Top 6 Bài soạn "Bài học cuối cùng" (Ngữ văn 7- SGK Cánh diều) hay nhất
Truyện “Buổi học cuối cùng” của tác giả An-phông-xơ Đô-đê lấy bối cảnh từ một biến cố lịch sử: Sau cuộc chiến tranh Pháp – Phổ năm 1870-1871, nước Pháp thua trận, hai vùng An-dát...xem thêm ...
Bài soạn "Bài học cuối cùng" (Ngữ văn 7- SGK Cánh diều) - mẫu 1
ĐỌC HIỂU
CH1. Tại sao thầy Ha-men lại nói: "... con bị trừng phạt thế là đủ rồi..."?
Trả lời:
Thầy Ha-men lại nói: "... con bị trừng phạt thế là đủ rồi..." vì:
- Phrăng đã nhiều lần chịu phạt
- Với thầy Ha-men hiện tại, hình phạt không phải là cách dạy dỗ tốt với học sinh của mình
- Việc không được tiếp tục học tiếng Pháp đã là một hình phạt quá nặng nề không chỉ với riêng Phrăng.
CH2. Em có suy nghĩ gì về những dòng chữ in đậm sau: "khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù"?
Trả lời:
Những dòng chữ in đậm sau: "khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù" cho em suy nghĩ tiếng nói của một dân tộc chính là nơi lưu giữ ký ức, bản sắc của dân tộc đó, là điều sống còn của một dân tộc. Những dòng chữ in đậm trên cũng giống như cách nói của Phạm Quỳnh về Truyện Kiều: "Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn.".
CH3. Băn khoăn của cậu bé Phrăng về các con chim bồ câu trên mái nhà trường gợi cho em những suy nghĩ gì?
Trả lời:
Băn khoăn của cậu bé Phrăng về các con chim bồ câu trên mái nhà trường gợi cho em những suy nghĩ:
- Sự trong sáng của một cậu bé
- Sự áp bức của quân Phổ đối với người Pháp
B. Bài tập và hướng dẫn giải
CÂU HỎI
Câu 1. Em hiểu thế nào về nhan đề Buổi học cuối cùng? Người kể lại câu chuyện là ai? Chỉ ra tác dụng của ngôi kể này.
=> Xem hướng dẫn giải
Em hiểu nhan đề Buổi học cuối cùng nói về buổi học Pháp văn cuối cùng của các học sinh ở vùng An-dát. Đó là buổi học cuối cùng bằng tiếng mẹ đẻ, tiếng của "Tổ quốc đang ra đi", vì hôm sau họ sẽ phải học bằng tiếng Đức.
Câu 2. Đặc điểm tính cách nhân vật thầy Ha-men được nhà văn khắc họa từ những phương diện nào? Hãy nêu ra một số biểu hiện cụ thể trong văn bản.
=> Xem hướng dẫn giải
Đặc điểm tính cách nhân vật thầy Ha-men được nhà văn khắc họa từ những phương diện:
- Ngoại hình: mặc chiếc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn và đội cái mũ trong bằng lụa đen thêu mà chỉ dùng vào những hôm có thanh tra hoặc phát phần thưởng.
- Cử chỉ, hành động: chuẩn bị những tờ mẫu tập viết mới tinh, trên có viết bằng chữ rông thật đẹp.
- Lời nói: Dịu dàng nói với Phrăng khi cậu vào muộn hay không hiểu bài
- Suy nghĩ:
- Tiếc nuối vì những lần muốn đi câu cá mà không ngại cho học sinh nghỉ học
- Tiếc nuối vì phải rời xa nơi đã gắn bó từ bốn mươi năm
- Sự sống còn của một dân tộc chính là ở ngôn ngữ
Câu 3. Phân tích một số chi tiết cụ thể (suy nghĩ, cách nhìn nhận về thầy Ha-men và thái độ đối với việc học tiếng Pháp) để làm rõ diễn biến tâm trạng của nhân vật "tôi" trong "buổi học cuối cùng".
=> Xem hướng dẫn giải
Phân tích một số chi tiết cụ thể (suy nghĩ, cách nhìn nhận về thầy Ha-men và thái độ đối với việc học tiếng Pháp) để làm rõ diễn biến tâm trạng của nhân vật "tôi" trong "buổi học cuối cùng":
- Thấy thầy Ha-men ăn mặc trang trọng, nói năng dịu dàng.
- Nhận thấy lớp học có cái gì đó khác thường và trang trọng.
- Tiếc nuối vì đã không chăm chỉ học hành.
- Thương, tội nghiệp thầy.
=> Diễn biến tâm trạng: cố gắng đi học => thấy lớp học có điều khác thường => nhận ra sẽ không còn được học tiếng Pháp và cảm thấy tiếc nuối => thương thầy => chăm chú nghe giảng, học bài.
Câu 4. Phần (5) của văn bản Buổi học cuối cùng có nhiều chi tiết miêu tả đặc sắc: thầy Ha-men "người tái nhợt", "nghẹn ngào, không nói được hết câu", "cầm một hòn phấn và dằn mạnh hết sức, thầy cố viết thật to: NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM!" và "đầu dựa vào tường", "chẳng nói", chỉ "giơ tay ra hiệu",... Các chi tiết này đã giúp tác giả khắc họa được tâm trạng gì của thầy Ha-men?
=> Xem hướng dẫn giải
Phần (5) của văn bản Buổi học cuối cùng có nhiều chi tiết miêu tả đặc sắc: thầy Ha-men "người tái nhợt", "nghẹn ngào, không nói được hết câu", "cầm một hòn phấn và dằn mạnh hết sức, thầy cố viết thật to: NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM!" và "đầu dựa vào tường", "chẳng nói", chỉ "giơ tay ra hiệu",... Các chi tiết này đã giúp tác giả khắc họa được tâm trạng đau buồn, xúc động, thất thần của thầy Ha-men khi buổi học cuối cùng tiếng của "Tổ quốc đang ra đi" đã kết thúc, đã đến lúc thầy phải rời vùng An-dát đã gắn bó từ lâu.
Câu 5. Câu chuyện đã bồi đắp cho em những phẩm chất nào? Em rút ra bài học gì cho bản thân sau khi học xong truyện?
=> Xem hướng dẫn giải
- Câu chuyện đã bồi đắp cho em những phẩm chất:
- Chăm chỉ, cần cù, việc hôm nay không để ngày mai.
- Yêu quê hương, đất nước từ những điều bình thường, giản dị, gần gũi.
- Em rút ra bài học: chăm chỉ, cần cù, chịu khó, cố gắng học tập.
Câu 6. Trong truyện Buổi học cuối cùng, em thích nhất nhân vật hoặc chi tiết, hình ảnh nào? Hãy viết một đoạn văn (khoảng 6 - 8 dòng) giải thích lí do vì sao em thích.
=> Xem hướng dẫn giải
Trong truyện Buổi học cuối cùng, em thích nhất là chi tiết cả lớp im lặng tập viết, chỉ nghe thấy tiếng ngòi bút sột soạt trên giấy.
Đoạn văn (6 - 8 dòng) giải thích lí do em thích chi tiết đó:
Trong truyện “Buổi học cuối cùng”, em thích nhất là nhân vật Phrang – nhân vật tôi trong câu chuyện. Truyện đã phát triển được tâm lí của nhân vật một cách sinh động, sắc nét. Từ một cậu bé ham chơi, khi biết được tin, đây là buổi học tiếng Pháp cuối cùng, những trăn trở, suy nghĩ của Phrang dần dần được lột tả. Cậu lúng túng, kinh ngạc khi thấy tiếng Pháp không phải là một môn học khó và cảm thấy hối hận. Phrang nhận ra được ý nghĩa lớn lao của việc học tiếng Pháp – tiếng mẹ đẻ. Từ đó, có thể thấy, một cậu bé giàu lòng yêu nước trỗi dậy.
Bài soạn "Bài học cuối cùng" (Ngữ văn 7- SGK Cánh diều) - mẫu 2
I. Tác giả văn bản Buổi học cuối cùng
- An-phông-xơ Đô-đê
- Tác giả của nhiều tập truyện ngắn nổi tiếng như: Một thời niên thiếu, Những cuộc phiêu liêu kì diệu của Tactaranh ở Taraxcong…
II. Tìm hiểu tác phẩm Buổi học cuối cùng
- Thể loại: Truyện ngắn
- Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác:
Truyện “Buổi học cuối cùng” lấy bối cảnh từ một biến cố lịch sử: Sau cuộc chiến tranh Pháp – Phổ năm 1870-1871, nước Pháp thua trận, hai vùng An-dát và Lo-ren giáp biên giới với Phổ bị nhập vào nước Phổ. Cho nên các trường học ở hai vùng này bị buộc học tiếng Đức. Truyện viết về buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp ở một trường làng thuộc vùng An-dát
- Phương thức biểu đạt : Tự sự
- Người kể chuyện : Ngôi kể thứ nhất ( nhân vật Phrăng kể chuyện)
- Tóm tắt:
Chuyện kể về buổi học tiếng Pháp cuối cùng ở vùng An-dát qua lời kể của cậu học trò Phrăng. Sáng hôm ấy, cậu bé Phrăng đến lớp hơi muộn và ngạc nhiên khi thấy lớp học có vẻ khác thường. Cậu thực sự choáng váng khi nghe thầy Ha-men nói đây là buổi học tiếng Pháp cuối cùng. Cậu thấy tiếc nuối và ân hận vì bấy lâu nay đã bỏ phí thời gian, đã trốn học đi chơi và ngay sáng nay cậu cũng phải đấu tranh mãi mới quyết định đến trường. Trong buổi học cuối cùng đó không khí thật trang nghiêm. Thầy Ha-men đã nói những điều sâu sắc về tiếng Pháp, đã giảng bài say sưa cho đến khi đồng hồ điểm 12 giờ. Kết thúc buổi học, thầy nghẹn ngào không nói nên lời, thầy cố viết thật to lên bảng: "NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM".
- Bố cục:
Gồm 3 phần:
- Phần 1 (từ đầu đến "mà vắng mặt con"): Quang cảnh trên đường đến trường và cảnh ở trường qua sự quan sát của Phrăng.
- Phần 2 (tiếp tới "buổi học cuối cùng này"): Diễn biến của buổi học cuối cùng.
- Phần 3 (còn lại): Cảnh kết thúc buổi học cuối cùng
- Giá trị nội dung:
Qua câu chuyện buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp ở vùng An-dát bị quân Phổ chiếm đóng và hình ảnh cảm động của thầy Ha-men, truyện đã thể hiện lòng yêu nước trong một biểu hiện cụ thể là tình yêu tiếng nói của dân tộc và nêu chân lí: “Khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù…”
- Giá trị nghệ thuật:
- Miêu tả nhân vật qua ngoại hình, cử chỉ, lời nói và tâm trạng
- Ngôi kể thứ nhất, làm cho câu chuyện trở nên sinh động, chân thực, hấp dẫn
- Ngôn ngữ tự nhiên với giọng kể chân thành, xúc động.
III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Buổi học cuối cùng
- Quang cảnh trên đường đến trường và ở trường trước buổi học qua sự quan sát của Phrăng
- Tâm trạng của Phrăng trước buổi học: thoáng ý nghĩ trốn học và rong chơi ngoài đồng nội nhưng cưỡng lại được và sau đó chú bé ba chân bốn cẳng chạy đến trường
- Quang cảnh đường phố: Có nhiều người đứng trước bảng dán cáo thị - nơi luôn lan ra những tin chẳng lành:
+ Những cuộc thất trận
+ Những vụ trưng thu
+ Những mệnh lệnh của ban chỉ huy Đức...
- Quang cảnh trường học khác hẳn với thường ngày: Trường học yên tĩnh, bình lặng y như 1 buổi sáng chủ nhật (khác hẳn thường ngày luôn ồn ào như vỡ chợ vang ra tận ngoài phố với:
+ Tiếng ngăn bàn đóng mở
+ Tiếng mọi người đồng thanh nhắc lại rất to các bài học
+ Tiếng thước kẻ to tướng của thầy gõ xuống bàn
- Thầy giáo Ha-men với thái độ, hành động khác hẳn với thường ngày:
+ Nói thật nhẹ nhàng khi Phrăng đến muộn (trước đây khi học sinh đến muộn thầy sẽ rất giận dữ nên khi bước vào Phrăng đã đỏ mặt tía tai vì sợ hãi)
+ Thầy mặc chiếc ao đơ-ranh-gốt màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn và đội cái mũ tròn bằng lụa đen thêu - trang phục trang trọng chỉ được mặc vào dịp đặc biệt - nhưng lại mặc vào một buổi học bình thường như thế này
- Những khách đến tham gia buổi học bất ngờ, kì lạ không báo trước trên những hàng ghế trống cuối lớp:
+ Cụ già Hô-de trước đây là xã trưởng với chiếc mũ ba sừng, mang theo quyển tập đánh vần cũ đã sờn mép
+ Bác phát thu trước đây
+ Cùng nhiều người dân làng khác
→ Tất cả đều có vẻ buồn rầu
⇒ Tất cả những hình ảnh khác thường ấy khiến cho Phrăng vô cùng ngạc nhiên, khó hiểu
⇒ Đồng thời không khí tĩnh lặng, trang nghiêm khác thường của buổi học hôm ấy chính là dấu hiệu, điềm báo cho một cuộc khủng hoảng - sự tĩnh lặng trước cơn bão.
- Diễn biến buổi học cuối cùng và tâm trạng của mọi người
Cậu bé Phrăng
- Khi biết được đây là buổi học tiếng Pháp cuối cùng:
+ Choáng váng đến sững sờ khi nghe thầy thông báo
+ Tự giận mình vì những lần trốn học đi chơi
+ Nhìn những cuốn sách tiếng Pháp như những người bạn cố trí nay phải đau lòng giã từ (dù trước đây thấy thật nặng nề, chán ngán)
+ Nuối tiếc, nhớ thương người thầy sẽ không còn được gặp nữa
+ Cảm thấy tội nghiệp người thầy đã từng chán ghét, sợ hãi
- Khi học buổi học cuối cùng:
+ Chăm chú lắng nghe những điều thầy nói và thấy chúng thật dễ dàng → Cảm thấy chưa bao giờ mình chăm chú lắng nghe đến như thế
+ Cảm thấy kính yêu thầy, yêu thương thầy hơn
+ Tự nhủ sẽ luôn nhớ mãi buổi học tiếng Pháp cuối cùng này
→ Trong buổi học cuối cùng này Phrăng đã cảm nhận được cái hay, ý nghĩa của tiếng Pháp - tiếng mẹ đẻ của mình và tình cảm thầy trò thiêng liêng.
→ Chính vì thế mà Phrăng luôn cảm thấy nuối tiếc, cụm từ "giá như" được lặp lại nhiều lần, thể hiện sự tiếc nuối vô cùng tận của cậu đối với những ngày tháng đã qua, và với cả tiếng Pháp
Thầy Ha-men
- Thái độ với học sinh khác hẳn với thường ngày:
+ Không giận dữ hay trách phạt khi Phrăng không đọc được bài mà chỉ dịu dàng nhắc nhở em
+ Nói rất nhiều những lời hay dành cho tiếng Pháp - đây là thứ ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất, vững vàng nhất
+ Chưa bao giờ thầy kiên nhẫn giảng giải từng chữ đến như hôm nay, như muốn truyền hết toàn bộ tri thức của mình ngay lập tức cho học sinh
+ Đứng lặng im trên bục giảng, đăm đăm nhìn những đồ vật quanh mình
- Những quan niệm, tư tưởng của thầy:
+ Cảm thấy ai cũng đáng tự chê trách khi nghĩ rằng còn khối thì giờ để học, và giờ đây không còn cơ hội nữa
+ Sẽ thật xấu hổ khi một người dân xứ An-dát lại không biết viết, biết đọc tiếng Pháp
+ Phải luôn giữ lấy tiếng Pháp và không được lãng quên nó, bởi khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chỉ cần vẫn còn giữ vững tiếng nói của dân tộc thì giống như được nắm chìa khóa chốn lao tù
→ Người thầy khẳng định sức mạnh và ý nghĩa to lớn của tiếng nói dân tộc - tiếng Pháp
→ Cùng niềm mong mỏi ở các em học sinh hãy giữu gìn, trân trọng và truyền lưu tiếng Pháp.
- Các nhân vật khác
- Cụ Hô-de:
+ Mang theo quyển tập đánh vần cũ đã sờn mép và cặp kính lớn đặt trên trang sách
+ Khi đọc sách, cụ nâng cuốn sách bằng hai tay
+ Cụ đọc rất chăm chú, đánh vần từng chữ như bọn trẻ, giọng đọc run run vì xúc động, rất kì cục
→ Những chi tiết đó thể hiện sự nâng niu, quý trọng của cụ Hô-de đối với tiếng Pháp cùng với đó là sự đau khổ khôn kể khi từ đây tiếng Pháp không còn được học, được viết ở xứ An-dát nữa.
- Các em học sinh:
+ Hết sức chăm chú và im phăng phắc trong giờ học
+ Không để ý đến cảnh vật xung quanh, kể cả những trò nhỏ nhất, tất cả đều cặm cụi viết
+ Tất cả vừa muốn cười nhưng cũng muốn khóc
→ Cũng như Phrăng, các em học sinh ai cũng trân quý những giây phút học tiếng Pháp cuối cùng này. Các em tập trung hết sức, như muốn níu kéo từng giây phút cuối cùng của buổi học.
- Cảnh kết thúc buổi học
- Âm thanh:
+ Tiếng chuông nhà thờ điểm mười hai giờ
+ Tiếng kèn của bọn lính Phổ đi tập về
→ Những âm thanh tuyên bố chấm dứt buổi học tiếng Pháp cuối cùng - từ bây giờ tiếng Đức sẽ thay thế cho tiếng Pháp được học ở An-dát.
- Hình ảnh trong lớp học:
+ Thầy Ha-men đứng dậy trên bục giảng, mặt tái nhợt, nghẹn ngào, không nói được hết câu
+ Thầy khuyên mọi người hãy yêu nước và giữ gìn tiếng nói của dân tộc
+ Cầm một viên phấn, dằn mạnh hết sức, viết thật to dòng chữ “Nước Pháp muôn năm”
→ Thầy ha-men là người có tấm lòng yêu nước và ý thức giữ gìn tiếng nói của dân tộc.
- Hình ảnh kết thúc văn bản: thầy Ha-men đứng tựa vào tường, không nói gì mà chỉ ra hiệu cho học sinh rời khỏi lớp
→ Thể hiện sự đau xót đến không thể đứng vững, không thể nói được thành lời của người thầy giáo trước giây phút chia xa này
→ Đồng thời thể hiện nỗi đau của một người dân xứ An-dát khi từ đây không còn được dạy và học tiếng Pháp nữa.
→ Thể hiện tình yêu quê hương, đất nước sâu sắc của thầy Ha-men nói riêng và người dân nước Pháp nói chung.
Chuẩn bị
Yêu cầu (trang 21 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1):
- Thông tin về nhà văn An-phông-xơ Đô-đê: sinh năm 1940 tại Nime (Pháp) và mất năm 1987. Ông là một nhà văn Pháp và là tác giả của nhiều tập truyện ngắn nổi tiếng. Ông viết nhiều tiểu thuyết thiên về hồi ký của thời niên thiếu đau khổ hay những đề tài về xã hội nước Pháp dân chủ thay thế chế độ quân chủ.
Đọc hiểu
* Nội dung chính:
- Văn bản “Buổi học cuối cùng” kể về không khí của buổi học cuối cùng học bằng tiếng Pháp của lớp học do thầy Ha-men đứng lớp mang theo những cảm xúc tiếc nuối, sót xa của cả thầy và trò. Qua đó, thể hiện tình yêu nước, yêu ngôn ngữ dân tộc, yêu việc dạy học của một người trí thức.
* Trả lời câu hỏi giữa bài:
Câu 1 (trang 21 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1):
- Tác dụng của ngôi kể thức nhất: miêu tả một cách chân thực, thể hiện cảm xúc rõ nét nhất mà tác giả muốn truyền tải đến người đọc.
Câu 2 (trang 22 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1):
- Từ sự khác thường của buổi học, ta có thể dự đoán được có lẽ là có điều không hay sắp xảy ra.
Câu 3 (trang 22 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1):
- thầy giáo của chúng tôi mặc chiếc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn và đội mũ tròn bằng lụa đen thêu.
- Lớp học có cái gì đó khác thường và trang trọng
- ở phía cuối lớp, trên những hàng ghế thường bỏ trống, dân làng ngồi lặng lẽ giống như chúng tôi.
- Ai nấy đều có vẻ buồn rầu, và cụ Hô-de mang theo quyển tập đánh vần cũ đã sớm mép, để mở rộng trên lòng, cặp kính lớn đặt ngang sách.
- Ha-men nói với giọng nói dịu dàng và trang trọng.
Câu 4 (trang 23 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1):
- Những cuốn sách vừa nãy tôi còn thấy chán ngán đến thế, mang nặng đến thế, quyển ngữ pháp, quyển thánh sử của tôi giờ đây dường như những người bạn cố tri mà tôi sẽ rất đau lòng phải giã từ.
Câu 5 (trang 23 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1):
- Thầy Ha-men nói như vậy bởi đây là buổi cuối cùng học tiếng Pháp, sẽ chẳng còn buổi ngày mai hay hôm sau để học nữa, nên sự trách mắng đó cũng sẽ biến mất.
Câu 6 (trang 24 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1):
Dòng chữ gợi cho em suy nghĩ về việc gìn giữ nét văn hóa truyền thống dân tộc. Bất kì một dân tộc nào, khi bị đô hộ bởi một nước khác, họ vẫn giữ được tiếng nói, ngôn ngữ, phong tục, tập quán của dân tộc mình – đó là một điều đáng quý và thiêng liêng. Bởi nó chứng tỏ họ vẫn là dân tộc đó, vẫn là người nước đó, chủ có thể đổi nhưng đất nước đó thì không, mãi mãi tồn tại với những giá trị văn hóa riêng. Nó sẽ trở thành động lực, vũ khí để các dân tộc tiến lên, giải phóng cho chính mình.
Câu 7 (trang 24 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1):
Băn khoăn của cậu bé Phrăng vừa hài hước vừa sót xa. Chim bồ câu chỉ có một tiếng gáy và nó sẽ chẳng thay đổi. Nhưng qua cái nhìn của trẻ thơ, cậu đang nghĩ không biết có khi nào mọi thứ sẽ đều mang theo tiếng Đức không từ ngôn ngữ của con người đến loài vật. Điều đó thể hiện một sự sót xa trước sự mất dần của ngôn ngữ dân tộc.
Câu 8 (trang 25 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1):
- Thầy Ha-men đứng dậy trên bụcm người tái nhợt. Chưa bao giờ tôi cảm thấy thầy lớn lao đến thế.
- Thầy nghẹn ngào, không nói được hết câu.
- Thầy bèn quay về phía bảng, cầm một hòn phấn và dằn mạnh hết sức, thầy cố viết thật to: “NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM!”
* Trả lời câu hỏi cuối bài:
Câu 1 (trang 26 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1):
- Nhan đề Buổi học cuối cùng có thể hiểu để ám chỉ buổi học cuối cùng tiếng Pháp của một lớp học thuộc vùng bị quân Phổ chiếm đóng.
- Người kể chuyện là cậu bé Frăng – một học sinh của lớp học.
- Tác dụng của ngôi kể: miêu tả một cách chân thực, thể hiện cảm xúc rõ nét nhất mà tác giả muốn truyền tải đến người đọc.
Câu 2 (trang 26 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1):
Đặc điểm tính cách nhân vật thầy Ha-men được nhà văn khắc hoạ từ những phương diện:
- Ăn mặc
+ mặc chiếc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn và đội cái mũ bằng lụa đen thêu mà thầy chỉ dùng vào những hôm có thanh tra hoặc phát phần thưởng.
- Lời nói
+ thầy nói với giọng dịu dàng và trang trọng
+ thầy nói với chúng tôi về tiếng Pháp, bảo rằng đó là ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất, vững vàng nhất.
- Cử chỉ
+ Ha-men đứng lặng im trên bục và đăm đăm nhìn những đồ vật quanh mình như muốn mang theo trong ánh mắt toàn bộ ngôi trường nhỏ bé của thầy.
+ Thầy bèn quay về phía bảng, cầm một hòn phấn và dằn mạnh hét sức, thầy cố viết thật to: “NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM”.
+ Rồi thầy đứng đó, đầu dựa vào tường, và chẳng nói, giơ tay ra hiệu cho chúng tôi.
Câu 3 (trang 26 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1):
- Thầy Ha-men nói với chúng tôi về tiếng Pháp, bảo rằng đó là ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất, vững vàng nhất: phải giữ lấy nó trong chúng ta và đừng bao giờ quên lãng nó, bởi vì khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù.
→ Như một bài học, một triết lí cuối cùng mà người thầy muốn gửi gắm đến học sinh của mình với hy vọng họ có thể gìn giữ được tiếng mẹ đẻ, tiếp tục kế thừa và phát huy ngôn ngữ dân tộc. Nắm được nó trong tay chính là nắm được vận mệnh dân tộc trong tay.
- Thầy bèn quay về phía bảng, cầm một hòn phấn và dằn mạnh hét sức, thầy cố viết thật to: “NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM”.
→ Chi tiết trên cho ta thấy lí tưởng, khát vọng độc lập tự do cùng tinh thần yêu nước, yêu ngôn ngữ của dân tộc mình. Cảm xúc đó dường như không thể diễn tả thành lời bởi cảm xúc đã lên đến đỉnh điểm của một người trí thức yêu đất nước, văn hóa và yêu nghề dạy học tha thiết.
Câu 4 (trang 26 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1):
- Các chi tiết này đã giúp tác giả khắc họa thành công về nhân vật thầy Ha-men. Đó là người yêu đất nước Pháp, yêu ngôn ngữ và yêu nghề dạy học bằng cả trái tim mình. Trước giờ phút chia tay, chia tay những học sinh yêu quý, những ngày tháng dạy học bằng cả đam mê, nhiệt huyết, thầy Ha-men dường như không nỡ, không muốn, nhưng lại không thể làm gì. Đặc biệt chi tiết viết dòng chữ trên bảng như một lần nữa khẳng định lòng yêu nước tuyệt đối của một người thầy giáo. Đồng thời, hình ảnh thầy Ha-men cũng là đại diện cho biết bao con người thuộc tầng lớp trí thức trẻ lúc bấy giờ.
Câu 5 (trang 26 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1):
Câu chuyện là khung cảnh của một buổi học cuối cùng của một lớp học vùng bị chiếm đóng đầy sót xa, tiếc nuối của những người trong cuộc. Nổi bật trên đó là lòng yêu nước, yêu văn hóa dân tộc của một người thầy giáo đầy tâm huyết với nghề. Nó để lại trong em biết bao cảm xúc mà đặc biệt nó góp phần xây dựng, bồi dưỡng lòng yêu nước cho em. Bởi qua bài đọc, em hiểu rằng ta có thể mất độc lập, tự do nhưng ngôn ngữ, tiếng nói thì không thể. Nó là văn hóa, truyền thống, bản sắc gốc rễ của cả một dân tộc, chúng ta phải lưu giữ, kế thừa và phát huy nó. Vận mệnh dân tộc thay đổi, nhưng văn hóa truyền thống là bất biến, trường tồn cùng dân tộc. Độc lập có thể lấy lại được nhưng nếu mất đi tiếng nói, ngôn ngữ của dân tộc mình thì chứng tỏ ta đã hoàn toàn mất nước. Hơn nữa, các giá trị văn hóa truyền thống luôn là một nguồn lực đấu tranh to lớn để mỗi dân tộc đứng lên để tự giải phóng mình. Câu chuyện trên đã giúp em nhận ra điều đó, nó khiến em xem xét lại bản thân mình, thêm yêu ngôn ngữ, tiếng nói và văn hóa truyền thống của dân tộc mình.
Câu 6 (trang 26 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1):
Trong truyện em thích nhất là nhân vật thầy giáo Ha-men. Bởi thầy là đại diện cho tầng lớp trí thức Pháp yêu nước, yêu văn hóa và yêu nghề lúc bấy giờ. Dù hoàn cảnh lịch sử rối ren, đất nước bị chiếm đóng và bọn giặc đang muốn đồng hóa dân tộc này bằng cách dạy tiếng Đức thay vì tiếng Pháp. Chính vào khoảnh khắc này, buổi học tiếng Pháp cuối cùng ấy, người thầy giáo yêu nước ấy đã dạy cho học trò của mình bài học cuối cùng, bài học về tình yêu nước, giữ gìn văn hóa truyền thống dân tộc với cảm xúc ngậm ngùi, đầy tiếc nuối.
Bài soạn "Bài học cuối cùng" (Ngữ văn 7- SGK Cánh diều) - mẫu 3
1. ĐỌC HIỂU
Câu 1. Tại sao thầy Ha-men lại nói: "... con bị trừng phạt thế là đủ rồi..."?
Trả lời: Thầy Ha-men lại nói: "... con bị trừng phạt thế là đủ rồi..." vì:
- Phrăng đã nhiều lần chịu trùng phạt.
- Với thầy Ha-men hiện tại, hình phạt không còn là cách dạy dỗ phù hợp với học sinh của mình.
- Việc không được tiếp tục học tiếng Pháp đã là một hình phạt quá nặng nề không chỉ với riêng Phrăng mà toàn người dân Pháp.
Câu 2. Em có suy nghĩ gì về những dòng chữ in đậm sau: "khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù"?
Trả lời: Những dòng chữ in đậm sau: "khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù" cho em suy nghĩ tiếng nói của một dân tộc chính là đặc trưng của mỗi dân tộc, là nơi lưu giữ ký ức, bản sắc của dân tộc đó và một dân tộc còn tiếng nói thì dân tộc đó vẫn tồn tại mãi mãi. Những dòng chữ in đậm trên cũng giống như cách nói của Phạm Quỳnh về Truyện Kiều: "Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn.".
Câu 3. Băn khoăn của cậu bé Phrăng về các con chim bồ câu trên mái nhà trường gợi cho em những suy nghĩ gì?
Trả lời:
Băn khoăn của cậu bé Phrăng về các con chim bồ câu trên mái nhà trường gợi cho em những suy nghĩ:
- Sự ngây thơ của một cậu bé học sinh đối với tương lai của đất nước.
- Hình ảnh loài chim thể hiện sự hòa bình cho thấy sự áp bức của quân Phổ đối với người Pháp
2. CÂU HỎI
Câu 1. Em hiểu thế nào về nhan đề Buổi học cuối cùng? Người kể lại câu chuyện là ai? Chỉ ra tác dụng của ngôi kể này.
Trả lời: Em hiểu nhan đề Buổi học cuối cùng nói về buổi học Pháp văn cuối cùng của các học sinh ở vùng An-dát. Đây là buổi học cuối cùng mà học sinh nơi đây còn được học bằng tiếng mẹ đẻ, tiếng của "Tổ quốc đang ra đi", vì qua ngày hôm sau họ sẽ phải học mọi thứ bằng tiếng Đức.
Câu 2. Đặc điểm tính cách nhân vật thầy Ha-men được nhà văn khắc họa từ những phương diện nào? Hãy nêu ra một số biểu hiện cụ thể trong văn bản.
Trả lời: Đặc điểm tính cách nhân vật thầy Ha-men được nhà văn khắc họa từ những phương diện sau:
- Ngoại hình: mặc chiếc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn và đội cái mũ trong bằng lụa đen thêu mà chỉ dùng vào những hôm có thanh tra hoặc phát phần thưởng.
- Cử chỉ, hành động: chuẩn bị những tờ mẫu tập viết mới tinh, trên có viết bằng chữ rông thật đẹp.
- Lời nói: Dịu dàng nói với Phrăng khi cậu vào muộn hay không hiểu bài.
- Suy nghĩ:
- Tiếc nuối vì những lần muốn đi câu cá mà không ngại cho học sinh nghỉ học
- Tiếc nuối vì phải rời xa nơi đã gắn bó từ bốn mươi năm
- Sự sống còn của một dân tộc chính là ở ngôn ngữ
Câu 3. Phân tích một số chi tiết cụ thể (suy nghĩ, cách nhìn nhận về thầy Ha-men và thái độ đối với việc học tiếng Pháp) để làm rõ diễn biến tâm trạng của nhân vật "tôi" trong "buổi học cuối cùng".
Trả lời: Phân tích một số chi tiết cụ thể (suy nghĩ, cách nhìn nhận về thầy Ha-men và thái độ đối với việc học tiếng Pháp) để làm rõ diễn biến tâm trạng của nhân vật "tôi" trong "buổi học cuối cùng":
- Thấy thầy Ha-men ăn mặc trang trọng, nói năng dịu dàng.
- Nhận thấy lớp học có cái gì đó khác thường và trang trọng.
- Tiếc nuối vì đã không chăm chỉ học hành trong khoảng thời gian qua.
- Thương, tội nghiệp thầy.
Diễn biến tâm trạng: cố gắng đi học => nhận thấy lớp học có điều khác thường => nhận ra sẽ không còn được học tiếng Pháp và cảm thấy tiếc nuối => thương thầy => chăm chú nghe giảng, học bài.
Câu 4. Phần (5) của văn bản Buổi học cuối cùng có nhiều chi tiết miêu tả đặc sắc: thầy Ha-men "người tái nhợt", "nghẹn ngào, không nói được hết câu", "cầm một hòn phấn và dằn mạnh hết sức, thầy cố viết thật to: NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM!" và "đầu dựa vào tường", "chẳng nói", chỉ "giơ tay ra hiệu",... Các chi tiết này đã giúp tác giả khắc họa được tâm trạng gì của thầy Ha-men?
Trả lời: Phần (5) của văn bản Buổi học cuối cùng có nhiều chi tiết miêu tả đặc sắc: thầy Ha-men "người tái nhợt", "nghẹn ngào, không nói được hết câu", "cầm một hòn phấn và dằn mạnh hết sức, thầy cố viết thật to: NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM!" và "đầu dựa vào tường", "chẳng nói", chỉ "giơ tay ra hiệu",... Các chi tiết này đã giúp tác giả khắc họa được tâm trạng đau buồn, xúc động của thầy Ha-men khi buổi học cuối cùng tiếng của "Tổ quốc đang ra đi" đã kết thúc cũng như sự tự do của dân tộc. Ngoài ra chi tiết còn thể hiện sự căm phẫn đối với ách đô hộ.
Câu 5. Câu chuyện đã bồi đắp cho em những phẩm chất nào? Em rút ra bài học gì cho bản thân sau khi học xong truyện?
Trả lời:
- Câu chuyện đã bồi đắp cho em những phẩm chất:
- Chăm chỉ, cần cù hôm nay để ngày mai không hối tiếc
- Yêu dân tộc, đất nước từ những điều bình thường, gần gũi nhất.
- Em rút ra bài học: chăm chỉ, cố gắng và biết trâ trọng những gì đang có.
Câu 6. Trong truyện Buổi học cuối cùng, em thích nhất nhân vật hoặc chi tiết, hình ảnh nào? Hãy viết một đoạn văn (khoảng 6 - 8 dòng) giải thích lí do vì sao em thích.
Trả lời: Trong truyện Buổi học cuối cùng, em thích nhất là chi tiết cả lớp im lặng tập viết, chỉ nghe thấy tiếng ngòi bút sột soạt trên giấy.
Đoạn văn (6 - 8 dòng) giải thích lí do em thích chi tiết đó:
Truyện ngắn Buổi học cuối cùng của An-phông-xơ Đô-đê để lại trong tôi nhiều ấn tượng sâu sắc, nổi bật hơn cả chính là chi tiết cả lớp học im lặng tập viết, chỉ nghe thấy tiếng ngòi bút sột soạt trên giấy. Lớp học chắc hẳn phải tập trung lắm mới có thể yên tĩnh tới mức những tiếng sột soạt trên giấy vốn nhỏ, lại được nghe thấy rõ mồn một. Chi tiết cho thấy cái nhìn tinh tế của nhà văn về sự vật sự việc bình dị của cuộc sống. Đồng thời cũng cho thấy sự trang nghiêm của một lớp học vùng An-dát trong buổi học Pháp văn - tiếng mẹ đẻ của họ lần cuối cùng. Điều đó thể hiện lòng biết ơn, tôn trọng của những bạn học sinh đối với người thầy đã gắn bó với họ suốt 40 năm, đồng thời cũng thể hiện tình yêu, lòng tôn kính với quê hương, Tổ quốc với tiếng nói của dân tộc.
Bài soạn "Bài học cuối cùng" (Ngữ văn 7- SGK Cánh diều) - mẫu 4
I. CHUẨN BỊ
Câu hỏi: (SGK Ngữ văn 7 tập 1 - trang 21)
- Đọc trước truyện “Buổi học cuối cùng”, tìm hiểu thêm thông tin về nhà văn An-phông-xơ Đô-đê.
- Đọc thông tin để hiểu bối cảnh của truyện.
Lời giải chi tiết:
- An-phông-xơ Đô-đê (13/5/ 1840 – 16/12/1897) là một nhà văn người Pháp đồng thời là tác giả của nhiều tập truyện ngắn nổi tiếng. Ông được sinh ra ở miền Nam nước Pháp, khi bố mẹ ly hôn ông theo chân cha đến Paris và được nhận vào làm ký giả cho tờ Figaro vào năm 12 tuổi. An-phông-xơ Đô-đê viết văn từ năm 14 tuổi, 18 tuổi ông ra đời thi tập "Những Người Ðàn Bà Ðang Yêu" và được đón nhận ngay. Độc giả nước Pháp đặc biệt yêu mến ông qua tiểu thuyết "Thằng Nhóc Con" sau đó là tập thi tuyển "Những Lá Thư viết từ cối xay gió", bao gồm các bài thơ đề tặng cho Marie Rieu xuất bản năm 1866. An-phông-xơ Đô-đê đạt đến danh vọng trong làng văn chương Pháp qua giải thưởng Văn chương Pháp với quyển "Fromont Cháu Trẻ và Cụ Riler" năm 1874. Những tiểu thuyết ông viết vào những năm sau đó cũng thành công không kém.
- Bối cảnh của truyện đó là thời kì sau chiến tranh, hai vùng An-dát và Lo-ren của Pháp bị nhập vào nước Phổ các trường học ở đây bị bắt bỏ tiếng Pháp để chuyển sang học tiếng Đức. Bối cảnh riêng của văn bản đó là quang cảnh cùng diễn biến của buổi học tiếng Pháp cuối cùng.
II. ĐỌC HIỂU
Câu 1: Chú ý người kể ngôi thứ nhất và tác dụng của ngôi kể này. (SGK Ngữ văn lớp 7 Tập 1 - trang 21)
Lời giải chi tiết:
- Người kể ngôi thứ nhất đó là nhân vật Phrăng xưng tôi để kể về buổi học tiếng Pháp cuối cùng của thầy Ha-men.
- Việc sử dụng ngôi kể thứ nhất có tác dụng giúp câu chuyện trở nên chân thực, giàu sự tin tưởng hơn đồng thời giúp nhân vật Phrăng bộc lộ tâm trạng, tình cảm dễ dàng hơn và người đọc có thể hiểu rõ hơn về nhân vật.
Câu 2: Từ sự khác thường của buổi học, dự đoán về sự kiện xảy ra. (SGK Ngữ văn lớp 7 Tập 1 - trang 22)
Lời giải chi tiết:
- Những điều khác thường trong buổi học cuối cùng là:
- Không khí trường học khác lạ đã tác động mạnh đến tâm hồn của Phrăng tiếng ồn ào không còn nữa mà thay vào đó là sự vắng lặng đến phát sợ, ai nấy đều đã yên trong vị trí.
- Thay vì tức giận khi Phrăng đi học muộn thì thầy Ha-men lại rất ân cần “Phrăng , vào chỗ nhanh lên con, lớp học sắp bắt đầu mà không có con”.
- Dự đoán về sự kiện sẽ xảy ra:
- Thầy nhắc nhở lớp về tiết học cuối cùng.
- Thầy dạy bài học cuối cùng.
- Thầy chia tay các học trò của mình.
- Học trò cùng nhau chia tay thầy.
Câu 3: Chú ý không khí lớp học, cách ăn mặc và thái độ khác thường của thầy Ha-men. (SGK Ngữ văn lớp 7 Tập 1 - trang 22)
Lời giải chi tiết:
- Không khí lớp học: lớp học có cái gì đó khác thường và trang trọng, cuối lớp thay vì những hàng ghế trồng thì dân làng lại ngồi lặng lẽ như chúng tôi…ai nấy đều buồn rầu.
- Cách ăn mặc: thầy Ha-men mặc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn và cái mũ tròn bằng lụa đen.
- Thái độ khác thường của thầy Ha-men: thay vì giận dữ như mọi ngày thầy lại ân cần, nhẹ nhàng “ Phrăng vào chỗ nhanh lên con”, “các con ơi…mong các con hết sức chú ý”.
Câu 4: Chú ý sự đối lập trong cảm nhận của Phrăng về những cuốn sách. (SGK Ngữ văn lớp 7 Tập 1 - trang 23)
Lời giải chi tiết:
Sự đối lập của Phrăng trong cảm nhận về những cuốn sách là:
- Ban đầu còn thấy chán ngán và mang nặng đến thế nhưng giờ đây dường như những người bạn cố tri mà tôi sẽ rất đau lòng phải giã từ.
Câu 5: Tại sao thầy Ha-men lại nói: “…con bị trừng phạt thế là đủ rồi…” (SGK Ngữ văn lớp 7 Tập 1 - trang 23)
Lời giải chi tiết:
Thầy Ha-men nói: “…con bị trừng phạt thế là đủ rồi…” vì:
- Trước đây khi dạy học thầy hay phạt vụt thước kẻ để bắt học trò học bài và trong đó có Phrăng.
- Thầy Ha-men dường như đọc được suy nghĩ của Phrăng đó là mong muốn đọc được trót lọt cái quy tắc về phân từ hay ho ấy, đọc to rõ ràng không phạm một lỗi nào thì dù có phải đánh đổi gì cũng cam. Nghĩa là Phrăng đang hối hận, đang tiếc nuối vì không học hành tử tế để giờ đây không đọc được thứ tiếng bản địa của mình.
Câu 6: Em có suy nghĩ gì về những dòng chữ in đậm? (SGK Ngữ văn lớp 7 Tập 1 - trang 24)
Lời giải chi tiết:
Câu nói được in đậm chính là chân lý của cả câu chuyện. Nó khẳng định và làm nổi bật lên giá trị thiêng liêng cùng sức mạnh to lớn của tiếng nói dân tộc trong cuộc đấu tranh giành lại độc lập, tự do và thoát khỏi vòng nô lệ. Tiếng nói của dân tộc được hình thành, vun đắp bằng sự sáng tạo của biết bao thế hệ qua hàng ngàn năm, nó là thứ tài tài sản vô cùng quý báu của mỗi dân tộc. Chính vì vậy nên cần yêu quý, giữ gìn và học tập để nắm vững tiếng nói của dân tộc mình, nhất là khi đất nước rơi vào vòng nô lệ.
Câu 7: Cậu bé Phrăng băn khoăn điều gì về những con chim bồ câu trên mái nhà trường? (SGK Ngữ văn lớp 7 Tập 1 - trang 24)
Lời giải chi tiết:
Phrăng băn khoăn “Liệu người ta có bắt cả những con chim bồ câu cũng phải hót bằng tiếng Đức không nhỉ?” tưởng rằng đây là ngây ngô nhưng ẩn sâu trong đó biết bao điều thú vị. Trong giây phút cuối cùng của buổi học dường như Phrăng đã hiểu sự yêu tổ quốc yêu quê mẹ như thế nào. Chim bồ câu thể hiện cho sự hòa bình, sự tự do chúng hót những âm thanh, bằng những tiếng riêng của chúng. Nhưng chính câu hỏi của cậu bé đã làm chúng như sững lại. Cậu bé hỏi như vậy như thể chính những con chim bồ câu kia cũng biết tiếng Pháp, điều đó đã thể hiện lên tình yêu nước của cậu. Cậu yêu tiếng nói của mình, cậu thấy thương và thắc mắc ko biết những con chim bồ câu của nước Pháp kia có phải hót bằng tiếng Đức không nữa đó chính là sự yêu nước yêu tiếng Pháp mà bấy lâu nay mới dâng trào của cậu bé.
Câu 8: Chú ý hình dáng, vẻ mặt của thầy Ha-men khi viết dòng chữ cuối cùng ở phần 5. (SGK Ngữ văn lớp 7 Tập 1 - trang 25)
Lời giải chi tiết:
Dáng vẻ và nét mặt của thầy Ha-men khi viết dòng chữ cuối cùng NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM:
- Hình dáng: đứng trên bục, cầm phấn dằn mạnh hết sức, thầy đứng đó đầu dựa vào tường giơ tay ra hiệu “Kết thúc rồi…đi đi thôi!”.
- Nét mặt: tái nhợt và không nói hết câu.
III. CÂU HỎI CUỐI BÀI
Câu 1: Nêu cách hiểu của em về nhan đề Buổi học cuối cùng. Người kể lại câu chuyện là ai? Chỉ ra tác dụng của ngôi kể này. (SGK Ngữ văn lớp 7 Tập 1 - trang 26)
Lời giải chi tiết:
- Nhan đề “Buổi học cuối cùng" có ý nghĩa:
- Nghĩa đen: Đây là buổi học tiếng Pháp cuối cùng thầy trò Ha-men được học.
- Nghĩa bóng: Nói đến nỗi đau rằng từ ngày mai lũ trẻ sẽ phải học tiếng của quân xâm lược. Đây là buổi học cuối cùng mà chúng được đắm mình trong tình yêu của tiếng mẹ đẻ, được sống trong môi trường văn hóa của dân tộc mình.
- Người kể chuyện là cậu bé Phrăng- xưng tôi.
- Truyện được kể theo ngôi thứ nhất, việc sử dụng ngôi kể này có tác dụng giúp câu chuyện trở nên chân thực hơn, giàu sự tin tưởng hơn. Đồng thời giúp Phrăng bộc lộ được tâm trạng, tình cảm một cách dễ dàng hơn và người đọc cũng hiểu rõ hơn về Phrăng.
Câu 2: Đặc điểm tính cách nhân vật thầy Ha-men được nhà văn khắc họa từ những phương diện nào? Hãy nêu ra một số biểu hiện cụ thể trong văn bản. (SGK Ngữ văn lớp 7 Tập 1 - trang 26)
Lời giải chi tiết:
- Thầy Ha-men được tác giả khắc họa từ những phương diện: hình dáng/ ăn mặc, nét mặt, lời nói, hành động.
- Một số biểu hiện cụ thể trong văn bản:
- Lời nói/ Thái độ: Không giận dữ như mọi ngày mà ân cần, nhẹ nhàng “Phrăng vào chỗ nhanh lên con”, “các con ơi…mong các con hết sức chú ý”.
- Hành động: đọc bài cho học sinh, kiên nhẫn giảng giải hay chuẩn bị mẫu viết mới viết bằng chữ rông.
- Hình dáng/ ăn mặc: thầy mặc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn, cái mũ tròn bằng lụa đen; thầy đứng trên bục, cầm hòn phấn và dằn mạnh hết sức… thầy đứng đó đầu dựa vào tường giơ tay ra hiệu “Kết thúc rồi…đi đi thôi!”
- Nét mặt: tái nhợt và không nói hết câu.
Câu 3: Phân tích một số chi tiết cụ thể trong suy nghĩ, cách nhìn nhận về thầy Ha-men và thái độ đối với việc học tiếng Pháp) để làm rõ diễn biến tâm trạng của nhân vật “tôi” trong buổi học cuối cùng”. (SGK Ngữ văn lớp 7 Tập 1 - trang 26)
Lời giải chi tiết:
Diễn biến tâm trạng của nhân vật “tôi” trong Buổi học cuối cùng”:
- Suy nghĩ: Cái đầu rỗng tuếch của em trước đó không có chỗ cho những cuốn sách, giờ đây những cuốn sách trở nên thân thiết như người bạn cố tri./ Nếu được chuộc lỗi dù chỉ một lần, một lần tỏ ra không phụ công thầy giáo và “đọc thật to, thật dõng dạc, không phạm một lỗi nào” cái quy tắc về phân từ khi thầy gọi đến thì dù “có phải đánh đổi gì cũng cam.
- Cách nhìn nhận thầy Ha-men: Cách ăn mặc của thầy long trọng, trang nghiêm. Bài giảng của thầy hôm nay khúc chiết, trong sáng như rót vào tai học trò, biến cái khó thành cái dễ một cách đáng ngạc nhiên…..
- Thái độ học tiếng Pháp: Chuẩn bị buổi học thì có ý muốn trốn đi chơi nhưng khi nghe thầy nói buổi học cuối cùng được học tiếng Pháp thì Phrăng có phần ăn năn hối lỗi, phải dừng lại một môn học chỉ “mới biết viết tập toạng”. Trong giờ học ngữ pháp hôm nay, Phrăng thấy kinh ngạc vì mình sao lại hiểu nhanh đến thế.
Câu 4: Phần 5 của văn bản Buổi học cuối cùng, liệt kê các chi tiết miêu tả thầy Ha-men (về hành động, ngôn ngữ, ngoại hình). Các chi tiết này đã giúp tác giả khắc họa được điều gì về thầy Ha-men? (SGK Ngữ văn lớp 7 Tập 1 - trang 26)
Lời giải chi tiết:
Các chi tiết này đã khắc hoạ thành công thầy Ha-men là một người rất mực trân trọng buổi học cuối cùng. Mỗi một hành động cùng lời nói của thầy đều chứa đựng sự đau xót nhưng cũng làm nổi bật lên vai trò, ý nghĩa và giá trị thiêng liêng của tiếng mẹ đẻ đối với việc bảo vệ chủ quyền dân tộc. Dòng chữ “NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM” cuối cùng của thầy là âm nguyện thay cho lời từ biệt, đó là tiếng nói sâu lắng tha thiết từ trái tim của một người yêu nước, yêu tha thiết tiếng mẹ đẻ.
Câu 5: Câu chuyện đã gợi lên trong em những suy nghĩ và tình cảm như thế nào? Em rút ra bài học gì cho bản thân sau khi học xong truyện? (SGK Ngữ văn lớp 7 Tập 1 - trang 26)
Lời giải chi tiết:
Câu chuyện đã bồi đắp và xây dựng lên trong em lòng yêu nước. Qua bài học em rút ra bài học mỗi con người chúng ta ít nhiều đều cần tự ý thức bản thân giữ gìn tiếng mẹ đẻ và chịu khó học hỏi phát triển tiếng Việt vươn cao vươn xa ra thế giới. Yêu tiếng mẹ đẻ chính là yêu nước và phát triển tiếng mẹ đẻ chính là phát triển đất nước.
Câu 6: Trong truyện Buổi học cuối cùng, em thích nhất nhân vật hoặc chi tiết, hình ảnh nào? Hãy viết một đoạn văn (khoảng 6-8 dòng) giải thích lí do vì sao em thích. SGK Ngữ văn lớp 7 Tập 1 - trang 26)
Lời giải chi tiết:
Nhân vật mà em thích nhất trong truyện “Buổi học cuối cùng" là thầy Ha-men. Thầy Ha-men chuẩn bị bài học rất chu đáo, giáo án của thầy đều được viết bằng thứ mực đắt tiền, những dòng chữ nghiêng nghiêng, rõ ràng, nắn nót, kẻ tiêu đề cẩn thận nổi bật trên nền giấy trắng tinh. Thầy giảng bài bằng giọng nói dịu dàng, những lời nhắc nhở của thầy cũng rất nhã nhặn. Trong suốt buổi học cuối cùng thầy không giận dữ hay quát mắng học sinh một lời nào. Ngay cả khi Phrăng đến muộn thầy cũng nhẹ nhàng mời cậu vào lớp. Tất cả học sinh đều thấy rằng chưa bao giờ thầy kiên nhẫn giảng bài như vậy. Tất cả những chi tiết này đã cho ta một khẳng định rất chắc chắn đó là: Thầy Ha-men là một người yêu nghề dạy học, yêu tiếng mẹ đẻ, và là người yêu nước sâu sắc.
Bài soạn "Bài học cuối cùng" (Ngữ văn 7- SGK Cánh diều) - mẫu 5
Soạn Buổi học cuối cùng phần Chuẩn bị
Đọc trước chuyện Buổi học cuối cùng; tìm hiểu thêm thông tin về nhà văn An-phông-xơ Đô-đê
Trả lời
- Tiểu sử
- An-phông-xơ Đô-đê (1840-1897), nhà văn Pháp.
- Ông bắt đầu viết từ năm 14 tuổi, sau này gặt hái được nhiều thành công và được đông đảo bạn đọc yêu mến.
- Sự nghiệp văn học
- Ông là tác giả của nhiều tập truyện ngắn nổi tiếng như: Một thời niên thiếu, Những cuộc phiêu lưu kì diệu của Tactaranh ở Taraxcông…
- Ông đạt đến danh vọng trong làng văn chương Pháp qua giải thưởng Văn chương Pháp với quyển "Fromont Cháu Trẻ và Cụ Riler" (1874).
Soạn Buổi học cuối cùng Đọc hiểu
Câu 1 trang 21 Ngữ văn 7 Tập 1: Chú ý người kể ngôi thứ nhất và tác dụng của ngôi kể này.
Trả lời:
- Ngôi kể thứ nhất: nhân vật Phrăng xưng tôi kể về buổi học cuối cùng tiếng Pháp của thầy Ha-men.
- Tác dụng của ngôi kể thứ nhất: giúp câu chuyện trở nên chân thực hơn, giàu sự tin tưởng hơn, nhân vật Phrăng bộc lộ tâm trạng, tình cảm dễ dàng hơn và người đọc hiểu rõ về nhân vật Phrăng hơn.
Câu 2 trang 22 Ngữ văn 7 Tập 1: Từ sự khác thường của buổi học, dự đoán về sự kiện xảy ra.
Trả lời:
- Những điều khác thường trong buổi học cuối cùng:
+ Khi tới trường, không khí trường học khác lạ đã tác động mạnh đến tâm hồn nhạy cảm của Phrăng “tiếng ông ào như chợ vỡ vang ra tận ngoài phố…” đã thay bằng sự vắng lặng đến phát sợ, ai nấy đều đã yên trong vị trí.
+ Khi Phrăng đi học muộn nhưng thầy Ha-men lại rất ân cần thay vì giận dữ “Phrăng , vào chỗ nhanh lên con, lớp học sắp bắt đầu mà không có con”
- Dự đoán các sự kiện xảy ra:
+ Thầy sẽ nhắc nhở lớp về tiết học cuối cùng.
+ Thầy sẽ tiến hành bài dạy cuối cùng.
+ Thầy chia tay các học trò của mình.
+ Học trò chia tay thầy.
Câu 3 trang 22 Ngữ văn 7 Tập 1: Chú ý không khí lớp học, cách ăn mặc và thái độ khác thường của thầy Ha-men.
Trả lời:
- Không khí lớp học: có cái gì đó khác thường và trang trọng; cuối lớp dân làng ngồi lặng lẽ như chúng tôi…ai nấy đều buồn rầu
- Cách ăn mặc của thầy Ha-men: thầy mặc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn, cái mũ tròn bằng lụa đen
- Thái độ khác thường của thầy Ha-men: thay vì giận dữ như mọi ngày thì thầy ân cần, nhẹ nhàng “ Phrăng vào chỗ nhanh lên con”, “các con ơi…mong các con hết sức chú ý”.
Câu 4 trang 23 Ngữ văn 7 Tập 1: Chú ý sự đối lập trong cảm nhận của Phrăng về những cuốn sách.
Trả lời:
- Sự đối lập trong cảm nhận của Phrăng về những cuốn sách:
+ Ban đầu còn thấy chán ngán đến thế, mang nặng đến thế.
+ Giờ đây dường như những người bạn cố tri mà tôi sẽ rất đau lòng phải giã từ.
Câu 5 trang 23 Ngữ văn 7 Tập 1: Tại sao thầy Ha-men lại nói: “…con bị trừng phạt thế là đủ rồi…”
Trả lời:
- Thầy Ha-men lại nói: “…con bị trừng phạt thế là đủ rồi…” là bởi vì:
+ Trước đây khi dạy học thì thầy Ha- men hay phạt, vụt thước kẻ để bắt các học trò học bài trong đó có Phrăng.
+ Dường như thầy đọc được suy nghĩ của Phrăng: là mong muốn đọc được trót lọt cái quy tắc về phân từ hay ho ấy, đọc to rõ ràng không phạm một lỗi nào thì dù có phải đánh đổi gì cũng cam. Có nghĩa là Phrăng đang hối hận, nuối tiếc vì không học hành tử tế để giờ đây không đọc được thứ tiếng bản địa của mình.
Câu 6 trang 24 Ngữ văn 7 Tập 1: Em có suy nghĩ gì về những dòng chữ in đậm: “khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững được tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù”.
Trả lời:
- Câu nói của thầy Ha-men "... khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa của chốn lao tù...". Câu nói này chính là chân lí của cả câu chuyện. Nó khẳng định và làm nổi bật giá trị thiêng liêng, sức mạnh to lớn của tiếng nói dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do, thoát khỏi vòng nô lệ. Tiếng nói của dân tộc được hình thành và vun đắp bằng sự sáng tạo của bao thế hệ qua hàng ngàn năm, là thứ tài sản vô cùng quý báucủa mỗi dân tộc. Vì vậy phải biết yêu quý, giữ gìn và học tập để nắm vững tiếng nói cùa dân tộc mình, nhất là khi đất nước rơi vào vòng nô lệ.…
Câu 7 trang 24 Ngữ văn 7 Tập 1: Băn khoăn của cậu bé Phrăng: “Liệu người ta có bắt cả chúng nó cũng phải hót bằng tiếng Đức không nhỉ?” gợi cho em liên tưởng gì?
Trả lời:
- Điều băn khoăn của Phrăng “Liệu người ta có bắt cả chúng nó cũng phải hót bằng tiếng Đức không nhỉ?”tưởng chừng như là ngây ngô nhưng ẩn sâu trong đó biết bao điều thú vị. Trong phút giây cuối cùng của buổi học dường như chú hiểu được sự yêu tổ quốc yêu quê mẹ như thế nào. Những con chim bồ câu thể hiện cho sự hòa bình, sự tự do chúng hót với những âm thanh/ tiếng riêng của chúng. Nhưng câu hỏi của chú bé làm chúng ta như sững lại. Chú hỏi như vậy như thể những con chim bồ câu kia cũng biết tiếng Pháp vậy. Điều đó đã thể hiện được tình yêu nước của chú. Chú yêu tiếng nói của mình. Chú thấy thương và thắc mắc ko biết những con chim bồ câu của nước Pháp kia có phải hót bằng tiếng Đức không nữa. Đó chính là sự yêu nước yêu tiếng Pháp mà bấy lâu nay mới dâng chào của chú bé.
Câu 8 trang 25 Ngữ văn 7 Tập 1: Chú ý hình dáng, vẻ mặt của thầy Ha-men khi viết dòng chữ cuối cùng ở phần 5.
Trả lời:
Khi viết dòng chữ cuối cùng NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM thầy Ha-men có dáng vẻ và nét mặt:
- Hình dáng: đứng trên bục, cầm hòn phấn và dằn mạnh hết sức… thầy đứng đó đầu dựa vào tường giơ tay ra hiệu “Kết thúc rồi…đi đi thôi!”
- Nét mặt: tái nhợt, không nói hết câu.
Trả lời câu hỏi cuối bài
Câu 1 trang 26 Ngữ văn 7 tập 1
Em hiểu thế nào về nhan đề Buổi học cuối cùng. Người kể lại câu chuyện là ai? Chỉ ra tác dụng của ngôi kể này.
Trả lời:
- Nhan đề Buổi học cuối cùng: Đó là thời kì sau cuộc chiến tranh Pháp - Phổ, nước Pháp thua trận, phải cắt hai vùng An-dát và Lo- ren cho Phổ. Các trường học ở hai vùng này, theo lệnh của chính quyền Phổ, không được tiếp tục dạy tiếng Pháp. Chính vì vậy tác giả đặt tên truyện là Buổi học cuối cùng.
- Người kể chuyện là nhân vật Phrăng - một học sinh lớp thầy Ha-men
- Đoạn trích sử dụng ngôi kể thứ nhất, có tác dụng làm cho người đọc nắm bắt tâm trạng nhân vật sâu sắc, sinh động, chân thật và gần gũi hơn
Câu 2 trang 26 Ngữ văn 7 tập 1
Đặc điểm tính cách nhân vật thầy Ha-men được nhà văn khắc họa từ những phương diện nào? Hãy nêu ra một số biểu hiện cụ thể trong văn bản
Trả lời:
Đặc điểm tính cách nhân vật thầy Ha-men được nhà văn khắc họa từ những phương diện:
- Trang phục: chiếc mũ lụa đen thêu, áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn - những thứ trang phục chỉ dùng trong những buổi lễ trang trọng.
- Thái độ đối với học sinh: Lời lẽ dịu dàng, nhắc nhở nhưng không trách mắng Phrăng khi cậu đến muộn và cả khi cậu không thuộc bài; nhiệt tình và kiên nhẫn giảng bài như muốn truyền hết mọi hiểu biết của mình cho học sinh trong buổi học cuối cùng.
- Điều tâm niệm tha thiết nhất mà thầy Ha-men muốn nói với học sinh và mọi người trong vùng An-dát là hãy yêu quý, giữ gìn và trau dồi cho mình tiếng nói, vì đó là một biểu hiện của tình yêu nước.
- Hình ảnh thầy Ha-men ở những giây phút cuối cùng của buổi học... nỗi đau đớn và xúc động trong lòng thầy đã lên tới cực điểm khiến người tái nhợt... thầy nghẹn ngào không nói được hết câu, nhưng thầy đã dồn hết sức mạnh để viết lên bảng dòng chữ thật to: Nước Pháp muôn năm!”
Câu 3 trang 26 Ngữ văn 7 tập 1
Phân tích một số chi tiết cụ thể trong suy nghĩ, cách nhìn nhận về thầy Ha-men và thái độ đối với việc học tiếng Pháp để làm rõ diễn biến tâm trạng của nhân vật “tôi” trong “buổi học cuối cùng”
Trả lời:
- Cậu bé đến lớp hơi muộn và ngạc nhiên khi thấy lớp học có vẻ khác thường.
- Choáng váng khi nghe thầy Ha-men nói đây là buổi học cuối cùng: Phrăng nghe tin mà rụng rời. Khuôn mặt cậu đỏ bừng vì tức giận, rồi chuyển dần sang tái nhợt vì choáng váng. Đôi mắt đen láy ngây thơ không còn hiện lên vẻ tinh nghịch mà thay vào đó là một nỗi mất mát, một nỗi sợ mơ hồ. Đôi bàn tay nhỏ bé run run lấy sách từ trong cặp để lên bàn, lật giở từng trang thật nhẹ nhàng. Ánh mắt của Phrăng dõi theo thầy Ha - men như thể sợ thầy có thể biến mất. Lúc được gọi lên đọc bài, Phrăng lúng túng và đung đưa người trên chiếc ghế dài, lòng rầu rĩ, không dám ngẩng đầu lên vì xấu hổ. Cậu quan sát lớp học, những khuôn mặt, hành động và sự nhẫn nại của thầy Ha - men để khắc sâu hồi ức về buổi học này trước khi bị ép học tiếng Đức. Suốt cả buổi học, Phrăng chăm chú nghe thầy giảng như nuốt lấy từng lời cho đến khi tiếng chuông cầu nguyện buổi trưa vang lên báo hiệu giờ học kết thúc.
- Tiếc nuối và ân hận vì bấy lâu nay đã bỏ phí thời gian, đã trốn học đi chơi và ngay sáng nay cậu cũng phải đấu tranh mãi mới quyết định đến trường.
→ Phrăng đã nghe và hiểu được những lời nhắc nhở tha thiết nhất của thầy Ha-men, nhận thức và tâm trạng của cậu đã có những biến đổi sâu sắc. Phrăng đã hiểu được ý nghĩa thiêng liêng của việc học tiếng Pháp và tha thiết muốn được học tập, nhưng đã không còn cơ hội để được tiếp tục học tiếng Pháp ở trường nữa.
Câu 4 trang 26 Ngữ văn 7 tập 1
Phần 5 của văn bản Buổi học cuối cùng có nhiều chi tiết miêu tả đặc sắc: thầy Ha-men “người tái nhợt”, “nghẹn ngào, không nói được hết câu”, “cầm một hòn phấn và dằn mạnh hết sức, thầy cố viết thật to: NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM!” và “đầu dựa vào tường”, “chẳng nói”, chỉ “giơ tay ra hiệu”... Các chi tiết này đã giúp tác giả khắc họa được điều gì về thầy Ha-men?
Trả lời:
Đặc biệt cảm động là hình ảnh thầy Ha-men ở những giây phút cuối cùng của buổi học... nỗi đau đớn và xúc động trong lòng thầy đã lên tới cực điểm khiến người tái nhợt ... thầy nghẹn ngào không nói được hết câu, nhưng thầy đã dồn hết sức mạnh để viết lên bảng dòng chữ thật to: “Nước Pháp muôn năm!”
→ Nhân vật thầy giáo Ha-men đã góp phần thể hiện chủ đề và tư tưởng tác phẩm một cách trực tiếp và sâu sắc. Những thay đổi của thầy Ha-men trong buổi học cuối cùng đã khẳng định một điều chắc chắn: Thầy là người yêu nghề dạy học, yêu tiếng mẹ đẻ, và là người yêu nước sâu sắc. Vẻ đẹp của thầy còn được hiện ra qua cặp mắt nhìn khâm phục và biết ơn của chú học trò Phrăng bằng lời kể chân thành và xúc động về buổi học cuối cùng không thể nào quên
Câu 5 trang 26 Ngữ văn 7 tập 1
Câu chuyện đã bồi đắp cho em những phẩm chất nào? Em rút ra được bài học gì cho bản thân sau khi học xong chuyện?
Trả lời:
Buổi học cuối cùng là một câu chuyện tự nhiên, chân thực và cảm động, chứa đựng ý nghĩa thật sâu xa. Có thể coi truyện ngắn này là bài ca về lòng yêu nước không chỉ của dân tộc Pháp mà là của chung các dân tộc trên toàn thế giới. Thông qua truyện, tác giả khẳng định rằng: muốn giữ vững được chủ quyền độc lập tự do của đất nước, trước hết mỗi người dân phải có ý thức giữ gìn và bảo vệ tài sản tinh thần vô giá mà tổ tiên, ông cha để lại: đó là ngôn ngữ, là tiếng nói thiêng liêng của dân tộc tự bao đời.
Câu 6 trang 26 Ngữ văn 7 tập 1
Trong truyện Buổi học cuối cùng, em thích nhất nhân vật hoặc chi tiết, hình ảnh nào? Hãy viết một đoạn văn khoảng 6-8 dòng giải thích lí do vì sao em thích.
Trả lời:
Sau khi đọc xong truyện ngắn “Buổi học cuối cùng” của nhà văn An – phông – xơ Đô – đê, nhân vật Phrang đã để lại cho em nhều ân tượng nhất. Trước hết, ta thấy Phrang là một cậu bé ham chơi, thường xuyên trốn học. Tuy nhiên cậu cũng là một người khá sâu sắc, sống có tâm hồn khi cảm nhận được những điều khác lạ đang diễn ra xung quanh mình từ quang cảnh con đường đến trường, lớp học, và cả thái độ của mọi người đặc biệt là thái độ của thầy giáo Ha- men.Và hơn hết cậu đã có sự thức tỉnh đáng quý trong buổi học cuối cùng: đó là lòng yêu tiếng Pháp, yêu dân tộc Pháp.
Bài soạn "Bài học cuối cùng" (Ngữ văn 7- SGK Cánh diều) - mẫu 6
Chuẩn bị
Yêu cầu (trang 21 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1):
- Đọc trước truyện “Buổi học cuối cùng”, tìm hiểu thêm thông tin về nhà văn An-phông-xơ Đô-đê.
- Đọc thông tin để hiểu bối cảnh của truyện.
Trả lời:
- Nhà văn An-phông-xơ Đô-đê (13/5/ 1840 – 16/12/1897) là một nhà văn Pháp và là tác giả của nhiều tập truyện ngắn nổi tiếng. Ông sinh ra ở miền Nam nước Pháp. Khi hôn nhân của bố mẹ đổ vỡ, ông theo chân cha đến Paris và được nhận vào làm ký giả cho tờ Figaro vào năm 12 tuổi.
Ông bắt đầu viết văn từ năm 14 tuổi, đến năm 18 tuổi Alphonse ra thi tập "Những Người Ðàn Bà Ðang Yêu" và được đón nhận ngay. Ðộc giả Pháp đặc biệt yêu mến ông qua các tiểu thuyết "Thằng Nhóc Con". Sau đó là tập thi tuyển "Những Lá Thư viết từ cối xay gió", bao gồm các bài thơ đề tặng cho Marie Rieu xuất bản năm 1866. Ông đạt đến danh vọng trong làng văn chương Pháp qua giải thưởng Văn chương Pháp với quyển "Fromont Cháu Trẻ và Cụ Riler" (1874). Ðối với các phê bình gia thì trường thiên tiểu thuyết "Tartarin vùng Tarascon" (1872) gồm ba quyển là tác phẩm quan trọng và đặc sắc nhất của Alphonse Daudet.
Những năm sau ông viết nhiều tiểu thuyết cũng thành công không kém, qua các đề tài xã hội của một nước Pháp dân chủ thay thế cho chế độ quân chủ. Ðó là các tác phẩm "Những Vị Vua Lưu Vong", và "Le Nabab", mô tả những nhà triệu phú mới của thế hệ.
- Bối cảnh của truyện là thời kì sau chiến tranh, hai vùng An-dát và Lo-ren của Pháp bị nhập vào nước Phổ. Các trường học ở hai vùng này bị bắt bỏ tiếng Pháp, chuyển sang học tiếng Đức. Bối cảnh riêng của câu chuyện là quang cảnh và diễn biến của buổi học tiếng Pháp cuối cùng.
Đọc hiểu
* Nội dung chính:
- Văn bản “Buổi học cuối cùng” mang đến cho người đọc những suy nghĩ hồn nhiên và tâm sự còn ngây thơ nhưng vô cùng xúc động của một chú bé vùng An-dát. Diễn biến trong buổi học cuối cùng đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc.
* Trả lời câu hỏi giữa bài:
Câu 1 (trang 21 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Chú ý người kể ngôi thứ nhất và tác dụng của ngôi kể này.
Trả lời:
- Ngôi kể thứ nhất: nhân vật Phrăng xưng tôi kể về buổi học cuối cùng tiếng Pháp của thầy Ha-men.
- Tác dụng của ngôi kể thứ nhất: giúp câu chuyện trở nên chân thực hơn, giàu sự tin tưởng hơn, nhân vật Phrăng bộc lộ tâm trạng, tình cảm dễ dàng hơn và người đọc hiểu rõ về nhân vật Phrăng hơn.
Câu 2 (trang 22 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Từ sự khác thường của buổi học, dự đoán về sự kiện xảy ra.
Trả lời:
- Những điều khác thường trong buổi học cuối cùng:
+ Khi tới trường, không khí trường học khác lạ đã tác động mạnh đến tâm hồn nhạy cảm của Phrăng “tiếng ông ào như chợ vỡ vang ra tận ngoài phố…” đã thay bằng sự vắng lặng đến phát sợ, ai nấy đều đã yên trong vị trí.
+ Khi Phrăng đi học muộn nhưng thầy Ha-men lại rất ân cần thay vì giận dữ “Phrăng , vào chỗ nhanh lên con, lớp học sắp bắt đầu mà không có con”
- Dự đoán các sự kiện xảy ra:
+ Thầy sẽ nhắc nhở lớp về tiết học cuối cùng.
+ Thầy sẽ tiến hành bài dạy cuối cùng.
+ Thầy chia tay các học trò của mình.
+ Học trò chia tay thầy.
Câu 3 (trang 22 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Chú ý không khí lớp học, cách ăn mặc và thái độ khác thường của thầy Ha-men.
Trả lời:
- Không khí lớp học: có cái gì đó khác thường và trang trọng; cuối lớp dân làng ngồi lặng lẽ như chúng tôi…ai nấy đều buồn rầu
- Cách ăn mặc của thầy Ha-men: thầy mặc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn, cái mũ tròn bằng lụa đen
- Thái độ khác thường của thầy Ha-men: thay vì giận dữ như mọi ngày thì thầy ân cần, nhẹ nhàng “ Phrăng vào chỗ nhanh lên con”, “các con ơi…mong các con hết sức chú ý”.
Câu 4 (trang 23 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Chú ý sự đối lập trong cảm nhận của Phrăng về những cuốn sách.
Trả lời:
- Sự đối lập trong cảm nhận của Phrăng về những cuốn sách:
+ Ban đầu còn thấy chán ngán đến thế, mang nặng đến thế.
+ Giờ đây dường như những người bạn cố tri mà tôi sẽ rất đau lòng phải giã từ.
Câu 5 (trang 23 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Tại sao thầy Ha-men lại nói: “…con bị trừng phạt thế là đủ rồi…”
Trả lời:
- Thầy Ha-men lại nói: “…con bị trừng phạt thế là đủ rồi…” là bởi vì:
+ Trước đây khi dạy học thì thầy Ha- men hay phạt, vụt thước kẻ để bắt các học trò học bài trong đó có Phrăng.
+ Dường như thầy đọc được suy nghĩ của Phrăng: là mong muốn đọc được trót lọt cái quy tắc về phân từ hay ho ấy, đọc to rõ ràng không phạm một lỗi nào thì dù có phải đánh đổi gì cũng cam. Có nghĩa là Phrăng đang hối hận, nuối tiếc vì không học hành tử tế để giờ đây không đọc được thứ tiếng bản địa của mình.
Câu 6 (trang 24 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Em có suy nghĩ gì về những dòng chữ in đậm: “khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững được tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù”.
Trả lời:
- Câu nói của thầy Ha-men "... khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa của chốn lao tù...". Câu nói này chính là chân lí của cả câu chuyện. Nó khẳng định và làm nổi bật giá trị thiêng liêng, sức mạnh to lớn của tiếng nói dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do, thoát khỏi vòng nô lệ. Tiếng nói của dân tộc được hình thành và vun đắp bằng sự sáng tạo của bao thế hệ qua hàng ngàn năm, là thứ tài sản vô cùng quý báucủa mỗi dân tộc. Vì vậy phải biết yêu quý, giữ gìn và học tập để nắm vững tiếng nói cùa dân tộc mình, nhất là khi đất nước rơi vào vòng nô lệ.…
Câu 7 (trang 24 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Băn khoăn của cậu bé Phrăng: “Liệu người ta có bắt cả chúng nó cũng phải hót bằng tiếng Đức không nhỉ?” gợi cho em liên tưởng gì?
Trả lời:
- Điều băn khoăn của Phrăng “Liệu người ta có bắt cả chúng nó cũng phải hót bằng tiếng Đức không nhỉ?”tưởng chừng như là ngây ngô nhưng ẩn sâu trong đó biết bao điều thú vị. Trong phút giây cuối cùng của buổi học dường như chú hiểu được sự yêu tổ quốc yêu quê mẹ như thế nào. Những con chim bồ câu thể hiện cho sự hòa bình, sự tự do chúng hót với những âm thanh/ tiếng riêng của chúng. Nhưng câu hỏi của chú bé làm chúng ta như sững lại. Chú hỏi như vậy như thể những con chim bồ câu kia cũng biết tiếng Pháp vậy. Điều đó đã thể hiện được tình yêu nước của chú. Chú yêu tiếng nói của mình. Chú thấy thương và thắc mắc ko biết những con chim bồ câu của nước Pháp kia có phải hót bằng tiếng Đức không nữa. Đó chính là sự yêu nước yêu tiếng Pháp mà bấy lâu nay mới dâng chào của chú bé.
Câu 8 (trang 25 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Chú ý hình dáng, vẻ mặt của thầy Ha-men khi viết dòng chữ cuối cùng ở phần 5.
Trả lời:
Khi viết dòng chữ cuối cùng NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM thầy Ha-men có dáng vẻ và nét mặt:
- Hình dáng: đứng trên bục, cầm hòn phấn và dằn mạnh hết sức… thầy đứng đó đầu dựa vào tường giơ tay ra hiệu “Kết thúc rồi…đi đi thôi!”
- Nét mặt: tái nhợt, không nói hết câu.
* Trả lời câu hỏi cuối bài:
Câu 1 (trang 26 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Nêu cách hiểu của em về nhan đề Buổi học cuối cùng. Người kể lại câu chuyện là ai? Chỉ ra tác dụng của ngôi kể này.
Trả lời:
- Nhan đề Buổi học cuối cùng:
+ Lớp nghĩa đen: Hôm nay là buổi cuối cùng thầy trò Ha-men được học tiếng Pháp.
+ Lớp nghĩa bóng: Truyện nói đến một nỗi đau, từ ngày mai, lũ trẻ phải học tiếng của quân xâm lược. Đây là buổi học cuối cùng chúng được tắm trong tình yêu của tiếng mẹ đẻ, được sống trong môi trường văn hóa của dân tộc mình.
- Người kể lại câu chuyện là cậu bé Phrăng- xưng tôi.
- Ngôi kể thứ nhất- cậu bé Phrăng xưng tôi có tác dụng giúp câu chuyện trở nên chân thực hơn, giàu sự tin tưởng hơn, nhân vật Phrăng bộc lộ tâm trạng, tình cảm dễ dàng hơn và người đọc hiểu rõ về nhân vật Phrăng hơn.
Câu 2 (trang 26 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Đặc điểm tính cách nhân vật thầy Ha-men được nhà văn khắc hoạ từ những phương diện nào? Hãy nêu ra một số biểu hiện cụ thể trong văn bản.
Trả lời:
- Đặc điểm tính cách nhân vật thầy Ha-men được nhà văn khắc hoạ từ những phương diện: hình dáng/ ăn mặc, nét mặt, lời nói, hành động.
- Biểu hiện cụ thể:
+ Lời nói/ thái độ: thay vì giận dữ như mọi ngày thì thầy ân cần, nhẹ nhàng “ Phrăng vào chỗ nhanh lên con”, “các con ơi…mong các con hết sức chú ý”.
+ Hành động: đọc bài cho học sinh, kiên nhẫn giảng giải; chuẩn bị mẫu viết mới viết bằng chữ rông…
+ Hình dáng/ ăn mặc: thầy mặc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn, cái mũ tròn bằng lụa đen; thầy đứng trên bục, cầm hòn phấn và dằn mạnh hết sức… thầy đứng đó đầu dựa vào tường giơ tay ra hiệu “Kết thúc rồi…đi đi thôi!”
+ Nét mặt: tái nhợt, không nói hết câu.
Câu 3 (trang 26 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Phân tích một số chi tiết cụ thể trong suy nghĩ, cách nhìn nhận về thầy Ha-men và thái độ đối với việc học tiếng Pháp) để làm rõ diễn biến tâm trạng của nhân vật “tôi” trong buổi học cuối cùng”.
Trả lời:
- Diễn biến tâm trạng của nhân vật “tôi” trong Buổi học cuối cùng” được thể hiện:
+ Suy nghĩ:
* Cái đầu rỗng tuếch của em trước đó không có chỗ cho những cuốn sách, giờ đây những cuốn sách trở nên thân thiết như người bạn cố tri.
* Nếu được chuộc lỗi dù chỉ một lần, một lần tỏ ra không phụ công thầy giáolà “đọc thật to, thật dõng dạc, không phạm một lỗi nào” cái quy tắc về phân từ khi thầy gọi đến thì dù “có phải đánh đổi gì cũng cam”
+ Cách nhìn nhận thầy Ha-men:
* Cách ăn mặc của thầy: long trọng, trang nghiêm đến mức thầy phải mặc áo rơ-đanh-gốt, đội mũ tròn bằng lụa đen thêu (thường chỉ dùng vào những hôm có thanh tra hoặc phát phần thưởng).
* Bài giảng của thầy hôm nay khúc chiết, trong sáng (kể cả môn ngữ pháp rắc rối), như rót vào tai học trò, biến cái khó thành cái dễ một cách đáng ngạc nhiên.
* Người thầy “muốn truyền thụ toàn bộ tri thức của mình, muốn đưa ngay một lúc tri thức ấy vào đầu óc chúng tôi”.
* Đồ dùng dạy học được thầy chuẩn bị kĩ càng: những tờ mẫu mới tinh, những con chữ viết bằng chữ “rông” của thầy thật đẹp.
+ Thái độ học tiếng Pháp:
* Chuẩn bị buổi học thì có ý định trốn đi chơi.
* Khi nghe thầy nói buổi học cuối cùng được học tiếng Pháp thì Phrăng có phần ăn năn hối lỗi, phải dừng lại một môn học chỉ “mới biết viết tập toạng”…
* Trong giờ ngữ pháp hôm nay, chính Phrăng đã kinh ngạc thấy mình sao lại hiểu nhanh đến thế.
Câu 4 (trang 26 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Phần 5 của văn bản trên có nhiều chi tiết miêu tả đặc sắc: thầy Ha-men “người tái nhợt”, “nghẹn ngào, không nói được hết câu”, “cầm một hòn phấn và dằn mạnh hết sức, thầy cố viết thật to: NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM!” và “đầu dựa vào tường”, “chẳng nói”, chỉ "giơ tay ra hiệu”, ... Các chi tiết này đã giúp tác giả khắc hoạ được điều gì về thầy Ha-men?
Trả lời:
- Phần 5 của văn bản trên có nhiều chi tiết miêu tả đặc sắc: thầy Ha-men “người tái nhợt”, “nghẹn ngào, không nói được hết câu”, “cầm một hòn phấn và dằn mạnh hết sức, thầy cố viết thật to: NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM!” và “đầu dựa vào tường”, “chẳng nói”, chỉ "giơ tay ra hiệu”, ... các chi tiết này khắc hoạ thành công thầy Ha-men là là người rất mực trân trọng buổi học cuối cùng. Mỗi một hành động và lời nói của thầy Ha-men chứa đựng sự đau xót nhưng cũng làm nổi bật lên vai trò, ý nghĩa cùng giá trị thiêng liêng của tiếng mẹ đẻ đối với việc bảo vệ chủ quyền dân tộc. Dòng chữ cuối cùng “NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM” của thầy là tâm nguyện thay cho lời từ biệt, là tiếng nói sâu lắng tha thiết từ trái tim của một người yêu nước, yêu tha thiết tiếng mẹ đẻ.
Câu 5 (trang 26 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Có người cho rằng: “Câu chuyện đã góp phần xây dựng, bồi dưỡng lòng yêu nước cho người đọc”. Ý kiến của em như thế nào?
Trả lời:
- Ý kiến “Câu chuyện đã góp phần xây dựng, bồi dưỡng lòng yêu nước cho người đọc” là một ý kiến đúng, em đồng tình với ý kiến đó. Thông qua Buổi học cuối cùng, mỗi người trong chúng ta ít nhiều đều tự ý thức bản thân phải giữ gìn tiếng mẹ đẻ, chịu khó học hỏi phát triển tiếng Việt vươn cao vươn xa ra thế giới. Yêu tiếng mẹ đẻ chính là yêu nước, phát triển tiếng mẹ đẻ chính là phát triển đất nước.
Câu 6 (trang 26 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Trong truyện “Buổi học cuối cùng”, em thích nhất nhân vật hoặc chi tiết, hình ảnh nào? Hãy viết một đoạn văn (khoảng 5-7 dòng) giải thích lí do vì sao em thích.
Trả lời:
- Trong truyện “Buổi học cuối cùng”, em thích nhất hình ảnh thầy giáo Ha-men “cầm một hòn phấn và dằn mạnh hết sức, thầy cố viết thật to: NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM!” và “đầu dựa vào tường”, “chẳng nói”, chỉ "giơ tay ra hiệu”. Em thích nhất hình ảnh này là bởi:
+ Đây là một hình ảnh đem lại nhiều sức gợi, ám ảnh trong em: đó là một người thầy tâm huyết, kết thúc rồi nhưng vẫn còn cố gắng “dằn mạnh hết sức” thể hiện lòng yêu tiếng mẹ đẻ, yêu nước tha thiết; một người thầy đau khổ và có phần bất lực. Trong phút giây cuối cùng, thầy không nói thành lời mà đầu dựa vào tường “giơ tay ra hiệu”.
+ Hình ảnh thầy Ha-men thôi thúc trong em lòng yêu tiếng Việt, quý trọng các giờ học trên lớp cùng các thầy cô giáo và bồi dưỡng lòng yêu nước; thôi thúc em cố gắng học tập thật tốt, vươn cao vươn xa cùng bạn nè năm châu.
Hãy đăng nhập để bình luận
Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .