Top 10 Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên Tiểu học từ Module 11 - 20 chi tiết nhất
Các mô đun bồi dưỡng thực hiện Chương trình GDPT mới cho giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông giai đoạn 2019-2021 nhằm hỗ trợ giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông triển...xem thêm ...
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module TH11
BÀI THU HOẠCH
BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN GIÁO VIÊN
Module TH11: Tổ chức giáo dục hòa nhập cho trẻ em có khó khăn về học, về vận động
Năm học: ..............
Họ và tên: .................................................................................................................
Đơn vị: ......................................................................................................................
I. Khái niệm về trẻ khuyết tật theo phân loại tật
II. Nội dung và phương pháp giáo dục cho các nhóm trẻ khuyết tật
2.1. Giáo dục hoà nhập cho trẻ có khó khăn về học:
Đặc điểm của trẻ có khó khăn về học:
- Chậm phát triển vận động: trẻ chậm biết lật, ngồi, bò và đi đứng
- Chậm biết nói hoặc khó khăn khi nói, kém hiểu biết về những kĩ năng xã hội căn bản.
- Không ý thức được hậu quả về các hành vi của mình, khó khăn khi tự phục vụ.
- Cảm giác, tri giác thường có 3 biểu hiện: chậm chạp, ít linh hoạt, phân biệt màu sắc, dấu hiệu, chi tiết sự vật kém, thiếu tính tích cực trong quan sát.
- Chủ yếu là hình thức tư duy cụ thể, khó nhận biết các khái niệm.
- Chậm hiểu cái mới, quên nhanh cái vừa tiếp thu, quá trình ghi nhớ không bền vững, không đầy đủ, chỉ ghi nhớ được cái bên ngoài của sự vật, khó ghi nhớ cái bên trong, cái khái quát.
- Khó tập trung, dễ bị phân tán, không tập trung vào các chi tiết, chỉ tập trung các nét bên ngoài.
- Kém bền vững, luôn bị phân tán bởi các sự việc nhỏ, thời gian chú ý của trẻ thường kém trẻ bình thường.
Nguyên nhân:
Có thể thấy lí do trẻ học kém thì nhiều nhưng có một lí do thường gặp nhất nhưng lại ít được biết đến đó là sự khiếm khuyết về khả năng học tập có nguồn gốc sinh học. Chính vì không biết nguyên nhân này mà đôi khi cha mẹ, thầy cô giáo làm trầm trọng thêm tình trạng của trẻ bằng những biện pháp giáo dục không thích hợp. Sự thiếu khả năng học tập của trẻ là do có vấn đề ở hệ thần kinh trung ương, khu vực chi phối tiếp nhận, xử lí và truyền đạt thông tin. Theo các nhà nghiên cứu, trẻ chậm phát triển trí tuệ khác với trẻ thiểu năng trí tuệ, các em hoàn toàn có thể theo học chương trình phổ thông bình thường nếu như được phát hiện sớm và giúp đỡ kịp thời phù hợp với mức độ phát triển của các em về mặt sư phạm.
Biện pháp giáo dục:
- Khi phát hiện trẻ bị chậm phát triển trí tuệ, cần can thiệp toàn diện, phục hồi chức năng để kích thích sự phát triển về vận động, kĩ năng giao tiếp và phát triển trí tuệ.
- Giáo viên cần:
- Có một trái tim đầy nhiệt huyết, những tri thức chuyên môn cứng cỏi, chia nhiệm vụ học tập ra từng bước nhỏ, nhắc đi nhắc lại nhiều lần, phân phối thời gian học tập, vui chơi hợp lí.
- Sử dụng tổng hợp và triệt để các phương pháp như: trực quan, làm mẫu, dùng lời đàm thoại, nhắc đi nhắc lại nhiều lần, động viên khuyến khích, thực hành trong điều kiện thực tế, vận dụng những kiến thức vừa học vào vui chơi, thi đua, ...
- Lập kế hoạch giảng dạy phù hợp với đặc điểm tâm lí riêng của từng trẻ
- Phải kết hợp chặt chẽ việc giáo dục giữa nhà trường và gia đình.
2.2. Giáo dục hoà nhập cho trẻ có khó khăn về vận động:
Đặc điểm và nguyên nhân của trẻ có khó khăn về vận động:
Trẻ khuyết tật vận động là những trẻ do các nguyên nhân khác nhau, gây ra sự tổn thất các chức năng vận động làm cản trở đến việc di chuyển, sinh hoạt và học tập... Trẻ khuyết tật vận động gồm có hai dạng:
- Trẻ khuyết tật vận động do chấn thương nhẹ hay do bệnh bại liệt gây ra làm què cụt, khoèo, liệt chân tay
- Trẻ khuyết tật vận động do tổn thương trung khu vận động não bộ.
Đối với dạng thứ nhất thì những trẻ này vẫn có một bộ máy sinh học bình thường làm cơ sở vật chất thực hiện hoạt động nhận thức. Nói cách khác, khi trẻ có khiếm khuyết đơn thuần về vận động thì trẻ hoàn toàn có khả năng nhận thức như những trẻ bình thường khác. Tuy nhiên, sự phát triển hoạt động nhận thức của trẻ phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tham gia các hoạt động trong môi trường xung quanh. Trẻ khuyết tật vận động khó đạt được trình độ nhận thức cũng như những trải nghiệm như mọi trẻ bình thường khác. Chẳng hạn, trẻ không thể có cảm giác mỏi chân nếu trẻ bại liệt đôi chân không thể đi được, không thể leo trèo được thì khó có cảm giác về độ cao và kĩ năng lấy thăng bằng của cơ thể, không có cảm giác về sức đẩy của nước nếu không được ngâm mình trong nước...
Đối với dạng thứ hai thì sự tổn thương về não bộ gây rất nhiều cản trở cho hoạt động nhận thức của trẻ, thậm chí là trình độ nhận thức ở mức độ nặng. Hoạt động nhận thức của loại trẻ này cũng có những hạn chế tương tự như trẻ chậm phát triển trí tuệ và còn bị ảnh hưởng thêm của khuyết tật vận động. Song cũng cần lưu ý những trường hợp khuyết tật vận động do bại não gây nên thì hoạt động nhận thức của trẻ hầu như không bị ảnh hưởng song trẻ khó có thể biểu đạt được suy nghĩ, hành động, lời nói một cách bình thường do sự cản trở của khuyết tật vận động.
Các biện pháp giáo dục:
- Hội nhập về thể chất: Cho trẻ lành và khuyết tật được giao lưu với nhau hay cùng chơi với nhau trong một địa điểm, một thời gian nhất định.
- Hội nhập về chức năng: Trẻ lành và khuyết tật được tham gia cùng nhau trong một số hoạt động như thể thao, vẽ v...v...
- Hội nhập xã hội: Trẻ cùng học với nhau trong một trường nhưng theo các chương trình khác nhau, có giờ học chung và học riêng tuỳ theo môn học và khả năng học của trẻ.
- Hội nhập hoàn toàn: Trẻ học như trẻ lành theo một chương trình cứng bắt buộc.
- Cần chăm sóc và yêu thương trẻ, điều đó sẽ giúp trẻ vượt qua được những lo lắng, căng thẳng và thích nghi được với môi trường. Hiện nay, với khả năng phát hiện sớm có khi ngay từ lúc mới sinh, việc giáo dục phục hồi chức năng cho trẻ giúp nâng cao khả năng giao tiếp của trẻ và làm giảm nhẹ các nguy cơ rối nhiễu tâm lý của trẻ xuống mức thấp nhất.
III. KẾT LUẬN
Trên đây là những vấn đề cơ bản mà tôi đã tìm hiểu và báo cáo về tổ chức giáo dục hoà nhập cho trẻ có khó khăn về học, về vận động. Để các nội dung và phương pháp giáo dục trên đạt hiệu quả thì phải nói đến đội ngũ GV vì GV là người trực tiếp giảng dạy, trực tiếp theo dõi, nắm bắt các thông tin về trẻ khuyết tật, có vai trò quyết định hiệu quả của giáo dục hoà nhập. GV phải biết xây dựng mục tiêu phù hợp với từng trẻ khuyết tật, có biện pháp phối hợp các tổ chức xã hội, gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục trẻ khuyết tật.
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module TH12
BÀI THU HOẠCH
BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN GIÁO VIÊN (NỘI DUNG 3)
Năm học ................
Module TH 12: Lập kế hoạch dạy học tích hợp các nội dung giáo dục ở tiểu học
NỘI DUNG THU HOẠCH
PHẦN I
NHẬN THỨC CỦA CÁ NHÂN SAU KHI HỌC MODULE TH12
I. Mục tiêu nghiên cứu
Khi nghiên cứu và học tập module 12, bản thân tôi đề ra các mục tiêu đạt được như sau:
- Hiểu rõ chương trình tiểu học và quan điểm dạy học tích hợp thể hiện trong chươn trình các môn học. Nhận biết rõ các nội dung được tích hợp giáo dục trong các môn học và hoạt động giáo dục ở tiểu học.
- Lựa chọn phương pháp, kĩ thuật dạy học phù hợp với việc dạy học tích hợp.
- Lập được kế hoạch dạy học tích hợp các nội dung giáo dục.
II. Nội dung nghiên cứu- học tập
- Hình thức nghiên cứu
- Cá nhân tự nghiên cứu các văn bản hướng dẫn của Phòng GD&ĐT, Sở GD&ĐT và Bộ GĐ&ĐT.
- Thực hiện tự nghiên cứu qua tài liệu, mạng Internet và kết hợp với việc trao đổi thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn cấp trường, các buổi hội thảo.
- Các văn bản đã nghiên cứu
- Module 12: Lập kế hoạch dạy học tích hợp các nội dung giáo dục ở tiểu học
-Thực hiện Thông tư số 32/2011/TT- BGDĐT ngày 08 tháng 8 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Ban hành Chương trình bồi dưỡng thường xuyên giáo viên tiểu học;
- Những nội dung đã tiếp thu được sau khi nghiên cứu tài liệu kết hợp với nghiên cứu các văn bản chỉ đạo của Ngành GD&ĐT trong năm học ................
3.1. Tìm hiểu chương trình tiểu học và quan điểm dạy học tích hợp; các nội dung được tích hợp giáo dục trong các môn học và hoạt động giáo dục ở tiểu học
*Chương trình tiểu học và quan điểm dạy học tích hợp
Mục tiêu tích hợp chương trình nhằm:
- Giảm só lượng môn học.
- Phát triển năng lực cho học sinh.
- Tăng cường thực hành ứng dụng giải quyết các vấn đề gần gũivới cuộc sống hằng ngày.
Cụ thể, tích hợp lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa học xã hội ở tiểu học sẽ:
- Cung cấp cho học sinh những thuật ngữ và khái niệm khoa học cơ bản nhằm giúp các em hiểu bản thân và thế giới xung quanh.
- Cung cấp cho học sinh cơ hội để phát triển kĩ năng, thói quen tư duy và thái độ cần thiết để khám quá khoa học.
- Chuẩn bị cho học sinh hiểu biết về cộng đồng, xã hội , có kĩ năng tham gia các hoạt động xã hội để các em có thể hòa nhập, sống có ích cho xã hội.
- Giúp học sinh đánh giá được khoa học ảnh hưởng đến con người và môi trường như thế nào.
* Các hình thức tích hợp chương trình:
- Có nhiều hình thức tích hợp chưng trình khác nhau. Tích hợp nội dung là hình thức nối kết nội dung trong nộibộ môn học và giữa các môn học với nhau. Có thể chia làm 3 hình thức (hoặc 3 mức độ) như sau:
- Kết hợp lồng ghép (fusion)
Đây là mức đầu tiên của tích hợp; theo đó, những nội dung nào đó sẽ được kết hợp vào chương trình môn học độc lập đã có sẵn.
+ Nội dung tích hợp được thể hiện qua việc gắn nội dung môn học với đời sống thực tiễn, lồng ghép nội dung về dân số, môi trường… trong những nội dung phù hợp; hướng vào sự hình thành và phát triển năng lực hành động, năng lực giải quyết vấn đề. Học sinh tìm tòi, xạy dựng kiến thức mới từ kiến thức đã biết và vốn thực tiễn cuộc sống.
+ Áp dụng một số biện pháp nhằm thể hiện quan điểm tích hợp trong tài liệu giáo khoa, tài liệu giáo viên và các hướng dẫn chỉ đạo thực hiện như: nội dung sách giáo khoa giúp học sinh xây dựng kiến thức từ những kinh nghiệm của cá nhân và gắn với đời sống (làm cho học tập có ý nghĩa) , hình thành và phát triển năng lực làm việc độc lập, làm việc theo nhóm năng lực giải quyết tình huống trong thực tế…
Việc thích hợp trong nội bộ môn học có ưu điểm là môn học không bị phá vỡ,giảm được một số nội dung trùng lặp, không thiết thực. Tuy nhiên với phương án này hiệu quả thích hợp sẽ không cao, vì đặc trưng bộ môn vẫn chiếm ưu thế, việc hình thành và phát triển năng lực giải quyết tình huống phức tạp bị hạn chế và không giảm số môn học.
- Đa môn:
Các môn học là riêng rẽ, nhưng có những chủ đề/vấn đề được tích hợp vào các môn.
Vấn đề được tích hợp trong nhiều môn nhưng theo đặc điểm từng môn Tích hợp nội dung của nhiều môn học khác nhau trong một chủ đề. Xây dựng các chủ đề tự chọn bắt buộc ở lớp 8,9 đối với môn lịch sử và địa lí dưới dạng những dự án. Các chủ đề này yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức kĩ năng của các bộ môn riêng rẽ. Cách này có ưu điểm là môn học truyền thống không bị thay đổi nhiều, giảm được nhiều hơn các nội dung trùng lập không thiết thực, đồng thời lại không gây xáo trộn trong nhà trường, việc học có ý nghĩa hơn do học sinh tham gia các dự án, học sinh được vận dụng kiến thức, kĩ năng của các bộ môn nhiều hơn. Tuy nhiên dạy học thao dự án, học sinh chưa có kinh nghiệm làm dự án. Nên cần bồi dưỡng nhiều hơn và vấn đề dánh giá sẽ phức tạp hơn.
- Liên môn:
Chương trình tạo ra các chủ đề vấn đề chung các khái niệm hoặc các kĩ năng liên môn được chú trọng giữa các môn mà không phải là từng môn riêng biệt.
Xây dựng môn học mới bằng cách liên kết một số môn học với nhau thành môn học mới nhưng vẫn có những phần mang tên riêng của từng môn học.
Ví dụ: Nội dung kiến thức địa lí tự nhiên của môn Địa lí có thể sẽ đượcxây dựng với các môn học như sinh học, hóa học, vật lý; nội dung kiến thức đại lí, kinh tế xã hội có thể kết hợp với kiến thức môn lịch sử hoặc một môn nào đó có quan hệ gần gũi theo quan điểm tích hợp.
Với phương án này mỗi môn học có chung mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học và đánh giá, cấu trúc bài trong SGK. Nội dung chủ yếu được chia thành các phần chủ yếu mang tên phân môn. Mỗi phần có những chủ đề nhất định. Ví dụ: Phần 1: Địa lí, Phần 2: Lịch sử. Một giáo viên có thể dạy cả hai nội dung, hoặc mỗi giáo viên dạy một phần theo chuyên môn được đào tạo.
Ưu điểm của phương pháp này là loại bỏ nhiều hơn các vấn đề trùng lặp không thiết thực; hình thành và phát triển năng lực giải quyết vấn đềtương đối phức tạp tốt hơn; hình thành và phát triển được những kiến thức và kĩ năng xuyên môn; giảm được số đầu sách; vận dụng các kiến thức liên môn thường xuyên hơn.
Nhược điểm của phương pháp này là ở chỗ: xây dựng môn học mới là một điều khó khăn, vì các chủ đề cho từng phân môn phải được lựa chọn và cần được cấu trúc lại; gây xáo trộn trong chỉ đạo và quản lí giáo dục; cần bồi dưỡng giáo viên cẩn thận hơn về nội dung và phương pháp dạy học; ngoài ra phương pháp này còn có thể gặp khó khăn về mặt tâm lí chuyên môn và tâm lí xã hội.
3.2. Lựa chọn phương pháp-kĩ thuật dạy học phù hợp với việc dạy học tích hợp
3.2.1. Định hướng về phương pháp dạy học theo định hướng tích hợp
Cần có một chiến lược dạy học trong đó kết hợp các phương pháp, các quá trình và hình thức hoạt động nhằm phát triển năng lực nhận thức, bồi dưỡng năng lực tự học một cách tích cực, chủ động, sang tạo cho học sinh. Giờ học phải tạo bối cảnh của đời sống thực phù hợp với học sinh càng nhiều càng tốt. Trong tài liệu hướng dẫn tăng cường giáo dục kĩ năng sống trong một số môn học ở tiểu học đã nêu rất rõ các bước lên lớp giúp học sinh phát huy trải nghiệm, có nhiều cơ hội thể hiện tính tích cực sang tạo trong việc tiếp nhận kiến thức mới và được tăng cường thực hành, vận dụng các kiến thức, kĩ năng đã học thực tiễn vào đời sống.
Trong thực hiện dạy học tích hợp, cần chú trọng dạy học qua tình huống, học bằng các hoạt động, học qua các trải nghiệm, học theo dự án…Một số phương pháp giải quyết vấn đề, hương pháp kiến tạo, hương pháp dự án, phương pháp sử dụng thiết bị và phương tiện dạy học, ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông…cần được thực hiện trong tất cả các môn học một cách linh hoạt và hiệu quả.
Các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh cần được vận dụng linh hoạt, tạo điều kiện cho học sinh được khám phá, điều tra, tìm tòi, đánh giá, thu thập và xử lí thông tin, giải quyết vấn đề, được làm việc độc lập kết hợp với làm việc hợp tác…
Để thực hiện dạy học tích hợp một cách hiểu quả, theo quan điểm của các nhà sư phạm thì phương pháp dạy học phù hợp nhất đối với việc dạy học nói chung và dạy học tích hợp nói riêng là dạy học dựa trên sự khám phá, tìm tòi (thí nghiệm, thảo luận, kiểm tra khám phá, đi thực tế, nghiên cứu dự án,…). Vận dụng phương pháp dạy học này sẽ phát triển ở học sinh năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sang tạo…đồng thời rèn kĩ năng hợp tác, kĩ năng giao tiếp và các kĩ năng quá trình khoa học (quan sát, phân loại, đo đạt, dự đoán, đưa ra giải quyết, đưa ra kết luận…). Đồng thời cần tăng cường các hoạt động thực tế và các giờ học trong phòng thí nghiệm.
Phương pháp dạy học dự án khá phù hợp với việc dạy học tích hợp. Việc học tập của học sinh sẽ có hậu quả hơn do được tìm hiểu và vận dụng nội dung tích hợp của các môn học hoặc các nội dung tích hợp vào một môn học, khiến cho kiến thức trở nên thiết thực và có ý nghĩa hơn đối với học sinh vì có sự gắn kết giữa kiến thức lí thuyết với đời sống thực tiễn. Học sinh được hoạt động chủ động, độc lập, sang tạo thông qua các bước thực hiện dự án như: lập kế hoạch (chọn chủ đề nghiên cứu, lập kế hoạch thực hiện dự án), thực hiện dự án (thu thập thông tin, xử lí thông tin), tổng hợp kết quả (thu thập, xử lí số liệu, viết báo cáo, trình bày kết quả và đánh giá dự án…)
Việc xây dựng và dạy học chủ đề để tích hợp theo phương pháp dạy học dự án có ưu điểm sau:
- Nội dung tích hợp có tính thiết thực và có ý nghĩa đối với học sinh.
- Các chuyên gia môn học giúp giáo viên xây dựng các chủ đề tích hợp ở mỗi lớp sao cho mỗi lớp có khoảng 2 dự án trong một năm học.
- Giáo viên có thể dạy được, học sinh có thể học được nếu được tập huấn và quy định về thời lượng.
- Không phải xây môn học mới nên ít gây xáo trộn.
- Học sinh được phát triển năng lực liên môn, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hoạt động chủ động, sang tạo…nên học tập hứng thú hơn.
Đồng thời với việc lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp trong dạy học tích hợp, phải thực hiện các phương pháp và kĩ thuật đánh giá đa dạng: trắc nghiệm khách quan, tự luận, bài kiểm tra viết, bảng quan sát, báo cáo, sự hoàn thành các bài kiểm tra, các cuộc phỏng vấn, hồ sơ…Yêu cầu đánh giá học sinh một cách toàn diện: các kiến thức khoa học cơ bản, khả năng khám phá và áp dụng khoa học để giải quyết các vấn đề trong cuộc sống hàng ngày, sự hứng thú trong khoa học, sự nhận biết các giá trị khoa học, sự tham gia tích cực trong học tập môn khoa học, sự hợp tác, thái độ giải quyết vấn đề một cách hiệu quả và sang tạo…
3.2.2. Điều kiện để tiến tới dạy học tích hợp các môn học trong nhà trường
- Để tiến tới dạy học tích hợp các môn học trong nhà trường, trước hết cần đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chuyên gia về tích hợp môn học để tiến dần tới việc thực hiện tích hợp môn học theo hướng chung của nhiều nước.
- Thiết kế lại nội dung SGK các môn học theo hướng tích hợp. Có đội ngũ tác giả chương trình và SGK giỏi về chuyên môn, có kinh nghiệm sư phạm, kinh nghiệm biên soạn chương trình, viết SGK mới. Cần đầu tư cho cả khâu xây dựng chương trình và biên soạn SGK để tạo sự đồng bộ, tránh tình trạng chương trình thì mới nhưng cách soạn SGK thì vẫn cũ.
- Bồi dưỡng và nâng cao năng lực cho đội gũ giáo viên để có thể đáp ứng được yêu cầu dạy học tích hợp. Nâng cao đội ngũ chất lượng giáo viên-nhân tố hang đầu quyết định thành công của sự nghiệp giáo dục-thông qua việc nâng cao chất lượng tuyển chọn đầu vào các trường sư phạm, chất lượng đào tạo sinh viên, cải cách chương trình, đổi mới phương pháp dạy học, chú trọng tập huấn và đào tạo lại đội ngũ giáo viên đứng lớp, đặc biệt về phương pháp dạy học tích hợp, cùng với chế độ ưu đãi và tôn vinh đối với đội ngũ này.
- Thiết kế lại chương trình đào tạo giao viên trong các trường sư phạm từ mục tiêu đến nội dung, phương pháp để chuẩn bị cho năng lực đội ngũ giáo viên khi thực hiện chương trình tích hợp.
- Đổi mới cách thức tổ chức quản lí trong nhà trường, cách kiểm tra và đánh giá kết quả học tập theo hướng tích hợp.
- Tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị dạy học theo hướng tích hợp môn học. Đổi mới trang thiết bị và thiết kế phòng học để phù hợp với việc tổ chức lớp học theo tinh thần mới.
- Thay đổi cách thi cử, kiểm tra, đánh giá phù hợp với chương trình, SGK cũng như phương pháp dạy học mới.
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module TH13
MODULE TH 13: KĨ NĂNG LẬP KẾ HOẠCH BÀI HỌC
THEO HƯỚNG DẠY HỌC TÍCH CỰC
- - - - - - - - - - -
Họ và tên:..........................
Chức vụ:.............................
Đơn vị:.........................
Dạy lớp: ......................
I. Mục tiêu:
- Phân biệt được các loại bài học ở tiểu học và yêu cầu của mỗi loại bài học.
- Biết cách triển khai mỗi loại bài học trên lớp theo hướng dạy học phát huy tính tích cực của học sinh.
- Nêu được các bước, yêu cầu thiết kế kế hoạch bài học theo hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
II. Kĩ năng lập kế hoạch bài học theo hướng dạy học tích cực:
- Việc thực hiện đổi mới chương trình giáo dục Tiểu học đòi hỏi phải đổi mới đồng bộ từ mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học đến cách thức đánh giá kết quả dạy học, trong đó khâu đột phá là đổi mới phương pháp dạy học. Mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học là phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo; rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn, có niềm vui, hứng thú trong học tập.
1, Định hướng đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học:
Đổi mới phương pháp dạy học ở trường Tiểu học cần được thực hiện theo các định hướng sau:
1, Bám sát mục tiêu giáo dục.
2, Phù hợp với nội dung dạy học cụ thể.
3, Phù hợp với đặc điểm lứa tuổi HS.
4, Phù hợp với cơ sở vật chất, các điều kiện dạy học của nhà trường.
5, Phù hợp với việc đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả dạy học.
6, Kết hợp giữa việc tiếp thu và sử dụng có chọn lọc, có hiệu quả các phương pháp dạy học tiên tiến, hiện đại với việc khai thác những yếu tố tích cực của các phương pháp dạy học truyền thống.
7, Tăng cường sử dụng các phương tiện dạy học và đặc biệt lưu ý đến những ứng dụng của công nghệ thông tin.
2, Yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học ở trường Tiểu học.
Yêu cầu đối với HS:
- Tích cực suy nghĩ, chủ động tham gia các hoạt động học tập để tự khám phá và lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kĩ năng, xây dựng thái độ và hành vi đúng đắn.
- Mạnh dạn trình bày và bảo vệ ý kiến, quan điểm cá nhân; tích cực thảo luận, tranh luận, đặt câu hỏi cho bản thân, cho thầy, cho bạn; biết tự đánh giá và đánh giá các ý kiến, quan điểm, các sản phẩm hoạt động học tập của bản thân và bạn bè.
- Tích cực sử dụng thiết bị, đồ dùng học tập; thực hành thí nghiệm; thực hành vận dụng kiến thức đã học để phân tích, đánh giá, giải quyết các tình huống và các vấn đề đặt ra từ thực tiễn; xây dựng và thực hiện các kế hoạch học tập phù hợp với khả năng và điều kiện.
Yêu cầu đối với GV:
- Thiết kế, tổ chức, hướng dẫn HS thực hiện các hoạt động học tập với các hình thức đa dạng, phong phú, có sức hấp dẫn phù hợp với đặc trưng bài học, với đăc điểm và trình độ HS, với điều kiện cụ thể của lớp, trường và địa phương.
- Động viên, khuyến khích, tạo cơ hội và điều kiện cho HS được tham gia một cách tích cực , chủ động, sáng tạo vào quá trình khám phá và lĩnh hội kiến thức; chú ý khai thác vốn kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng đã có của HS; bồi dưỡng hứng thú, nhu cầu hành động và thái độ tự tin trong học tập cho HS; giúp các em phát triển tối đa tiềm năng của bản thân.
- Sử dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách hợp lý, hiệu quả, linh hoạt, phù hợp với đặc trưng của cấp học, môn học; nội dung, tính chất của bài học, đặc điểm và trình độ HS; thời lượng dạy học và các điều kiện dạy học cụ thể của trường, địa phương.
III. Quy trình chuẩn bị và thực hiện một giờ học theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học.
1.Các bước thiết kế một giáo án:
- Xác định mục tiêu của bài học căn cứ vào chuẩn kiến thức kĩ năng và yêu cầu về thái độ trong chương trình.
- Nghiên cứu SGK và các tài liệu liên quan để:
+ Hiểu chính xác, đầy đủ những nội dung của bài học.
+ Xác định những kiến thức, kĩ năng, thái độ cơ bản cần hình thành và phát triển ở HS.
+ Xác định trình tự logic của bài học.
- Xác định khả năng đáp ứng nhiệm vụ nhận thức của HS:
+ Xác định những kiến thức, kĩ năng mà HS đã có và cần có.
+ Dự kiến những khó khăn, những tình huống có thể nảy sinh và các phương án giải quyết.
- Lựa chọn phương pháp dạy học, phương tiện dạy học, hình thức tổ chức dạy học và cách thức đánh giá thích hợp nhằm giúp HS học tập tích cực, chủ động, sáng tạo.
- Thiết kế giáo án: Thiết kế nội dung, nhiệm vụ, cách thức hoạt động, thời gian và yêu cầu cần đạt cho từng hoạt động dạy của GV và hoạt động học tập của HS.
Cấu trúc của một giáo án được thể hiện ở các nội dung sau:
- Mục tiêu bài học:
+ Nêu rõ mức độ HS cần đạt về kiến thức, kĩ năng, thái độ.
+ Các mục tiêu được biểu đạt bằng động từ cụ thể, có thể lượng hóa được.
- Chuẩn bị về phương pháp và phương tiện dạy học:
+ GV chuẩn bị các thiết bị dạy học (Tranh ảnh, mô hình, hiện vật, hóa chất…), các phương tiện và tài liệu dạy học cần thiết.
+ GV hướng dẫn HS chuẩn bị bài học (soạn bài, làm bài tập, chuẩn bị tài liệu và đồ dùng học tập cần thiết).
- Tổ chức các hoạt động dạy học: Trình bày rõ cách thức triển khai các hoạt động dạy học cụ thể. Với mỗi hoạt động cần chỉ rõ:
+ Tên hoạt động.
+ Mục tiêu của hoạt động.
+ Cách tiến hành hoạt động.
+ Thời lượng để thực hiện hoạt động.
+ Kết luận của GV về: Những kiến thức, kĩ năng, thái độ HS cần có sau hoạt động; những tình huống thực tiễn có thể vận dụng kiến thức, kĩ năng, thái độ đã học để giải quyết; những sai sót thường gặp; những hậu quả có thể xảy ra nếu không co cách giải quyết phù hợp…
- Hướng dẫn các hoạt động tiếp nối: Xác định những việc HS cần phải tiếp tục thực hiện sau giờ học để củng cố, khắc sâu, mở rộng bài cũ hoặc để chuẩn bị cho việc học bài mới.
Ngoài việc nắm vững những định hướng đổi mới PPDH, để có được những giờ dạy học tốt, người GV cần phải nắm vững các kĩ thuật dạy học. Chuẩn bị và thiết kế một giờ học cũng là một hoạt động cần có những kĩ thuật riêng. Bài viết xin đề cập đến vấn đề này trên góc nhìn một giờ học tốt theo định hướng đổi mới PPDH.
Quy trình chuẩn bị một giờ học
Hoạt động chuẩn bị cho một giờ dạy học đối với GV thường được thể hiện qua việc chuẩn bị giáo án. Đây là hoạt động xây dựng kế hoạch dạy học cho một bài học cụ thể, thể hiện mối quan hệ tương tác giữa GV với HS, giữa HS với HS nhằm đạt được những mục tiêu của bài học.
Căn cứ trên giáo án, có thể vừa đánh giá được trình độ chuyên môn và tay nghề sư phạm của GV vừa thấy rõ quan niệm, nhận thức của họ về các vấn đề giáo dục như: mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, cách sử dụng PPDH, thiết bị DH, hình thức tổ chức dạy học và cách đánh giá kết quả học tập của HS trong mối quan hệ với các yếu tố có tính chất tương đối ổn định như: kế hoạch, thời gian, cơ sở vật chất và đối tượng HS. Chính vì thế, hoạt động chuẩn bị cho một giờ học có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng, quyết định nhiều tới chất lượng và hiệu quả giờ dạy học.
Từ thực tế dạy học, có thể tổng kết thành quy trình chuẩn bị một giờ học với các bước thiết kế một giáo án và khung cấu trúc của một giáo án cụ thể như sau:
Các bước thiết kế một giáo án
- Bước 1: Xác định mục tiêu của bài học căn cứ vào chuẩn kiến thức (KT), kĩ năng (KN) và yêu cầu về thái độ trong chương trình. Bước này được đặt ra bởi việc xác định mục tiêu của bài học là một khâu rất quan trọng, đóng vai trò thứ nhất, không thể thiếu của mỗi giáo án. Mục tiêu (yêu cầu) vừa là cái đích hướng tới, vừa là yêu cầu cần đạt của giờ học; hay nói khác đi đó là thước đo kết quả quá trình dạy học. Nó giúp GV xác định rõ các nhiệm vụ sẽ phải làm (dẫn dắt HS tìm hiểu, vận dụng những KT, KN nào; phạm vi, mức độ đến đâu; qua đó giáo dục cho HS những bài học gì).
- Bước 2: Nghiên cứu SGK và các tài liệu liên quan để: hiểu chính xác, đầy đủ những nội dung của bài học; xác định những KT, KN, thái độ cơ bản cần hình thành và phát triển ở HS; xác định trình tự logic của bài học.
Bước này được đặt ra bởi nội dung bài học ngoài phần được trình bày trong SGK còn có thể đã được trình bày trong các tài liệu khác. Kinh nghiệm của các GV lâu năm cho thấy: trước hết nên đọc kĩ nội dung bài học và hướng dẫn tìm hiểu bài trong SGK để hiểu, đánh giá đúng nội dung bài học rồi mới chọn đọc thêm tư liệu để hiểu sâu, hiểu rộng nội dung bài học. Mỗi GV không chỉ có KN tìm đúng, tìm trúng tư liệu cần đọc mà cần có KN định hướng cách chọn, đọc tư liệu cho HS. GV nên chọn những tư liệu đã qua thẩm định, được đông đảo các nhà chuyên môn và GV tin cậy. Việc đọc SGK, tài liệu phục vụ cho việc soạn giáo án có thể chia thành 3 cấp độ sau: đọc lướt để tìm nội dung chính xác định những KT, KN cơ bản, trọng tâm mức độ yêu cầu và phạm vi cần đạt; đọc để tìm những thông tin quan tâm: các mạch, sự bố cục, trình bày các mạch KT, KN và dụng ý của tác giả; đọc để phát hiện và phân tích, đánh giá các chi tiết trong từng mạch KT, KN.
Thực ra khâu khó nhất trong đọc SGK và các tư liệu là đúc kết được phạm vi, mức độ KT, KN của từng bài học sao cho phù hợp với năng lực của HS và điều kiện dạy học. Trong thực tế dạy học, nhiều khi chúng ta thường đi chưa tới hoặc đi quá những yêu cầu cần đạt về KT, KN. Nếu nắm vững nội dung bài học, GVsẽ phác họa những nội dung và trình tự nội dung của bài giảng phù hợp, thậm chí có thể cải tiến cách trình bày các mạch KT, KN của SGK, xây dựng một hệ thống câu hỏi, bài tập giúp HS nhận thức, khám phá, vận dụng các KT, KN trong bài một cách thích hợp.
- Bước 3: Xác định khả năng đáp ứng các nhiệm vụ nhận thức của HS, gồm: xác định những KT, KN mà HS đã có và cần có; dự kiến những khó khăn, những tình huống có thể nảy sinh và các phương án giải quyết.
Bước này được đặt ra bởi trong giờ học theo định hướng đổi mới PPDH, GV không những phải nắm vững nội dung bài học mà còn phải hiểu HS để lựa chọn PPDH, phương tiện dạy học, các hình thức tổ chức dạy học và đánh giá cho phù hợp. Như vậy, trước khi soạn giáo án cho giờ học mới, GV phải lường trước các tình huống, các cách giải quyết nhiệm vụ học tập của HS. Nói cách khác, tính khả thi của giáo án phụ thuộc vào trình độ, năng lực học tập của HS, được xuất phát từ: nhữngKT, KN mà HS đã có một cách chắc chắn, vững bền; những KT, KN mà HS chưa có hoặc có thể quên; những khó khăn có thể nảy sinh trong quá trình học tập của HS. Bước này chỉ là sự dự kiến; nhưng trong thực tiễn, có nhiều giờ học do không dự kiến trước, GV đã lúng túng trước những ý kiến không đồng nhất của HS với những biểu hiện rất đa dạng. Do vậy, dù mất công nhưng mỗi GV nên dành thời gian để xem qua bài soạn của HS trước giờ học kết hợp với kiểm tra đánh giá thường xuyên để có thể dự kiến trước khả năng đáp ứng các nhiệm vụ nhận thức cũng như phát huy tích cực vốn KT, KN đã có của HS.
- Bước 4: Lựa chọn PPDH, phương tiện dạy học, hình thức tổ chức dạy học và cách thức đánh giá thích hợp nhằm giúp HS học tập tích cực, chủ động, sáng tạo.
Bước này được đặt ra bởi trong giờ học theo định hướng đổi mới PPDH, GV phải quan tâm tới việc phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, KN vận dụng KT vào những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn; tác động đến tư tưởng và tình cảm để đem lại niềm vui, hứng thú trong học tập cho HS. Trong thực tiễn dạy học hiện nay, các GV vẫn quen với lối dạy học đồng loạt với những nhiệm vụ học tập không có tính phân hoá, ít chú ý tới năng lực học tập của từng đối tượng HS. Đổi mới PPDH sẽ chú trọng cải tiến thực tiễn này, phát huy thế mạnh tổng hợp của các PPDH, PTDH, hình thức tổ chức dạy học và cách thức đánh giá nhằm tăng cường sự tích cực học tập của các đối tượng HS trong giờ học.
- Bước 5: Thiết kế giáo án.
Đây là bước người GV bắt tay vào soạn giáo án - thiết kế nội dung, nhiệm vụ, cách thức hoạt động, thời gian và yêu cầu cần đạt cho từng hoạt động dạy của GV và hoạt động học tập của HS.
Trong thực tế, có nhiều GV khi soạn bài thường chỉ đọc SGK, sách GV và bắt tay ngay vào hoạt động thiết kế giáo án; thậm chí, có GV chỉ căn cứ vào những gợi ý của sách GV để thiết kế giáo án bỏ qua các khâu xác định mục tiêu bài học, xác định khả năng đáp ứng nhiệm vụ học tập của HS, nghên cứu nội dung dạy học, lựa chọn các PPDH, phương tiện dạy học, hình thức tổ chức dạy học và cách thức đánh giá thích hợp nhằm giúp HS học tập tích cực, chủ động, sáng tạo. Cách làm như vậy không thể giúp GV có được một giáo án tốt và có những điều kiện để thực hiện một giờ dạy học tốt. Về nguyên tắc, cần phải thực hiện qua các bước 1, 2, 3, 4 trên đây rồi hãy bắt tay vào soạn giáo án cụ thể.
Cấu trúc của một giáo án được thể hiện ở các nội dung sau:
- Mục tiêu bài học:
+ Nêu rõ yêu cầu HS cần đạt về KT, KN, thái độ;
+ Các mục tiêu được biểu đạt bằng động từ cụ thể, có thể lượng hoá được.
- Chuẩn bị về phương pháp và phương tiện dạy học:
+ GV chuẩn bị các thiết bị dạy học (tranh ảnh, mô hình, hiện vật, hoá chất...), các phương tiện dạy học (máy chiếu, TV, đầu video, máy tính, máy projector...) và tài liệu dạy học cần thiết;
+ Hướng dẫn HS chuẩn bị bài học (soạn bài, làm bài tập, chuẩn bị tài liệu và đồ dùng học tập cần thiết).
- Tổ chức các hoạt động dạy học: Trình bày rõ cách thức triển khai các hoạt động dạy- học cụ thể. Với mỗi hoạt động cần chỉ rõ:
+ Tên hoạt động ;
+ Mục tiêu của hoạt động;
+ Cách tiến hành hoạt động;
+ Thời lượng để thực hiện hoạt động;
+ Kết luận của GV về: những KT, KN, thái độ HS cần có sau hoạt động; những tình huống thực tiễn có thể vận dụng KT, KN, thái độ đã học để giải quyết; những sai sót thường gặp; những hậu quả có thể xảy ra nếu không có cách giải quyết phù hợp;...
- Hướng dẫn các hoạt động tiếp nối: xác định những việc HS cần phải tiếp tục thực hiện sau giờ học để củng cố, khắc sâu, mở rộng bài cũ hoặc để chuẩn bị cho việc học bài mới.
Thực hiện giờ dạy học
Một giờ dạy học nên được thực hiện theo các bước cơ bản sau:
Kiểm tra sự chuẩn bị của HS
- Kiểm tra tình hình nắm vững bài học cũ và những KT, KN đã học có liên quan đến bài mới.
- Kiểm tra tình hình chuẩn bị bài mới (soạn bài, làm bài tập, chuẩn bị tài liệu và đồ dùng học tập cần thiết))
Lưu ý: Việc kiểm tra sự chuẩn bị của HS có thể thực hiện đầu giờ học hoặc có thể đan xen trong quá trình dạy bài mới.
Tổ chức dạy và học bài mới
- GV giới thiệu bài mới: nêu nhiệm vụ học tập và cách thức thực hiện để đạt được mục tiêu bài học; tạo động cơ học tập cho HS.
- GV tổ chức, hướng dẫn HS suy nghĩ, tìm hiểu, khám phá và lĩnh hội nội dung bài học, nhằm đạt được mục tiêu bài học với sự vận dụng PPDH phù hợp.
Luyện tập, củng cố
GV hướng dẫn HS củng cố, khắc sâu những KT, KN, thái độ đã có thông qua hoạt động thực hành luyện tập có tính tổng hợp, nâng cao theo những hình thức khác nhau.
Đánh giá
- Trên cơ sở đối chiếu với mục tiêu bài học, GV dự kiến một số câu hỏi, bài tập và tổ chức cho HS tự đánh giá về kết quả học tập của bản thân và của bạn.
- GV đánh giá, tổng kết về kết quả giờ học.
Hướng dẫn HS học bài, làm việc ở nhà
- GV hướng dẫn HS luyện tập, củng cố bài cũ (thông qua làm bài tập, thực hành, thí nghiệm,…).
- GV hướng dẫn HS chuẩn bị bài học mới.
Lưu ý: Tùy theo đặc trưng môn học, nội dung dạy học, đặc điểm và trình độ HS, điều kiện cơ sở vật chất… GV có thể vận dụng các bước thực hiện một giờ dạy học như trên một cách linh hoạt và sáng tạo, tránh đơn điệu, cứng nhắc.
Sự thành công của một giờ dạy theo định hướng đổi mới PPDH phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố trong đó quan trọng nhất là sự chủ động, linh hoạt, sáng tạo của cả người dạy và cả người học.
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module TH14
MODULE TH 14
THỰC HÀNH THIẾT KẾ
KẾ HOẠCH BÀI DẠY THEO HƯỚNG DẠY HỌC TÍCH CỰC
- Những điểm cần lưu ý khi thiết kế kế hoạch cho dạng bài hình thành kiến thức mới, cho dạng bài luyện tập và ôn tập theo hướng tích cực.
1.1 Yêu cầu của một kế hoạch dạy học theo hướng dạy học tích cực
+ Thể hiện được mục tiêu của chương trình.
+ Chú ý đến việc phát huy tính tích cực của học sinh.
+ Thể hiện được đề cương của nội dung bài giảng.
+ Thể hiện được việc tổ chức hoạt động của học sinh trong giờ học.
+ Phải sử dụng dễ dàng khi lên lớp.
+ Phải mang tính chất mở.
1.2 Một số lưu ý khi thiết kế dạng bài hình thành kiến thức mới theo hướng dạy học tích cực:
- Về mục tiêu của bài học:
+ Mục tiêu của bài học đã nêu những yêu cầu về kiến thức, kỹ năng mà học sinh cần đạt được sau khi bài học. Trong đó, ghi cụ thể từng kiến thức, kỹ năng cần đạt được ở mức độ nào.
+ Cách viết mục tiêu đã sử dụng các động từ sau cho có thể lượng hóa, kiểm tra và đánh giá được những kiến thức, kỹ năng mà học sinh thu nhận được.
- Về đồ dùng dạy học:
+ Đồ dùng dạy học do cả giáo viên và học sinh chuẩn bị.
- Các hoạt động dạy học: bài học được chia thành các hoạt động chủ yếu. Các hoạt động này được sắp xếp theo thứ tự, logic hợp lí.
Các hoạt động trong bài học được thiết kế theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, đúng đặt trưng của loại bài học hình thành kiến thức mới. Giáo viên không áp đặt, không thông báo kiến thức có sẵn mà hướng dẫn học sinh tự tìm tòi, phát hiện, chủ động tự chiếm lĩnh kiến thức. Học sinh được học tập tích cực, chủ động, hứng thú do có cơ hội bày tỏ, chia sẻ những trải nghiệm; có cơ hội thực hành, vận dụng kiến thức, kỹ năng đã học vào đời sống; có nhiều cơ hội để độc lập suy nghĩ, bày tỏ ý kiến riêng khi làm việc cá nhân; và có nhiều cơ hội phát huy năng lực hợp tác khi làm việc theo nhóm… Do đó, bài học đã được tổ chức, thiết kế thông qua các hoạt động trải nghiệm, khám phá phát hiện của học sinh với nhiều hoạt động phong phú, được thể hiện cụ thể ở các bài học như sau:
* Về các hoạt động dạy học trong kế hoạch bài học có các hoạt động
- Hoạt động khởi động: được tổ chức dưới hình thức trò chơi nhằm kích thích sự tò mò, khơi dậy hứng thú của học sinh trước khi bước vào bài học mới; tạo không khí lớp học vui vẻ.
- Hoạt động ôn luyện những kiến thức, kĩ năng đã học.
- Hoạt động giới thiệu bài. Giới thiệu thông tin kiến thức và kĩ năng của bài học mới nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi học bài mới. Bài học đã sử dụng cách giới thiệu bài dựa trên vốn ngôn ngữ, vốn hiểu biết, kinh nghiệm đã có của học sinh, nhằm kết nói những kiến thức, kĩ năng tiếng Việt cho học sinh đã có với kiến thức, kĩ năng tiếng việt mà học sinh sẽ được học trong bài mới
- Hoạt động hướng dẫn học sinh kiến thức mới đây là hoạt động trọng tâm của bài học. Hoạt động này được tổ chức bằng cách giúp học sinh tìm tòi, khám phá, rút ra kiến thức kĩ năng mới dưới sự gợi ý, hướng dẫn của giáo viên.
- Hoạt động thực hành: đây là hoạt động nhằm giúp học sinh củng cố, rèn luyện các kiến thức, kĩ năng mới trên cơ sở các kiến thức vừa học.
Tóm lại để lập một kế hoạch bài dạy hình thành kiến thức mới theo hướng tích cực cần lưu ý:
- Trước hết, bạn căn căn cứ vào yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học. Chương trình và sách giáo khoa đã phần nào tạo điều kiện để giáo viên và học sinh thực hiện phương pháp tích cực hóa hoạt động của học sinh, trong đó giáo viên đóng vai trò người tổ chức để dẫn dắt học sinh quan sát, tìm tòi, thu nhận kiến thức và hình thành kĩ năng. Giáo viên cần căn cứ vào trình độ học sinh trong lớp, điều kiện lớp học để xây dựng kế hoạch bài học.
Mục đích giờ học không phải là giáo viên truyền thụ lời giảng của mình và học sinh nghe, ghi nhớ, nhắc lại. Mục đích cao nhất là làm sao để chủ thể học sinh, dưới sự hướng dẫn của giáo viên, chiếm lĩnh được tri thức, hình thành, phát triển được kĩ năng.
- Các hoạt động trong bài hình thành kiến thức cần được thiết kế theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, trong đó học sinh chủ động, tự tìm tòi, chiếm lĩnh kiến thức, giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn. Quá trình tự tìm tòi. Khám phá kiến thức sẽ giúp học sinh rèn luyện tính chủ động, sáng tạo trong học tập. Các em sẽ hiểu sâu, nhớ lâu kiến thức do chính mình (hoặc cùng các bạn) tìm ra kiến thức đó.
- Trong quá trình hướng dẫn học sinh tự tìm tòi, khám phá, chiếm lĩnh kiến thức mới, cần lưu ý:
+ Cách gợi mở, nêu vấn đề để thu hút sự chú ý của học sinh.
+ Cách củng cố kiến thức cũ, huy động vốn sống để học sinh tự giải quyết vấn đề.
+ Tổ chức, hướng dẫn học sinh độc lập suy nghĩ, thảo luận có hiệu quả.
+ Quan sát, theo dõi quá trình học sinh tự tìm tòi, khám phá, chú ý đến những dấu hiệu nhận biết học sinh có thực sự tìm tòi, khám phá hay không.
+ Động viên, khuyến khích học sinh kiên trì, vượt khó khăn, tích cực học tập.
+ Sử dụng thiết bị dạy học một cách hợp lí, phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh.
+ Lưu ý những khó khăn thường gặp của học sinh và tìm cách khắc phục.
1.3 Một số lưu ý khi thiết kế dạng bài luyện tập theo hướng dạy học tích cực
- Về mục tiêu của bài học:
+ Mục tiêu của bài học đã nêu những yêu cầu thực hành rèn luyện kĩ năng mà học sinh cần đạt được sau bài học. Trong đó, ghi cụ thể mức độ học sinh cần đạt được.
+ Cách viết mục tiêu đã được sử dụng các động từ sao cho có thể lượng hóa, kiểm tra và đánh giá được những kĩ năng mà học sinh thu nhận được.
- Về đồ dùng dạy học:
+ Đồ dùng dạy học phong phú, liệt kê tất cả đồ dùng dạy học cần phải có để tổ chức tiết dạy.
+ Đồ dùng dạy học không chỉ dành cho giáo viên mà còn phải quan tâm đến đồ dùng để học sinh học tập (bao gồm cả đồ dùng cá nhân của học sinh và đồ dùng cho nhóm học sinh).
+ Đồ dùng dạy học do cả giáo viên và học sinh chuẩn bị.
- Về các hoạt động dạy học:
Bài học được chia thành các hoạt động chủ yếu. Các hoạt động này được sắp xếp theo thứ tự, logic hợp lí.
Các hoạt động trong bài học được thiết kế theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, đúng đặt trưng của loại bài học thực hành. Giáo viên không nói nhiều, không làm thay, làm hộ học sinh. Học sinh được học tập tích cực, chủ động, hứng thú, được thực hành, luyện tập thực sự dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên.
Để thiết kế một kế hoạch bài học cho bài thực hành theo hướng dạy học tích cực, GV có thể tham khảo một số gợi ý dưới đây:
- Giao việc cho học sinh: Nhằm giúp tất cả học sinh trong lớp đều nắm vững yêu cầu cần luyện tập, thực hành (kết hợp với mọi thộng tin cơ bản, quan trọng khác, nếu có). Nội dung cụ thể là:
+ Cho học sinh trình bày yêu cầu của câu hỏi, bài tập trong SGK (HS tự đọc thành tiếng hoặc đọc thầm; giáo viên không làm thay, chỉ yêu cầu, giải thích trong trường hợp cần thiết). Học sinh có thể đọc nguyên văn câu hỏi, bài tập. Sau đó giáo viên đề nghị các em nêu tóm tắt yêu cầu của câu hỏi, bài tập ấy.
+ Cho học sinh thực hiện một phần câu hỏi, bài tập trong SGK (làm thử, làm mẫu), nếu nhiệm vụ đặt ra trong những câu hỏi, bài tập ấy là khó hoặc mới với học sinh. Lưu ý: Trong trường hợp giáo viên làm mẫu thì tốt nhất là giáo viên vừa làm mẫu vừa kết hợp với giải thích cho học sinh hiểu. Sau đó, giáo viên tổ chức chữa bài để giúp học sinh nắm được cách làm.
+ Tóm tắt nhiệm vụ, nêu những điểm học sinh cần chú ý khi làm bài.
- Giúp học sinh chữa một phần của bài tập.
- Tổ chức cho học sinh thực hành:
+ HS có thể thực hành cá nhân hoặc theo nhóm, phụ thuộc vào nội dung thực hành và số đồ dùng chuẩn bị được. Giáo viên cần tạo điều kiện để càng nhiều học sinh được thực hành kĩ năng càng tốt.
+ Cần lưu ý kiểm tra học sinh nhằm mục đích:
Xem học sinh có làm việc không, nếu học sinh không chịu làm việc thì cần tìm hiểu lí do, động viên các em làm việc để đảm bảo yêu cầu tích cực hóa hoạt động của người học. Tìm cách hỗ trợ phù hợp từng đối tượng học sinh để các em có thể tự mình hoàn thành nhiệm vụ hoặc hợp tác hiệu quả với bạn (nếu hoạt động nhóm)
Xem học sinh có thể hiểu việc phải làm không, nếu học sinh không hiểu việc phải làm thì cần giải thích, hướng dẫn lại cho học sinh làm để hoạt động của các em đạt được mục đích đề ra. (Đây là thời gian giáo viên có thể quan tâm nhiều hơn đến những học sinh yếu kém, giúp các em thực hiện đúng yêu cầu của bài tập để các em tự tin, tiến bộ).
Trả lời thắc mắc của học sinh (nếu có).
- Tổ chức cho học sinh báo báo thực hành kết quả thực hành trước lớp.
+ Các hình thức: báo cáo trực tiếp với giáo viên; báo cáo trong nhóm; báo cáo trước lớp.
+ Các biện pháp: báo cáo bằng miệng hoặc bằng bảng con, bảng lớp; phiếu học tập; thi đua giữa các nhóm hoặc trình bày cá nhân.
Lưu ý: Báo cáo kết quả làm bài là hoạt động của học sinh. Giáo viên chú ý không báo cáo thay học sinh, không làm thay học sinh những việc học sinh có thể tự làm.
- Tổ chức cho học sinh đánh giá kết quả thực hành:
+ Các hình thức đánh giá có thể là: học sinh tự đánh giá; học sinh đánh giá nhau trong nhóm; học sinh đánh giá nhau trước lớp; giáo viên đánh giá học sinh.
+ Các biện pháp đánh giá có thể là: khen, chê (định tính); cho điểm (định lượng).
- Trước hết, căn cứ vào yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học. Chương trình và sách giáo khoa đã phần nào tạo điều kiện để giáo viên và học sinh thực hiện phương pháp tích cực hóa hoạt động của học sinh, trong đó giáo viên đóng vai trò người tổ chức để dẫn dắt học sinh quan sát, tìm tòi, thu nhận kiến thức và hình thành kĩ năng. Giáo viên cần căn cứ vào trình độ học sinh trong lớp, điều kiện lớp học để xây dựng kế hoạch bài học.
Mục đích giờ học không phải là giáo viên truyền thụ lời giảng của mình và học sinh nghe, ghi nhớ, nhắc lại. Mục đích cao nhất là làm sao để chủ thể học sinh, dưới sự hướng dẫn của giáo viên, chiếm lĩnh được tri thức, hình thành, phát triển được kĩ năng.
- Các hoạt động trong bài hình thành kiến thức cần được thiết kế theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, trong đó học sinh chủ động, tự tìm tòi, chiếm lĩnh kiến thức, giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn. Quá trình tự tìm tòi. Khám phá kiến thức sẽ giúp học sinh rèn luyện tính chủ động, sáng tạo trong học tập. Các em sẽ hiểu sâu, nhớ lâu kiến thức do chính mình (hoặc cùng các bạn) tìm ra kiến thức đó.
- Trong quá trình hướng dẫn học sinh tự tìm tòi, khám phá, chiếm lĩnh kiến thức mới , cần lưu ý:
+ Cách gợi mở, nêu vấn đề để thu hút sự chú ý của học sinh.
+ Cách củng cố kiến thức cũ, huy động vốn sống để học sinh tự giải quyết vấn đề.
+ Tổ chức, hướng dẫn học sinh độc lập suy nghĩ, thảo luận có hiệu quả.
+ Quan sát, theo dõi quá trình học sinh tự tìm tòi, khám phá, chú ý đến những dấu hiệu nhận biết học sinh có thực sự tìm tòi, khám phá hay không.
+ Động viên , khuyến khích học sinh kiên trì, vượt khó khăn, tích cực học tập.
+ Sử dụng thiết bị dạy học một cách hợp lí, phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh.
+ Lưu ý những khó khăn thường gặp của học sinh và tìm cách khắc phục.
1.4 Một số lưu ý khi thiết kế dạng bài ôn tập theo hướng dạy học tích cực
* Về mục tiêu dạy học:
- Mục tiêu của bài học đã nêu những yêu cầu HS cần đạt sau bài học. Trong đó ghi cụ thể mức độ HS cần đạt được
- Cách viết mục tiêu đã sử dụng các động từ sao cho có thể lượng hóa, kiểm tra và đánh giá được những kĩ năng mà HS thu nhận được.
* Về đồ dùng dạy học:
- Đồ dùng dạy học phong phú, liệt kê tất cả đồ dùng dạy học cần phải có để tổ chức tiết dạy.
- Đồ dùng dạy học không chỉ dành cho giáo viên mà còn phải quan tâm đến đồ dùng để HS học tập
- Đồ dùng dạy học do cả giáo viên và HS chuẩn bị.
* Về các hoạt động dạy học:
- Bài học được chia thành các hoạt động chủ yếu. Các hoạt động này được sắp xếp theo thứ tự, logic hợp lí.
- Các hoạt động trong bài học được thiết kế theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của HS, đúng đặc trưng của loại bài học ôn tập, đó là giáo viên hướng dẫn, tổ chức cho HS hệ thống lại các kiến thức đã học.
- Chuẩn bị kĩ nội dung trọng tâm cần hướng dẫn HS ôn tập, củng cố dựa trên yêu cầu của bài ôn tập, dựa vào trình độ HS trong lớp… Đồng thời nên xác định rõ kiến thức cần củng cố, kĩ năng cần ôn luyện trong bài học.
- Mục tiêu của bài ôn tập không nhằm cung cấp kiến thức, kĩ năng mới mà là giúp HS củng cố, hệ thống hóa những kiến thức, kĩ năng đã học ở những bài trước đó. Vì vậy, các hoạt động trong giờ ôn tập là các hoạt động luyện tập, thực hành của HS với sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên.
- Để tiết học diễn ra nhẹ nhàng, đem lại hiệu quả thiết thực, nên thiết kế các hoạt động đa dạng, phong phú với nhiếu hình thứctổ chức khác nhau, tạo điều kiện cho HS luyện tập, thực hành một cách tích cực, phát huy cao nhất vốn kinh nghiệm, vốn kiến thức, kĩ năng các em đã học.
- Thực hành:
2.1. Một số bài soạn dạng hình thành kiến thức mới theo hướng dạy học tích cực:
Luyện từ và câu
Tiết 37: Câu ghép
Mục tiêu
- Nắm được sơ lược khái niệm câu ghép là câu do nhiều vế câu ghép lại; mỗi vế câu ghép thường có cấu tạo giống một câu đơn và thể hiện một ý có quan hệ chặt chẽ với ý của một câu khác (ND ghi nhớ)
- Nhận biết được câu ghép trong đoạn văn, xác định được các vế câu trong câu ghép (BT1 mục III); thêm được một vế câu vào chỗ trống để tạo thành câu ghép (BT3).
- HS yêu quý và giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
Chuẩn bị
- GV: Bảng phụ ghi sẵn đoạn văn ở mục I để hướng dẫn HS nhận xét. 4,5 bảng nhóm kẻ sẳn bảng để HS làm bài tập 1 phần luyện tập.
- HS: SGK, vở
III. Các hoạt động dạy học
Hoạt động của thầy cô
* Khởi động
- Ổn định
- Kiểm tra bài cũ: Luyện tập chung.
- Gọi HS nhắc lại quy tắc và công thức tính diện tích hình tam giác, hình thang.
- GV nhận xét.
- Giới thiệu bài. Ghi tựa.
* Hoạt động 1: Giới thiệu về hình tròn, đường tròn.
MT: HS nhận biết được về hình tròn, đường tròn và các yếu tố của hình tròn như tâm, bán kính, đường kính.
- GV đưa ra 1 tấm bìa hình tròn, chỉ tay trên mặt tấm bìa và nói: “Đây là hình tròn”
- GV dùng com pa vẽ trên bảng 1 hình tròn rồi nói: “Đầu chì của compa vạch ra 1 đường tròn”.
- Yêu cầu HS dùng compa vẽ trên giấy 1 hình tròn.
- GV giới thiệu cách tạo dựng 1 bán kính hình tròn. Chẳng hạn: Lấy 1 điểm A trên đường tròn, nối tâm O với điểm OA là bán kính của hình tròn.
- Yêu cầu HS vẽ bán kính và phát hiện đặc điểm: “Tất cả các bán kính của 1 hình tròn đều bằng nhau”.
- GV giới thiệu tiếp về cách tạo dựng 1 đường kính của hình tròn HS nhắc lại đặc điểm: “Trong 1 hình tròn, đường kính dài gấp 2 lần bán kính”.
* Hoạt động 2: Thực hành
MT: Biết sử dụng com pa để vẽ hình tròn.
* Bài 1: Cho HS đọc đề bài.
- GV yêu cầu HS tự vẽ hình vào vở.
- GV kiểm tra hình vẽ của HS, sau đó gọi 2 HS lên bảng vẽ
3 cm 5 cm
- GV và HS nhận xét
* Bài 2: Cho HS đọc đề bài
- GV gọi 1 HS nêu các bước vẽ hình
- Yêu cầu HS vẽ hình vào vở. 1 HS lên bảng phụ vẽ hình
- GV và HS cùng nhận xét kết quả.
* Bài 3: Gọi HS đọc đề bài.
- GV yêu cầu HS quan sát và trả lời câu hỏi: Hình vẽ có những hình nào ?
- Yêu cầu HS khá giỏi thực hiện
- Hướng dẫn HS đếm ô vuông để xác định tâm. Bán kính của các hình tròn cần vẽ sau đó dùng compa để vẽ hình.
- HS vẽ hình vào nháp.
- GV và HS cùng nhận xét.
* Hoạt động 3: Củng cố - Dặn dò
- Gọi HS trả lời câu hỏi:
+ Thế nào là đường tròn.
+ Các bán kính trong hình tròn như thế nào so với nhau ?
+ So sánh độ dài của bán kính và đường kính của 1 hình tròn
- GV nhận xét.
- Liên hệ giáo dục HS
- Nhận xét tiết học.
- Hát
- 4 HS nêu
- Nhận xét
- Theo dõi
- Theo dõi
- HS vẽ
- Theo dõi
- Đọc
- HS vẽ hình
- Theo dõi
- Nhận xét
- Đọc
- Vẽ hình
- Nhận xét
- Đọc
- Nêu
- HS khá giỏi thực hiện
- Thực hiện đếm ô vuông
- Vẽ hình
- Nhận xét
- HS trả lời
- Lắng nghe
- Lắng nghe
2.2. Một số bài soạn dạng luyện tập kiến thức theo hứơng dạy học tích cực:
Toán
Tiết 96: Luyện tập
Mục tiêu
- Biết tính chu vi hình tṛòn, tính đường kính của hình tròn khi biết chu vi của hình tròn đó.
- Rèn luyện kỹ năng tính chu vi hình tròn.
- Giáo dục tính cẩn thận chính xác.
Chuẩn bị
- Giáo viên: Bảng phụ.
- Học sinh: SGK, vở.
III. Các hoạt động dạy học
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module TH15
BÀI THU HOẠCH
BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN GIÁO VIÊN
Module TH15: Một số phương pháp dạy học tích cực ở tiểu học
Năm học: ..............................................................................
Họ và tên: .....................................................................
Đơn vị:....................................................................
Đổi mới phương pháp dạy học là nhằm khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng phương pháp tiên tiến, hiện đại vào quá trình dạy học.
Từ đó mỗi GV sẽ phát huy tính tự giác chủ động sáng tạo của học sinh phù hợp hơn với đặc điểm của từng lớp học, môn học. Với HS tiểu học kiến thức chưa đòi hỏi ở mức độ quá khó, vấn đề cơ bản là GV phải biết khơi gợi niềm say mê yêu thích môn học của HS.
I. Phương pháp dạy học tích cực là gì?
Định hướng đổi mới phương pháp dạy học:
Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (1 - 1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12 - 1996), được thể chế hóa trong Luật Giáo dục (12 - 1998), được cụ thể hóa trong các chỉ thị của BộGiáo dục và Đào tạo, đặc biệt là chỉ thị số 15 (4 - 1999).
Luật Giáo dục, điều 24.2, đã ghi: "Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh". Có thể nói cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động.
Thế nào là tính tích cực học tập?
Tính tích cực (TTC) là một phẩm chất vốn có của con người, bởi vì để tồn tại và phát triển con người luôn phải chủ động, tích cực cải biến môi trường tự nhiên, cải tạo xã hội. Vì vậy, hình thành và phát triển TTC xã hội là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục. Tính tích cực học tập - về thực chất là TTC nhận thức, đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí lực và có nghị lực cao trong qúa trình chiếm lĩnh tri thức. TTC nhận thứctrong hoạt động học tập liên quan trước hết với động cơ học tập. Động cơ đúng tạo ra hứng thú.
Hứng thú là tiền đề của tự giác.
Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tạo nên tính tích cực. Tính tích cực sản sinh nếp tư duy độc lập. Suy nghĩ độc lập là mầm mống của sáng tạo. Ngược lại, phong cách học tập tích cực độc lập sáng tạo sẽ phát triển tự giác, hứng thú, bồi dưỡng động cơ học tập. TTC học tập biểu hiện ở những dấu hiệu như: hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề nêu ra; hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa đủ rõ; chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới; tập trung chú ý vào vấn đề đang học; kiên trì hoàn thành các bài tập, không nản trước những tình huống khó khăn…TTC học tập thể hiện qua các cấp độ từ thấp lên cao như:- Bắt chước: gắng sức làm theo mẫu hành động của thầy, của bạn…
- Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm cách giải quyết khác nhau về một số vấn đề…
- Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu.
Phương pháp dạy học tích cực:
Phương pháp dạy học tích cực (PPDH tích cực) là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. "Tích cực" trong PPDH - tích cực được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ động, trái nghĩa với không hoạt động, thụ động chứ không dùng theo nghĩa trái với tiêu cực. PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động. Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách học, nhưng ngược lại thói quen học tập của trò cũng ảnh hưởng tới cách dạy của thầy. Chẳng hạn, có trường hợp học sinh đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt động nhưng giáo viên chưa đáp ứng được, hoặc có trường hợp giáo viên hăng hái áp dụng PPDH tích cực nhưng không thành công vì học sinh chưa thích ứng, vẫn quen với lối học tập thụ động. Vì vậy, giáo viên phải kiên trì dùng cách dạy hoạt động để dần dần xây dựng cho học sinh phương pháp học tập chủ động một cách vừa sức, từ thấp lên cao. Trong đổi mới phương pháp dạy học phải có sự hợp tác cả của thầy và trò, sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động dạy với hoạt động học thì mới thành công. Như vậy, việc dùng thuật ngữ "Dạy và học tích cực" để phân biệt với"Dạy và học thụ động".
Mối quan hệ giữa dạy và học, tích cực với dạy học lấy học sinh làm trung tâm:
Từ thập kỉ cuối cùng của thế kỷ XX, các tài liệu giáo dục ở nước ngoài và trong nước, một số văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo thường nói tới việc cần thiết phải chuyển dạy học lấy giáo viên làm trung tâm sang dạy học lấy học sinh làm trung tâm.Dạy học lấy học sinh làm trung tâm còn có một số thuật ngữ tương đương như: dạy học tập trung vào người học, dạy học căn cứ vào người học, dạy học hướng vào người học… Các thuật ngữ này có chung một nội hàm là nhấn mạnh hoạt động học và vai trò của học sinh trong quá trình dạy học, khác với cách tiếp cận truyền thống lâu nay là nhấn mạnh hoạt động dạy và vai trò của giáo viên. Lịch sử phát triển giáo dục cho thấy, trong nhà trường một thầy dạy cho một lớp đông học trò, cùng lứa tuổi và trình độ tương đối đồng đều thì giáo viên khó có điều kiện chăm lo cho từng học sinh nên đã hình thành kiểu dạy "thông báo - đồng loạt". Giáo viên quan tâm trước hết đến việc hoàn thành trách nhiệm của mình là truyền đạt cho hết nội dung quy định trong chương trình và sách giáo khoa, cố gắng làm cho mọi học sinh hiểu và nhớ những điều giáo viên giảng. Cách dạy này đẻ ra cách học tập thụ động, thiên về ghi nhớ, ít chịu suy nghĩ, cho nên đã hạn chế chất lượng, hiệu quả dạy và học, không đáp ứng yêu cầu phát triển năng động của xã hội hiện đại. Để khắc phục tình trạng này, các nhà sư phạm kêu gọi phải phát huy tính tích cực chủ động của học sinh, thực hiện "dạy học phân hóa", quan tâm đến nhu cầu, khả năng của mỗi cá nhân học sinh trong tập thể lớp. Phương pháp dạy học tích cực, dạy học lấy học sinh làm trung tâm ra đời từ bối cảnh đó. Trên thực tế, trong quá trình dạy học người học vừa là đối tượng của hoạt động dạy, lại vừa là chủ thể của hoạt động học. Thông qua hoạt động học, dưới sự chỉ đạo của thầy, người học phải tích cực chủ động cải biến chính mình về kiến thức, kĩ năng, thái độ, hoàn thiện nhân cách, không ai làm thay cho mình được. Vì vậy, nếu người học không tự giác chủ động, không chịu học, không có phương pháp học tốt thì hiệu quả của việc dạy sẽ rất hạn chế. Như vậy, khi đã coi trọng vị trí hoạt động và vai trò của người học thì đương nhiên phải phát huy tính tích cực chủ động của người học. Tuy nhiên, dạy học lấy học sinh làm trung tâm không phải là một phương pháp dạy học cụ thể. Đó là một tư tưởng, quan điểm giáo dục, một cách tiếp cận quá trình dạy học chi phối tất cả quá trình dạy học về mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, tổ chức, đánh giá… chứ không phải chỉ liên quan đến phương pháp dạy và học.
II. Đặc trưng của các phương pháp dạy học tích cực:
Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh:
Trong phương pháp dạy học tích cực, người học - đối tượng của hoạt động "dạy", đồng thời là chủ thể của hoạt động "học" - được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên sắp đặt. Được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, người học trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến thức kĩ năng mới, vừa nắm được phương pháp "làm ra" kiến thức, kĩ năng đó, không rập theo những khuôn mâu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo. Dạy theo cách này thì giáo viên không chỉ giản đơn truyền đạt tri thức mà còn hướng dẫn hành động. Chương trình dạy học phải giúp cho từng học sinh biết hành động và tích cực tham gia các chương trình hành động của cộng đồng.
Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học.
Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học. Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh - với sự bùng nổ thông tin, khoa học, kĩ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão - thì không thể nhồi nhét vào đầu óc học sinh khối lượng kiến thức ngày càng nhiều. Phải quan tâm dạy cho học sinh phương pháp học ngay từ bậc Tiểu học và càng lên bậc học cao hơn càng phải được chú trọng. Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Vì vậy, ngày nay người ta nhấn mạnh mặt hoạt động học trong quá trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động, đặt vấn đề phát triển tự học ngay trong trường phổ thông, không chỉ tự học ở nhà sau bài lên lớp mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn của giáo viên.
Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác:
Trong một lớp học mà trình độ kiến thức, tư duy của học sinh không thể đồng đều tuyệt đối thì khi áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận sự phân hóa về cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học được thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập.
Áp dụng phương pháp tích cực ở trình độ càng cao thì sự phân hóa này càng lớn.Việc sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin trong nhà trường sẽ đáp ứng yêu cầu cá thể hóa hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi học sinh. Tuy nhiên, trong học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều được hình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp thầy - trò,trò - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới. Bài học vận dụng được vốn hiểu biết và kinh nghiệm sống của người thầy giáo.Trong nhà trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp nhóm, tổ, lớp hoặc trường. Được sử dụng phổ biến trong dạy học là hoạt động hợp tác trong nhóm nhỏ 4 đến 6 người. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là lúc phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt động theo nhóm nhỏ sẽ không thể có hiện tượng ỷ lại; tính cách năng lực của mỗi thành viên được bộc lộ, uốn nắn, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần tương trợ. Mô hình hợp tác trong xã hội đưa vào đời sống học đường sẽl àm cho các thành viên quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội. Trong nền kinh tế thị trường đã xuất hiện nhu cầu hợp tác xuyên quốc gia, liên quốc gia; năng lực hợp tác phải trở thành một mục tiêu giáo dục mà nhà trường phải chuẩn bịcho học sinh.
Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò:
Trong dạy học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy. Trước đây giáo viên giữ độc quyền đánh giá học sinh. Trong phương pháp tích cực, giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kĩ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học. Liên quan với điều này, giáo viên cần tạo điều kiện thuận lợi để học sinh được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường phải trang bị cho học sinh. Theo hướng phát triển các phương pháp tích cực để đào tạo những con người năng động, sớm thích nghi với đời sống xã hội, thì việc kiểm tra, đánh giá không thể dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã học mà phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết những tình huống thực tế. Với sự trợ giúp của các thiết bị kĩ thuật, kiểm tra đánh giá sẽ không còn là một công việc nặng nhọc đối với giáo viên, mà lại cho nhiều thông tin kịp thời hơn để linh hoạt điều chỉnh hoạt động dạy, chỉ đạo hoạt động học.Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ chức,hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học sinh tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình. Trên lớp, học sinh hoạt động là chính, giáo viên có vẻ nhàn nhã hơn nhưng trước đó, khi soạn giáo án, giáo viên đã phải đầu tư công sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ động mới có thể thực hiện bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi hào hứng, tranh luận sôi nổi của học sinh. Giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề mới có thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinh mà nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên. Có thể so sánh đặc trưng của dạy học truyền thống và dạy học tích cực như sau:
III. Một số phương pháp dạy học tích cực cần phát triển ở trường phổ thông:
- Phương pháp vấn đáp:
Vấn đáp (đàm thoại) là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra câu hỏi để học sinh trảlời, hoặc học sinh có thể tranh luận với nhau và với cả giáo viên; qua đó học sinh lĩnh hội được nội dung bài học. Căn cứ vào tính chất hoạt động nhận thức, người ta phân biệt các loại phương pháp vấn đáp:
- Vấn đáp tái hiện: giáo viên đặt câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ, không cần suy luận. Vấn đáp tái hiện không được xem là phương pháp có giá trị sư phạm. Đó là biện pháp được dùng khi cần đặt mối liên hệ giữa các kiến thức vừa mới học.
- Vấn đáp giải thích – minh hoạ : Nhằm mục đích làm sáng tỏ một đề tài nào đó, giáo viên lần lượt nêu ra những câu hỏi kèm theo những ví dụ minh hoạ để học sinh dễ hiểu, dễ nhớ. Phương pháp này đặc biệt có hiệu quả khi có sự hỗ trợ của các phương tiện nghe – nhìn.
- Vấn đáp tìm tòi (đàm thoại Ơxrixtic): giáo viên dùng một hệ thống câu hỏi được sắp xếp hợp lý để hướng học sinh từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật, tính quy luật của hiện tượng đang tìm hiểu, kích thích sự ham muốn hiểu biết. Giáo viên tổ chức sự trao đổi ý kiến – kể cả tranh luận – giữa thầy với cả lớp, có khi giữa trò với trò, nhằm giải quyết một vấn đề xác định. Trong vấn đáp tìm tòi, giáo viên giống như người tổ chức sự tìm tòi, còn học sinh giống như người tự lực phát hiện kiến thức mới. Vì vậy, khi kết thúc cuộc đàm thoại, học sinh có được niềm vui của sự khám phá trưởng thành thêm một bước về trình độ tư duy.
- Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề:
Trong một xã hội đang phát triển nhanh theo cơ chế thị trường, cạnh tranh gay gắt thì phát hiện sớm và giải quyết hợp lý những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn là một năng lực đảm bảo sự thành công trong cuộc sống, đặc biệt trong kinh doanh. Vì vậy, tập dượt cho học sinh biết phát hiện, đặt ra và giải quyết những vấn đề gặp phải trong học tập, trong cuộc sống của cá nhân, gia đình và cộng đồng không chỉ có ý nghĩa ở tầm phương pháp dạy học mà phải được đặt như một mục tiêu giáo dục và đào tạo. Cấu trúc một bài học (hoặc một phần bài học) theo phương pháp đặt và giải quyết vấn đề thường như sau :
- Đặt vấn đề, xây dựng bài toán nhận thức:
- Tạo tình huống có vấn đề;
- Phát hiện, nhận dạng vấn đề nảy sinh;
- Phát hiện vấn đề cần giải quyết
- Giải quyết vấn đề đặt ra:
- Đề xuất cách giải quyết;
- Lập kế hoạch giải quyết;
- Thực hiện kế hoạch giải quyết.
- Kết luận:
- Thảo luận kết quả và đánh giá;
- Khẳng định hay bác bỏ giả thuyết nêu ra;
- Phát biểu kết luận;
- Đề xuất vấn đề mới
Có thể phân biệt bốn mức trình độ đặt và giải quyết vấn đề:
Mức 1: Giáo viên đặt vấn đề, nêu cách giải quyết vấn đề. Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề theo hướng dẫn của giáo viên. Giáo viên đánh giá kết quả làm việc của học sinh.
Mức 2: Giáo viên nêu vấn đề, gợi ý để học sinh tìm ra cách giải quyết vấn đề. Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề với sự giúp đỡ của giáo viên khi cần. Giáo viên và học sinh cùng đánh giá.
Mức 3: Giáo viên cung cấp thông tin tạo tình huống có vấn đề. Học sinh phát hiện và xác định vấn đề nảy sinh, tự đề xuất các giả thuyết và lựa chọn giải pháp. Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề. Giáo viên và học sinh cùng đánh giá.
Mức 4: Học sinh tự lực phát hiện vấn đề nảy sinh trong hoàn cảnh của mình hoặc cộng đồng, lựa chọn vấn đề giải quyết. Học sinh giải quyết vấn đề, tự đánh giá chất lượng, hiệu quả, có ý kiến bổ sung của giáo viên khi kết thúc.
Trong dạy học theo phương pháp đặt và giải quyết vấn đề, học sinh vừa nắm được tri thức mới, vừa nắm được phương pháp lĩnh hội tri thức đó, phát triển tư duy tích cực, sáng tạo,được chuẩn bị một năng lực thích ứng với đời sống xã hội, phát hiện kịp thời và giải quyết hợp lý các vấn đề nảy sinh.
Phương pháp hoạt động nhóm:
Lớp học được chia thành từng nhóm nhỏ từ 4 đến 6 người. Tùy mục đích, yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hay có chủ định, được duy trì ổn định hay thay đổi trong từng phần của tiết học, được giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau. Nhóm tự bầu nhóm trưởng nếu thấy cần. Trong nhóm có thể phân công mỗi người một phần việc. Trong nhóm nhỏ, mỗi thành viên đều phải làm việc tích cực, không thể ỷ lại vào một vài người hiểu bết và năng động hơn. Các thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau tìm hiểu vấn đề nêu ra trong không khí thi đua với các nhóm khác. Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả học tập chung của cả lớp. Để trình bày kết quả làm việc của nhóm trước toàn lớp, nhóm có thể cử ra một đại diện hoặc phân công mỗi thành viên trình bày một phần nếu nhiệm vụ giao cho nhóm là khá phức tạp.
- Người đóng vai phải hiểu rõ vai của mình trong bài tập đóng vai để không lạc đề.
- Nên khích lệ cả những học sinh nhút nhát tham gia.
- Nên hoá trang và đạo cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn của trò chơi đóng vai.
Phương pháp động não:
Động não là phương pháp giúp học sinh trong một thời gian ngắn nảy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó. Thực hiện phương pháp này, giáo viên cần đưa ra một hệ thống các thông tin làm tiền đề cho buổi thảo luận.
Cách tiến hành :
- Giáo viên nêu câu hỏi, vấn đề cần được tìm hiểu trước cả lớp hoặc trước nhóm.
- Khích lệ học sinh phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt.
- Liệt kê tất cả các ý kiến phát biểu đưa lên bảng hoặc giấy khổ to, không loại trừ một ý kiến nào, trừ trường hợp trùng lặp.
- Phân loại ý kiến.
- Làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng và thảo luận sâu từng ý.
Kết luận :
Phương pháp dạy học tích cực (PPDH tích cực) là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.
Mỗi một phân môn lại hướng đến các phương pháp dạy học đặc thù. Nếu trước đây giờ học đạo đức thường bị coi là giáo điều, khô cứng thì trong giờ dạy về nội dung trên của giáo viên ngày nay lại hướng tới một cách dạy hiện đại sinh động. Học sinh được tiếp cận với những tình huống ứng xử cụ thể trong giao tiếp hàng ngày. Không chỉ qua những hình ảnh gián tiếp mà các em còn được nhập vai trong các tình huống. Từ thực tế mà HS đưa ra những nhận xét và từ đó biết tránh xa những cái chưa hay, chưa đẹp. Trên cơ sở lý thuyết, GV đã tự xây dựng một giáo án sinh động mang tính khả thi cao, giúp HS hiểu được các hành vi cũng như cách nói văn minh lịch sự từ thực tế chứ không phải là cách dạy giáo điều.
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module TH16
BÀI THU HOẠCH
BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN GIÁO VIÊN
Module TH16: Một số kỹ thuật dạy học tích cực ở tiểu học
Năm học: ............................................
Họ và tên: ..................................
Đơn vị:.................................
I. TÌM HIỂU VỀ KTDH TÍCH CỰC
Thế nào là KTDH và KTDH tích cực
Trong ba bình diện của PPDH (QĐ DH, PPDH cụ thể, KTDH) thì KTDH là bình diện nhỏ nhất. QĐ DH là khái niệm rộng định hướng cho việc lựa chọn các PPDH cụ thể, các PPDH cụ thể là khái niệm hẹp hơn, đưa ra mô hình hành động. KTDH là khái niệm nhỏ nhất, thực hiện các tình huống hành động.
Kĩ thuật dạy học là những biện pháp, cách thức hành động của GV và HS trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy học. Sự phân biệt giữa KTDH và PPDH nhiều khi không rõ rang. Có thể hiểu rằng: Khi sử dụng PPDH ta cần phải có các kĩ thuật dạy học. Ví dụ: Khi sử dụng PP đàm thoại GV phải có kĩ thuật đặt câu hỏi….
KTDH tích cực là thuật ngữ dùng để chỉ các kĩ thuật dạy học có tác dụng phát huy tính tích cực học tập của HS. VD: Kĩ thuật khăn trải bàn; KT mảnh ghép; KT hỏi và trả lời; KT động não….
Tìm hiểu một số KTDH tích cực
2.1 Kĩ thuật đặt câu hỏi:
* Người GV đặt câu hỏi khi nào? Mục đích đặt câu hỏi là gì?
Trong qua trình DH, GV đặt câu hỏi khi sử dụng PP vắn đáp, phương pháp thảo luận. Mục đíc của việc đặt câu hỏi rất khác nhau: có lúc để kiểm tra việc nắm kiến thức, KN của HS ; có lúc để hướng dẫn tìm tòi, khám phá tri thức; có lúc để giúp các em cũng cố, hệ thống kiến thức đã học.
* Đặt câu Hỏi phụ thuộc vào yếu tố nào?
Chủ yếu vào chất lượng câu hỏi và cách ứng xử của giáo viên khi hỏi HS
* KT đặt câu hỏi theo các cấp độ nhận thức như thế nào?
Biết; hiểu; vận dụng; phân tích; tổng hợp; đánh giá
Sử dụng câu hỏi có hiệu quả đem lại sự hiểu biết lẫn nhau giữa HS – GV và HS – HS. Kĩ năng đặt câu hỏi càng tốt thì mức độ tham gia của HS càng nhiều; HS sẽ học tập tích cực hơn. Trong dạy học theo PP cùng tham gia, GV thường phải sử dụng câu hỏi để gợi mở, dẫn dắt HS tìm hiểu, khám phá thông tin, kiến thức, kĩ năng mới. Để đánh giá kết quả học tập của HS, HS cũng phải sử dụng câu hỏi để hỏi lại, hỏi thêm GV và các HS khác về những nội dung bài học chưa sáng tỏ.
*Khi đặt câu hỏi cần đảm bảo các yêu cầu sau: 1. Câu hỏi phải liên quan đến việc thực hiện mục tiêu bài học; 2. Ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu; 3. Đúng lúc, đúng chỗ; 4. Phù hợp với trình độ HS; 5. Kích thích suy nghĩ của HS; 6. Phù hợp với thời gian thực tế; 7. Sắp xếp theo trình tự từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp; 8. Không ghép nhiều câu hỏi thành một câu hỏi móc xích; 9. Không hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc.
* Khi nêu câu hỏi cho HS cần chú ý: 1.Đưa ra câu hỏi với một thái độ khuyến khích, với giọng nói ôn tồn, nhẹ nhàng. 2.Thu hút sự chú ý của HS trước khi nêu câu hỏi. 3.Chú ý phân bố hợp lí số HS được chỉ định trả lời. 4.Chú ý khuyến khích những HS rụt rè, chậm chạp. 5.Sử dụng câu hỏi mở và câu hỏi đóng phù hợp với từng trường hợp. 6.Khi kiểm tra sử dụng câu hỏi đóng; 7. Khi cần mở rộng ý ta dùng câu hỏi mở. Ví dụ: Em có nhận xét gì về bức tranh Thiếu nữ bên hoa huệ? 8.Không nên nêu những câu hỏi quá đơn giản. Ví dụ: Đối với HS lớp 4, 5 mà GV nêu: Các em xem có mấy hình vẽ? Hoặc hỏi HS: Hiểu chưa?
Kĩ thuật dạy học theo góc
Học theo góc là một hình thức tổ chức hoạt động học tập theo đó người học thực hiện các nhiệm vụ khác nhau tại vị trí cụ thể trong không gian lớp học, đáp ứng nhiều phong cách học khác nhau. Học theo góc người học được lựa chọn họat động và phong cách học: Cơ hội “Khám phá”, ‘Thực hành”; Cơ hội mở rộng, phát triển, sáng tạo; Cơ hội đọc hiểu các nhiệm vụ và hướng dẫn bằng văn bản của người dạy; Cơ hội cá nhân tự áp dụng và trải nghiệm.
+ Do vậy, học theo góc kích thích người học tích cực thông qua hoạt động; Mở rộng sự tham gia, nâng cao hứng thú và cảm giác thoải mái, đảm bảo học sâu, hiệu quả bền vững, tương tác mang tính cá nhân cao giữa thầy và trò, tránh tình trạng người học phải chờ đợi. Ví dụ: Với chủ đề môi trường hoặc giao thông có thể tổ chức các góc: Viết; Đọc; Vẽ tranh: Xem băng hình; Thảo luận...về nội dung chủ đề.
*Áp dụng: Tổ chức học theo góc trong tiết ôn tập về toán. Góc HS giỏi; Góc HS còn yếu; Góc HS trung bình đến khá
Kĩ thuật “Khăn trải bàn”
- Hoạt động theo nhóm (4 người /nhóm)(có thể nhiều người hơn)
- Mỗi người ngồi vào vị trí như hình vẽ minh họa (xem sơ đồ ở file đính kèm)
- Tập trung vào câu hỏi (hoặc chủ đề,…)
- Viết vào ô mang số của bạn câu trả lời hoặc ý kiến của bạn (về chủ đề...). Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút
- Kết thúc thời gian làm việc cá nhân, các thành viên chia sẻ, thảo luận và thống nhất các câu trả lời
- Viết những ý kiến chung của cả nhóm vào ô giữa tấm khăn trải bàn (giấy A0)
Cách tổ chức: Kĩ thuật khăn trải bàn:
- Chia giấy A0 thành phần chính giữa và phần xung quanh. Chia phần xung quanh thành các phần theo số thành viên của nhóm.
- Cá nhân trả lời câu hỏi và viết trên phần xung quanh.
- Thảo luận nhóm, thống nhất ý kiến và viết vào phần chính giữa.
- Treo SP, trình bày.
Kĩ thuật “Các mảnh ghép”
Thế nào là kĩ thuật “Các mảnh ghép” là hình thức học tập hợp tác kết hợp giữa cá nhân, nhóm và liên kết giữa các nhóm nhằm:
+ Giải quyết một nhiệm vụ phức hợp
+ Kích thích sự tham gia tích cực của HS:
Nâng cao vai trò của cá nhân trong quá trình hợp tác (Không chỉ hoàn thành nhiệm vụ ở Vòng 1 mà còn phải truyền đạt lại kết quả vòng 1 và hoàn thành nhiệm vụ ở vòng 2).
Cách tiến hành kĩ thuật “Các mảnh ghép”
VÒNG 1 Hoạt động theo nhóm 3 người. Mỗi nhóm được giao một nhiệm vụ (Ví dụ: nhóm 1: nhiệm vụ A; nhóm 2: nhiệm vụ B, nhóm 3: nhiệm vụ C). Đảm bảo mỗi thành viên trong nhóm đều trả lời được tất cả các câu hỏi trong nhiệm vụ được giao. Mỗi thành viên đều trình bày được kết quả câu trả lời của nhóm
VÒNG 2: Hình thành nhóm 3 người mới (1người từ nhóm 1, 1 người từ nhóm 2 và 1 người từ nhóm 3)
- Các câu trả lời và thông tin của vòng 1 được các thành viên nhóm mới chia sẻ đầy đủ với nhau
- Nhiệm vụ mới sẽ được giao cho nhóm vừa thành lập để giải quyết
- Lời giải được ghi rõ trên bảng
Ví dụ Chủ đề: Câu tiếng Việt: * Vòng 1:
Nhiệm vụ 1: Thế nào là câu đơn? Nêu và phân tích VD minh họa
Nhiệm vụ 2: Thế nào là câu ghép? Nêu và phân tích VD minh họa
Nhiệm vụ 3: Thế nào là câu phức? Nêu và phân tích VD minh họa
* Vòng 2: Câu đơn, câu phức và câu ghép khác nhau ở điểm nào? Phân tích VD minh hoạ.
Kĩ thuật sơ đồ tư duy
Sơ đồ tư duy là một công cụ tổ chức tư duy. Đây là cách dễ nhất để chuyển tải thông tin vào bộ não rồi đưa thông tin ra ngoài bộ não; là phương tiện ghi chép sáng tạo, hiệu quả nhằm sắp xếp ý nghĩa.
- Mục tiêu là giúp phát triển tư duy logic, khả năng phân tích tổng hợp; HS hiểu bài nhớ lâu.
- Tác dụng là giúp HS hệ thống hóa kiến thức. tìm ra mối liên hệ giữa các kiến thức; hiểu bài nhớ lâu, phát triển tư duy logic; mang lại hiệu quả dạy học cao.
- Cách lập sơ đồ tư duy
+ Ở vị trí trung tâm sơ đồ là một hình ảnh hay một cụm từ thể hiện một ý tưởng khái niệm/nội dung/chủ đề.
+ Từ ý tưởng hình ảnh sẽ phát triển các nhánh chính, nối các cụm từ, hình ảnh cấp một.
+ Từ các nhánh tiếp tục các ý tưởng /khái niệm liên quan được kết nối
- Yêu cầu sư phạm:
Hướng dẫn HS tìm ra ý tưởng. Khi lập sơ đồ tư duy cần lưu ý: Các nhánh chính được tô đậm, các nhánh cấp 2,3 vẽ bằng các nét mảnh dần; từ cụm từ hình ảnh trung tâm tỏa đi các nhánh nên sử dụng màu sắc khác nhau, màu sắc nhánh chính cần duy trì đến các nhóm phụ.
Dùng các đường cong thay cho các đường thẳng; bố trí các thông tin đều theo hình ảnh/cụm từ.
Kĩ thuật hỏi và trả lời
- Giúp HS củng cố, khắc sâu kiển thức đã học thông qua việc hỏi, trả lời
- Tác dụng: Củng cố, khắc sâu kiến thức cho HS; phát triển KN đặt câu hỏi, KN trình bày, khả năng phản ứng nhanh; tạo hứng thú cho HS; giúp GV biết được kết quả học tập của các em.
- Cách tiến hành
+ GV giới thiệu chủ đề sẽ thực hiện hỏi, trả lời.
+ GV hoặc 1 HS sẽ bắt đầu đặt một câu hỏi về chủ đề và yêu cầu HS khác trả lời.
+ HS trả lời xong câu hỏi đầu tiên lại đặt câu hỏi tiếp theo, yêu cầu HS khác trả lời…cứ tiếp nối như thế cho đến các bạn khác.
- Yêu cầu sư phạm
+ Chủ đề phải có nội dung phong phú, đặt được nhiều câu hỏi
+ GV có thể đặt câu hỏi trước (nếu HS chưa quen)
+ Tạo cơ hội cho tất cả HS trong lớp được hỏi, trả lời
+ Khi HS trả lời không được có thể yêu cầu bạn khác trả lời, song mất quyền đặt câu hỏi cho người khác
+ KT hỏi và trả lời sử dụng hợp cho các tiết ôn tập. khi kiểm tra bài cũ, củng cố bài học.
Kĩ thuật trình bày một phút
- Mục tiêu là tạo cơ hội cho HS tổng kết lại kiến thức; trình bày những băn khoăn, thắc mắc trước lớp
- Tác dụng: Giúp củng cố quá trình học tập; giúp HS tự thấy được mình hiểu vấn đề ngang đâu.
- Cách tiến hành
+ Cuối tiết học, GV yêu cầu HS suy nghĩ trả lời các câu hỏi sau: (Điều quan trọng nhất các em học hôm nay là gì? Vấn đề gì các em chưa giải đáp hôm nay? Các em có những băn khoăn, thắc mắc gì?); HS viết ra giấy; trình bày trước lớp trong thời gian không quá 1 phút.
- Lưu ý khi sử dụng
Dành thời gian phù hợp cho HS chuẩn bị; động viên khuyến khích HS tham gia trình bày; lắng nghe tôn trọng phần trình bày của HS, không tỏ thái độ chê bai; động viên HS khác lắng nghe câu trả lời và trả lời câu hỏi đặt ra; giải đáp các câu hỏi, thắc mắc của HS
III. THỰC HÀNH, VẬN DỤNG MỘT SỐ KTDH TÍCH CỰC
Vận dụng kĩ thuật đặt câu hỏi trong bài Tập đọc “ Chú đi tuần” lớp năm
Mục đích là giúp học sinh tự khám phá tìm hiểu kiến thức của bài đọc. Hệ thống câu hỏi như sau:
+ Người chiến sĩ đi tuần trong hoàn cảnh như thế nào?
+ Đặt hình ảnh chiến sĩ đi tuần trong đêm đông bên cạnh hình ảnh giấc ngủ yên
của các em bé, tác giả muốn nói lên điều gì?
+ Tìm những chi tiết nói lên sự quan tâm yêu thương các em nhỏ của anh chiến sĩ?
+ Để tỏ lòng biết ơn các anh chiến sĩ các em phải làm gì?
Trong qua trình DH bản thân luôn dùng hệ thống câu hỏi để giảng dạy; có cách xử lí tốt khi đặt ra câu hỏi; đưa ra câu hỏi phù hợp đối tượng HS; phù hợp quỹ thời gian với hoàn cảnh; câu hỏi luôn ngắn gọ, dề hiểu, tạo được sự kích thích hứng thú cho HS. Tôi luôn dừng lại sau khi hỏi, dành thời gian cho HS suy nghĩ; phân phối câu hỏi cho cả lớp; tôn trọng lắng nghe ý kiến của HS; luôn xây dựng câu hỏi trọng tâm, không lan man.
Vận dụng kĩ thuật mảnh ghép:
Thực hành thiết kế KTDH mảnh ghép:
- Giai đoạn 1: Chia lớp thành 4 nhóm và phân công
+ Nhóm 1 nghiên cứu tư liệu và thảo luận về truyền thống đấu tranh bảo vệ tổ quốc của dân tộc Việt Nam
+ Nhóm 2 nghiên cứu tư liệu và thảo luận về truyền thống văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam
+ Nhóm 3 nghiên cứu tư liệu và thảo luận các danh lam thắng cảnh nổi tiếng của Việt Nam
+ Nhóm 4 nghiên cứu tư liệu và thảo luận thành tựu KT, VH, GD… của Việt Nam?
- Giai đoạn 2: Thành lập các nhóm mới, trong mỗi nhóm mới có ít nhất một thành viên nhóm ban đầu và trả lời các câu hỏi sau:
+ Em nghĩ gì về đất nước và con người Việt Nam
+ Hiện nay nước ta còn có những khó khăn gì?
+ Chúng ta cần làm gì để góp phần xây dựng đát nước?
(Những KTDH khác được vận dụng trong việc thiết kế KHBH của môn học được đảm nhận)
Tùy vào bài, vào mỗi phân môn, vào tình hình lớp và thiết bị dạy học hiện có để thiết kế KHBH và tổ chức lớp học đạt hiệu quả, thúc đẩy được sự tham gia tích cực của học sinh, giúp học sinh tự chủ, tham gia tích cực vào các hoạt động học tập.
Tự đánh giá, nhận xét
Sau khi nghiên cứu tài liệu của MODULETH 16 tôi đã nắm vững và vận dụng một cách hợp lí các KTDH tích cực vào trong hoạt động giáo dục, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường.
Bản thân đã không ngừng tích cực đi dự giờ đồng nghiệp, thực hiện tốt kê hoạch bồi dưỡng thường xuyên, kế hoạch tự học, tự rèn; cùng đồng nghiệp thường xuyên trao đổi để nắm vững cách vận dụng KTDH tích cực trong các bài học
Tự chấm điểm: 9 Tự xếp loại: Giỏi
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module TH17
BÀI THU HOẠCH
BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN GIÁO VIÊN
Module TH17: Sử dụng thiết bị dạy học ở tiểu học
Năm học: ..............
Họ và tên: ...............................................................................................................
Đơn vị: ....................................................................................................................
- Vị trí, vai trò của công tác thiết bị dạy học trong nhà trường tiểu học:
Giáo dục và đào tạo đang là vấn đề thách thức của toàn cầu. Hiện nay các quốc gia trên thế giới đang nỗ lực đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục - đào tạo với nhiều mô hình, biện pháp khác nhau nhằm mở rộng qui mô, nâng cao tính tích cực trong dạy học và học một cách toàn diện, dạy làm sao để giúp người học hướng tới việc học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động. Muốn vậy cần phải nâng cao, cải tiến đồng bộ các thành tố liên quan, trong đó phương tiện dạy và học là một thành tố quan trọng.
Nói chung, trong quá trình dạy học, các phương tiện dạy học giảm nhẹ công việc của giáo viên và giúp cho học sinh tiếp thu kiến thức một cách thuận lợi. Có được các phương tiện thích hợp, người giáo viên sẽ phát huy hết năng lực sáng tạo của mình trong công tác giảng dạy, làm cho hoạt động nhận thức của học sinh trở nên nhẹ nhàng và hấp dẫn hơn, tạo ra cho học sinh những tình cảm tốt đẹp với môn học. Do đặc điểm của quá trình nhận thức, mức độ tiếp thu kiến thức mới của học sinh tăng dần theo các cấp độ của tri giác: nghe-thấy-làm được (những gì nghe được không bằng những gì nhìn thấy và những gì nhìn thấy thì không bằng những gì tự tay làm), nên khi đưa những phương tiện vào quá trình dạy học, giáo viên có điều kiện để nâng cao tính tích cực, độc lập của học sinh và từ đó nâng cao hiệu quả của quá trình tiếp thu, lĩnh hội kiến thức và hình thành kỹ năng, kỹ xảo của các em.
Tính chất của phương tiện dạy học biểu thị nội dung thông tin học, hình thức thông tin và phương pháp cho thông tin chứa đựng trong phương tiện và phải dưới sự tác động của giáo viên hoặc học sinh tính chất đó mới đựơc bộc lộ ra. Như vậy đã có mối liên hệ chặt chẽ giữa tính chất và chức năng của phương tiện dạy học.
Phương tiện dạy học bao gồm các chức năng sau:
- Truyền thụ tri thức
- Hình thành kỹ năng
- Phát triển hứng thú học tập
- Tổ chức điều khiển quá trình dạy học.
Do đó, khi dạy các môn học, đặc biệt là các môn học tự nhiên, cần chú ý đến hai vấn đề chủ yếu sau:
- Học sinh tri giác trực tiếp các đối tượng. Con đường nhận thức này được thể hiện dưới dạng học sinh quan sát các đối tượng nghiên cứu ở trong các giờ học hay khi đi tham quan.
- Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh tri giác không phải bản thân đối tượng nghiên cứu mà tri giác những hình ảnh, biểu tượng, sơ đồ phản ảnh một bộ phận nào đó của đối tượng.
Trên cơ sở phân tích trên ta thấy rằng phương tiện dạy học có ý nghĩa to lớn đối với quá trình dạy học
- Giúp học sinh dể hiểu bài, hiểu bài sâu sắc hơn và nhớ bài lâu hơn.
- Phương tiện dạy học tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự nghiên cứu dạng bề ngoài của đối tượng và các tính chất có thể tri giác trực tiếp của chúng.
- Phương tiện dạy học giúp cụ thể hóa những cái quá trừu tượng, đơn giản hóa những máy móc và thiết bị quá phức tạp.
- Phương tiện dạy học giúp làm sinh động nội dung học tập, nâng cao hứng thú học tập bộ môn, nâng cao lòng tin của học sinh vào khoa học.
- Phương tiện dạy học còn giúp học sinh phát triển năng lực nhận thức, đặc biệt là khả năng quan sát, tư duy (phân tích, tổng hợp các hiện tượng, rút ra những kết luận có độ tin cây,...), giúp học sinh hình thành cảm giác thẩm mỹ, được hấp dẫn bởi cái đẹp, cái đơn giản, tính chính xác của thông tin chứa trong phương tiện.
- Giúp giáo viên tiết kiệm được thời gian trên lớp trong mỗi tiết học. Giúp giáo viên điều khiển được hoạt động nhận thức của học sinh, kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của học sinh được thuận lợi và có hiệu suất cao.
Có rất nhiều loại phương tiện dạy học với các hình thức và chức năng khác nhau, trong đó có: phương tiện tạo hình ảnh (bảng đen, bảng trắng, tranh ảnh, bảng biểu,...), những phương tiện khuếch đại hình ảnh (máy chiếu), phương tiện thu/phát khuếch đại âm thanh (máy quay, máy ghi âm,....)
Để đánh giá chất lượng của các loại phương tiện dạy học, ta thường dựa vào các chỉ tiêu chính: tính khoa học sư phạm, tính nhân trắc học, tính thẩm mỹ, tính khoa học kỹ thuật và tính kinh tế.
* Tính khoa học sư phạm
Tính khoa học sư phạm là một chỉ tiêu chính về chất lương phương tiện dạy học. Chỉ tiêu này đặc trưng cho sự liên hệ giữa mục tiêu đào tạo và giáo dục, nội dung phương pháp dạy học với cấu tạo và nội dung của phương tiện. Tính khoa học sư phạm thể hiện ở chỗ:
- Phương tiện dạy học phải bảo đảm cho học sinh tiếp thu được kiến thức, kỹ năng kỹ xảo nghề nghiệp tương ứng với yêu cầu của chương trình học, giúp cho giáo viên truyền đạt một cách thuận lợi các kiến thức phức tạp, kỹ xảo tay nghề... làm cho họ phát triển khả năng nhận thức và tư duy logic.
- Nội dung và cấu tạo của phương tiện dạy học phải bảo đảm các đặc trưng của việc dạy lý thuyết và thực hành cũng như các nguyên lý sư phạm cơ bản.
- Phương tiện dạy học phải phù hợp với nhiệm vụ sư phạm và phương pháp giảng dạy, thúc đẩy khả năng tiếp thu năng động của học sinh.
- Các phương tiện dạy học hợp thành một bộ phải có mối liên hệ chặt chẽ về nội dung, bố cục và hình thức, trong đó mỗi cái phải có vai trò và chỗ đứng riêng.
Phương tiện dạy học phải thúc đẩy việc sử dụng các phương pháp dạy học hiện đại và các hình thái tổ chức dạy học tiên tiến.
* Tính nhân trắc học
Thể hiện ở sự phù hợp của các phương tiện dạy học với tiêu chuẩn tâm sinh lý của giáo viên và học sinh, gây được sự hứng thú cho học sinh và thích ứng với công việc sư phạm của thầy và trò. Cụ thể là:
- Phương tiện dạy học dùng để biểu diễn trước học sinh phải được nhìn rõ ở khoảng cách 8m. Các phương tiện dạy học dùng cho cá nhân học sinh không được chiếm nhiều chỗ trên bàn học.
- Phương tiện dạy học phải phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của học sinh.
- Màu sắc phải sáng sủa, hài hòa và giống với màu sắc của vật thật (nếu là mô hình, tranh vẽ).
- Bảo đảm các yêu cầu về độ an toàn và không gây độc hại cho thầy và trò.
* Tính thẩm mỹ
Các phương tiện dạy học phải phù hợp với các tiêu chuẩn về tổ chức môi trường sư phạm:
- Phương tiện dạy học phải bảo đảm tỉ lệ cân xứng, hài hòa về đường nét và hình khối giống như các công trình nghệ thuật.
- Phương tiện dạy học phải làm cho thầy trò thích thú khi sử dụng, kích thích tình yêu nghề, làm cho học sinh nâng cao cảm thụ chân, thiện, mỹ.
* Tính khoa học kỹ thuật
Các phương tiện dạy học phải có cấu tạo đơn giản, dễ điều khiển, chắc chắn, có khối lượng và kích thước phù hợp, công nghệ chế tạo hợp lý và phải áp dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật mới.
- Phương tiện dạy học phải được bảo đảm về tuổi thọ và độ vững chắc.
- Phương tiện dạy học phải được áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới nhất nếu có thể.
- Phương tiện dạy học phải có kết cấu thuận lợi cho việc chuyên chở và bảo quản.
* Tính kinh tế
Tính kinh tế là một chỉ tiêu quan trong khi lập luận chứng chế tạo mới hay đưa vào sử dụng các thiết bị dạy học mẫu.
- Nội dung và đặc tính kết cấu của phương tiện dạy học phải được tính toán để với một số lượng ít, chi phí nhỏ vẫn bảo đảm hiệu quả cao nhất.
- Phương tiện dạy học phải có tuổi thọ cao và chi phí bảo quản thấp.
Hiệu quả dạy học chính là sự tăng chất lượng, khối lượng kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo của học sinh, phù hợp với yêu cầu của chương trình, ít tiêu hao sức lực của giáo viên và học sinh. để phát huy hiệu quả các phương tiện dạy học cần phải đảm bảo các điều kiện trình bày dưới đây:
- Môi trường sư phạm của nhà trường. Môi trường sư phạm của nhà trường bao gồm cả môi trường vật chất và tinh thần (nề nếp học tập, tinh thần làm việc, quan hệ thầy trò...). ở đây chúng ta chỉ đề cập đến môi trường vật chất, nói khác hơn, đó là cơ sở vật chất của nhà trường bao gồm: không gian, ánh sáng, âm thanh, nhiệt độ, độ ẩm, sự lưu thông của không khí, hình thức và nội dung bố trí các đồ vật, nơi làm việc của học sinh và giáo việc (lớp học, phòng thực hành, xưởng...)
- Bảo đảm các nguyên tắc sử dụng phương tiện dạy học. Phương tiện dạy học có tác dụng làm tăng hiệu quả của quá trình nhận thức của học sinh, giúp cho học sinh thu nhận được kiến thức về đối tượng thực tiễn khách quan. Tuy vậy, nếu không sử dụng phương tiện dạy học một cách hợp lý thì hiệu quả sư phạm của phương tiện dạy học không những không tăng lên mà còn làm cho học sinh khó hiểu, rối loạn, căng thẳng... Do đó các nhà sư phạm đã nêu lên các nguyên tắc đúng lúc, đúng chỗ, đúng cường độ. Như vậy, không phải bao giờ và bất cứ đâu phương tiện dạy học cũng có tác dụng tích cực đến hoạt động nhận thức của học sinh. Nhiều khi, nếu được sử dụng không đúng với những yêu cầu sư phạm cụ thể, phương tiện dạy học lại có tác dụng theo chiều tiêu cực, làm cho học sinh hoang mang, hiệu quả tiếp thu kém... để phát huy hết hiệu quả và nâng cao vai trò của phương tiện dạy học khi sử dụng phương tiện, người giáo viên phải nắm vững ưu nhược điểm và các khả năng cũng như yêu cầu của phương tiện để việc sử dụng phương tiện dạy học phải đạt đựơc mụch đích dạy học và phải góp phần nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học.
I. Vị trí, vai trò của hệ thống CSVC-TBDH của trường học trong quá trình dạy học.
Trong bất kỳ một quá trình sản xuất nào, trong quá trình dạy học giáo dục, người ta phải sử dụng phương tiện nhất định.
- Cơ sở vật chất-TBDH là phương tiên lao động sư phạm của các nhà giáo dục và học sinh.
- Cơ sở vật chất-TBDH: Là một trong các điều kiện thiết yếu để tiến hành quá trình dạy học - giáo dục trong nhà trường; thiếu điều kiện nầy thì quá trình đó không thể diễn ra hoặc diễn ra ở dạng không hoàn thiện.
Tóm lại: Không thể nói đến giáo dực toàn diện một khi không có CSVC - kỹ thuật trường học.
Tuy nhiên: CSVC - TBDH chỉ phát huy được tác dụng, nghĩa là làm cho quá trình giáo dục diễn ra có hiệu quả, nếu như nó thực sự trở thành một nhân tố của quá trình giáo dục- phù hợp với mục đích, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục.
Dạy học ngày nay không chỉ trang bị cho học sinh những kiến thức mà loài người đã tích luỹ được và đã hệ thống hoá lại mà còn phải có nhiệm vụ phát triển năng lực sáng tạo của thế hệ trẻ và kĩ năng thường xuyên tự hoàn thiện tri thức cho họ.
Đặc điểm cơ bản của các phương pháp dạy học mới thể hiện ở chỗ biến hoạt động dạy của giáo viên vốn là hoạt động thông báo tri thức trước đây thành hoạt động tổ chức, điều khiển để học sinh tự lĩnh hội, tìm kiếm tri thức. (Dạy cho học sinh phương pháp tự học)
Nghị Quyết số 40/2000/QH 10, ngày 9/12/2000 của Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam: "Đổi mới nội dung chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy và học phải được thực hiện đồng bộ với việc nâng cấp và đổi mới trang thiết bị dạy học, tổ chức đánh giá, thi cử, chuẩn hoá trường sở, đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và công tác quản lý giáo dục".
- Hệ thống thiết bị dạy học ở trường tiểu học:
* Thiết bị dạy học: Là một bộ phận CSVC của nhà trường.
Bao gồm: những đối tượng vật chất và phương tiện, kĩ thuật dạy học. Được GV và người học sử dụng để tiến hành các hoạt động dạy học.
* Phân loại:
TBDH dùng chung: máy chiếu đa năng; tivi, đầu đọc đĩa; hệ thống tăng âm, loa, micro; máy in; máy quay phim; máy tính; mạng máy tính;...TBDH dùng trên lớp: phân loại theo loại thiết bị và theo môn học. (Tham khảo "Danh mục các TBDH chuẩn ở cấp tiểu học theo qui định của Bộ GD&ĐT hàng năm).
* PHẦN THỰC HÀNH
Phiếu giao việc 1:
Tổ chức chia nhóm phân loại TBDH theo loại.
Phân loại theo môn học
- Tiếng Việt:
Bộ chữ (chữ rời, bảng mẫu chữ)
- Toán:
Que tính, mô hình, Thẻ hình, bộ hình, Bộ cân, bộ chai, bộ thước
- Đạo đức:
Bộ tranh, ảnh, Đĩa CD, VCD
- Khoa học:
Tranh (câm), Thiết bị lắp ráp, Thiết bị thí nghiệm
* Lắp đặt TBDH ở trường tiểu học
Mô hình bánh xe nước. Mô hình Trái Đất - Mặt Trời - Mặt Trăng
Chai lọ thí nghiệm, Hộp đối lưu
- Mô hình bánh xe nước
Phễu để rót nước. Buồng tua-bin và hệ thống phát điện
Khay chứa nước
Nguyên lý hoạt động? Vai trò của từng bộ phận?
- Mô hình Trái Đất quay quanh Mặt Trời, Mặt Trăng quay quanh Trái Đất
- TBDH TN&XH 3
- Mô phỏng sự chuyển động của Trái Đất, Mặt Trời, Mặt Trăng; giải thích một số hiện tượng tự nhiên: ngày, đêm, trăng tròn, trăng khuyết...
- Thực hành lắp đặt và vận hành.
- Hướng dẫn sử dụng một số thiết bị dạy học:
- Tổ chức sử dụng cơ sở vật chất - TBGD vào quá trình dạy học - giáo dục:
* Yêu cầu các giáo viên đưa việc sử dụng phương tiện dạy học vào kế hoạch chuyên môn của mình theo từng đề tài giảng dạy trong từng học kì, kế hoạch này được tổ chuyên môn thông qua.
* Thường xuyên phát động thi đua sử dụng phương tiện dạy học theo tinh thần của các phương pháp dạy học tiên tiến; đây là một tiêu chuẩn đánh giá chất lượng công tác chuyên môn, từng học kì nên tổ chức hội giảng sử dụng phương tiện dạy học.
* Thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và kĩ thuật sử dụng các phương tiện dạy học cho giáo viên qua nhiều hình thức, cho đi huấn luyện các lớp do Sở giáo dục, BGD tổ chức, tổ chức huấn luyện qua tổ chuyên môn v.v..
* Xây dựng những qui trình sử dụng cơ sở vật chất TBDH và yêu cầu mọi người phải thực hiện.
* Tổ chức bảo quản CSVC-TBDH trường học.
Cán bộ phụ trách thiết bị ( thực hành) có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện chuyên môn:
- Giúp hiệu trưởng quản lý tài sản nhà trường (Thống kê thiết bị -sắp xếp thiết bị).
- Giúp Cán bộ QLGD quản lý, theo dõi, việc sử dụng có hiệu quả trang thiết bị dạy học (Hồ sơ sổ sách theo dõi mượn trả thiết bị, thí nghiệm thực hành)
Do vậy cán bộ phụ trách thiết bị phải được tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ.
- Sắp xếp thiết bị (hoá chất, mẫu vật.)khoa học, ngăn nắp.
- Sắp xếp thiết bị theo khối, bài hoặc theo đặc thù bộ môn.
- Bày trí thiết bị dễ lấy, bảo quản tốt các thiết bị đắc tiền ( kính hiển vi .)
- Tinh thần trách nhiệm cao, hồ sơ sổ sách đầy đủ.
1.3. Giáo viên
- Thực hiện tương đối đầy đủ các tiết TNTH đạt hiệu quả và chất lượng.
- Giúp HS lĩnh hội được kiến thức đầy đủ qua thực hành.
- Rèn luyện cho HS kỹ năng vận dụng khéo léo, khả năng sáng tạo.
- Giúp HS khám phá cái mới, tìm tòi cái mới, tư duy, sáng tạo.
Quản lý thiết bị và chuẩn bị thiết bị cho GV giảng dạy là một nhiệm vụ không thể thiếu được ở trường học.
- Các biện pháp giúp giáo viên khắc phục những tồn tại trong việc khai thác và sử dụng thiết bị dạy học:
- Giáo viên phải hiểu được dạy học là tác động vào người học, nhằm phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh. Dạy học theo hướng tổ chức các "Hoạt động dạy học''. Chứng tỏ lúc nào học sinh có "Hoạt động học'' thì quá trình dạy học trên lớp mới có hiệu quả. Dạy học phải để cho các em tự thao tác trên đồ dùng, biết suy nghĩ và thảo luận, tức là tạo ra "Môi trường học'' tốt, tạo ra cơ hội để các em "Hoạt động học tập'', tạo ra sự "Hợp tác'' giữa trò với trò, giữa thầy với trò. Việc học tập theo cách đó sẽ hấp dẫn lôi cuốn các em vào quá trình học một cách tự giác, tự nhiên hơn, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí học sinh Tiểu học Đồ dùng dạy học có phát huy được tác dụng hay không phụ thuộc rất nhiều vào việc giáo viên sử dụng nó như thế nào. Để đạt hiệu quả cao trong sử dụng đồ dùng dạy học mỗi giáo viên cần:
- Nắm vững danh mục đồ dùng dạy học.
- Nghiên cứu kĩ nội dung bài học để xác định đồ dùng dạy học nào cần phải sử dụng, sử dụng với mục đích gì (dẫn dắt kiến thức mới hay minh hoạ, hệ thống hoá kiến thức...)
- Xác định thời điểm, thời gian thích hợp sử dụng đồ dùng đó trong tiết học.
- Tìm biện pháp, cách thức thích hợp, chuẩn bị hệ thống câu hỏi dẫn dắt học sinh thực hành, quan sát đồ dùng theo đúng mục đích sử dụng.
- Chú ý đến ngôn ngữ, lời nói trong giảng dạy và trong quá trình sử dụng đồ dùng dạy học. Khi giới thiệu và sử dụng đồ dùng giáo viên nên tránh tình trạng giải thích dài dòng, vừa làm mất thời gian và không cần thiết, vừa làm rối rắm vấn đề. Tuy nhiên lời nói của giáo viên cũng là phương tiện trực quan ngôn ngữ. Vì vậy một khi sử dụng đồ dùng dạy học giáo viên cần xác định rõ đồ dùng dạy học đó có tác dụng gì trong việc khai thác nội dung kiến thức của bài để có thể kết hợp việc sử dụng ngôn ngữ với việc sử dụng đồ dùng dạy học một cách hợp lý nhằm giúp học sinh hiểu biết vấn đề rõ ràng hơn, mạch lạc hơn.
- Để tránh tình trạng lúng túng, mất thời gian trong việc sử dụng đồ dùng dạy học giáo viên cần dành thời gian thực hành trước các thao tác sử dụng đồ dùng dạy học trước khi lên lớp.
Để có một bộ môn chất lượng đáp ứng đựoc yêu cầu thì việc sử dụng đồ dùng dạy học cần được kết hợp hài hoà với các phương pháp dạy học một cách logic, để có hiệu quả cao thực sự trong việc đổi mới hơn nữa, công việc này tất cả mọi giáo viên trong nhà trường đều có thể sử dụng trong giảng dạy ở tất cả các khối lớp khi dạy ở bậc tiểu học.
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module TH18
BÀI THU HOẠCH
BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN GIÁO VIÊN
Module TH18: Lắp đặt, bảo quản thiết bị dạy học ở tiểu học
Năm học: ..............
Họ và tên: ..............................................................................................................
Đơn vị: ...................................................................................................................
Lắp đặt thiết bị dạy học ở trường tiểu học:
- Bộ lắp ghép mô hình kỹ thuật, mô hình bánh xe nước:
* Mô hình bánh xe nước
Phễu để rót nước
Buồng tua-bin và hệ thống phát điện
Khay chứa nước
Nguyên lý hoạt động? Vai trò của từng bộ phận?
- Lắp ghép mô hình trái đất quay quanh Mặt trời. Mặt trăng quay quanh trái đất:
* Mô hình Trái Đất quay quanh Mặt Trời, Mặt Trăng quay quanh Trái Đất
- TBDH TN&XH 3
- Mô phỏng sự chuyển động của Trái Đất, Mặt Trời, Mặt Trăng; giải thích một số hiện tượng tự nhiên: ngày, đêm, trăng tròn, trăng khuyết...
- Thực hành lắp đặt và vận hành.
- Lắp ráp bộ thí nghiệm hộp đối lưu
* Bộ thí nghiệm hộp đối lưu
Gồm:
- 02 nửa hộp bằng nhựa AS, có thể khép kín lại với nhau.
- 02 ống hở hai đầu bằng thủy tinh trong suốt.
- 02 đĩa sứ.
- 02 gioăng cao su gắn vừa ống thủy tinh với vỏ hộp, đĩa sứ.
Bảo quản thiết bị dạy học ở trường tiểu học:
- Quy trình chung về bảo quản các loại thiết bị dạy học.
Nắm được danh mục TBDH tối thiểu đối với từng môn học
Có những kiến thức chung cần thiết ở lĩnh vực giáo dục tiểu học và yêu cầu về sử dụng từng TBDH ở mỗi môn học.
Có kỹ năng phân loại các TBDH.
Phải cất giữ, bảo quản TBDH nơi khô ráo, tránh ẩm mốc.
Phải sắp xếp một cách khoa học, cẩn thận, đúng nơi qui định để thuận lợi cho việc sử dụng.
Hướng dẫn HS không lấy thiết bị đó làm đồ chơi, khi sử dụng xong cả GV và HS đều cất vào đúng nơi qui định.
Thiết bị của GV và HS lưu giữ tại tủ đựng thiết bị, không mang về nhà.
Thiết bị dùng chung cho cả khối lớp, có quy định giao cho GV một lớp cụ thể quản lý, bảo quản, GV khác mượn phải đúng người cho mượn.
Chương 3: Bảo quản, quản lí thiết bị dạy học
- Sửa chữa các thiết bị dạy học đơn giản
Với các TBDH đơn giản, CB làm CTTB ở trường tiểu học cần tìm hiểu kĩ càng và khi hỏng hóc thì có thể tự sửa chữa được. Muốn vậy, cần có những kiến thức chung cần thiết ở lĩnh vực giáo dục tiểu học và yêu cầu về sử dụng từng TBDH ở mỗi môn học (tính năng, tác dụng, cấu tạo của mỗi thiết bị và sử dụng chúng ở thời điểm nào trong năm học, dùng cho bài học nào của môn học...) để không làm mất đi chức năng, tác dụng của thiết bị dạy học.
- Tổ chức cho học sinh thực hiện bảo quản thiết bị dạy học
Mỗi thiết bị được sử dụng cho bài học cụ thể,khi thực hiện hoạt động học tập HS phải lấy đúng loại thiết bị đó, khi dùng xong phải cất đúng vào nơi qui định.
- Tổ chức cho HS: Lấy đúng thiết bị cho bài học. Dùng xong, cất đúng nơi quy định.
- Tổ chức cho HS sắp xếp đồ dùng học tập để dễ sử dụng.
- Tổ chức cho HS làm nẹp để bảo quản tranh, ảnh giáo khoa, bản đồ.
- Tổ chức cho HS lau chùi các TBDH.
Đối với thiết bị là cặp vẽ, hộp đựng màu bột, bút vẽ và các thiết bị kèm theo, sau khi sử dụng cần yêu cầu HS lau rửa sạch sẽ và để nơi khô ráo, tránh ẩm ướt, tránh mưa, tránh nắng.
Hộp đựng màu bột luôn để sao cho các hộp đựng màu bên trong có miệng ở phía trên, tránh để nghiêng hoặc lật úp, màu bột sẽ bị đổ ra ngoài làm lẫn lộn màu bột sẽ không vẽ được.
Bút vẽ và bảng pha màu khi vẽ xong phải được rửa sạch và lau khô.
Kết luận: Tất cả những nội dung, vấn đề được trình bày ở trên là những yêu cầu tối thiểu đặt ra với nhân viên làm công tác thiết bị ở trường tiểu học. Vì thời gian học tập eo hẹp nên không thể trình bày quá sâu ở mỗi nôi dung, vấn đề đã đưa ra.
- Tổ chức hướng dẫn HS cách sử dụng và bảo quản thiết bị trong môn Mĩ thuật và Thể dục
* Lưu ý: Nên phối hợp với GVCN hoặc GV chuyên trách bộ môn khi tổ chức cho HS thực hiện bảo quản các TBDH.
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module TH19
BÀI THU HOẠCH
BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN GIÁO VIÊN
Năm học: ..............
Họ và tên: ...................................................................................................................
Đơn vị: .......................................................................................................................
Module TH 19: "Tự làm đồ dùng dạy học ở trường tiểu học"
Câu 1: Hãy nêu những tiêu chí đánh giá các thiết bị dạy học tự làm
Trả lời:
Bất cứ một TBDH dù dưới hình thức nào cũng cần đảm bảo 4 tiêu chí:
- Tính khoa học
Đây là tiêu chí Cơ bán để đanh giá TBDH. Nó được hiểu như sau:
- TBDH phái đảm bảo tính chính xác, đảm bảo các thông tin chủ yếu về các hiện tượng, sự vật có liên quan đến nội dung bài học, phán ánh rõ các dấu hiệu bản chất cúa nội dung dạy học, có thể giải quyết được những vấn đề mà chương trình và SGK đặt ra.
- TBDH phải góp phần vào việc đổi moi PPDH chứ không chỉ đơn thuần là minh hoạ cho bài giảng.
- Tính sư phạm
- Tạo ra chỗ dựa trực quan cho tu duy, bổ sung vốn hiểu biết để giúp HS tiếp thu kiến thức có hiệu quả.
- Tạo điều kiện mở rộng hoặc làm sâu sấc thêm nội dung bài học.
- Dùng cho nhiều loại bài học.
- Tính tiện lợi
- Dễ dùng, dễ thao tác.
- Đảm bảo an toàn cho người sử dụng.
- Tính thẩm mĩ
- Đẹp, bền, gây cảm hứng cho cả người dạy và người học.
- Đảm bảo vệ sinh môi trường, tiết kiệm,...
Câu 2: Khi thiết kế các TBDH tự làm, chúng ta có thể thực hiện theo những hướng nào?
Trả lời:
Hướng nghiên cứu, chế tạo đồ dùng dạy học trong các phân môn
- Trước hết, phải hướng công tác tự làm TBDH tới các loại hình sau đây:
- Sửa chữa những dụng cụ hỏng.
- Cải tiến các dụng cụ cũ, dụng cụ nước ngoài cho phù hợp với điều kiện Việt Nam.
- Bổ sung những dụng cụ mới vào bộ dụng cụ đã có, làm cho chúng trờ thành một bộ dụng cụ hoàn chỉnh và có thể sử dụng được.
- Tổ chức phong trào tự làm đồ dùng dạy học trong trường tiểu học:
- Việc tự làm TBDH cần được tiến hành một cách có kế hoạch, có tổ chức, có phân công hợp lí.
- Mỗi GV cần nghiên cứu, khai thác hết những TBDH đã đuợc cung cẩp cho khối mình, lớp mình, những TBDH đã được cung cấp có thể dùng chung với khối lớp khác. Trên cơ sở đó, định ra kế hoạch tự làm TBDH cho từng học kì và cả năm học.
- GV có thể hướng dẫn HS cùng tham gia, nhất là công việc sưu tầm tranh, ảnh từ sách báo, tạp chí, lịch, sưu tàm hiện vật,...
- Ngoài ra, có thể nhờ các GV khác trong trường (GV mĩ thuật,...), cha mẹ HS (là những hoạ sĩ, thợ thủ công,...) làm giúp.
Có thể:
Bao gồm các dạng sau:
- Các vật sấy khô, ép khô như: lá cây và các bộ phận của cây, một số con vật, một số loại hoa quả,...
- Sưu tầm vật tươi sổng để trực tiếp giới thiệu khi giảng dạy như: con cá, con bướm, hoa, lá, quả,...
- Sưu tầm một sổ vật thực như: các dụng cụ lao động, chai, lọ, các sản phẩm có dạng hình vuông, hình tròn, hình lập phương,... các đồ dùng điện như: dây dẫn điện, bóng điện, công tắc, nhiệt kế, la bàn,...
- Sưu tầm một sổ sản phẩm tiêu biểu của địa phương như: thêu, đan, dệt, các nhạc cụ dân tộc, các mô hình (nhà sàn, nhà rông, đình, chùa,...).
- Một sổ mẫu vật ngâm, mẫu vật ép, mẫu vật nhồi đơn giản.
b.Sưu tầm tranh, ảnh:
- Vẽ tranh về các dạng thời tiết, các hệ cơ quan trong cơ thể,...
- Tranh, ảnh trên báo chí, lịch,... Các hình ảnh được chọn phải tiêu biểu, điển hình, có kích thước phù hợp, đảm bảo cho HS quan sát, gần gũi với HS ,...
- Vẽ tranh, làm tranh động: Khai thác các yếu tổ động trong các bài Tập đọc, các bài Kể chuyện,... nhằm thu hút sự chú ý, làm tăng hứng thú học tập cũng như khơi gợi trí tò mò của HS.
- Tự làm mô hình: mô hình tĩnh, mô hình động.
- Có thể sưu tầm các loại mô hình có sẵn ở đồ chơi trẻ em như hoa quả, máy bay, ô tô, tàu hoả,...
- Dùng các nguyên vật liệu như bìa các tông, vỏ xốp, nhựa để tạo nên các sản phẩm như: mô hình an toàn giao thông, mô hình làng quê và đô thị, mô hình đồi núi, mô hình vòng tuần hoàn của nước trong thiên nhiên,...
- Sử dụng các loại cốc thủy tinh có kích thước khác nhau, những ống nhựa, dây dẫn điện, vật thu điện,... để tiến hành các thí nghiệm đơn giản.
- Để đơn giản hoá kiến thức hoặc làm rõ mối liên hệ giữa các kiến thức, GV có thể vẽ, phóng to các sơ đồ trong sách hoặc tự mình thiết kế.
- GV có thể vẽ hay phóng to các bản đồ, lược đồ hành chính, địa hình, bản đồ thế giới, lược đồ về mật độ dân cư, phân bổ cây trồng,...
Câu 3: Thực hành thiết kế một TBDH trong các môn TNXH, Toán hay Tiếng Việt và nêu những ứng dụng của nó.
Trả lời:
Tôi đã thiết kế một bộ thẻ trắc nghiệm nhanh dùng cho môn Toán 3, có thể làm dạng thẻ này với môn toán ở tất cả các khối lớp tiểu học. Áp dụng tiêu chí đánh giá của mô đun được đánh giá như sau:
- Đảm bảo tính khoa học
- Đồ dùng là các thẻ trắc nghiệm nhanh: Trên một tờ bìa A4 cắt làm 4 HCN mảnh to khoảng bàn tay. Một mặt viết phép tính nhân, chia, cộng, trừ các số tự nhiên trong phạm vi đã học, mặt bên kia ghi kết quả của phép nhân, chia, cộng, trừ của phép tính mặt trước. Cũng có thể ghi số ghi số có nhiều chữ số để trắc nghiệm đọc nhanh các số tự nhiên có 3-5 chữ số, hoặc hỏi nhanh về giá trị của các chữ số bất kỳ trong số có nhiều chữ số đó.
- Về cách sử dụng:
- Có thể để giáo viên kiểm tra nhanh các đối tượng học sinh trong lớp xem có thuộc bảng nhân chia không? có cộng trừ nhẩm nhanh không? có đọc được các số có nhiều chữ số không? có nắm được các hàng của số tự nhiên không? có thuộc quy tắc tính chu vi, diện tích các hình đã học không?
- Có thể để HS ôn theo nhóm: một học sinh giơ và rút thể bất kỳ cho các bạn khác trả lời, khi nhóm có từ 2 HS trở lên. Như vậy có thể cho ban học tập điều khiển lớp ôn về các câu hỏi hoặc các phép tính của thẻ yêu cầu, trong khi truy bài.
- Có thể để hỗ trợ HS khi học cùng người lớn ở nhà.
- Có thể giúp HS tự nâng cao kỹ năng nhẩm 4 phép tính, đọc số..... học mọi nơi mọi lúc có thể.
- Đảm bảo tính sư phạm
- Tạo ra chỗ dựa trực quan giúp HS phản ứng nhanh, ghi nhớ sâu, tư duy nhanh trong điều kiện theo dõi của các bạn trong lớp. Tránh học vẹt.
- Dùng cho nhiều loại bài học toán: Tính toàn 4 phép tính, so sánh giá trị từ 2 thẻ hoặc nhiều 4 - 5 thẻ để sắp xếp theo thứ tự từ lớn- bé hoặc từ bé - lớn
- Đảm bảo tiện lợi, lâu dài
- Tùy loại bài hoặc mục đích sử dụng có thể làm bằng bảng viết phấn, có thể giấy bìa A4 cứng, có thể chỉ là giấy trắng A4 dừng bút lông dầu viết là được.
- Dễ dùng, dễ thao tác, dễ bảo quản.
- Đảm bảo an toàn cho người sử dụng.
- Đảm bảo tính thẩm mĩ
- Đẹp, bền, gây cảm hứng cho cả người dạy và người học.
- Đảm bảo vệ sinh môi trường, tiết kiệm,...
..................., ngày....tháng....năm...
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module TH20
BÀI THU HOẠCH
BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN GIÁO VIÊN
Module TH20: Kiến thức, kĩ năng tin học cơ bản
Năm học: ..............
Họ và tên: ..................................................................................................................
Đơn vị: ......................................................................................................................
- Khái quát chung về cấu tạo của máy tính và các thiết bị ngoại vi. Giới thiệu hệ điều hành Windows; Thực hành một số thao tác cơ bản với hệ điều hành Windows:
- Khái quát chung về cấu tạo của máy tính và các thiết bị ngoại vi:
Máy vi tính là một hệ thống được ghép nhiều thành phần tạo nên. Do đó, để máy tính có thể hoạt động được ta phải lắp ghép các thành phần của nó một cách hợp lý và khai báo với các thành phần khác. Ngày nay ngành tin học dựa vào trên các máy tính hiện đang phát triển trên cở sở hai phần: phần cứng và phần mếm.
* Phần cứng
Phần cứng(tiếng Anh: hardware) là các bộ phận (vật lý) cụ thể của máy tính hay hệ thống máy tính như là màn hình, chuột, bàn phím, máy in, máy quét (scanner), vỏ máy tính, bộ nguồn, bộ vi xử lý CPU, bo mạch chủ, các loại dây nối, loa, ổ đĩa mềm, ổ đĩa cứng, ổ CDROM, ổ DVD,...
Dựa trên chức năng và cách thức hoạt động người ta còn phân biệt phần cứng ra thành:
– Thiết bị vào (Input): Các bộ phận thu nhập dữ liệu hay mệnh lệnh như là bàn phím, chuột...
– Thiết bị ra (Output): Các bộ phận trả về thông tin cho người dùng, phát tín hiệu, hay thực thi lệnh ra bên ngoài như là màn hình, máy in, loa,...
Ngoài các bộ phận nêu trên liên quan tới phần cứng của máy tính còn có các khái niệm quan trọng sau đây:
– Bus: chuyển dữ liệu giữa các thiết bị phần cứng.
– BIOS (Basic Input Output System): còn gọi là hệ thống xuất nhập cơ bản nhằm khởi động, kiểm tra, và cài đặt các mệnh lệnh cơ bản cho phần cứng và giao quyền điều khiển cho hệ điều hành
– CPU: bộ phân vi xử lý điều khiển toàn bộ máy tính
– Kho lưu trữ dữ liệu: lưu giữ, cung cấp, thu nhận dữ liệu
– Các loại chíp hỗ trợ: nằm bên trong bo mạch chủ hay nằm trong các thiết bị ngoại vi của máy tính các con chip quan trọng sẽ giữ vai trò điều khiển thiết bị và liên lạc với hệ điều hành qua bộ điều vận hay qua phần sụn (nghe hơi khó chịu, không được dễ hiểu,tiếng Anh firmware)
– Bộ nhớ: là thiết bị bên trong bo mạch chủ giữ nhiệm vụ trung gian cung cấp các mệnh lệnh cho CPU và các dữ liệu từ các bộ phận như là BIOS, phần mềm, kho lưu trữ, chuột đồng thời tải về cho các bộ phận vừa kể kết quả các tính toán, các phép toán hay các dữ liệu đã/đang được xử lý các cổng vào/ra
Các thành phần chính của máy tính cá nhân để bàn. 1: màn hình, 2: bo mạch chủ, 3: CPU, 4: chân cắm ATA, 5: RAM, 6: các thẻ cắm mở rộng chức năng cho máy, 7: nguồn điện, 8: ổ đĩa quang, 9: ổ đĩa cứng, 10: bàn phím, 11: chuột
* Phần mềm
Phần mềm (tiếng Anh: Software) là một tập hợp những câu lệnh hoặc chỉ thị (Instruction) được viết bằng một hoặc nhiều ngôn ngữ lập trình theo một trật tự xác định, và các dữ liệu hay tài liệu liên quan nhằm tự động thực hiện một số nhiệm vụ hay chức năng hoặc giải quyết một vấn đề cụ thể nào đó.
Phần mềm thực hiện các chức năng của nó bằng cách gửi các chỉ thị trực tiếp đến phần cứng (hay phần cứng máy tính, Computer Hardware) hoặc bằng cách cung cấp dữ liệu để phục vụ các chương trình hay phần mềm khác.
Phần mềm là một khái niệm trừu tượng, nó khác với phần cứng ở chỗ là "phần mềm không thể sờ hay đụng vào", và nó cần phải có phần cứng mới có thể thực thi được.
Ví dụ:
- Hệ điều hành windows
- Phần mềm soạn thảo văn bản Microsoft Word
- Phần mềm tính toán Microsoft Excel
- Phần mềm vẽ cơ bản Microsoft Paint
- Phần mềm xử lý ảnh Photoshop
- Phần mềm quản lý cơ sở dữ liệu Microsoft Access
- Phần mềm thiết kế web Microsoft FrontPage
Đứng trước một máy tính PC, ta có thể thấy máy tính này gồm những bộ phận: Bàn phím, chuột, màn hình, vỏ máy. Đây là những thành phần dễ dàng nhận thấy. Tuy nhiên, máy tính PC còn có nhiều bộ phận khác. Các bộ phận này được nhóm trong các khối chức năng sau:
- Khối xử lý trung tâm: Khối xử lý trung tâm, hay còn gọi là bộ vi xử lý hoặc con chip, là bộ não của máy tính. Công việc chính của khối xử lý trung tâm là tính toán và điều khiển mọi hoạt động trong máy tính.
- Bộ nhớ trong: Bộ nhớ trong dùng để chứa các lệnh và dữ liệu phục vụ cho quá trình thực hiện chương trình. Bộ nhớ trong bao gồm bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên (RAM) và bộ nhớ chỉ đọc (ROM)
- Bộ nhớ ngoài: Bộ nhớ ngoài hay các thiết bị lưu trữ ngoài bao gồm đĩa cứng, đĩa mềm, đĩa CD đĩa ZIP...
Chú ý: Do ổ cứng nằm bên trong vỏ máy nên nhiều người nhầm lẫn ổ cứng là thiết bị lưu trữ trong. Thực chất nó là thiết bị lưu trữ ngoài.
- Các thiết bị vào: Các thiết bị vào cho phép thông tin hãy dữ liệu được nhập vào máy tính, ví dụ như bàn phím, chuột, máy quét ...
- Các thiết bị ra: Các thiết bị ra cho phép thông tin có thể được xuất ra từ máy tính, ví dụ như máy in, màn hình, loa ...
- Các thiết bị ngoại vi: Thiết bị ngoại vi là bất kỳ thiết bị nào có thể gắn vào máy tính. Như vậy, toàn bộ các thiết bị như máy quét, máy in, bàn phím, chuột ... đều là các thiết bị ngoại vi.
- Cổng nối tiếp: Cổng nối tiếp là một khe cắm có nhiều chân nằm ở phía sau máy tính, cho phép các thiết bị có thể kết nối với máy tính, chẳng hạn Modem. Các cổng nối tiếp thường được đặt tên là COM1, COM2.
- Cổng song song: Cổng song song là một khe cắm nhiều chân nằm ở phía sau máy tính, cho phép các thiết bị có thể kết nối với máy tính, chẳng hạn máy in. Các cổng song song thường được đặt tên là LPT1 hoặc LPT2.
- Cổng nối tiếp vạn năng USB: Cổng nối tiếp vạn năng USB là một bộ phận mới trong máy tính, chỉ có trong các máy tính thế hệ gần đây. Có thể có một hoặc nhiều ổ cắm USB ở trên thân vỏ máy, cho phép các thiết bị được thiết kế cho USB có thể kết nối với máy tính.
b.Giới thiệu hệ điều hành Windows:
Khái quát
Đây là hệ điều hành thông dụng nhất trên thế giới bởi tính năng ưu việt của nó. Có các phiên bản như Window 95, Window 98, Window Millennium Edition, Window NT, Window 2000, và mới nhất là Window XP.
Hãy đăng nhập để bình luận
Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .