Top 10 Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN từ 1 - 10

1023.9k

Bài viết ngày hôm nay, Alltop sẽ gửi đến các bạn các bài viết Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN từ 1 - 10 theo quy định Thông tư 12/2019/TT-BGDĐT về chương...xem thêm ...

Top 0
(có 9 lượt vote)

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 1 số 1

ĐẠO ĐỨC CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON TRONG GIAO TIẾP, ỨNG XỬ VỚI TRẺ MẦM NON

  1. Nhà giáo phải có các tiêu chuẩn sau đây:
    1. Phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt;
    2. Đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ;
    3. Đủ sức khỏe theo yêu cầu của nghề nghiệp;
    4. Lý lịch bản thân rõ ràng.


  1. Khái niệm đạo đức, đạo đức nhà giáo, đạo đức của người giáo viên mầm non.


+ Đạo đức nhà giáo: Đạo đức nhà giáo là phẩm chất của người giáo viên được hình thành do tu dưỡng, rèn luyện theo các quy định, tiêu chuẩn, yêu cầu....trong hoạt động nghề nghiệp của người giáo viên và trong cuộc sống với tư cách một nhà giáo, được thể hiện ra bên ngoài qua nhận thức, thái độ và hành vi của họ.

+ Đạo đức của người giáo viên mầm non: Là những phẩm chất của người giáo viên mầm non được hình thành do tu dưỡng, rèn luyện theo các quy định, tiêu chuẩn, yêu cầu...trong chăm sóc và giáo dục trẻ e4m và trong cuộc sống với tư cách một nhà giáo được thể hiện ra bên ngoài qua nhận thức, thái độ, hành vi.


  1. Phẩm chất đạo đức của người giáo viên mầm non thể hiện ở những điểm sau:
    1. Yêu nước, có niềm tin vào chế độ xã hội chủ nghĩa.

- Trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

- Chấp hành tốt luật pháp Nhà nước, chủ trương, chính sách của Đảng và những qui định của ngành, của trường mầm non.

- Có định hướng tốt trong đổi mới nội dung, phương pháp chăm sóc, giáo dục, bảo vệ và nuôi dưỡng trẻ.

- Làm một công dân tốt có ý thức trách nhiệm đối với xã hội, tham gia phát triển văn hóa- xã hội của cộng đồng; mẫu mực trong hành vi giao tiếp ứng xử là tấm gương cho trẻ noi theo.

- Không phân biệt đối xử với trẻ và chất nhận sự đa dạng của trẻ;

- Tận tụy chăm sóc trẻ và kiên nhẫn trong giáo dục trẻ mầm non.

- Xây dựng mối quan hệ thân mật, gần gũi, ân cần, chu đáo với trẻ ở các độ tuổi khác nhau ( tuổi nhà trẻ và tuổi mẫu giáo)

- Coi trọng tính tích cực, chủ động, sáng tạo cá nhân của trẻ mầm non; động viên khuyến khích trẻ tích cực tham gia vào hoạt động chung/nhóm;

- Xây dựng và duy trì việc phối hợp với gia đình trong việc chăm sóc-giáo dục trẻ; tuyên truyền về trẻ và phổ biến thông tin về phương pháp giáo dục trẻ.

- Có tình cảm và yêu trẻ, có động cơ yêu nghề, say mê sáng tạo, nhanh chóng thích ứng với tình huống mới.

- Có ý thích tự học, tự bồi dưỡng nâng cao nhận thức, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ chăm sóc – giáo dục trẻ trong độ tuổi.

- Có quan hệ tin cậy dễ chịu với người khác, hợp tác thiện chí, trau dồi kinh nghiệm tự hoàn thiện bản thân.

- Có suy nghĩ và quan điểm tích cực, hoàn thành tốt các công việc được giao nhằm đáp ứng với các yêu cầu mới mục tiêu chăm sóc – giáo dục, bảo vệ và nuôi dưỡng trẻ.


  1. Yêu cầu đạo đức nhân cách của người giáo viên mầm non.

Dựa vào phẩm chất đạo đức trong mô hình nhân cách của người giáo viên mầm non, các quy định về đạo đức người giáo viên mầm non, trong quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ, giáo viên cần tuân thủ các yêu cầu sau:

- Yêu nghề, tâm huyết với nghề, có ý thức giữ gìn danh dự, lương tâm nhà giáo; có tinh thần đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ đồng nghiệp trong cuộc sống và trong công tác; có lòng nhân ái, bao dung, độ lượng, đối xử hòa nhã với trẻ, đồng nghiệp, sẵn sàng giúp đỡ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của trẻ, đồng nghiệp và cộng đồng, được đồng nghiệp, người dân tín nhiệm và trẻ yêu quý.

- Yêu thương, tôn trọng và công bằng với trẻ.

+ Không phân biệt đối xử với trẻ và chấp nhận sự đa dạng của trẻ.

+ Tận tụy chăm sóc trẻ và kiên nhẫn trong giáo dục mầm non.

+ Xây dựng mối quan hệ thân mật, gần gũi, ân cần, chu đáo với trẻ ở các độ tuổi khác nhau ( tuổi nhà trẻ và tuổi mẫu giáo)

+ Coi trọng tính tích cực, chủ động, sáng tạo cá nhân của trẻ mầm non; động viên khuyến khích trẻ tích cực tham gia vào các hoạt động chung/nhóm.

+ Xây dựng và duy trì việc phối hợp với gia đình trong việc chăm sóc - giáo dục trẻ; tuyên truyền về trẻ và phổ biến thông tin về phương pháp giáo dục trẻ.

- Tân tụy với công việc; thực hiện đúng điều lệ, quy chế, nội duy của đơn vị, nhà trường, của ngành, sẵn sàng khắc phục khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ.

- Tham gia đóng góp xây dựng và thực hiện nội quy hoạt động của nhà trường.

- Thực hiện các nhiệm vụ được phân công.

- Thực hiện phê bình và tự phê bình thường xuyên, nghiêm túc; thường xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của giáo dục.

- Chấp hành kỉ luật lao động, chịu trách nhiệm về chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ ở nhóm lớp được phân công.

- Không có biểu hiện tiêu cực trong cuốc sống, trong chăm sóc, giáo dục trẻ.

- Không vi phạm các quy định về hành vi nhà giáo không được làm.

* - Giao tiếp, ứng xử với trẻ mầm non với trẻ mầm non là quá trình tương tác của giáo viên mầm non với trẻ, những phản ứng hành vi của giáo viên nảy sinh trong quá trình giao tiếp với trẻ do những rung cảm cá nhân kích thích nhằm lĩnh hội, truyền đạt những tri thức, vốn kinh nghiệm của cá nhân xã hội trong những tình huống nhất định.


  1. Những biểu hiện đạo đức của người giáo viên mầm non trong giao tiếp ứng xử với trẻ.


Trong khi giao tiếp, ứng xử với trẻ, giáo viên nên lưu ý một số điểm sau:

- Trong chăm sóc, giáo dục trẻ, cô giáo cần phải luôn yêu thương trẻ như con, khéo léo và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của trẻ là: được ăn, được vui chơi và học tập. giáo viên cần yêu thương từng trẻ, yêu thương trẻ như con em mình, điều đó đòi hỏi sự tận tụy và khéo léo dịu dàng, nhạy cảm và tinh tế trong chăm sóc và giáo dục trẻ. Muốn như vậy, trong quá trình giáo dục, giáo viên tạo bầu không khí ấm cúng như gia đình. Đồng thời giáo viên cần chú ý đáp ứng đúng lúc, kịp thời những nhu cầu cơ bản của trẻ, tạo điều kiện cho trẻ phát triển một cách thuận lợi.

- Giáo viên cần dành mọi suy nghĩ , hành động ưu ái cho trẻ, vì trẻ, đảm bảo cho trẻ phát triển tối đa những tiềm năng vốn có theo khoa học, theo mục tiêu đào tạo của ngành giáo dục mầm non.

- Giao tiếp ứng xử với trẻ bằng nhưng cử chỉ hành vi dịu hiền, nhẹ nhàng, cởi mở, vui tươi, tạo cho trẻ một cảm giác an toàn, bình yên, dễ chịu khi được đến trường, nhờ có cảm giác an toàn, trẻ mới bộc lộ tính hồn nhiên, ngây thơ, trong trắng của tuổi thơ. Điều này luôn nhắc nhở giáo viên lấy cảm xúc trân thực của mình khi tiếp xúc với trẻ, xúc cảm chân thực nhưng thiên về tình thương, nhẹ nhàng mà vui tươi, cởi mở, phù hợp với tâm sinh lý của trẻ, gieo vào lòng trẻ những sắc thái cảm xúc tích cực của con người.

- Trước mỗi tình huống, giáo viên cần bình tĩnh không nên vội vàng, nóng nảy, nếu giáo viên nóng nảy thiếu kiềm chế, sẽ có những hành vi không hợ lý với trẻ, trong khi đó, bất cứ hành vi nào của giáo viên đều được trẻ ghi dấu lại trong tâm trí trẻ. Giáo viên nên tìm hiểu kĩ những nguyên nhân dẫn đến nhưỡng biểu hiện hành vi bất thường của trẻ để có hướng giải quyết hợp lý nhất.

- Giáo viên ứng xử công bằng với tất cả trẻ, không phân biệt so sánh trẻ này với trẻ khác dành tình yêu và sự quan tâm với tất cả các trẻ như nhau, giáo viên không được quá quan tâm nhiều đến một trẻ nào đó. Do đó, giáo viên cần phải vừa quan tâm đến cả lớp vừa phải quan tâm đến từng trẻ. Mỗi trẻ có những đặc điểm riêng về thể chất, về nhu cầu, về sở thích, hứng thú, khả năng…., giáo viên cần nắm bắt được các đặc điểm đó để có cách giáo tiếp ứng xử phù hợp đối với trẻ.

- Tạo ra bầu không khí thân thiện, cởi mở trong suốt quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ là điều rất quan trọng, giáo viên lúc nào cũng thể hiện khuôn mặt rạng rỡ, nhiệt tình, trìu mến, tạo cho trẻ cảm thấy mình đang được quan tâm.

- Giáo viên cần hiểu trẻ, nên tìm những điểm tốt điểm tích cực của trẻ, để nêu gương khích lệ trẻ tạo cho trẻ có được sự tự tin, phấn khởi.

- Cần tôn trọng trẻ, lắng nghe ý kiến của trẻ và sẵn sàng giải đáp mọi thắc mắc của trẻ, không nên lờ đi trước ý kiến của trẻ.

- Cần linh hoạt trong cách xử lý tình huống với trẻ, không nên cứng nhắc vì mỗi trẻ là một các thể riêng biệt, một tính cách và sở thích khác nhau. Giáo viên cần hiểu trẻ và tạo nhiều cơ hội để trẻ được thể hiện trong các tình huống khác nhau.


  1. Những hạn chế trong giao tiếp, ứng xử của giáo viên mầm non đối với trẻ và ảnh hưởng của nó đến sự phát triển của trẻ mầm non.


- Giáo viên chưa hiểu trẻ và nhu cầu của trẻ trong các hoạt động ở trường mầm non, chưa thật sự chú ý, tập trung, lôi cuốn trẻ, khích lệ trẻ tham gia vào các hoạt động, chưa tạo được không khí thật sự vui tươi và kích thích những ham thích, hứng khởi cần có ở trẻ.

- Giáo viên đôi khi không kiềm chế được cảm xúc nên ảnh hưởng đến trẻ. Nhiều giáo viên cho rằng giờ ăn là dễ khiến cô giáo nóng giận và khó chịu và thường cô giáo trách phạt trẻ bằng nhiều hình thức như đánh, nhốt trẻ vào nhà vệ sinh, ép trẻ ăn...Một số giáo viên do không kìm chế được cảm xúc của bản thân nên vẫn còn hiện tượng nóng giận, bực bội, la mắng, trách móc trẻ. Điều này sẽ ảnh hưởng nhiều đến tâm lý của trẻ như: trẻ sẽ cảm thấy sợ hãi, không tự tin, sợ đến trường...

- Trẻ trong lớp quá đông cũng tạo nhiều áp lực cho giáo viên, giáo viên sẽ thường xuyên bị căng thẳng, từ đó mà tâm trạng không tốt.

- Do khối lượng công việc qáu hiều, áp lực của công việc khiến giáo viên cảm thấy mệt mỏi cũng ảnh hưởng nhiều đến giao tiếp với trẻ.

- Giáo viên có quan niệm sai lầm khi cho rằng trẻ tuổi này rất bướng bỉnh, lì lợm và phải giáo dục nghiêm khắc, phải trách phạt, la mắng cho trẻ biết sợ, biết chừa, thường cấm đoán và chỉ mong trẻ biết nghe lời.


* Nguyên nhân:

Kỹ năng giao tiếp ứng xử của giáo viên mầm non với trẻ chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, trong đó có thể kể đến các yếu tố nhận thức, yếu tố quan điểm giáo dục, yếu tố về tính chất công việc và yếu tố về mối quan hệ trong công việc. Đây là những nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng đến giao tiếp của giáo viên mầm non với trẻ. Cụ thể:


- Về yếu tố nhận thức: Là sự hiểu biết của giáo viên về pháp luật và yêu cầu của đạo đức người giáo viên mầm non trong chăm sóc và giáo dục trẻ. Đó cũng là sự hiểu biết của giáo viên về đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. Hiện nay, nhiều giáo viên chưa hiểu và nắm vững những yêu cầu về đạo đức của người giáo viên, chưa hiểu và nắm vững các đặc điểm tâm sinh lí của trẻ, nên trong quá trình giao tiếp ứng xử với trẻ không thỏa mãn được những nhu cầu của trẻ, ảnh hưởng nhiều đến chất lượng chăm sóc và giáo dục trẻ. Điều này cho thấy công tác giáo dục đạo đức trong ngành sư phạm chưa thực sự được quan tâm đúng mức. Những tấm gương sáng về đạo đức nhà giáo hi sinh, tận tụy với trẻ chưa được xã hội động viên quan tâm tôn vinh kịp thời.


- Về quan điểm giáo dục trẻ: Nhiều giáo viên có quan niệm sai lầm trong giao tiếp ứng xử với trẻ như để giáo dục trẻ nhanh nhất, hiệu quả nhất thì đe dọa, trừng phạt, trách mắng là phương pháp giáo dục hiệu quả. Một số giáo viên quá nghiêm khắc với trẻ, nghĩ rằng cần phải làm cho trẻ biết sợ, biết vâng lới bằng những hình phạt nặng nề nhơ đánh, nhốt trẻ vào nhà vệ sinh... Đây là quan điểm hết sức sai lầm của giáo viên.


- Về tính chất công việc và chế độ đãi ngộ của giáo viên: Giáo viên mầm non so với các bậc học khác phải làm việc vất vả, khối lượng công việc nhiều, lại phải chịu nhiều áp lực như chất lượng giảng dạy, thanh tra, kiểm tra. Tuy n hiên chế độ đãi ngộ với giáo viên của nhà trường và địa phương không thỏa đáng, điều đó cũng ảng hưởng đến tâm lý giáo viên và ảnh hưởng đến việc giao tiếp, ứng xử với trẻ. Mặt khác, số lượng trẻ trong lớp quá đông, có nhiều trẻ bướng bỉnh, không nghe lời, hay quậy phá khiến giáo viên bị căng thẳng, từ đó dẫn đến hượng tượng quát mắng, dọa nạt trẻ.


- Về các mối quan hệ trong công việc ( quan hệ với cấp trên, đồng nghiệp và phụ huynh): Sự không thuận lợi trong các mối quan hệ này cũng khiến giáo viên cảm thấy căng thẳng, mệt mỏi, bực bội, điều đó ảnh hưởng nhiều dến hoạt động giao tiếp và ứng xử với trẻ. Ví dụ: Sự chỉ đạo không nhất quán và khách quan từ cấp trên; quan hệ với đồng nghiệp không tốt, có nhiều bất đồng; việc phối kết hợp với phụ huynhtrong chăm sóc và giáo dục trẻ chưa tốt....


* Biện pháp tăng cường nhận thức, thái độ đạo đức người giáo viên mầm non trong giao tiếp, ứng xử với trẻ.

- Tăng cường nhận thức pháp luật, nhận thức về yêu cầu/chuẩn mựcđạo đức của giáo viên mầm non, về đặc điểm tâm sinh lí của trẻ em.

- Nâng cao nhận thức của giáo viên mầm non về đặc điểm tâm sinh lý của trẻ.


* Biện pháp rèn luyện hành vi đạo đức của người giáo viên mầm non

- Tổ chức rèn luyện hành vi/thói quen đạo đức của giáo viên mầm non trong các tình huống giao tiếp, ứng xử với trẻ mầm non.

- Giám sát hỗ trợ và điều chỉnh giáo viên mầm non trong giao tiếp ứng xử với trẻ mầm non.


* Biện pháp đảm bảo các điều kiện để giáo viên mầm non nâng cao đạo đức trong giao tiếp, ứng xử với trẻ.

- Nâng cao đạo đức của người cán bộ quản lí của nhà trường.

- Đảm bảo điều kiện làm việc, môi trường làm việc để giảm áp lực đối với giáo viên mầm non.

- Động viên, đãi ngộ và tôn vinh người giáo viên mầm non.


Xem thêm: Top 10 Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN từ 11 - 20

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 1
(có 1 lượt vote)

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 2

Ở Việt Nam, nghề giáo luôn được xã hội trân trọng, tôn vinh là “nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý”. Người dạy học được gọi là thầy giáo, cô giáo và được coi là “kỹ sư tâm hồn”, không chỉ dạy chữ mà còn dạy cách làm người, hình thành và phát triển nhân cách người học. Xã hội càng tôn trọng nghề dạy học càng đòi hỏi rất cao năng lực và phẩm chất đạo đức của nhà giáo. Do tính chất đặc biệt của nhà giáo nên xã hội luôn mong muốn và yêu cầu cao về đạo đức nghề nghiệp của họ.


Nhà giáo được xã hội tôn vinh bởi sứ mệnh trồng người cao cả. Các nhà tư tưởng, nhà giáo dục lớn xưa và nay đều đánh giá rất cao vai trò của nhà giáo đối với sự nghiệp giáo dục, phát triển xã hội. Luôn coi trọng phẩm chất đạo đức của nhà giáo, coi đó là thành tố cơ bản, nền tảng trong nhân cách nhà giáo. Ở phương Đông cổ đại, Nho giáo coi mối quan hệ thầy trò là một trong ba mối quan hệ then chốt của xã hội: quân - thần, sư - đệ, phụ - tử và yêu cầu “thầy ra thầy”, “trò ra trò”. Triết gia Hy Lạp cổ đại Platon cho rằng: người thợ giày tồi thì quốc gia không quá lo lắm, dân chúng sẽ phải xỏ những đôi giày xấu. Nhưng người thầy mà dốt nát, vô luân thì đất nước sẽ xuất hiện những người kém cỏi xấu xa. Nghề dạy học lấy con người làm đối tượng để tác động, làm biến đổi và phát triển nhận thức, tư tưởng, tình cảm của người học. Các giá trị văn hóa của nhân loại qua bàn tay của người thầy được kết tinh và truyền thụ cho các thế hệ kế tiếp để đào tạo ra những con người có phẩm chất, năng lực phục vụ cho sự phát triển của xã hội. Thành quả của quá trình lao động sư phạm là đào tạo ra những con người mới với nhân cách hoàn chỉnh. Đạt được mục tiêu đó, vai trò của nhà giáo rất quan trọng, họ vừa là người thiết kế, vừa là người thi công trong quá trình dạy học. Đạo đức của họ là tấm gương sống để người học noi theo. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Dạy các cháu thì nói với các cháu chỉ là một phần, cái chính là phải cho các cháu nhìn thấy, cho nên những tấm gương thực tế là rất quan trọng. Muốn dạy cho trẻ em thành người tốt thì trước hết các cô, các chú phải là người tốt”(1).


Ph.Ăngghen khi bàn về đạo đức nghề nghiệp đã viết: “Trong thực tế, mỗi giai cấp và ngay cả mỗi nghề nghiệp đều có đạo đức riêng của mình”(2). Trong lao động sản xuất, trong hoạt động nghề nghiệp cần có những quy tắc, chuẩn mực đạo đức cùng với pháp luật để điều chỉnh hoạt động của các thành viên. Theo đó, đạo đức nghề nghiệp là những quy tắc, chuẩn mực phản ánh mối quan hệ giữa con người với công việc, con người với con người nhằm điều chỉnh nhận thức, thái độ, hành vi của những người hoạt động trong một lĩnh vực nghề nghiệp dựa trên sức mạnh của dư luận xã hội và lương tâm của mỗi người nhằm đáp ứng với đòi hỏi đặc thù do tính chất, đặc điểm nghề nghiệp đặt ra. Do đặc trưng nghề nghiệp khác nhau nên bên cạnh những chuẩn mực đạo đức chung, mỗi nghề nghiệp lại có những quy tắc, chuẩn mực đạo đức đặc trưng, nhất là những hoạt động nghề nghiệp có tính chất chuyên môn hóa cao. Những nghề nghiệp liên quan đến con người càng cần những yêu cầu về đạo đức cao hơn. Chẳng hạn như nghề y - nghề trị bệnh cứu người đòi hỏi đạo đức của người thầy thuốc phải là “Lương y như từ mẫu”. Đối với nghề giáo cũng vậy, đạo đức nghề nghiệp của người thầy luôn phải được đề cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: đối với người Việt Nam nói riêng, người phương Đông nói chung, một tấm gương sáng còn hơn trăm bài diễn thuyết. Hoạt động dạy học được tiến hành bằng nhiều phương thức, trong đó có một phương thức rất đặc biệt là lấy nhân cách tác động đến nhân cách, dùng nhân cách người thầy để cảm hóa học trò. Do vậy, nhà giáo phải là tấm gương mẫu mực, luôn nêu gương về đạo đức để những giá trị tốt đẹp của người thầy được nhân lên trở thành phổ biến ở người học. Đạo đức của họ gắn với đặc trưng của nghề dạy học mang tính mô phạm, chuẩn hóa rất cao, vừa dạy người, vừa dạy chữ, dạy nghề.


Đạo đức nghề nghiệp là nền tảng trong nhân cách nhà giáo. Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của họ được duy trì thành nền nếp trong nhà trường dựa trên hệ thống các khuôn phép, quy tắc đạo đức nhằm định hướng, điều chỉnh nhận thức, đánh giá thái độ, hành vi của nhà giáo phù hợp với yêu cầu mô phạm của nghề dạy học. Với nghề dạy học, người dạy muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ phải luôn tinh thông về nghề nghiệp, tiêu biểu về tri thức khoa học, tư tưởng chính trị, văn hóa, đạo đức, lối sống. Như vậy, đạo đức nghề nghiệp của nhà giáo không phải là thành tố biệt lập mà có quan hệ mật thiết với các thành tố khác trong nhân cách của nhà giáo luôn gắn bó hữu cơ với năng lực, tài nghệ sư phạm của nhà giáo.

Phẩm chất đạo đức nghề nghiệp cao nhất của nhà giáo là yêu nghề, yêu người. Những năm 60 của thế kỷ trước, Trường Bắc Lý ở nước ta đã vang lên thông điệp: “Tất cả vì học sinh thân yêu”. Thông điệp này đã nói lên chiều sâu về phẩm chất đạo đức của nhà giáo, có phẩm chất này nhà giáo sẽ có các phẩm chất cao quý nhất của đạo làm thầy. Tình yêu nghề, yêu người của nhà giáo càng sâu sắc thì càng tác động mạnh mẽ đến người học, trở thành những tấm gương cho người học noi theo và là một thành tố quan trọng để quá trình giáo dục đạt kết quả cao. Nội dung cốt lõi của chuẩn mực đạo đức này là sự toàn tâm, toàn ý với người học và nghề dạy học. Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng quyết tâm dạy thật tốt, có ý chí quyết tâm phấn đấu vươn lên, miệt mài với từng bài giảng, thường xuyên đúc rút kinh nghiệm và vận dụng sáng tạo trong hoạt động sư phạm, như Bác Hồ nói: “Dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua dạy tốt, học tốt”.


Tình yêu nghề của nhà giáo còn thể hiện ở niềm tin sư phạm sâu sắc, tôn trọng, yêu mến, nhân ái, độ lượng, bao dung người học. Nhà giáo biết vui với cái vui, cái thành đạt của người học, song cũng biết buồn với cái buồn, cái thất bại của người học. Khi người học tiến bộ, nhà giáo cảm thấy phấn khởi, song khi người học làm điều sai thì người dạy cũng phải thấy trong đó có phần lỗi của mình, không vội trách người học mà trước hết bản thân mình phải có sự day dứt. Đây là động lực giúp nhà giáo vươn lên chiếm lĩnh những đỉnh cao tri thức, sư phạm và tu dưỡng rèn luyện đạo đức nghề nghiệp. Coi sự nghiệp trồng người mà mình được tham gia là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của nhà giáo.

Trong thời đại kinh tế tri thức, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin truyền thông đang đặt ra yêu cầu phải đổi mới nội dung, phương pháp dạy học. Sự đổi mới này trước hết phải bắt đầu từ đội ngũ nhà giáo. Nhà giáo giờ đây phải miệt mài lao động để cô đọng hệ thống kiến thức, đảm bảo những kiến thức này là cơ bản nhất, hiện đại nhất, hữu ích nhất cho người học. Họ vừa phải biết giảng giải cho người học, vừa phải biết thiết kế bài học, hướng dẫn người học thi công, vừa phải biết dẫn dắt để người học lĩnh hội, giác ngộ, vừa phải biết đưa người học thành người hợp tác, cộng tác với thầy giáo, cô giáo, với bạn để tìm ra chân lý và thực hành chân lý một cách sáng tạo theo những kiến thức đã được tiếp nhận. Nhiệm vụ này rất nặng nề, nhưng nhà giáo không phải là thợ giảng mà phải là nhà giáo dục để hoàn thiện nhân cách người học. Ở đó, đạo đức nghề nghiệp là nền tảng, động lực để nhà giáo hoàn thành sứ mệnh vẻ vang của mình. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt. Trên nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt, phải phấn đấu nâng cao chất lượng văn hóa và chuyên môn nhằm thiết thực giải quyết các vấn đề do cách mạng nước ta đề ra và trong một thời gian không xa, đạt những đỉnh cao của khoa học và kỹ thuật”(3).


Nghề dạy học là một nghề lao động đặc biệt, đòi hỏi phải đầu tư thời gian và công sức nhiều, nhưng không phải là nghề có thu nhập cao. Trong nền kinh tế thị trường, việc trả công cho các ngành nghề được tính theo hao phí sức lao động và hiệu quả làm việc. Giữa các nghề có sự cạnh tranh trong việc thu hút nguồn nhân lực. Nghề nào có thu nhập cao hơn sẽ thu hút nguồn nhân lực có chất lượng hơn. Trong những năm vừa qua, mặc dù ngành giáo dục đã được Đảng, Nhà nước quan tâm, nhưng đời sống của nhà giáo vẫn còn rất nhiều khó khăn, nhất là đối với các nhà giáo ở vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Mùa tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2017 vừa qua, nhiều trường sư phạm có điểm trúng tuyển rất thấp. Ngành sư phạm chưa thu hút được nhân tài có nguyên nhân quan trọng là chế độ đãi ngộ với nhà giáo còn kém hấp dẫn.


Với truyền thống hiếu học và tinh thần “tôn sư trọng đạo”, người thầy và nghề dạy học ở nước ta luôn được tôn vinh. Trong thực tế có rất nhiều tấm gương các nhà giáo hết lòng yêu nghề. Họ đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp giáo dục và được rất nhiều thế hệ học trò kính trọng. Có rất nhiều thầy, cô giáo, nhất là ở vùng sâu, vùng xa đã vượt qua rất nhiều khó khăn về vật chất và tinh thần để cống hiến công sức, trí tuệ cho sự nghiệp “trồng người” vẻ vang. Tuy nhiên, trong những năm vừa qua ngành giáo dục và xã hội không khỏi đau lòng trước hiện tượng có những giáo viên thiếu chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp như bạo hành, lăng mạ học sinh, nhất là những vụ việc bạo hành trẻ em ở một số trường mầm non. Thiếu gương mẫu trong lời nói, việc làm, đánh giá không khách quan người học… Những hiện tượng này tuy chỉ là “con sâu bỏ rầu nồi canh”, nhưng dễ tạo nên bức xúc và phản cảm trong xã hội. Những sự việc này nếu không được nhìn nhận thấu đáo, khách quan sẽ dẫn đến đánh giá quy chụp nghề giáo và đội ngũ giáo viên hiện nay.


Để nhà giáo và đạo đức nghề nghiệp của họ được tôn vinh cần phải có những giải pháp cơ bản. Trước hết, cần tăng cường công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống đối với đội ngũ nhà giáo hiện nay. Gắn hoạt động này với các phong trào, cuộc vận động trong ngành giáo dục và việc “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Kịp thời chỉnh đốn, uốn nắn, xử lý nghiêm những sai phạm của một số giáo viên vi phạm tư cách và đạo đức nhà giáo. Những biện pháp này cần được thực hiện thường xuyên, lâu dài và thực chất để xây dựng hình ảnh nhà giáo mẫu mực, làm gương sáng cho học trò noi theo.


Thực hiện giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Quốc sách ở đây không phải là lý thuyết hay khẩu hiệu mà phải biến thành chính sách và hành động thực tế. Do đó, cần nắm bắt, giải quyết tốt nguyện vọng và các lợi ích chính đáng, thiết thực của đội ngũ nhà giáo, để kịp thời động viên họ yên tâm công tác, ra sức học tập, phấn đấu trau dồi hơn nữa chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp. Quan tâm thực hiện tốt chế độ ưu đãi, khen thưởng, đảm bảo điều kiện làm việc, sinh hoạt đối với nhà giáo, nhất là những nhà giáo có trình độ, có học hàm, học vị cao, có nhiều cống hiến cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Mặt khác, khi xem xét, giải quyết và bảo đảm các chế độ, chính sách đối với đội ngũ nhà giáo phải thực sự dân chủ, công khai, công bằng, kịp thời, chính xác. Kiên quyết đấu tranh, lên án và khắc phục kịp thời mọi biểu hiện vi phạm trong thực hiện các chế độ, chính sách của Đảng, Nhà nước, của ngành giáo dục đối với các nhà giáo.


Để xứng đáng với sứ mệnh vẻ vang và cao cả trong sự nghiệp trồng người, xứng đáng với sự tôn vinh và niềm tin yêu của xã hội, bản thân mỗi nhà giáo phải luôn có nhận thức đúng đắn, sâu sắc về vị thế của nghề sư phạm, trọng trách cao cả của họ trong xã hội. Tích cực tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, tác phong, lối sống để mỗi nhà giáo thực sự là những tấm gương sáng về nhân cách, đạo đức cho học sinh noi theo. Bởi lẽ, sự tôn vinh, kính trọng đối với nhà giáo không chỉ ở kiến thức uyên thâm hay ở tài nghệ sư phạm mà quan trọng hơn cả là ở sự mô phạm về phẩm chất đạo đức, lòng yêu nghề, yêu trò và sự mẫu mực trong lối sống, ở giá trị cao cả và trong sáng của nhân cách nhà giáo. Sự rèn luyện, phấn đấu này là thường xuyên, liên tục: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”(4). Mặt khác, đội ngũ nhà giáo phải không ngừng học tập và tự học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt, phải luôn tìm tòi, sáng tạo và đổi mới trong nghiên cứu, giảng dạy. Những thói quen theo kiểu lối mòn, nếp cũ không còn phù hợp cần được thay đổi, không được bằng lòng hay thoả mãn với trình độ hiện có của mình. Không được có thái độ coi thường, hạ thấp và xem nhẹ vấn đề học tập và tự học tập nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ lý luận, kỹ năng nghiệp vụ sư phạm, năng lực quản lý. Thực hiện nghiêm các quy định về chuẩn mực đạo đức nhà giáo do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định(5), cũng như các quy định của pháp luật cán bộ, công chức, viên chức. Đồng thời, nhà giáo phải luôn làm mới chính mình bằng những tri thức mới, những thông tin mới, bài giảng mới. Cần thuyết phục người học bằng chính sự uyên bác về kiến thức, trình độ chuyên môn và trí tuệ của mình. Các thầy, cô giáo cần có thái độ kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn những nhận thức, hành vi không đúng, những biểu hiện tiêu cực làm ảnh hưởng đến uy tín, phẩm giá, tư cách của nhà giáo.


Các thầy, cô giáo phải thực sự là tấm gương sáng về đạo đức để người học noi theo. Đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ nhà giáo có vai trò rất quan trọng, góp phần quyết định đến chất lượng, hiệu quả hoạt động sư phạm và nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo của đất nước. Mỗi nhà giáo phải luôn rèn luyện đạo đức nghề nghiệp để xứng đáng với sự tôn vinh và niềm tin yêu của xã hội.


Xem thêm: Top 10 Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN từ 11 - 20

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 2
(có 5 lượt vote)

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 3

Rèn luyện phong cách làm việc khoa học của người GVMN


Giáo viên mầm non là người thầy đầu tiên và quan trọng, dạy trẻ những bài học đầu tiên của cuộc đời, là người ươm mầm nhân cách cho trẻ. Đây là nghề có tính đặc thù. Đặc điểm của nghề này là ngòai chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, các bạn trẻ phải có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc và lòng yêu trẻ. Là người thầy biết vị tha, chu đáo, gần gũi và nâng niu trẻ em. Giáo viên mầm non không chỉ dạy mà còn phải dỗ, không chỉ giáo dục mà còn phải chăm sóc trẻ và điều quan trọng hơn hết đây là nghề “làm việc tình yêu”.


Để trở thành giáo viên mầm non, bạn phải có lòng yêu trẻ vì đặc thù của nghề này đòi hỏi giáo viên tình yêu của người mẹ đối với trẻ. Trong một ngày, hầu hết thời gian sinh họat của trẻ là ở trường với cô. Cô làm mẹ cho bé ăn, dỗ ngủ. Cô làm thầy dạy cho bé tất cả mọi điều cần thiết đầu đời như: kỹ năng sống, kiến thức về môi trường xung quanh, về tóan, văn học, thẩm mỹ, hội họa, âm nhạc, phát triển thể chất,… ngòai ra, trẻ còn mong chờ ở cô sự quam tâm, chăm sóc, sự giúp đỡ, trìu mến và bảo vệ trẻ…Với thời gian 8 tiếng, có khi là 10 tiếng mỗi ngày, các cô được chứng kiến rất nhiều họat động của trẻ. Nào là tiếng trẻ khóc, tiếng trẻ vui đùa, trẻ chạy nhảy, trẻ va vào nhau, trẻ ngã, trẻ đánh nhau… về nhà các cô phải sọan giáo án, đồ dùng dạy học, làm đồ chơi… đòi hỏi người giáo viên phải rất yêu trẻ, yêu nghề.


Giáo viên phải luôn giữ vững sự bình tĩnh, dịu dàng, yêu thương trẻ.

Họat động trong một ngày của giáo viên mầm non:

- Buổi sáng, các cô đến trường mở cửa phòng, thông thóang phòng ốc

- Kê bàn, ghế chuẩn bị tiết học

- Thể dục buổi sáng

- Thực hiện tiết học chính

- Kết thúc giờ học, làm vệ sinh chân tay sạch sẽ trước khi ăn trưa

- Cô phụ giúp một số cháu khó ăn.

- Kết thúc giờ ăn là giờ ngủ của cháu(các cô thay phiên nhau trực trưa)

- Đầu giờ chiều, tập thể dục đầu giờ chiều cho các cháu thỏai mái tinh thần.

- Chẩn bị cho trẻ ăn xế.

- Trước khi về vệ sinh các cháu sạch sẽ, thay quần áo mới, thu dọn đồ đạc cá nhân vào ba lô của các cháu mang về nhà.

Tuy công việc hàng ngày của các cô hơi nhiều nhưng trong mọi họat động, các cô đều tìm thầy niềm vui trong công việc.


Xem thêm: Top 10 Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN từ 11 - 20

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 3
(có 1 lượt vote)

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 4

Sinh hoạt chuyên môn ở cơ sở GDMN


Bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên trực tiếp làm công tác giảng dạy tại các trường mầm non luôn là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu, được các trường mầm non quan tâm thực hiện, với nội dung và hình thức phong phú. Trong các hình thức bồi dưỡng chuyên môn, sinh hoạt chuyên môn (SHCM) là 1 hoạt động được thực hiện thường xuyên, góp phần nâng cao kiến thức và kỹ năng cho giáo viên mầm non, được trường ..............quan tâm thực hiện có hiệu quả, góp phần nâng cao nhận thức, kỹ năng cho toàn thể đội ngũ giáo viên nhà trường, đáp ứng nhu cầu chăm sóc giáo dục trẻ trong giai đoạn đổi mới giáo dục hiện nay.


Hoạt động sinh hoạt chuyên môn theo truyền thống trong những năm qua nhìn chung đã mang lại những hiệu quả to lớn, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Từ việc nâng cao năng lực quản lý và năng lực hoạt động chuyên môn cho CBQL và GV trong nhà trường, giúp CBQL, GV MN đổi mới trong tư duy và sinh hoạt chuyên môn theo hướng tăng cường hình thức trải nghiệm trong tổ chức các hoạt động cho trẻ ở trường mầm non; Phát huy rõ nét tính tích cực của học sinh trong khám phá, lĩnh hội tri thức.


Tuy nhiên, sinh hoạt chuyên môn tại trường mầm non ...........cũng không tránh khỏi 1 số hạn chế chung mà đa số các trường mầm non đều mắc phải, đó là:


- Việc thực hiện sinh hoạt chuyên môn còn nặng về hình thức, thể hiện trên hồ sơ sổ sách, đảm bảo đủ số lượng buổi sinh hoạt theo quy định, chưa có sự đổi mới nâng cao chất lượng trong nội dung sinh hoạt.

- Các hoạt động SHCM mang tính biểu diễn, làm mẫu, được tập duyệt nhiều lần trước khi cho giáo viên dự giờ, dẫn đến đa số trẻ mất đi sự hứng thú, tự nhiên trong hoạt động.

- Giáo viên thường coi hoạt động tổ chức trong buổi SHCM là hoạt động mẫu, lý tưởng, ít có nội dung thảo luận, phản biện vấn đề đề tìm giải pháp ưu việt hơn.

- Đôi khi, chính sự tham gia của những người dự giờ làm ảnh hưởng đến hoạt động của trẻ. Đa số giáo viên dự tập trung soi xét đánh giá hoạt động của người dạy, theo các khuôn mẫu nhất định, ít quan tâm đến quá trình hoạt động của trẻ và hiệu quả hoạt động trên trẻ.


SHCM theo nghiên cứu bài học là hoạt động giáo viên cùng nhau học tập từ thực tế việc học của trẻ tại lớp. Ở đó, giáo viên cùng nhau thiết kế hoạch bài học, cùng dự giờ quan sát, suy ngẫm và chia sẻ (tập trung chủ yếu vào việc học của trẻ) bài học. Đồng thời đưa ra những nhận xét về sự tác động của lời giảng, các câu hỏi, các nhiệm vụ học tập mà giáo viên đưa ra,... có ảnh hưởng đến việc học của trẻ. Việc tìm hiểu việc học của trẻ là để nhận diện được tình trạng học tập của mỗi trẻ khác nhau, những khó khăn, sai lầm và các yếu tố đang cản trở (hay thúc đẩy) việc học tập của trẻ và tìm ra cách thức để tác động phù hợp, hiệu quả hơn.Trên cơ sở đó, giáo viên được chia sẻ, học tập lẫn nhau, rút kinh nghiệm và điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy học vào bài học hàng ngày một cách hiệu quả.


Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học đảm bảo cơ hội học tập và phát triển cho mọi trẻ em mang lại ý nghĩa to lớn trong quá trình bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, đảm bảo cơ hội phát triển chuyên môn cho mọi giáo viên, góp phần xây dựng mỗi nhà trường trở thành cộng đồng học tập.


SHCM theo nghiên cứu bài học không nhằm đánh giá, xếp loại giờ dạy mà ở đó giáo viên được khuyến khích học tập lẫn nhau, cùng nhau tìm nguyên nhân tại sao trẻ học/không học, trẻ có hứng thú- không có hứng thú với hoạt động của cô, đồng thời đề xuất các biện pháp để giúp tất cả trẻ học tập thực sự. Qua quá trình đó giáo viên sẽ có khả năng tự điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy học một cách linh hoạt, phù hợp với đối tượng trẻ của lớp mình.


Trong quá trình thực hiện, chúng tôi rút ra 1 số bài học kinh nghiệm như sau:

Thứ nhất: Đổi mới SHCM theo nghiên cứu bài học phải chú trọng từ việc thay đổi nhận thức, hành vi của các bên tham gia, từ CBQL chỉ đạo chuyên môn trong cách thức hướng dẫn giáo viên dạy, đến nhận thức của giáo viên dự giờ trong cách thức nhận xét đánh giá chất lượng giờ dạy, sau đó mới có thể thay đổi tư duy của người dạy SHCM, giúp người dạy SHCM tự tin trong thể hiện. Bên cạnh đó, cần tạo cơ hội cho tất cả giáo viên được tham gia dạy SHCM, bao gồm cả giáo viên chưa có nhiều kinh nghiệm, không chỉ tập trung ở 1 vài giáo viên khá tốt thường xuyên tam gia dạy.


- Thứ hai: Đổi mới sinh hoạt chuyên môn phải bắt đầu từ việc đổi mới về nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức các hoạt động trong Kế hoạch sinh hoạt chuyên môn của trường, tổ chuyên môn:


+ Về nội dung, nội dung SHCM theo hướng NCBH cần đa dạng, phong phú, kế hợp hài hòa giữa lý thuyết và thực hành, lấy lý luận về hình thức, nội dung, phương pháp tổ chức các hoạt động trải nghiệm làm cơ sở lý luận cho việc tổ chức các hoạt động giáo dục, đồng thời tăng cường các hoạt động thực hành làm minh chứng cho lý luận. Các nội dung đưa vào SHCM cần bắt nguồn từ nhu cầu của giáo viên, của học sinh chứ không chỉ là chỉ đạo một chiều theo mong muốn chủ quan của Ban giám hiệu nhà trường. Mặt khác, cần mở rộng nội dung sinh hoạt tới tất cả các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ như hoạt động ăn, ngủ, lao động, vệ sinh, vui chơi…, không gói gọn trong các hoạt động học ở trên lớp.


+ Về phương pháp, cần linh hoạt, tránh gò bó, khuôn mẫu, áp đặt giáo viên theo lối mòn. Khuyến khích giáo viên thử nghiệm những đề tài mới, phương pháp mới, trên những đồ dùng, thiết bị mới. Cần xác định hoạt động tổ chức trong buổi SHCM là hoạt động minh họa chứ không phải là hoạt động mẫu, lý tưởng, khuyến khích giáo viên trao đổi, thảo luận dân chủ để tìm ra những hướng đi đúng, những cách làm hay. Sinh hoạt chuyên môn cần phải thay đổi và đi vào chiều sâu như coi trọng sinh hoạt cho giáo viên về đổi mới phương pháp dạy học, cập nhật và chia sẻ những kinh nghiệm về tổ chức các hoạt động dạy học, giải quyết các tình huống trong dạy học; kĩ năng dự giờ, đánh giá giờ dạy; Dành thời gian nhiều hơn cho việc phân tích, đánh giá và rút kinh nghiệm các giờ dạy đã được giáo viên trong tổ, nhóm chuyên môn dự giờ. Khi thảo luận cần quan tâm đến quá trình hoạt động của trẻ ra sao, thái độ của trẻ với hoạt động như thế nào, việc tác động của giáo viên tới hoạt động của trẻ có hợp lý hay không…chứ không chỉ quan tâm đến phương pháp tổ chức đặc trưng của từng hoạt động.


+ Về hình thức, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chuyên môn và nhà trường, để sinh hoạt chuyên môn các cấp tổ, trường…không bị chồng chéo về nội dung và thời gian tổ chức. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong việc bồi dưỡng chuyên môn. Chẳng hạn: lập hòm thư tổ/trường để cùng chia sẻ thông tin, hướng dẫn chia sẻ kinh nghiệm khai thác tài nguyên phục vụ bồi dưỡng chuyên môn trên mạng (violet, trang web của Bộ, Sở,...). Các buổi sinh hoạt chuyên môn nên giảm tính hành chính (họp hành, đánh giá, triển khai... có thể đưa lên hòm thư nội bộ hoặc dán/thông báo lên bảng tin), dành thời gian chia sẻ kinh nghiệm, lên chuyên đề,... tập trung tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho giáo viên trong chuyên môn.


- Thứ ba: Cần chú trọng bồi dưỡng năng lực tổ chức điều hành cho đội ngũ tổ trưởng những người chủ trì các buổi SHCM vì thực tế cho ta thấy buổi sinh hoạt chuyên môn thành công phụ thuộc rất nhiều vào khả năng và chuyên môn của người chủ trì. Tổ trưởng tổ chuyên môn phải nêu được vấn đề cần thảo luận, như vị trí, vai trò, các hình thức tăng cường hoạt động trải nghiệm cho trẻ, xây dựng môi trường hoạt động trải nghiệm cho trẻ, các tác động của giáo viên đối với hoạt động của trẻ thế nào là phù hợp và hiệu quả…, hướng giáo viên đến các tình huống có vấn đề và thống nhất quan điểm chung với vấn đề đưa ra thảo luận. Cần tăng cường quản lý chặt chẽ của BGH nhà trường tới các hoạt động sinh hoạt chuyên môn để định hướng, giúp đỡ tổ chuyên môn khi cần.


- Thứ tư: Cần xây dựng một nề nếp sinh hoạt chuyên môn ổn định, chất lượng. Trong đó, việc tổ chức các hoạt động sinh hoạt chuyên môn cần thường xuyên, đúng kế hoạch. Có sự điều chỉnh, bổ sung trong suốt năm học và năm sau để sinh hoạt chuyên môn hiệu quả và phong phú hơn.

Qua tổ chức thực hiện SHCM theo hình thức nghiên cứu bài học, cùng với việc triển khai có hiệu quả mô hình xây dựng môi trường GD lấy trẻ làm trung tâm, chất lượng đội ngũ giáo viên nói riêng, chất lượng CSGD trẻ của nhà trường nói chung đã có nhiều khởi sắc. Đa số giáo viên trong nhà trường đã mạnh dạn, tự tin hơn trong xây dựng kế hoạch và tổ chức các hoạt động. Các buổi SHCM của nhà trường không còn là những “màn biểu diễn điêu luyện” của 1 vài giáo viên cốt cán, mà thực sự là không gian cho tất cả giáo viên giao lưu, trao đổi, chia sẻ tri thức, góp phần hình thành nên một môi trường học tập tích cực tại nhà trường.


Xem thêm: Top 10 Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN từ 11 - 20

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 4
(có 1 lượt vote)

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 5

Hoạt động tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ của GVMN.


Bậc mầm non là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, có nhiệm vụ chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục giúp trẻ phát triển toàn diện. Chính vì vậy, việc bồi dưỡng chuyên môn, nâng cao năng lực cho đội ngũ giáo viên mầm non luôn là mục tiêu đặt ra hàng đầu đối với các cán bộ quản lí nhà trường.


Trong bài viết dưới đây, KidsOnline xin tổng hợp một số những biện pháp hữu ích giúp cán bộ, quản lí nhà trường có thể chủ động xây dựng kế hoạch và có những cách thức phù hợp nhằm bồi dưỡng chuyên môn đội ngũ giáo viên mầm non.


Biện pháp 1: Nâng cao trình độ trên chuẩn của giáo viên

Để thực hiện tốt công tác bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên cần phải xây dựng kế hoạch cụ thể xuất phát từ nhu cầu đào tạo của từng giáo viên (những giáo viên nào cần được nâng cao trình độ? Về vấn đề gì?). Đồng thời, lập kế hoạch bồi dưỡng dài hạn nhằm xác định mục tiêu và định hướng đào tạo nhân lực ( Số lượng khóa đào tạo, thời gian diễn ra, kết quả dự tính đạt được,…). Tham mưu với hiệu trưởng tạo mọi điều kiện thuận lợi cho giáo viên đi học nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ ở các trường sư phạm.

Ngoài việc được tham gia các lớp tập huấn, khóa đào tạo nghiệp vụ, trong quá trình làm việc giáo viên đều phải có ý thức tự học: tham gia các buổi dự giờ, sinh hoạt chuyên môn cùng đồng nghiệp, tham quan các trường bạn về cách sắp xếp, tổ chức môi trường hoạt động cho trẻ,… chủ động học và tìm hiểu thêm một số kỹ năng cần thiết trong công tác giảng dạy như: các kĩ năng phòng – xử trí các bệnh và tai nạn thường gặp ở trẻ, kĩ năng ứng xử sư phạm,…


Biện pháp 2: Bồi dưỡng giáo viên chủ động xây dựng hồ sơ

Để công tác bồi dưỡng chuyên môn giáo viên đạt hiệu quả cao, người quản lí cần phải hiểu rõ giáo viên của mình: trình độ chuyên môn, cá tính, năng lực sư phạm, sở trường trong từng hoạt động, những hạn chế và yếu kém trong công tác giảng dạy,…Bồi dưỡng giáo viên xây dựng bộ hồ sơ, giáo án là một trong những phương pháp hữu hiệu giúp đánh giá năng lực, trình độ của giáo viên để từ đó đưa ra điều chỉnh phù hợp nhằm cải thiện và nâng cao năng lực cho họ.

Vd: Một số giáo viên còn yếu về năng lực soạn bài, cần tìm hiểu nguyên nhân cụ thể:

+ Giáo viên chưa biết phương pháp soạn

+ Chưa xác định được mục đích yêu cầu bài

+ Phương pháp biện pháp để ra trong bài soạn chưa chính xác, chưa hợp lí.


Biện pháp 3: Bồi dưỡng kiến thức tổ chức các hoạt động

Bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ giáo viên qua tiết dạy (dự giờ, thao giảng, kiến tập) giúp nhà quản lí đánh giá đúng năng lực, trình độ của từng giáo viên, phân loại theo nhóm để áp dụng kế hoạch bồi dưỡng phù hợp với từng nhóm giáo viên.

Vd: Cô B dạy lớp trẻ 4-5 tuổi chưa biết cách gây hứng thú để trẻ tập trung vào bài học. Sau tiết dự giờ, cán bộ quản lí sẽ đưa ra nhận xét và phân tích cho cô B hiểu về tầm quan tọng của việc gây hứng thú cho trẻ trước khi bước vào bài học và đưa ra gợi ý hướng giải quyết vấn đề cô B đang gặp phải.


Biện pháp 4: Đẩy mạnh sinh hoạt tổ chuyên môn

Một biện pháp không thể thiếu trong công tác bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ giáo viên là đẩy mạnh sinh hoạt tổ chuyên môn. Ngay từ khi bắt đầu năm học, người quản lí cần phân công giáo viên phù hợp với các tổ dựa theo năng lực và trình độ. Khi chọn tổ trưởng cho mỗi tổ chuyên môn cần chọn lựa những giáo viên có năng lực chuyên môn, nhiệt tình năng động, có khả năng lãnh đạo để dẫn dắt và điều hành tổ.


Biện pháp 5: Bồi dưỡng thông qua các phong trào thi đua

+ Thi giáo viên dạy giỏi: Thông qua các hội thi giáo viên sẽ được thể hiện năng lực của bản thân, đánh giá điểm mạnh điểm yếu, rút kinh nghiệm và tự điều chỉnh để nâng cao trình độ, chuyên môn trong công tác giảng dạy.

+ Làm đồ dùng sáng tạo: Tổ chức cuộc thi làm đồ dùng mầm non không chỉ giúp giáo viên nắm được phương pháp và yêu cầu bài dạy mà còn tăng tính sáng tạo, chủ động tích cực trong việc tự nâng cao năng lực, trình độ của bản thân


Biện pháp 6: Thực hiện kiểm tra, thanh tra nội bộ

Kiểm tra, thanh tra nội bộ là chức năng, nhiệm vụ của các cấp quản lí nhà trường và xuyên suốt quá tình quản lí. Công tác kiểm tra, giám sát giúp đánh giá mặt mạnh, yếu của từng cá nhân trong đội ngũ để hoàn thiện tập thể. Kiểm tra định kỳ hay đột xuất nhằm nâng cao tính tự giác, chủ động của giáo viên và đảm bảo tính công bằng, khách quan.


Biện pháp 7: Phối hợp với các lực lượng trong và ngoài nhà trường


Kết hợp với đoàn thể ngoài trường thực hiện tốt công tác giáo dục, chăm sóc nói chung và bồi dưỡng năng lực đội ngũ giáo viên nói riêng như: Tham mưu kịp thời với hiệu trưởng đề nghị với các cấp chính quyền địa phương, Phòng giáo dục và dào tạo hỗ trợ trang thiết bị dạy học như máy tính, máy chiếu đa năng,…; Huy động phụ huynh học sinh mang đồ phế thải sẵn có để giúp giáo viên sáng tạo đồ dùng, đồ chơi mầm non…

Mỗi tháng tổ chức chuyên đề, kỹ năng phương pháp giảng dạy cho tổ chuyên môn thảo luận. Sau đó tổ chức dạy mẫu để thực hiện các chủ đề, chủ điểm nói trên. Bên cạnh đó, khảo sát lại năng lực chuyên môn của từng giáo viên thông qua dự giờ, thăm lớp. Đối với những giáo viên mới vào trường và giáo viên lớn tuổi cần có kế hoạch bồi dưỡng phù hợp.


Xem thêm: Top 10 Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN từ 11 - 20

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 5
(có 2 lượt vote)

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 6

Giáo dục mầm non theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm.


Giáo dục lấy trẻ làm trung tâm không chỉ truyền đạt kiến thức cho các cháu một cách thụ động mà các nhà giáo cần phải tạo ra các điều kiện, các cơ hội để mọi đứa trẻ được chủ động, sáng tạo, được tích cực hoạt động, tự chiếm lĩnh kiến thức và kinh nghiệm. Để đạt được điều này, người giáo viên cần nắm được hứng thú, nhu cầu, trình độ, khả năng của từng trẻ trong lớp, trên cơ sở đó lựa chọn được nội dung, phương pháp phù hợp với từng nhóm, từng cá nhân trẻ.

Giáo dục lấy trẻ làm trung tâm cần đảm bảo: Hứng thú, nhu cầu, kỹ năng, thế mạnh của mỗi trẻ đều được hiểu, đánh giá đúng và được tôn trọng. Mỗi trẻ đều có cơ hội tốt nhất để thành công.

Môi trường giáo dục trong trường mầm non là tổ hợp những điều kiện tự nhiên, xã hội cần thiết trực tiếp ảnh hưởng đến mọi hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ. Xây dựng môi trường giáo dục phù hợp góp phần thỏa mãn nhu cầu vui chơi và hoạt động của trẻ. Qua đó, nhân cách của trẻ được hình thành và phát triển toàn diện.


Do vậy khi xây dựng môi trường giáo dục cho trẻ trong trường mầm non cần đảm bảo các nguyên tắc sau:


  1. Thiết kế môi trường giáo dục phải hướng vào việc phát triển toàn diện của trẻ nhằm đạt được mục tiêu giáo dục mầm non và mục tiêu cuối độ tuổi, đồng thời phù hợp với mục đích tổ chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ; đảm bảo tính thẩm mỹ, an toàn tạo cho trẻ cảm giác được yêu thương, tôn trọng và đáp ứng các nhu cầu chính đáng.


  1. Bố trí, sắp xếp các khu vực chơi, hoạt động trong lớp và ngoài trời phù hợp với chủ đề, thuận tiện cho việc sử dụng của giáo viên và trẻ. Cần quy hoạch không gian hiện có của nhà trường để phân bố diện tích cho các hoạt động phù hợp với độ tuổi, sở thích, khả năng... của trẻ và phù hợp hoạt động chung của lớp, hoạt động nhóm hoặc cá nhân.


  1. Đảm bảo đủ và đa dạng các loại vật liệu, thiết bị, đồ dùng, đồ chơi phù hợp với từng chủ đề; thể hiện được rõ nét văn hóa của từng vùng miền để tạo cơ hội cho trẻ tham gia, vận dụng kiến thức, kỹ năng đã học vào việc xây dựng môi trường và kích thích sự phát triển toàn diện cho trẻ.


  1. Luôn tạo cơ hội và mở rộng mối quan hệ giao tiếp xã hội giữa trẻ với nhiều người giúp trẻ tự tin, tích cực, hứng thú với các hoạt động giáo dục phát triển toàn diện; sưu tầm và sáng tạo thêm trò chơi bằng cách thường xuyên thay đổi cách chơi, luật chơi để khích lệ trẻ tham gia, chủ động chơi- tập- thử nghiệm với các loại thiết bị, đồ dùng, đồ chơi; khuyến khích trẻ tự tạo ra đồ chơi, trò chơi theo ý tưởng riêng của mình; tổ chức cho trẻ tham gia các hoạt động chơi tự do, hội thi, lễ hội... để trẻ được trải nghiệm và “tập làm”.


  1. Tập trung tuyên truyền nâng cao nhận thức cho các bậc cha mẹ và cộng đồng về ý nghĩa của việc xây dựng môi trường giáo dục trong các trường mầm non; tạo nhiều cơ hội cho gia đình và cộng đồng được tham gia vào các hoạt động của nhà trường; xây dựng mối quan hệ tích cực đối với gia đình trẻ, phối hợp chặt chẽ với gia đình và cộng đồng trong chăm sóc, giáo dục trẻ; tôn trọng sự khác biệt và nhu cầu của mỗi gia đình để có những phối hợp với từng gia đình trong chăm sóc, giáo dục trẻ bằng nhiều hình thức, phương pháp nhằm thu hút các bậc cha mẹ và cộng đồng tham gia hiệu quả vào công tác xây dựng môi trường giáo dục trong trường mầm non.


Môi trường giáo dục trong trường mầm non gồm có môi trường bên trong và môi trường bên ngoài lớp học. Cả hai môi trường này đều rất quan trọng đến việc dạy và học của cô và trẻ. Trẻ em sẽ tham gia vào các hoạt động và các loại trò chơi khác nhau tùy thuộc vào môi trường mà trẻ đang hoạt động. Vì vậy trẻ cần có cơ hội để chơi và học ở môi trường bên trong và môi trường bên ngoài lớp học nhằm giúp trẻ phát triển toàn diện về mọi mặt.


Góc hoạt động trong lớp của các bé mẫu giáo lớn

*Môi trường trong lớp học


Trong lớp học không thể thiếu những góc chơi của trẻ, do đó để lớp học thêm lôi cuốn trẻ thì các cô giáo cần phải tạo một môi trường trong lớp học với những màu sắc sinh động và ngộ nghĩnh. Môi trường có không gian, cách sắp xếp phù hợp, gần gũi, quen thuộc với cuộc sống thực hằng ngày của trẻ; Khi thiết kế các góc hoạt động trong lớp giáo viên cần chú ý:

- Bố trí các góc hoạt động hợp lí: Góc hoạt động cần yên tĩnh bố trí xa góc hoạt động ồn ào, góc thư viện/sử dụng sách, tranh ở những nơi nhiều ánh sáng…


Các góc hoạt động có “ranh giới” rõ ràng, có lối đi cho trẻ di chuyển thuận tiện khi liên kết giữa các góc chơi. Sắp xếp các góc để giáo viên có thể dễ dàng quan sát được toàn bộ hoạt động của trẻ.


Tên hoặc ký hiệu các góc đơn giản, gần gũi với trẻ, được viết theo đúng quy định mẫu chữ hiện hành.Nhiều góc sẽ ở trong phòng và có góc sẽ được đưa ra ở ngoài trời.


Các góc phải được bày biện hấp dẫn. Có đồ chơi, học liệu và phương tiện đặc trưng cho từng góc. Học liệu, nguyên vật liệu, đồ dùng, đồ chơi trong góc hoạt động đóng vai trò không nhỏ trong quá trình học và chơi của trẻ. Vì vậy các đồ dùng và học liệu mà giáo viên cung cấp cho các góc hoạt động cần được lên kế hoạch thật cẩn thận để hỗ trợ giáo viên lên kế hoạch cho việc học của trẻ và để thu hút trẻ tham gia, cũng như tạo ra các cơ hội học tập khác.


Đồ dùng, đồ chơi, nguyên vật liệu, học liệu có giá đựng ngăn nắp, gọn gàng, để ở nơi trẻ dễ thấy, dễ lấy, dễ dùng, dễ cất. Đồ dùng, đồ chơi, nguyên vật liệu được thay đổi và bổ sung phù hợp với mục tiêu chủ đề/hoạt động và hứng thú của trẻ.

Có nguyên vật liệu mang tính mở (lá cây, hột hạt…), sản phẩm hoàn thiện, sản phẩm chưa hoàn thiện…Có sản phẩm mua sẵn, sản phẩm cô và trẻ tự làm, sản phẩm của địa phương đặc trưng văn hóa vùng miền (trang phục, dụng cụ lao động, nghề truyền thống…)Đồ dùng, đồ chơi, nguyên vật liệu an toàn, vệ sinh, phù hợp với thể chất và tâm lí của trẻ mầm non. Học liệu, thiết bị, đồ chơi được điều chỉnh để hỗ trợ trẻ khuyết tật (nếu có).


*Môi trường bên ngoài lớp học


Môi trường ngoài lớp học là yếu tố góp phần tích cực trong các hoạt động nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục toàn diện trẻ. Xây dựng môi trường ngoài lớp học phù hợp, an toàn, sạch đẹp, hấp dẫn sẽ tạo cơ hội cho trẻ hoạt động, đáp ứng nhu cầu chơi của trẻ.


Khi bố trí các góc/khu vực hoạt động ngoài trời cần lưu ý: Các góc/khu vực hoạt động ngoài trời cần được xác định rõ ràng; mỗi góc/khu vực hoạt động có nhiều loại học liệu, đồ chơi và phương tiện, trong đó có loại đặc trưng cho từng góc/khu vực, tạo cơ hội cho trẻ tham gia hoạt động; đồ chơi, học liệu, trang thiết bị ở các góc/khu vực hoạt động đảm bảo an toàn, vệ sinh: không có đồ sắc nhọn, không độc hại, được vệ sinh sạch sẽ, được bảo dưỡng định kì, sửa chữa kịp thời, tạo hình ảnh và ấn tượng riêng của trường/lớp.


Có thể nói việc xây dựng môi trường giáo dục trong trường mầm non đáp ứng yêu cầu của chuyên đề xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm là thực sự cần thiết và rất quan trọng. Thông qua chơi, nhân cách của trẻ được hình thành và phát triển toàn diện. Một môi trường sạch sẽ, an toàn, có sự bố trí khu vực chơi và học trong lớp và ngoài trời phù hợp, thuận tiện có ý nghĩa to lớn không chỉ đối với sự phát triển thể chất của trẻ, mà còn thỏa mãn nhu cầu nhận thức, mở rộng hiểu biết của trẻ, kích thích trẻ hoạt động tích cực, sáng tạo. Xây dựng tốt môi trường giáo dục trong trường mầm non là phương tiện, điều kiện để trẻ phát triển toàn diện về thể chất, ngôn ngữ, trí tuệ, khả năng thẩm mỹ, tình cảm và kỹ năng xã hội, tạo tiền đề vững chắc cho trẻ mầm non vào học lớp 1; phù hợp với phương châm của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo: "Học bằng chơi, chơi mà học".


Xem thêm: Top 10 Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN từ 11 - 20

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 6
(có 0 lượt vote)

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 7

I. Phần mở đầu:

Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, là nền tảng đầu tiên của ngành Giáo dục đào tạo. Chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ ở trường mầm non tốt có tác dụng rất lớn đến chất lượng giáo dục ở bậc học tiếp theo.


Giáo dục mầm non có mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng nhầm giáo dục toàn diện cho trẻ về thể chất, tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ, trí tuệ là cơ sở để hình thành nên nhân cách con người mới XHCN Việt Nam và chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho trẻ bước vào trường tiểu học được tốt.


Như Bác Hồ kính yêu đã nói: “Giáo dục mầm non tốt sẽ mở đầu cho một nền giáo dục tốt”. Trường mầm non có nhiệm vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các cháu, bồi dưỡng cho các cháu trở thành người công dân có ích.

Vì vậy, trường mầm non có nhiệm vụ giáo dục trẻ có được những thói quen học tập, sinh hoạt hàng ngày. Muốn thực hiện được điều đó, trước hết người quản lý chỉ đạo phải toàn diện và về chuyên môn phải nhận thức đúng về nhiệm vụ, yêu cầu của ngành học, đồng thời nắm vững các chỉ tiêu, kế hoạch của Ngành học giao cho.


Năm học .......... là năm học toàn ngành tiếp tục thực hiện tốt cuộc vận động “Hai không” với 4 nội dung; Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục; Không vi phạm đạo đức nhà giáo và học sinh không ngồi nhầm lớp; Và cuộc vận động học tập làm theo tấm gương, đạo đức Hồ Chí Minh. Tiếp tục thực hiện tốt việc chỉ đạo, nâng cao chất lượng giáo dục là nội dung hàng đầu trong năm học ..............


Với trách nhiệm lớn lao của một người cán bộ quản lý, tôi luôn suy nghĩ làm thế nào để nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ được tốt. Đây là nhiệm vụ quan trọng và cần phải có sự nỗ lực phấn đấu, quyết tâm cao. Cần phải chú trọng công tác chuyên môn, làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục, công tác nâng cao chất lượng giáo dục trẻ nhằm duy trì và phát triển chất lượng giáo dục trong nhà trường ngày càng đi lên đáp ứng với yêu cầu sự nghiệp giáo dục mầm non trong thời đại hiện nay.


II. Nội dung:

  1. Cơ sở lý luận:

Chất lượng giáo dục quyết định sự hình thành và phát triển nhân cách con người. Có thể nói nhân cách con người trong tương lai như thế nào phụ thuộc lớn vào sự giáo dục của trẻ trong trường mầm non.

Trường mầm non là ngôi nhà thứ hai của trẻ. Vì vậy cần nâng cao chất lượng giáo dục trẻ toàn diện về Đức – Trí – Thể – Mỹ và lao động với nhiệm vụ là cán bộ quản lý của nhà trường, chỉ đạo hoạt động chuyên môn, việc xây dựng kế hoạch và chỉ đạo thực hiện theo kế hoạch, chỉ đạo thực hiện kiểm tra, đánh giá sự phát triển về giáo dục của trẻ, phương pháp dạy của giáo viên, đánh giá, khảo sát chất lượng giáo dục, xây dựng kỷ cương, nề nếp trong nhà trường, phát huy tinh thần tự học, tự bồi dưỡng; Nâng cao năng lực sư phạm, chỉ đạo thực hiện giáo dục một cách khoa học nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục trẻ đáp ứng với yêu cầu đổi mới trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.


  1. Cơ sở thực tiễn:

Trong những năm qua, việc nâng cao chất lượng giáo dục trẻ trong trường mầm non Quan Hoa còn có nhiều hạn chế: Do trình độ, chuyên môn, tay nghề của giáo viên chưa đồng đều; Đa số giáo viên vừa học vừa làm. Bên cạnh đó phụ huynh thiếu quan tâm, chăm sóc giáo dục con, cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ chơi ngoài trời chưa đáp ứng với yêu cầu đổi mới giáo dục (CSII). Vì vậy việc nâng cao chất lượng giáo dục trẻ nhằm thực hiện tốt chất lượng giáo dục phát triển, tiếp cận đổi mới giáo dục mầm non, phương pháp giáo dục trẻ một cách toàn diện góp phần thực hiện tốt cuộc vận động “Hai không” với bốn nội dung của Bộ Giáo dục và Đào tạo là cần thiết.


  1. Thực trạng:

3.1. Đặc điểm tình hình:

Năm học.......... nhà trường được đầu tư đầy đủ các phương tiện, trang thiết bị hiện đại như: Máy chiếu, ti vi, đầu đĩa, đài, đàn, máy quay, máy ảnh kỹ thuật số…(CSI)

Với quyết tâm phấn đấu đạt trường tiên tiến, vì vậy ngoài việc mua sắm trang thiết bị dạy học, đồ dùng, đồ chơi phục vụ chăm sóc, giáo dục trẻ còn cần phải có nhiều biện pháp tích cực để nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ.

Trong quá trình thực hiện việc nâng cao chất lượng giáo dục trẻ trường mầm non Quan Hoa gặp những thuận lợi và khó khăn sau:

  • Thuận lợi:

– Nhà trường luôn được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo quận, phường, và đặc biệt là sự chỉ đạo sâu sát, tận tình của lãnh đạo phòng giáo dục trong các hoạt động của nhà trường.

– Cơ cấu tổ chức ban giám hiệu phù hợp đặc điểm trường hạng hai.

– Ban giám hiệu chỉ đạo sâu sát đều tay.

– Đội ngũ nhà trường trẻ, khỏe, nhiệt tình, tận tụy, tâm huyết với nghề, yêu thương trẻ, có tinh thần trách nhiệm trong mọi công việc, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Tích cực tham gia học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và năng lực sư phạm cho bản thân.

– Cơ sở vật chất trang thiết bị, phương tiện hiện đại được đầu tư (CSI) đáp ứng yêu cầu giáo dục mầm non trong giai đoạn hiện nay.

– Hội phụ huynh của trường quan tâm, chăm lo đến việc học tập của các cháu, tích cực tham gia vào các hoạt động của nhà trường. (CSI)

– Tỷ lệ huy động trẻ vượt kế hoạch được giao.


* Khó khăn:

– Trường có hai cơ sở cách xa nhau.

– Cơ sở vật chất khu II do sử dụng đã trên 30 năm và xây dựng không cùng giai đoạn nên chất lượng đã xuống cấp trầm trọng và quy mô cũng chưa phù hợp mầm non.

– Nhiều giáo viên mới, nhà xa, có giáo viên còn thuê nhà ở. Số lượng giáo viên đi học nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để đạt trên chuẩn còn nhiều. Giáo viên vừa đi học, vừa đi làm nên ảnh đến chất lượng giáo dục và hiệu quả công tác. Năng lực chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề của giáo viên không đồng đều. Nhiều giáo viên mới ra trường trình độ tay nghề còn non nên cũng ảnh hưởng đến việc nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ trong nhà trường.

– Chất lượng khảo sát đầu năm (Phụ lục kèm theo)

Qua khảo sát chất lượng còn thấp, so với yêu cầu thì chưa đảm bảo. Trước tình hình thực trạng về chất lượng của nhà trường, tôi suy nghĩ tìm ra một số biện pháp chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trẻ trong trường mầm non Quan Hoa.


  1. Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục trong Trường..........

4.1. Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch chuyên môn

Trên cơ sở kế hoạch nhiệm vụ năm học các cấp đã chỉ đạo và hướng dẫn từ đó xây dựng kế hoạch năm học; kế hoạch tháng; kế hoạch tuần; xây dựng chế độ sinh hoạt; xây dựng kế hoạch chuyên môn: cụ thể chương trình dạy cho các khối lớp phù hợp , sát với tình hình của trường. Chỉ đạo giáo viên các nhóm lớp xây dựng kế hoạch hoạt động và được nhà trường phê duyệt mới thực hiện. Hàng tháng giáo viên báo cáo kế hoạch, lịch dạy của lớp cho nhà trường. Qua đó Ban giám hiệu có cơ sở để theo dõi, kiểm tra và có biện pháp chỉ đạo kịp thời tốt hơn.

Giao chỉ tiêu chất lượng cho từng khối, lớp:

– Dựa vào chất lượng của các lớp, giao chỉ tiêu chất lượng cho các khối cụ thể:

+ Mẫu giáo Lớn: Đạt 98%.

+ Mẫu giáo Nhỡ: Đạt 97%.

+ MG Bé + Nhóm trẻ: Đạt 95%.

– Chất lượng giao gắn với chỉ tiêu thi đua của lớp, của cá nhân vào cuối năm. Với biện pháp này giáo viên trăn trở, tìm tòi có nhiều biện pháp trong việc giáo dục trẻ, trong kế hoạch, phương pháp ôn luyện kiến thức cho trẻ thêm vào các thời điểm trong ngày.


4.2. Biện pháp 2: Thành lập tổ chuyên môn:

Tổ chuyên môn gồm có 5 đông chí đại diện cho các khối (Khối Lớn; Nhỡ; Bé; Nhà trẻ và tổ Dinh dưỡng) là lực lượng nòng cốt, vì vậy cần chọn giáo viên có trình độ đạt chuẩn, có phẩm chất đạo đức tốt, có uy tín đối với đồng nghiệp, có năng lực sư phạm tốt để chỉ đạo phân công điều hành giáo viên trong các khối. Xây dựng kế hoạch hoạt động từng tháng, tuần. Hàng tháng sinh hoạt 01 lần tạo nề nếp trong sinh hoạt, có đánh giá kết quả và kế hoạch tiếp theo.


4.3. Biện pháp 3: Chỉ đạo tích cực việc thực hiên: “Dạy thật – Học thật – Kết quả thật”:

Hưởng ứng năm ứng dụng công nghệ thông tin nhà trường đã phát động phong trào xây dựng và xử dụng giáo án điện tử trong suốt cả năm học mà không theo đợt. Nhằm tạo cho giáo viên có tính chủ động, có nhiều biện pháp tích cực và hình thức sáng tạo trong các hoạt động chung…

Nâng cao chất lượng giáo dục trẻ vấn đề đầu tiên đó là kết quả việc giáo dục. Bởi vậy tích cực hướng dẫn việc tổ chức dạy học có nề nếp là việc làm thường xuyên:

– “Dạy thật”: Mỗi giáo viên nghiêm túc thực hiện kế hoạch giáo dục trẻ, tổ chức đầy đủ các hoạt động trong ngày như: Hoạt động chung; hoạt động góc; hoạt động ngoài trời; hoạt động chiều. Giáo án soạn đầy đủ, đúng nội dung, yêu cầu về kiến thức, kỹ năng phát triển ngôn ngữ, trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ cho trẻ. Biết lựa chọn, vận dụng phương pháp giáo dục tích cực tạo tình huống, cơ hội nhằm phát huy trí tuệ, tính sáng tạo của trẻ. Tạo môi trường giáo dục phù hợp với chủ đề, chủ điểm, kích thích trẻ tìm tòi, khám phá, tìm ra cái mới, thể hiện sự hiểu biết của trẻ trong cuộc sống hàng ngày. Chỉ đạo nghiêm túc các hoạt động chuyên môn, tổ chức tốt các hội thi.

– “Học thật”: Trẻ tích cực, hứng thú, tự nguyện tham gia váo các hoạt động giáo dục trẻ tạo ra sản phẩm, tìm tòi khám phá, giáo viên không làm thay, vẽ thay, viết thay cho trẻ. Giáo viên hình thành và rèn luyện để cho trẻ có thao tác đúng, thuần thục một số thói quen về nề nếp học tập.

– “Kết quả thật”: Giáo viên luôn theo dõi sự phát triển, nhận thức của trẻ trên các lĩnh vực phát triển nhận thức, phát triển ngôn ngữ, tình cảm, thẩm mỹ và phát triển thể lực. Đánh giá kết quả của trẻ đúng thực chất, khách quan, công bằng, tôn trọng sản phẩm của trẻ. Vì thế người giáo viên muốn có kết quả thật thì phải biết thực hiện tốt phương pháp dạy học tích cực, biết tạo mọi cơ hội để ôn luyện thêm kiến thức cho trẻ vào các thời điểm trong ngày. Bởi trẻ mầm non dễ nhớ, dễ quên nên hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ. “Học mà chơi, chơi mà học” là kết quả tốt nhất vì trong quá trình chơi giúp trẻ ôn luyện kiến thức mà trẻ đã được trải nghiệm, được khám phá.

Vì vậy, việc nâng cao chất lượng giáo dục trẻ tốt góp một phần vào việc thực hiện tốt cuộc vận động “Hai không”. Đưa chất lượng giáo dục trẻ ngang tầm với yêu cầu giáo dục trong thời kỳ đổi mới.


4.4. Biện pháp 4: Chỉ đạo chất lượng

Thực hiện phân loại giáo viên để có kế hoạch bồi dưỡng thích hợp, đối với giáo viên có tay nghề còn non, giáo viên mới tuyển trong năm; Chú trong bồi dưỡng thêm phương pháp dạy, cách tổ chức hoạt động giáo dục: Tổ chức thi giảng, dự giờ dạy tốt; Bồi dưỡng công tác tự học tập của giáo viên. Đối với giáo viên khá – tốt, bồi dưỡng năng lực sư phạm, kỹ năng, tác phong, sự sáng tạo linh hoạt cho giáo viên.

* Tổ chức hội thi: Hội thi là đỉnh cao của phong trào thi đua dạy tốt, học tốt. Vì vậy, phải có kế hoạch chỉ đạo thực hiện một cách nghiêm túc và khoa học. Trong năm qua đã tổ chức tốt các hội thi như: Hội thi làm đồ dùng đồ chơi; Hội thi An toàn giao thông và bảo vệ môi trường cấp trường; Hội thi giáo viên dạy giỏi cấp trường đạt: 8/16. Dự hội thi “Giáo viên dạy giỏi” cấp Quận theo chỉ tiêu là 2 giáo viên, cả 2 đồng chí đều đạt. Qua các hội thi rút ra được nhiều kinh nghiệm về nâng cao chất lượng giáo dục và là dịp để giáo viên, các cháu thể hiện những tài năng của mình và có sự học hỏi lẫn nhau; Năng lực sư phạm được nâng lên rõ rệt.

* Chỉ đạo khu điểm, lớp điểm: Chỉ đạo điểm là đòn bẩy phong trào, là cơ sở để nâng cao năng lực chuyện môn và chất lượng giáo dục toàn diện cho trẻ. Từ đó để nhân ra diện rộng về chất lượng giáo dục trong toàn trường. Trong năm học ............. đã chỉ đạo 1 khu điểm. Điểm toàn diện về chất lượng giáo dục như MGL A1 – MGN B1 – NT D1. Với các lớp chỉ đạo điểm nhà trường đã có kế hoạch chỉ đạo ngay từ đầu năm học, chỉ đạo về CSVC, đồ dùng trang thiết bị dạy học, đồ chơi. Công tác chỉ đạo trang trí lớp, tạo môi trường giáo dục thân thiện. Chỉ đạo việc thực hiện tổ chức các hoạt động, xây dựng bộ hồ sơ, giáo án tốt như MGL A1 – MGN B1.

Qua chỉ đạo điểm, giáo viên đã học tập thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn. Chất lượng giáo dục trẻ được nâng lên.

Đánh giá chất lượng giáo dục, khảo sát chất lượng: Đánh giá đúng, thực chất kết quả giáo dục của trẻ, đánh giá 2 lần trong năm học (Lần 1 vào tháng 10, lần 2 vào tháng 4)
Qua đánh giá kết quả của giáo viên, cán bộ quản lý phải có sự kiểm tra xác suất, thực chất kết quả. Từ đó có biện pháp chỉ đạo tích cực, bổ sung những thiếu sót, kịp thời chấn chỉnh, bồi dưỡng cho giáo viên cách đánh giá, phát hiện những cháu có kiến thức còn hạn chế để bồi dưỡng, ôn luyện thêm.


4.5. Biện pháp 5: Tăng cường công tác kiểm tra đánh giá:

Kiểm tra là một việc làm thường xuyên, kiểm tra bằng nhiều hình thức, kiểm tra toàn diện, chuyên đề, kiểm tra theo định kỳ, kiểm tra đột xuất. Kiểm tra toàn diện được100% giáo viên; Kiểm tra chuyên đề mỗi giáo viên kiểm tra 2 lần/năm.

Việc kiểm tra đột xuất một số nội dung: Kiểm tra việc thực hiện chương trình, kiểm tra hồ sơ, giáo án, kiểm tra thực hiện chế độ sinh hoạt, kiểm tra việc đánh giá chất lượng. Kiểm tra kỹ năng của trẻ: Vở tập tô, làm quen toán, tạo hình, các loại vở theo hướng dẫn của cấp trên…
Qua kiểm tra, đã uốn nắn một số sai lệch của giáo viên trong công tác giáo dục. Từ đó có biện pháp chỉ đạo cụ thể giúp cho giáo viên ôn luyện kiến thức, xây dựng kế hoạch bối dưỡng giúp cho trẻ có chất lượng giáo dục tốt hơn.


4.6. Biện pháp 6: Phối kết hợp với gia đình, cộng đồng để giáo dục trẻ:

Đối với trẻ mầm non, thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức khoa học, chăm sóc, nuôi dạy trẻ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường. Bởi vậy, trường tổ chức phối kết hợp với phụ huynh qua các cuộc họp phụ huynh toàn trường qua hai lần trong năm; toàn trường xây dựng góc tuyên truyền qua các góc tuyên truyền những điều cha mẹ cần biết nhằm giúp cho phụ huynh nắm được một số kiến thức giáo dục, rèn luyện cho trẻ có thói quen, hành vi văn minh trong giao tiếp, biết yêu thương quý trọng cô giáo, bố mẹ, người lớn. Có thói quen nề nếp trong học tập, trong các hoạt động, từ đó chất lượng giáo dục được tăng lên, trẻ năm vững các kiến thức, kỹ năng, trả lời hồn nhiên, nhanh nhẹn, mạnh dạn, tự tin.


  1. Kết quả đạt được:

Trong năm học ............. nhờ có biện pháp chỉ đạo, xây dựng kế hoạch một cách khoa học, đã nâng cao được chất lượng giáo dục trẻ năm sau cao hơn năm trước, cuối năm cao hơn đầu năm. Kết quả khảo sát cụ thể (Phụ lục kèm theo)


  1. Bài học kinh nghiệm:

– Giáo dục mầm non là một bậc học đòi hỏi có nghệ thuật khoa học khác với các bậc học khác. Vì vậy, trước hết người cán bộ quản lý phải có sự năng động, sáng tạo, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức lối sống, chủ động trong công tác chỉ đạo chuyên môn, chất lượng giáo dục trong nhà trường.

– Xây dựng kế hoạch một cách khoa học và chỉ đạo thực hiện nghiêm túc kế hoạch.

– Tham mưu tích cực với các cấp lãnh đạo để mua sắm, bổ sung đầy đủ các trang thiết bị mầm non, đồ dùng dạy học.

– Chỉ đạo thực hiện đúng chương trình, chế độ sinh hoạt theo quy định từng độ tuổi phù hợp với chủ đề, chủ điểm.

– Thường xuyên kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục, khảo sát chất lượng trẻ đúng quy trình.

– Chỉ đạo tốt công tác bồi dưỡng chuyên môn.

– Chỉ đạo đội ngũ luôn học tập không ngừng nâng cao phẩm chất, tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, nắm bắt kịp thời các thông tin đổi mới về phương pháp giáo dục góp phần vào việc nâng cao chất lượng giáo dục trẻ trong Trường mầm non, xứng đáng với lời dạy của Bác Hồ: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người“.


III. Kết luận

Ngành học mầm non là nền tảng đầu tiên của ngành giáo dục và đào tạo, chất lượng giáo dục trẻ tốt góp phần vào việc xây dựng và phát triển trường học, đưa chất lượng giáo dục đảm bảo yêu cầu xây dựng trường tiên tiến và yếu tố quan trọng trong việc hình thành và phát triển toàn diện về Đức – Trí – Thể – Mỹ. Hình thành nhân cách con người mới XHCN, tạo tiền đề vững chắc cho trẻ bước vào trường tiểu học được tốt. Muốn đạt được điều điều đó, người cán bộ quản lý phải luôn gương mẫu đi đầu trong mọi hoạt động, học tập, nghiên cứu, chỉ đạo sát sao trong việc đánh giá chất lượng giáo dục góp phần thực hiện tốt cuộc vận động “Hai không” đưa chất lượng giáo dục ngày càng đi lên đáp ứng với yêu cầu đổi mới góp phần thực hiện Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước.

Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm của bản thân trong việc nâng cao chất lượng giáo dục trẻ được áp dụng trong quá trình thực hiện ở Trường mầm non........... Kính mong sự góp ý chân thành của hội đồng khoa học để bản thân có thêm nhiều kinh nghiệm chỉ đạo tốt hơn.


Xem thêm: Top 10 Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN từ 11 - 20

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 7
(có 0 lượt vote)

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 8

Trường Mầm non ............ nằm trên địa bàn ............ Trường được thành lập từ......với tổng diện tích.....m², là trường đầu tiên của thành phố và luôn được quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp lãnh đạo Đảng, chính quyền, các ban ngành của thành phố, của phường tạo điều kiện thuận lợi cho trường thực hiện tốt nhiệm vụ năm học. Nhà trường đã được công nhận là cơ sở giáo dục đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục cấp độ 3 đầu tiên của....... vào tháng........

Kế hoạch chiến lược phát triển nhà trường giai đoạn ........., tầm nhìn ...........nhằm xác định rõ định hướng, mục tiêu chiến lược và các giải pháp chủ yếu trong quá trình vận động và phát triển. Là cơ sở quan trọng cho các quyết sách của Hội đồng trường và hoạt động của Ban giám hiệu cũng như toàn thể cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà trường. Xây dựng và phát triển kế hoạch chiến lược của trường MN ........ là hoạt động có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện Nghị Quyết của Đảng và chính sách của Chính Phủ về đổi mới giáo dục mầm non.

I. CĂN CỨ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH

- Căn cứ Luật Giáo dục năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục năm 2009;

- Điều lệ trường mầm non;

- Thông tư số 19/2018/TT-BGDĐT ngày 22/8/2018 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành quy chế kiểm định chất lượng giáo dục và công nhận đạt chuẩn quốc gia đối với trường mầm non;

- Căn cứ đặc điểm tình hình của trường và địa phương.

II. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH NHÀ TRƯỜNG

  1. Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên và nhân viên

- Tổng số: .....cán bộ, giáo viên, nhân viên (BGH: ...., giáo viên: ......., nhân viên .....),

- Về chất lượng đội ngũ: 100% đạt chuẩn đào tạo, trong đó có 95% trên chuẩn.

  1. Quy mô nhóm lớp và trẻ em

- Năm học ....... nhà trường có ......nhóm, lớp (........nhóm Nhà trẻ, .......lớp Mẫu giáo)

- Tổng số trẻ: .........cháu, trong đó:

+ Nhà trẻ: .........cháu

+ Mẫu giáo: .........cháu

- Chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ năm học ........

Tỷ lệ trẻ phát triển bình thường về cân nặng: ........, chiều cao: ..........

Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng về cân nặng: .......%, chiều cao: ..........%.

  1. Cơ sở vật chất

- Diện tích khuôn viên: ...............

- Phòng học: ........

- Phòng chức năng: ........

- Công trình phụ trợ: ......

- Thiết bị đồ dùng, đồ chơi ngoài trời: đầy đủ

- Thiết bị đồ dùng, đồ chơi trong lớp: tương đối đầy đủ theo văn bản hợp nhất số 01/VBHN-BGDĐT năm 2015.

  1. Điểm mạnh

4.1. Công tác quản lý và điều hành của Ban giám hiệu

- Ban giám hiệu có trình độ chuyên môn, năng lực quản lý vững vàng, có khả năng tổ chức các hoạt động giáo dục trong nhà trường, phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, được giáo viên, nhân viên trong trường, phụ huynh và nhân dân địa phương tín nhiệm, có tầm nhìn, làm việc khoa học, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.

- Phân công hợp lý cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên, thực hiện đầy đủ các chế độ chính sách đối với người lao động theo qui định hiện hành.

- Thực hiện nghiêm túc quy chế chuyên môn, quy chế dân chủ, kiểm tra nội bộ và thực hiện đổi mới công tác quản lý.

- Thực hiện tốt các hoạt động hành chính, tài chính, việc bảo quản tài sản, nâng cao sử dụng tài sản, cơ sở vật chất trong nhà trường, công tác kiểm kê, theo dõi tài sản, có kế hoạch kiểm tra, tu sửa, bổ sung tài sản, trang thiết bị phục vụ dạy học.

- Lưu trữ đầy đủ và khoa học các hồ sơ, sổ sách phục vụ công tác quản lý của nhà trường.

- Thường xuyên tổ chức và duy trì các phong trào thi đua theo hướng dẫn của ngành và qui định của nhà nước.

4.2. Giáo viên, nhân viên

- Trong những năm học qua nhà trường đã làm tốt công tác xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên có phẩm chất đạo đức tốt, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng và tâm huyết với nghề.

- Tổng số cán bộ giáo viên có trình độ đạt chuẩn và trên chuẩn là 100%. Trong đó trên chuẩn: 36/38 người đạt 94,7%. Giáo viên giỏi cấp Tỉnh và Thành phố 26/38 chiếm 68,4%.

Đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên đoàn kết nhiệt tình, có tinh thần trách nhiệm, yêu nghề, gắn bó với nhà trường, có ý thức rèn luyện, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ nhằm đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục mầm non.

4.3. Chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ được duy trì và nâng cao

Nhà trường luôn làm tốt các hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ, có biện pháp phù hợp để không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện như: tạo bầu không khí thân thiện, môi trường hoạt động lành mạnh đầy yêu thương, đảm bảo an toàn về tâm lý và tính mạng cho trẻ. Kết quả: hằng năm hầu hết trẻ có sự phát triển về thể chất, nhận thức, thẩm mỹ, ngôn ngữ và phát triển tình cảm kỹ năng xã hội theo mục tiêu của Chương trình Giáo dục mầm non. Chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ luôn đạt kết quả tốt, trong những năm qua không có dịch bệnh và ngộ độc thực phẩm xảy ra trong trường, 100% trẻ đến trường được đảm bảo an toàn tuyệt đối về thể chất và tinh thần, 100% trẻ được đánh giá xếp loại khá, tốt về các mặt phát triển theo quy định của chương trình giáo dục mầm non do Bộ giáo dục ban hành.

- Năm học.....: Trẻ phát triển bình thường đạt .....%; trẻ SDD nhẹ cân, thấp còi chiếm .......%.

4.4. Thành tích nổi bật: Trong những năm gần đây trường luôn đạt danh hiệu tập thể lao động tiên tiến, xuất sắc, Chủ tịch tỉnh tặng bằng khen, Chủ tịch UBND thành phố ..... tặng giấy khen có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua của ngành. Đặc biệt năm học ......... được Thủ tướng chính phủ tặng thưởng Huân chương lao động hạng Ba.

  1. Điểm hạn chế

5.1. Tổ chức quản lý của Ban Giám hiệu

Ban giám hiệu kiêm nhiệm công tác Ban chi ủy nên công việc đôi khi còn chồng chéo.

Có đánh giá chất lượng chuyên môn và các hoạt động giáo dục của giáo viên nhưng chưa có những giải pháp cụ thể để định hướng giúp đỡ về mặt lâu dài cho đội ngũ.

5.2. Đội ngũ giáo viên, nhân viên

Một số giáo viên cao tuổi ứng dụng công nghệ thông tin còn hạn chế, tổ chức các hoạt động giáo dục lấy trẻ làm trung tâm còn hạn chế.

5.3. Chất lượng CSGD trẻ

Một số lớp mẫu giáo có số trẻ vượt so với quy định ảnh hưởng đến việc nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ.

5.4. Cơ sở vật chất

Cơ sở vật chất còn thiếu và chưa đảm bảo quy định: thiếu 4 phòng học; 01 phòng phó hiệu trưởng; 03 phòng chức năng, phòng nhân viên.

  1. Thời cơ

Trong những năm qua ngành giáo dục thành phố đã có những bước phát triển mạnh mẽ nên có những tác động không nhỏ đến tầng lớp cha mẹ trẻ và Chính quyền địa phương; Cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương đã có những định hướng quan tâm, chỉ đạo đặc biệt đối với công tác giáo dục của nhà trường. Đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, một số gia đình có thu nhập cao, ý thức trách nhiệm của nhân dân đối với con em ngày càng được nâng cao.

  1. Thách thức

Yêu cầu của xã hội và phụ huynh ngày càng cao về chất lượng giáo dục trong thời kỳ hội nhập.

Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên phải đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục. Ứng dụng CNTT trong giảng dạy, trình độ ngoại ngữ, khả năng sáng tạo của cán bộ, giáo viên, nhân viên.

Các trường mầm non trên địa bàn thành phố, đặc biệt các trường mầm non tư thục không ngừng phát triển về quy mô, chất lượng tạo nên sự cạnh tranh lớn giữa các trường.


Xem thêm: Top 10 Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN từ 11 - 20

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 8
(có 0 lượt vote)

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 9

Trẻ em nói chung và trẻ mầm non nói riêng là niềm hy vọng của gia đình và là tương lai của xã hội. Nếu được chăm sóc, giáo dục đúng đắn thì trẻ sẽ trở thành người con ngoan của gia đình, người dân có ích cho xã hội. Ngược lại nếu không chăm sóc giáo dục trẻ kịp thời và sai lệch có thể trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội. Vì vậy, công tác chăm sóc giáo dục trẻ mầm non có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với mỗi gia đình, đối với ngành học mầm non và đối với mỗi người công dân trong xã hội.


Trong những năm gần đây hoạt động chăm sóc nuôi dưỡng, bảo vệ sức khỏe trẻ trường mầm non .......... đã nhận được nhiều sự quan tâm của gia đình, xã hội. Chăm sóc nuôi dưỡng – giáo dục là nhiệm vụ trọng tâm và giữ vị trí vô cùng quan trọng, chăm sóc nuôi dưỡng nhằm bảo vệ, tăng cường sức khỏe cho trẻ giúp trẻ phát triển hài hòa, cân đối về thể chất, trẻ khỏe mạnh, thông minh.


Nhiệm vụ của trường mầm non .......... là: “Tiếp nhận, chăm sóc và giáo dục trẻ. Các bé khi đến trường, mọi sinh hoạt ban đầu hoàn toàn nhờ vào cô giáo. Nhiều phụ huynh khi đưa con đến trường còn vô cùng lo lắng, không biết các cô giáo mầm non có chăm sóc con mình được chu đáo được hay không. Đặc biệt là với các bé biếng ăn các bậc cha mẹ không tránh khỏi những băn khoăn trăn trở, đang giờ làm việc cũng tranh thủ đến xem con có khóc không, ăn có được nhiều không?...... Để các bậc cha mẹ yên tâm, chúng tôi đã thực sự vừa là cô giáo, vừa là người mẹ hiền, dạy trẻ nói điều hay lẽ phải, dỗ dành trẻ ăn hết xuất, cho các bé ngủ ngon giấc. Chúng tôi, những cô giáo mầm non chỉ ước mong làm sao nuôi cho các bé khoẻ, dạy cho các bé ngoan, mở ra trước mắt các bé một thế giới đầy kỳ thú để các bé thoải mái tìm tòi và khám phá, tạo cho các bé các sân chơi để các bé có dịp trải nghiệm những gì bé được cô dạy ở trường và cả những gì bé tự khám phá được. Những gì các bé làm được là một món quà quý giá mà các bé tặng cho chúng tôi. Tâm huyết là thế nhưng trên thực tế trường mầm non .......... còn gặp nhiều khó khăn trong công tác chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ. Trường có 2 khu, các lớp được phân bố không đồng đều. Nhà trường đã từng bước khắc phục những khó khăn, cùng với các ban ngành đoàn thể vận động các cháu khu 1 xang học khu 2 học đúng độ tuổi, hiện tại không còn lớp học ghép. Nhà trường đã tu sửa mua sắm thêm được một số trang thiết bị phục vụ dạy và học, tạo môi trường cho trẻ hoạt động trải nghiệm, vui chơi…., đây là điều kiện vững chắc để nuôi dạy các cháu, là phượng tiện để giúp trẻ phát triển một cách toàn diện về các mặt: Thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm xã hội và thẩm mỹ.


Với công tác chăm sóc nuôi dưỡng: Giáo dục cho trẻ biết được một số hành vi trong ăn uống, thao tác vệ sinh cá nhân. Đảm bảo an toàn tuyệt đối về thể chất và tinh thần, phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ trong trường. Giữ gìn môi trường sinh hoạt, dụng cụ ăn uống, đồ dùng, đồ chơi của trẻ sạch sẽ để phòng chống một số bệnh do vi rút gây ra, dễ lây lan và gây nguy hiểm tới tính mạng của trẻ. Đảm bảo tốt công tác vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường, phòng chống các dịch bệnh như tay chân miệng, sốt xuất huyết, và các bệnh theo mùa cho trẻ.


Chỉ đạo triển khai rộng rãi mô hình “Giáo dục trẻ rửa tay bằng xà phòng”, chú trọng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, góp phần hình thành nền nếp, thói quen tốt, hành vi văn minh có lợi cho sức khỏe và sự phát triển lâu dài của trẻ. Chú trọng khâu đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng ngừa các đại dịch, thường xuyên kiểm tra nguồn nước, diệt muỗi, hợp đồng với những nhà cung ứng thực phẩm sạch. Tổ chức khám sức khỏe định kỳ 2lần/năm /trẻ


Với công tác chăm sóc giáo dục: Chú trọng đổi mới phương pháp dạy học, tăng cường giáo dục toàn diện cho trẻ, tổ chức cho trẻ trải nghiệm khám phá các hoạt động để phát huy tính tích cực của trẻ.

Để thực hiện tốt việc nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ trong trường mầm non ........... Ban giám hiệu trường đã đề ra một số nhiệm vụ trong tâm sau:

Một là: Xây dựng kế hoạch năm học; kế hoạch tháng; kế hoạch tuần; xây dựng chế độ sinh hoạt; xây dựng kế hoạch chuyên môn: cụ thể chương trình dạy cho các khối lớp phù hợp, sát với tình hình của trường và giao chỉ tiêu chất lượng cho từng khối, lớp. Chất lượng giao gắn với chỉ tiêu thi đua của lớp, của cá nhân vào cuối năm

Hai là: Chỉ đạo tích cực việc thực hiện "học bằng chơi, chơi bằng trải nghiệm". Nhằm tạo cho giáo viên có tính chủ động, có nhiều biện pháp tích cực và hình thức sáng tạo trong các hoạt động chung... Nâng cao chất lượng giáo dục trẻ. Bởi vậy tích cực hướng dẫn việc tổ chức dạy học có nề nếp là việc làm thường xuyên. Muốn thực hiện tốt việc "Dạy thật"thì mỗi giáo viên nghiêm túc thực hiện kế hoạch giáo dục trẻ, tổ chức đầy đủ các hoạt động trong ngày như: Hoạt động chung, hoạt động góc, hoạt động ngoài trời, hoạt động chiều. Soạn giáo án đầy đủ, đúng nội dung, yêu cầu về kiến thức, kỹ năng phát triển ngôn ngữ, trí tuệ, đạo đức thẩm mỹ cho trẻ. Biết lựa chọn vận dụng phương pháp giáo dục tích cực, tạo tình huống, cơ hội nhằm phát huy trí tuệ, tính sáng tạo của trẻ. Muốn có "Kết quả thật"thì giáo viên phải biết thực hiện tốt phương pháp dạy học tích cực, biết tạo mọi cơ hội để ôn luyện thêm kiến thức cho trẻ vào các thời điểm trong ngày. Bởi trẻ mầm non dễ nhớ, dễ quên nên hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ. "Học mà chơi, bằng trải nghiệm"là kết quả tốt nhất vì trong quá trình chơi giúp trẻ ôn luyện kiến thức mà trẻ được trải nghiệm được khám phá. Được giao lưu cùng bạn, có kỹ năng giao tiếp….


Ba là: Đánh giá phân loại giáo viên để có kế hoạch bồi dưỡng thích hợp, đối với giáo viên có tay nghề còn non cần chú trọng bồi dưỡng thêm phương pháp, kiến thức, kỹ năng sư phạm cách tổ chức hoạt động giáo dục một cách khoa học hiệu quả. Thông qua các buổi dự giờ, chuyên đề, hội giảng….. và đặc biệt khuyến khích giao viên tự học tập để nâng cao trình độ chuyên môn. Đối với giáo viên khá - tốt, bồi dưỡng năng lực sư phạm, kỹ năng, tác phong, sự sáng tạo linh hoạt cho giáo viên mạnh dạn áp dụng các hình thức mới tạo hứng thú cho trẻ trong các giờ học.


Bốn là: Tổ chức hội thi: Hội thi là đỉnh cao của phong trào thi đua dạy tốt, học tốt. Vì vậy, phải có kế hoạch chỉ đạo thực hiện một cách nghiêm túc và khoa học. Trong năm qua nhà trường đã tổ chức tốt các hội thi như: "Hội thi làm đồ dùng đồ chơi tự tạo"; Hội thi "Bé nhanh trí"cấp trường; Hội thi "Giáo viên dạy giỏi"cấp trường, đồng diễn thể dục thể thao, giao lưu văn nghệ, tổ chức các hoạt động ngoại khóa... Qua các hội thi, hội diễn rút ra được nhiều kinh nghiệm về nâng cao chất lượng giáo dục và là dịp để giáo viên, các cháu thể hiện những tài năng của mình và có sự học hỏi lẫn nhau. Đặc biệt là nhận được sự ủng hộ của cha mẹ trẻ và nhân dân cả vè vật chát lẫn tinh thần.


Năm là: Tăng cường công tác kiểm tra đánh giá là một việc làm thường xuyên, kiểm tra bằng nhiều hình thức, kiểm tra toàn diện, chuyên đề, kiểm tra theo định kỳ, kiểm tra đột xuất. Kiểm tra toàn diện giáo viên; Kiểm tra chuyên đề mỗi giáo viên kiểm tra 2 lần/năm. Qua kiểm tra, đã điều chỉnh một số sai lệch của giáo viên trong công tác giáo dục. Từ đó có biện pháp chỉ đạo cụ thể giúp cho giáo viên ôn luyện kiến thức, xây dựng kế hoạch bối dưỡng giúp cho trẻ có chất lượng giáo dục tốt hơn.

Sáu là: Phối kết hợp với gia đình, cộng đồng để giáo dục trẻ là một việc làm cần thiết đối với trẻ mầm non, thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức khoa học, chăm sóc, nuôi dạy trẻ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường. Bởi vậy, trường tổ chức phối kết hợp với cha mẹ học sinh qua các cuộc họp các nhóm lớp trong toàn trường 3 lần trong năm; toàn trường xây dựng góc tuyên truyền qua các góc tuyên truyền những điều cha mẹ cần biết nhằm giúp cho cha mẹ nắm được một số kiến thức giáo dục, rèn luyện cho trẻ có thói quen, hành vi văn minh trong giao tiếp, biết yêu thương quý trọng cô giáo, bố mẹ, người lớn. Có thói quen nề nếp trong học tập, trong các hoạt động, từ đó chất lượng giáo dục được tăng lên, trẻ năm vững các kiến thức, kỹ năng, trả lời hồn nhiên, nhanh nhẹn, mạnh dạn, tự tin.

Cùng với việc nâng cao chất lượng giáo dục, chăm sóc trẻ, những năm qua, Trường Mầm non .......... luôn thực hiện có hiệu quả các phong trào thi đua, cuộc vận động của toàn ngành. Hưởng ứng cuộc vận động “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”, cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. năm học này nhà trường tiếp tục tu sửa, làm mới thêm đồ dùng đồ chơi ngoài trời, tạo khu vui chơi tại vườn cổ tích, trang trí cảnh quan với các hình thức khác nhau. Điều đặc biệt năm học này được sự quan tâm đặc biệt của cha mẹ học sinh đã ủng hộ nhà trường hàng trăm ngày công lao động tạo cảnh quan môi trường, không gian lớp học được đổi mới, trang trí phù hợp với tâm lý, sở thích của từng nhóm lớp. Các hoạt động ngoại khóa, tìm hiểu thiên nhiên, vận động tự do được tăng cường. Nội dung giáo dục hướng đến mục tiêu hình thành, phát triển tư duy, kỹ năng cho trẻ. Đội ngũ nhà trường luôn yên tâm công tác, có tinh thần trách nhiệm trong công việc và luôn hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.


Với việc thực hiện các biện pháp trên đã góp phần trong việc nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ . Thành tích mà nhà trường đạt được là niềm vui, nền tảng để khuyến khích động viên tập thể cán bộ, giáo viên, nhân viên nỗ lực phấn đấu hơn nữa trong sự nghiệp trồng người, góp phần ươm những mầm non phục vụ cho sự phát triển của quê hương đất nước trong thời kỳ mới./.


Xem thêm: Top 10 Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN từ 11 - 20

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 9
(có 2 lượt vote)

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 10

  1. Những điểm cần lưu ý trong vấn đề đảm bảo an toàn cho trẻ tại trường mầm non

“Trẻ em như búp trên cành”, như những mầm non nhỏ bé cần được che chở và bao bọc. Chúng chưa có khả năng tự bảo vệ bản thân khỏi những nguy hiểm xung quanh mình. Chính vì vậy, các cơ sở mầm non cần đảm bảo cho các bé được sống trong một môi trường an toàn cả về sức khỏe, tinh thần và tính mạng. Nhà trường cần áp dụng nhiều biện pháp khác nhau để bảo vệ trẻ một cách tốt nhất.

Trường mầm non được đánh giá là môi trường học tập khá an toàn cho trẻ. Tuy nhiên, sự an toàn này chỉ mang tính chất tương đối bởi bất cứ tình huống nào cũng có thể bất ngờ xảy ra. Chúng ta cần ý thức được điều đó và phải chuẩn bị để sẵn sàng ứng phó trong mọi trường hợp.

Đảm bảo an toàn cho trẻ trong trường mầm non là chúng ta đang đáp ứng quyền lợi chính đáng của trẻ. Chúng cần được học tập và vui chơi một cách lành mạnh, an toàn dưới sự giám sát và hướng dẫn của đội ngũ giáo viên cũng như của toàn thể nhà trường. Bên cạnh đó, uy tín của nhà trường có được giữ vững và củng cố hay không cũng còn phụ thuộc vào tinh thần trách nhiệm của nhà trường đối với các em học sinh của chính họ. Vì thế, đừng xem nhẹ vấn đề này mà hãy thực hiện một cách nghiêm túc, chặt chẽ và hiệu quả bằng mọi biện pháp.

  1. Chỉ đạo của Bộ giáo dục và Đào tạo về đảm bảo an toàn cho trẻ trong trường mầm non

Theo chỉ đạo của Bộ giáo dục và Đào tạo đối với bậc giáo dục mầm non, các đơn vị mầm non cần thực hiện các yêu cầu:

  • Tiến hành các biện pháp nhằm đảm bảo an toàn tuyệt đối cho trẻ.
  • Xây dựng môi trường học tập thân thiện, đảm bảo cho trẻ được an toàn tuyệt đối cả về thể chất lẫn tinh thần.
  • Kiểm tra cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ chơi, đồ dùng một cách thường xuyên. Phát hiện kịp thời và chỉ đạo khắc phục nhanh chóng các yếu tố có nguy cơ gây mất an toàn cho trẻ khi chúng tham gia các hoạt động tại trường, lớp.
  • Nâng cao chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc sức khỏe.
  • Quản lý và nâng cao chất lượng các bữa ăn bán trú tại trường mầm non. Thực hiện chế độ ăn cấn đối, hợp lý, đa dạng, đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu cho từng nhóm tuổi của các bé.
  • Kiểm soát chặt chẽ nguồn gốc của các loại thực phẩm dùng chế biến bữa ăn cho trẻ, thực hiện nghiêm túc các quy định về đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm tại các bếp ăn trường mầm non.
  1. Biện pháp đảm bảo an toàn cho trẻ trong trường mầm non
    1. Nguyên nhân xảy ra tai nạn, thương tích tại trường mầm non
  • Do sự giám sát, trông nom của giáo viên còn hời hợt, thiếu trách nhiệm nên trẻ có cơ hội tiếp xúc với các yếu tố gây nguy hiểm.
  • Do cơ sở vật chất chưa đảm bảo an toàn, cầu thang, ban công không có thanh chắn, trẻ hiếu động trèo lên lan can, ban công ngã
    1. Nguyên tắc đảm bảo an toàn cho trẻ
  • Tạo môi trường học tập và vui chơi lành mạnh.
  • Xây dựng cơ sở hạ tầng đạt tiêu chuẩn an toàn theo quy định.
  • Hạn chế cho trẻ tiếp xúc với các thiết bị, đồ dùng dễ gây nguy hiểm.
  • Đào tạo đội ngũ giáo viên, công nhân viên về vấn đề giáo dục, hướng dẫn và đảm bảo an toàn cho trẻ.
    1. Các biện pháp đảm bảo an toàn cho trẻ trong trường mầm non

– Phòng tránh tai nạn ở ban công, cầu thang:

  • Giường, cũi, bàn ghế hay các thiết bị học tập phải được thiết kế chắc chắn, đạt chuẩn.
  • Đồ chơi phải đúng quy cách, an toàn, không sắc nhọn, hư hỏng, gãy vỡ,..
  • Không cho trẻ tiếp xúc trực tiếp với dao, kéo, đồ vật sắc nhọn,…
  • Tránh trường hợp trẻ bị hóc, sặc ở đường thở bởi các vật như đồng xu, ốc vít, cúc áo, cháo, bột,…hoặc bị chăn, gối bịt đường thở khi đang ngủ.
  • Cửa phải có song chắn
  • Cầu thang thấp, có tay vịn, độ dốc đạt yêu cầu.
  • Sàn nhà hay lối đi phải bằng phẳng, không trơn trượt, khuyến khích trải thảm cỏ nhân tạo thay vì nền gạch hay xi măng để trẻ không bị va đập, trầy xước.

Xem thêm: Top 10 Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN từ 11 - 20

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Trên đây là những bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN từ 1 - 10 mà AllTop chia sẻ tới bạn. Hi vọng bài viết mang đến những thông tin hữu ích.

Hãy đăng nhập để bình luận

Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .