng quê bỗng trở nên chuyển đổi, sinh động, bừng sức sống.
Những cây cam, cây quýt trong vườn nhà xòe những chiếc lá nhỏ xinh như bàn tay người con gái thôn quê e ấp. Màu xanh của lá hòa với sắc trắng của hoa cùng những hạt mưa bụi lất phất, dịu dàng tạo nên vẻ đẹp rất riêng của đất Bắc trong thời khắc đất trời chuyển giao. Những hạt mưa bụi phảng phất, nghiêng nghiêng như làm chênh vênh cả không gian. Từng hạt mưa xuân phơi phới, li ti thấm ướt tràng áo xanh dịu dàng khoác lên đất trời tấm màn voan mỏng. Nguyễn Bính đã thể hiện một khả năng quan sát, chiêm nghiệm tinh tế, thần tình.
Bức tranh thôn quê được dệt bằng những hình ảnh và chi tiết hết sức sống động với không gian được mở ra với nhiều tầng bậc từ vườn nhà đến ruộng đồng, ngõ xóm.
Đường mát da chân lúa mát mình
Đôi bờ cỏ dại nở hoa xanh
Gò cao đứng sững trâu kềnh bụng
Nghếch mõm nghe vang trống hội đình.
Nguyễn Bính yêu thôn quê một cách kỳ lạ. Dưới ngòi bút của ông những hình ảnh rất đỗi bình thường, quen thuộc như mưa, gió, hoa lá, cây cối, đồng ruộng tạo nên một không gian thanh bình nhưng cũng tràn đầy sức sống. Bạn đọc thấy được sự hòa hợp, tươi đẹp và hồn hậu của bức tranh thiên nhiên chốn quê nơi này. Những cây cối, hoa lá, cỏ dại, ruộng đồng, những đàn trâu bò thong thả dưới cơn mưa… được miêu tả một cách sống động, sắc nét, chi tiết, tạo nên bức tranh đa màu, đa sắc, sinh động.
Niềm vui ngày xuân hiện diện trong mỗi ngôi nhà, từng xóm nhỏ. Đặc biệt là trong ánh mắt, nụ cười, trong những tấm áo mới, trên đôi má hồng. Sự nhận diện sắc xuân trong thơ Nguyễn Bính thật đặc biệt, độc đáo. Tín hiệu mùa Xuân không chỉ có trong cái rộn rã của đất trời, trong sự đâm chồi nảy lộc của cây cối mà hơn hết mùa Xuân hiện hữu trong từng ánh mắt, màu má của những cô gái, chàng trai, những đứa trẻ hồn nhiên, chân thật.
Như vậy, vẻ đẹp của mùa Xuân, khí sắc của mùa Xuân trong thơ Nguyễn Bính là sự hòa quyện, đan cài của xuân đất trời và xuân lòng người. Để rồi trong bức tranh xuân ấy, người đọc như hình dung được những hoạt động con người nơi chốn quê hương, phong vị miền Bắc với những lễ hội mùa Xuân rộn ràng. Người thì đi trẩy hội, không gian vang tiếng trống; người thì làm việc đồng áng trên cánh đồng mênh mông, những đứa trẻ vui đùa với nhau vang lên những thanh âm rít rít. Tất cả tạo nên bức tranh êm đềm ấm nồng sự sống hơn bao giờ hết vừa đậm chất họa, vừa mang chất nhạc.
Qua ngòi bút thi nhân, mùa Xuân làm con người trẻ thêm ra, để rồi dường như độc giả được quay trở về với tuổi thơ, với quá khứ một thời trong trẻo và như được hòa mình vào thiên nhiên cảnh vật, con người hiền hậu, bình dị nơi đây. Đọc thơ Nguyễn Bính tâm hồn ta dường như trong lành hơn, bình yên hơn, tạm gác lại mọi lo toan, bận rộn, bộn bề của cuộc sống thường nhật để được cùng Nguyễn Bính trở về một vùng thôn quê dân dã đậm nét tâm hồn Việt.
Bãi lạch bờ dâu sẫm lá tơ
Làng bên ẩm ướt giọng chuông mờ
Chiều xuân lưu luyến không đành hết
Lơ lửng mù sương phảng phất mưa.
Cái náo nức của lòng người hòa quyện với mát rượi của mưa xuân, sắc xanh của lá mạ, trắng ngần của hoa cam. Xuân sang ngõ xóm, đường làng, thửa vườn, hàng cây và cả lòng người nữa tất thảy đều bừng dậy sức sống. Sự cộng hưởng của các từ ngữ với gam màu tươi sáng như “lúa mát mình”, “hoa xanh”, “mặt ruộng trắng phau phau”, “sẫm lá tơ”, “sương phảng phất”… tạo nên bức tranh thôn quê vào mùa Xuân căng tràn nhựa sống, đầy màu sắc tươi mới. Và để cảm nhận được tất thảy những vẻ đẹp đó, chắc hẳn Nguyễn Bính đã phải ở trong trạng thái yên tĩnh lắm, say đắm lắm mới có thể tạo nên bức tranh đầy ấn tượng như thế.
Xuân trong thơ Nguyễn Bính không ồn ào, náo nhiệt, không rực rỡ sắc màu mà dung dị, thanh thoát, đằm thắm, thiết tha. Nguyễn Bính đã gọi hồn cốt mùa Xuân đất Bắc mỗi độ Tết đến xuân về đúng như cách mà thi sĩ từng bộc bạch: Tình xuân chan chứa, ý xuân đầy.
Đến đây ta như càng cảm nhận được tâm trạng náo nức, vui tươi của sự sum vầy, đoàn tụ. Càng xót xa khi đọc những cảm thức li hương trong những ngày xuân đậm niềm bơ vơ nơi xứ lạ trong không gian quán trọ chỉ còn đọng lại nỗi niềm khắc khoải: Quán trọ xuân này hoa lại nở/ Lại ngồi xem Tết, Tết người ta (Quán trọ).
“Mưa xuân II” là cái tình của một thi sĩ đã trải qua những tháng ngày xa cách nên nó trở nên mãnh liệt, thiêng liêng nhưng cũng ngọt ngào, sâu lắng đong đầy khi được tận mắt chứng kiến xuân quê hương. Dẫu xuân giờ đây của quê hương hay xuân tha hương với Nguyễn Bính vẫn vẹn nguyên tình cảm gắn bó, tha thiết với quê nhà.
Đó không chỉ là sự rộn ràng của đất trời, của lòng người, mà là sự chân thực, nhiệt thành của tâm hồn thi nhân trước cuộc sống. Để rồi trong phong trào thơ ca hiện đại, Nguyễn Bính trở thành nhà thơ chiếm lĩnh được tâm hồn, tình cảm của một số lượng độc giả lớn. Làm nên sức hấp dẫn đặc biệt ấy là bởi thi sĩ đã đem đến cho vườn thơ Việt Nam hiện đại một chất giọng riêng: Dung dị, hồn nhiên, cái trong trẻo bản năng rất xa lạ với những cầu kì đẽo gọt mà cốt lõi của nó như nhà văn Tô Hoài từng cảm nhận:
Trước sau và mãi mãi, Nguyễn Bính vẫn là nhà thơ của tình quê, chân quê, hồn quê. Và cũng như một mối lương duyên, như một định mệnh của một tình quê thiết tha ấy khi Nguyễn Bính ra đi vào chiều 29 Tết Bính Ngọ (1966) ở tuổi còn phơi phới sức xuân trong niềm tiếc nuối vô hạn sau khi người thi sĩ ấy kịp để lại cho đời Còn nguyên vẹn cả một mùa Xuân.
Bài văn phân tích bài "Mưa xuân II" (Ngữ văn 8 - SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 3
Có những bài thơ, đọc rồi lại quên ngay sau khi đọc nhưng có những bài thơ dẫu qua bao thời gian, tuổi tác, thăng trầm của cuộc sống mà người đọc mãi không thể nào quên bởi đó là “những bài ca đi cùng năm tháng”. Bài thơ “Mưa xuân” của Nguyễn Bính cứ đọng mãi không nguôi trong lòng người đọc bao thế hệ về một mùa xuân Bắc Bộ có: mưa xuân, hoa xoan, hát chèo và cả một tình yêu của cô gái làng quê mang hương vị mùa xuân.
Những câu thơ mở đầu của bài thơ đem người đọc đến với mùa xuân và một không gian làng quê Bắc Bộ rất gần gũi, thân quen: có hoa xoan nở, có mưa xuân và còn được tô điểm bằng những làn điệu dân ca như hát chèo, hát trống quân ở những hội làng vì “Tháng giêng ngày rộng tháng dài”, “Tháng giêng là tháng ăn chơi”.
“Em là con gái trong khung cửi
Dệt lụa quanh năm với mẹ già
Lòng trẻ nhỏ như cây lụa trắng
Mẹ già chưa bán chợ làng xa”.
Nhân vật trữ tình ở đây là một cô gái quê làm nghệ dệt cửi, ở cùng mẹ già, tâm hồn còn trong trắng “như cây lụa trắng” mà “Mẹ già chưa bán chợ làng xa”. Cô gái quê e ấp, dịu dàng, tâm hồn kín đáo. Thế nhưng đất trời chuyển mùa, mùa xuân đến với những hạt mưa bụi bay bay, với tiếng trống chèo giục giã làm cô gái lòng dậy lên những xốn xang: “Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay - Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy - Hội chèo làng Đặng đi qua ngõ - Mẹ bảo: thôn Đoài hát tối nay”. Ở đây, thiên nhiên là cầu nối, giao hòa giữa vạn vật với lòng người: “Lòng thấy giăng tơ một mối tình - Em ngừng thoi lại giữa tay xinh - Hình như hai má em bừng đỏ - Có lẽ là em nghĩ đến anh… Thế nào anh ấy chẳng sang xem”… Cô gái quê với bao e ấp thì nay: “Em xin phép mẹ vội vàng đi”… Và ở đây, dường như chúng ta lại bắt gặp cái hồi hộp, rạo rực, hăm hở trong tình yêu thửơ nào của nàng Kiều và những đôi lứa yêu nhau xưa: “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” (Truyện Kiều - Nguyễn Du) và “Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo - Thất bát sông cũng lội, ngũ cửu lục đèo cũng qua”, “Yêu nhau chẳng ngại đường xa - Đá vàng cũng quyết phong ba cũng liều” (Ca dao)…
Tôi cứ muốn dừng lại mãi ở những câu thơ này để ngân nga, luyến láy bởi mùa xuân là mùa của tuổi trẻ, tình yêu và hạnh phúc. Của những cô gái quê: “Cỏ nằm trên mộ đợi thanh minh - Tôi đợi người yêu đến tự tình - Khỏi lũy tre làng tôi nhận thấy - Bắt đầu là cái thắt lưng xanh” - (Mùa xuân xanh) và “Đã thấy xuân về với gió đông - Với trên màu má gái chưa chồng - Bên hiên hàng xóm, cô hàng xóm - Ngước mắt nhìn trời đôi mắt trong” (Xuân về). Bởi bao hăm hở, háo hức của cô gái quê đi xem hát chèo ở hội làng “Mưa bụi nên em không ướt áo -Thôn Đoài cách có một thôi đê” là để đi tìm người mình yêu “Thôn Đoài vào hội hát thâu đêm - Em mải tìm anh chẳng thiết xem - Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh - Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em”…
Một câu chuyện tình yêu bằng thơ, làm xao xuyến lòng người đọc. Vì: “Chờ mãi anh sang anh chả sang - Thế mà hôm nọ hát bên làng - Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn - Để cả mùa xuân cũng lỡ làng”. Môtip tình yêu đơn phương được lặp lại nhiều lần trong thơ Nguyễn Bính với những cung bậc cảm xúc, trạng thái tình cảm và nhân vật trữ tình khác nhau: “Bảo rằng cách trở đò giang - Không sang là chẳng đường sang đã đành - Nhưng đây cách một đầu đình - Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?” (Tương tư) và “Cô hái mơ ơi, cô gái ơi - Chả trả lời nhau lấy một lời - Cứ lặng rồi đi, rồi khuất bóng - Rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi” (Cô gái mơ). Trạng thái tình cảm biến đổi: bao hồi hộp, hăm hở, háo hức thì nay buồn tủi, bẽ bàng: “Mình em lầm lụi trên đường về - Có ngắn gì đâu một dải đê - Áo nhỏ che đầu mưa nặng hạt - Ngại ngùng thêm tủi với canh khuya”. Tác giả vận dụng rất khéo léo cái quy luật “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, khi so sánh hai tâm thế diễn ra hầu như đối chọi nhau trước cùng một cảnh: “Mưa bụi nên em không ướt áo -Thôn Đoài cách có một thôi đê” và “Có ngắn gì đâu một dải đê - Áo nhỏ che đầu mưa nặng hạt”. Và cả mùa xuân nữa, với mưa xuân, với hoa xoan và “hội chèo làng Đặng đi qua ngõ”…mới hôm nào như những sứ giả mang hy vọng đến, giờ cũng theo lòng người mà lạnh giá, tàn tạ, thê lương: “mưa xuân đã ngại bay - Hoa xoan đã nát dưới chân giày - Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ - Mẹ bảo: mùa xuân đã cạn ngày”.
Những nhân vật trữ tình trong thơ Nguyễn Bính, dẫu có lâm vào tình huống yêu đơn phương, tình tuyệt vọng nhưng đọng lại trong lòng người đọc là cách ứng xử văn hóa, nhẹ nhàng; anh lái đò kia thất tình phẫn chí định bỏ nghề, nhưng rồi lại thôi: “Lang thang anh dạm bán thuyền - Có người trả chín quan tiền lại thôi” (Anh lái đò); một chàng trai thất tình khác oán hờn mà chẳng nặng lời: “Em đã sang ngang với một người - Anh còn trồng cải nữa hay thôi? - Đêm qua mơ thấy hai con bướm - Khép cánh tình chung ở giữa trời” (Hết bướm vàng”… Và trong bài thơ này, một cô gái quê bị lỗi hẹn cũng nhẫn nại chờ đợi : “Anh ạ mùa xuân đã cạn ngày - Bao giờ em mới gặp anh đây - Bao giờ hội Đặng về ngang ngõ - Để mẹ em rằng: hát tối nay”. Còn chờ đợi là còn hy vọng! Khác với nỗi lòng của chàng trai trong “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử khi mọi việc đã an bài, “ván đã đóng thuyền” bởi: “Ngày mai trong đám xuân xanh ấy - Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi” và “Khách xa gặp lúc mùa xuân chín - Lòng trí bâng khuâng bỗng nhớ làng - Chị ấy năm nay còn gánh thóc - Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. “Mưa xuân” kết lại, mà đọng lại trong lòng người đọc về một câu chuyện tình yêu với nỗi buồn nhẹ nhàng, man mác, một chút xao xuyến, bâng khuâng và một hy vọng của những tình yêu da diết!
Ngày xuân đọc “Mưa xuân” của Nguyễn Bính, ta như được thả hồn mình về với một miền quê Bắc Bộ yên vui thanh bình, có mưa xuân, hoa xoan, rộn rã tiếng trống chèo và một tình yêu đầu trong sáng, nhẹ nhàng, man mác. Thời gian, không gian tràn đầy tiết xuân, địa danh phiếm chỉ “Hội chèo làng Đặng”, “Thôn Đoài hát tối nay”như “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông”…mang nét làng quê Bắc Bộ, thể thơ lục bát mang âm hưởng ca dao, dân ca, từ láy gợi hình, gợi cảm “phơi phới”, “lớp lớp”, “rụng rơi”, thành ngữ “năm tao bảy tuyết”, “thi trung hữu họa”, “tả cảnh ngụ tình”, “ý tại ngôn ngoại”…Bài thơ thấm đậm tình quê, hồn quê của “nhà thơ chân quê” tài hoa Nguyễn Bính. “Nhà thơ này yêu thôn quê một cách kỳ lạ, cái tình yêu ấy làm cho thơ ông, ở những câu bình dị nhất, vẫn có sức lôi cuốn, vẫn có cái duyên xao động lòng người. Dưới mắt, những cảnh sắc thật thông thường ở thôn quê cũng gợi cảm, đâu chỉ ánh trăng mới đẹp mà cảnh mưa phùn, hoa xoan…vẫn làm ta xúc động nhớ thương. Đó là tài năng của ông . Giọng ông vừa cất lên, người ta đã nhận ngay ra hình bóng quê hương làng mạc” và “Đọc Nguyễn Bính, vì vậy, chúng ta được nhập vào hồn quê hơn là cảnh quê. Nói về cảnh thì Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ có nhiều chi tiết sắc và thực hơn, nhưng dựng được cái hồn quê thì chưa ai bằng Nguyễn Bính. Ngày nay, nông thôn ta đã đổi thay nhiều, cả phong cảnh lẫn hồn người, những câu thơ của Nguyễn Bính như một dấu tích tâm hồn dân tộc sẽ nuôi lòng nhiều thế hệ bạn đọc” (Vũ Quần Phương). Và “Mưa xuân” của Nguyễn Bính lấp lánh vẻ đẹp “hồn xưa của đất nước” (Hoài Thanh).
Bài văn phân tích bài "Mưa xuân II" (Ngữ văn 8 - SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 4
Mùa xuân là một đề tài vô tận của thi nhân xưa nay. Nếu họa sĩ dùng đường nét, màu sắc, nhạc sĩ dùng giai điệu, âm thanh, thì thi sĩ lại dùng ngôn từ và hình ảnh để diễn tả cảm xúc của mình- đặc biệt là tình yêu với thiên nhiên, men nồng của sắc hương xuân. Bạn đọc thực sự ấn tượng với bức tranh thôn quê trong bài “Mưa xuân II” của Nguyễn Bính.
“Chiều ấm mùi hương thoảng gió đưa
Tà tà mưa bụi rắc thưa thưa
Cây cam cây quýt cành giao nối
Lá ngửa lòng tay hoa đón mưa.
Nào ai nhìn thấy rõ mưa xuân
Tơ nhện vừa giăng sợi trắng ngần
Bươm bướm cứ bay không ướt cánh
Người đi trẩy hội tóc phơi trần.
Đường mát da chân lúa mát mình
Đôi bờ cỏ dại nở hoa xanh
Gò cao đứng sững trâu kềnh bụng
Nghếch mõm nghe vang trống hội đình.
Núi lên gọn nét đá tươi màu
Xe lửa về Nam chạy chạy mau
Một toán cò bay là mặt ruộng
Thành hàng chữ nhất trắng phau phau.
Bãi lạch bờ dâu sẫm lá tơ
Làng bên ẩm ướt giọng chuông mờ
Chiều xuân lưu luyến không đành hết
Lơ lửng mù sương phảng phất mưa.”
“Mùa xuân II” được sáng tác vào năm 1958, in trong Nguyễn Bính toàn tập. Ông là nhà thơ nhạy cảm với thời đại đầy biến động, đặc biệt là sự xáo trộn của văn chương, ông thể hiện sâu sắc nỗi day dứt không yên của tâm hồn thiết tha với những giá trị cổ truyền đang có nguy cơ bị mai một. Vì thế, Nguyễn Bính đã đào sâu, tích hợp và phát huy một cách xuất sắc những truyền thống dân gian trong sáng tạo Thơ mới. Thơ ông mang đậm chất quê, hồn quê trong cả nội dung và hình thức, là sự hòa quyện giữa giọng điệu quê, lối nói quê, lời quê. Chính vì thế mà độc giả ấn tượng sâu đậm với bức tranh thôn quê của Nguyễn Bính trong Mưa xuân II.
Bức tranh thôn quê được dệt bằng những hình ảnh và chi tiết sống động. Tác giả đã sử dụng hình ảnh như mưa, gió, hoa lá, cây cối, đồng ruộng tạo nên một không gian thanh bình nhưng cũng tràn đầy sức sống. Bạn đọc thấy được sự hòa hợp, tươi đẹp và hồn hậu của bức tranh thiên nhiên chốn quê nơi này. Những cây cối, hoa lá, cỏ dại, ruộng đồng được miêu tả một cách sống động, sắc nét, chi tiết, tạo nên bức tranh đa màu đa sắc, sinh động. Trong bức tranh ấy, còn hiện lên hoạt động con người sống trong thôn quê, người thì đi trẩy hội, người thì làm việc đồng áng trên cánh đồng mênh mông, những đứa trẻ vui đùa với nhau. Tất cả tạo nên bức tranh êm đềm hơn bao giờ hết, người đọc dường như được quay trở về với tuổi thơ, với quá khứ một thời mình cũng từng như thế, như được hòa mình vào thiên nhiên cảnh vật, con người hiền hậu, bình dị nơi đây. Tâm hồn dường như trong lành hơn, bình yên hơn, tạm gác lại mọi lo toan, bận rộn, bộn bề của cuộc sống để được cùng Nguyễn Bính trở về nơi thôn quê dân dã.
Ngoài hình ảnh thiên nhiên và con người, Nguyễn Bính còn miêu tả tiếng chuông đánh, tiếng trống hội trên đình, tiếng cười đùa của lũ trẻ, tiếng trâu rền rĩ trên ruộng đồng. Những âm thanh ấy tạo nên một bài thơ không chỉ có tính họa mà còn có tính nhạc. Hơn hết bằng cách sử dụng từ ngữ với gam màu tươi sáng như “lúa mát mình”, “hoa xanh”, “mặt ruộng trắng phau phau”,… Tất cả phối hợp với nhau tạo nên bức tranh thôn quê vào mùa xuân căng tràn nhựa sống, đầy màu sắc tươi mới.
Và để cảm nhận được tất thảy những vẻ đẹp đó, chắc hẳn Nguyễn Bính đã phải ở trong trạng thái yên tĩnh lắm, say đắm lắm mới có thể tạo nên bức tranh đầy ấn tượng như thế. Hẳn là ông đã rất yêu thiên nhiên, cảnh vật, con người nơi đây mới có thể viết một cách chân thật và sinh động đến vậy. Có lẽ vậy mà Nguyễn Bính từng thì thầm về tác phẩm của mình rằng “Tôi yêu và trân quý lắm những gì mà thiên nhiên đem lại cho con người, nó len lỏi, nó hiện hữu trong cả cuộc sống của tôi”.
(Trần Bình Bình)
Hãy đăng nhập để bình luận
Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .