Top 10 Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN từ 11 - 20

103.9k

Bài viết ngày hôm nay, Alltop sẽ gửi đến các bạn các bài viết Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN từ 11 - 20 theo quy định Thông tư 12/2019/TT-BGDĐT về chương...xem thêm ...

Top 0
(có 6 lượt vote)

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 11

Tai nạn thương tích ở trẻ em là một trong những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tử vong và di chứng tàn tật suốt đời cho trẻ. Mặc dù nhiều biện pháp phòng chống tai nạn thương tích cho trẻ em đã và đang được thực hiện, nhưng tình hình trẻ nhập viện vì tai nạn thương tích vẫn chưa giảm. Phần lớn các trường hợp tai nạn thương tích trẻ em xảy ra là do sự bất cẩn của người lớn. Bởi vậy, hạn chế tối đa tai nạn thương tích cho trẻ trước hết cần sự quan tâm, chăm sóc của các bậc phụ huynh.



Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tai nạn thương tích ở trẻ nhưng sâu xa là do sự bất cẩn của người lớn. Dù ở môi trường nào cũng vậy, trẻ vẫn có thể gặp những nguy cơ xảy ra tai nạn như: bỏng nước sôi, nuốt phải dị vật, bị điện giật do cho tay vào ổ điện, ngã cầu thang…


Như chúng ta đã biết tai nạn thương tích thường bất ngờ xảy ra, không có nguyên nhân rõ ràng, khó lường trước được và gây ra những thương tổn trên cơ thể người và có thể xảy ra mọi lúc, mọi nơi nhất là ở lứa tuổi học sinh mầm non. Vì ở lứa tuổi này các em thường hiếu động, thích tò mò, nghịch ngợm và chưa có kiến thức, kỹ năng, phòng tránh nên rất dễ bị tai nạn thương tích. Vì vậy để hạn chế nguy cơ mắc và tử vong do tai nạn thương tích chúng ta cùng tìm hiểu về tai nạn thương tích và các biện pháp phòng tránh.


* Phân loại tai nạn thương tích theo nguyên nhân:

– Tai nạn thương tích do giao thông: Là những trường hợp xảy ra do sự va chạm, nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người, do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan người tham gia giao thông gây nên….


– Bỏng: Là tổn thương một hoặc nhiều lớp tế bào da khi tiếp xúc với chất lỏng nóng, lửa, các tai nạn thương tích da do các tia cực tím, phóng xạ, điện, chất hóa học, hoặc tổn thương phổi do khói xộc vào.

– Đuối nước: Là những trường hợp tai nạn thương tích xảy ra do bị chìm trong chất lỏng (nước, xăng, dầu) dẫn đến ngạt do thiếu oxy hoặc ngừng tim dẫn đến tử vong trong 24 giờ hoặc cần chăm sóc y tế hoặc dẫn đến các biến chứng khác.

– Điện giật: Là những trường hợp tai nạn thương tích do tiếp xúc với điện gây nên hậu quả bị thương hay tử vong.

– Ngã: Là tai nạn thương tích do ngã, rơi từ trên cao xuống

– Động vật cắn: Chấn thương do động vật cắn, húc, đâm phải…

– Ngộ độc: Là những trường hợp do hít vào, ăn vào, tiêm vào cơ thể các loại độc tố dẫn đến tử vong hoặc ngộ độc cần có chăm sóc của y tế (do thuốc, do hóa chất, nấm …).

– Máy móc: là tai nạn do tiếp xúc với vận hành của máy móc…

– Bạo lực: Là hành động dùng vũ lực hăm dọa, hoặc đánh người của cá nhân, nhóm người, cộng đồng khác gây tai nạn thương tích có thể tử vong, tổn thương…


* Một số biện pháp phòng tránh tai nạn thương tích:


Để phòng tránh tối thiểu các tai nạn thương tích xảy ra tại trường hay ở nhà, giáo viên cũng như các bậc phụ huynh có ý thức và thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa.


- Phòng ngã: Củng cố cơ sở vật chất của trường, cụ thể:

+ Sân trường cần bằng phẳng và không bị trơn trượt

+ Cửa sổ, hành lang, cầu thang phải có tay vịn, lan can.

+ Không cho trẻ học và chơi gần những lớp học không an toàn như tường nhà, ta luy có nguy cơ sập xuống. Đồng thời phải cho sửa chữa ngay.

+ Những cây ở sân trường cần có bồn rào để ngăn trẻ không leo trèo .

+ Bàn ghế hỏng, không chắc chắn phải được sửa chữa ngay.

+ Dụng cụ thể dục thể thao phải chắc chắn, đảm bảo an toàn.

+ Đi chơi đúng nơi quy định và thực hiện theo sự hướng dẫn.


- Phòng ngừa đánh nhau, bạo lực trong trường học

+ Giáo dục ý thức cho các em không được xô đẩy, đánh nhau trong trường.

+ Không cho các em mang đến trường các vật sắc nhọn nguy hiểm như dao, kiếm, súng cao su và các hung khí.

+ Giáo viên thường xuyên quản lý, giám sát trẻ ở mọi lúc, mọi nơi, giáo dục trẻ đoàn kết.


- Phòng ngừa tai nạn giao thông

+ Trường phải có cổng, hàng rào.

+ Trong giờ học, giờ chơi phải đóng cổng, không cho trẻ chạy ra đường chơi khi trường ở gần đường.

+ Phải có biển báo trường học cho các loại phương tiện cơ giới ở khu vực gần trường học.

+ Hướng dẫn học sinh thực hiện luật an toàn giao thông.

+ Tuyên truyền phụ huynh không đi xe máy trong sân trường.


- Phòng ngừa bỏng, nhiễm độc

+ Bảng điện ở phòng học và các phòng chức năng khác phải để cao, tuyệt đối không để bàn là, đồ đun nấu trong phòng, nhóm của trẻ.

+ Không cho học sinh tới bếp nấu nướng và chia ăn ở nhà bếp.

+ Luôn quan tâm chăm sóc trẻ, không để trẻ chơi một mình ở các nơi có thể xảy ra tai nạn.

+ Để thuốc và hóa chất ngoài tầm tay với của trẻ em. Không cho trẻ em tự uống thuốc.


- Phòng ngừa đuối nước

+ Trẻ em cần rèn luyện thể lực và biết bơi theo quy định.

+ Khi đi bơi phải tuân thủ quy tắc an toàn.

+ Không cho trẻ ra gần ao hồ, sông suối một mình .

+ Ở vùng lũ, học sinh đi học qua sông suối phải có người lớn đưa và phải đảm bảo an toàn.

+ Khi đi đò, thuyền,... phải mặc áo phao bảo hộ

+ Giếng, bể nước trong trường phải có nắp đậy an toàn.

+ Không để thùng, chậu có nước không phòng, nhóm lớp.


- Phòng ngừa điện giật

+ Luôn kiểm tra các đồ dùng bằng điện, che kín các ổ điện ở thấp không cho trẻ nghịch

+ Hệ thống điện trong lớp phải an toàn: không để dây trần, dây điện hở, bảng điện để cao.


- Phòng ngừa ngộ độc thức ăn

+ Không bán quà bánh trong trường và không ăn hàng rong xung quanh cổng trường.

+ Thực phẩm do thức ăn nhà bếp, nước uống phải đảm bảo vệ sinh, rõ nguồn gốc. Phải có hợp đồng cam kết mua bán thực phẩm sạch rõ nguồn gốc với công ty cung cấp.

Trường có cán bộ theo dõi về y tế học đường và có tủ thuốc cấp cứu.

Còn rất nhiều nguy cơ dẫn đến tai nạn thương tích ở trẻ em, cách phòng ngừa hiệu quả nhất là sự quan tâm chú ý của người lớn khi trông trẻ. Chỉ một phút thiếu tập trung có thể dẫn đến hậu quả vô cùng nghiêm trọng cho trẻ nhỏ. Bên cạnh đó, người lớn cần trang bị cho trẻ nhỏ những kiến thức, kỹ năng cơ bản nhất để tự bảo vệ mình từ khi trẻ bắt đầu hình thành những ý thức đầu tiên.


Vì tương lai tốt đẹp của con em chúng ta, mỗi người hãy nâng cao ý thức chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em, tạo môi trường an toàn và lành mạnh để trẻ em phát triển toàn diện, góp phần xây dựng một tương lai tươi sáng cho đất nước.​

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 1
(có -2 lượt vote)

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 12

Ngày nay, giáo dục được xem là chìa khóa vàng để mỗi người, mỗi quốc gia tiến bước vào tương lai, là ngành sản xuất mà lợi nhuận của nó khó có thể đong đếm được.


Giáo dục không chỉ có chức năng chuyển tải những kinh nghiệm lịch sử xã hội của thế hệ trước cho thế hệ sau, mà quan trọng là trang bị cho mỗi người phương pháp học tập, phát triển tư duy nội tại, thích ứng được với một xã hội học tập thường xuyên, học tập suốt đời. Để giúp người học đáp ứng được những yêu cầu đó, việc cải cách, đổi mới giáo dục là một việc làm hết sức cần thiết và cấp bách, trong đó, đổi mới phương pháp giáo dục là khâu then chốt nhất trong quá trình đạt đến mục tiêu đổi mới giáo dục.


Trẻ em trong giai đoạn từ 0-6 tuổi là thời kì phát triển mạnh mẽ cả về thể chất, trí tuệ, cảm xúc. Trẻ tương tác tích cực với những gì diễn ra xung quanh chúng. Bản chất việc học ở trẻ em là thông qua sự bắt chước, khám phá, trải nghiệm, thực hành để hiểu về những sự vật, hiện tượng diễn ra xung quanh trẻ, đồng thời trẻ học cách biểu đạt những hiểu biết đó thông qua sự chia sẻ, trao đổi với bạn bè. Vì vậy, vai trò của giáo viên là khai thác các tình huống cũng như các vật liệu khác nhau để khuyến khích trẻ chơi, khuyến khích trẻ hoạt động cùng nhau. Giáo viên giúp trẻ suy nghĩ nhiều hơn về những gì chúng nhìn thấy và đang làm, kích thích trẻ quan sát, xem xét, phỏng đoán các sự vật hiện tượng xung quanh và chia sẻ điều trẻ nhìn thấy, điều trẻ nghĩ hoặc điều còn băn khoăn, thắc mắc. Đặc điểm tâm lí lứa tuổi này rất thuận lợi cho việc đổi mới phương pháp dạy học, đồng thời đặt ra yêu cầu phải đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp với đặc điểm phát triển của trẻ mầm non.


Trên thực tế hiện nay vẫn còn không ít giáo viên dạy trẻ theo phương pháp truyền thống một chiều "cô nói, trẻ nghe", vẫn còn khá nhiều giáo viên chọn việc trình chiếu cho trẻ xem hơn là việc tổ chức cho trẻ được hoạt động, lớp học thụ động bị cuốn theo các hiệu ứng trên màn hình làm loãng đi trọng tâm của bài học, hiệu quả đạt được không cao, các hoạt động cho trẻ khám phá, trải nghiệm chưa phong phú và đa dạng, giáo viên chưa tận dụng triệt để môi trường tự nhiên, sẵn có để dạy trẻ, đồ dùng đồ chơi cho trẻ vẫn chưa đáp ứng đủ theo quy định...đây chính là những biểu hiện của việc chậm đổi mới các phương pháp giáo dục.


Để đáp ứng được quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm thì giáo viên phải sử dụng có hiệu quả các phương pháp dạy học tích cực. Phương pháp dạy học tích cực là phương pháp giáo dục theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của giáo viên, do đó để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực hơn rất nhiều so với dạy theo phương pháp truyền thống, thụ động.


Sau đây là một số vấn đề mà giáo viên cần quan tâm để vận dụng có hiệu quả các phương pháp dạy học tích cực trong tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ đáp ứng với quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm.


*Giáo viên nên giúp trẻ tận dụng tất cả các giác quan để khám phá sự vật, hiện tượng


Giáo viên nên dành thời gian cho trẻ quan sát, xem xét, phỏng đoán, so sánh, sử dụng câu hỏi gợi mở, câu hỏi kích thích trẻ tư duy nhằm dẫn dắt trẻ suy nghĩ và giúp trẻ nói lên được về những gì chúng đang nhìn thấy, giáo viên gợi ý cho trẻ chia sẻ, bày tỏ ý kiến của mình, cùng nhau trao đổi để tìm hiểu, khám phá đối tượng. Bên cạnh đó giáo viên cần tạo cho trẻ môi trường hoạt động phong phú, hấp dẫn với các đồ dùng, đồ chơi và các nguyên vật liệu khác nhau để kích thích hứng thú khám phá của trẻ.


*Người giáo viên mầm non cần phải nắm vững các kỹ thuật sử dụng từng phương pháp dạy học cụ thể


Giáo viên cần thực hiện đúng yêu cầu kỹ thuật của từng phương pháp, có như thế thì mới nâng cao được hiệu quả tổ chức các hoạt động cho trẻ. Các kỹ thuật này bao gồm: Kỹ thuật chia nhóm, kỹ thuật giao nhiệm vụ, kỹ thuật đưa ra tình huống có vấn đề, kỹ thuật đặt câu hỏi... Cụ thể về kỹ thuật đặt câu hỏi thì giáo viên cần chú ý tới một số yêu cầu như sau: Câu hỏi phải liên quan trực tiếp đến việc thực hiện mục tiêu bài học; câu hỏi ngắn gọn, rõ ràng dễ hiểu; đúng lúc, đúng chỗ; phù hợp với trình độ của trẻ; câu hỏi phải kích thích sự suy nghĩ của trẻ nhằm khuyến khích sự phát triển nhận thức và ngôn ngữ của trẻ, giáo viên không ghép nhiều nội dung trong một câu hỏi, không hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc, trẻ sẽ trả lời dễ dàng hơn với các câu hỏi đơn nghĩa, rõ ý.


* Cần khai thác và vận dụng các phương pháp dạy học tích cực một cách khoa học


Để thực hiện tốt điều này thì trong từng phương pháp dạy học cụ thể giáo viên cần phải chú ý một số nội dung như sau:

- Nhằm giúp cho sự hiểu biết của trẻ trở nên sâu sắc và bền vững hơn, giúp trẻ sẽ nhớ nhanh và lâu hơn thì giáo viên nên sử dụng phương pháp thảo luận nhóm. Có rất nhiều cách khác nhau để chia nhóm tuy nhiên, không nên chia nhóm trẻ quá đông hoặc quá ít, nội dung thảo luận của các nhóm có thể giống hoặc khác nhau. Cần quy định rõ thời gian thảo luận và kết quả thảo luận cho các nhóm, cần bầu ra trưởng nhóm, kết quả thảo luận nhóm có thể được trình bày bằng nhiều hình thức như: vẽ, hát, đóng kịch, thơ…Giáo viên cần quan sát các nhóm thảo luận và có sự giúp đỡ kịp thời trong trường hợp các nhóm gặp khó khăn.


- Đối với phương pháp dạy học giải quyết vấn đề thì giáo viên cần thực hiện đúng theo quy trình các bước như sau: Xác định, nhận dạng vấn đề hoặc tình huống; thu thập thông tin có liên quan đến vấn đề hoặc tình huống đặt ra; liệt kê các cách giải quyết có thể có; phân tích, đánh giá kết quả từng cách giải quyết (tích cực, hạn chế, cảm xúc, giá trị); so sánh kết quả các cách giải quyết; lựa chọn cách giải quyết tối ưu nhất; thực hiện theo cách giải quyết đã lựa chọn; rút kinh nghiệm cho việc giải quyết những vấn đề, tình huống khác.


- Đối với phương pháp đóng vai thì việc "diễn" không phải là phần chính của phương pháp này mà điều quan trọng là giáo viên giúp trẻ tham gia thảo luận sâu sau phần tham gia vào vai diễn ấy.


- Để sử dụng phương pháp trò chơi đạt hiệu quả thì giáo viên nên chọn những trò chơi dễ tổ chức và thực hiện, trò chơi phải phù hợp với chủ đề, với đặc điểm và trình độ của trẻ, phù hợp với quỹ thời gian, với hoàn cảnh, điều kiện thực, trẻ phải nắm được quy tắc chơi và phải tôn trọng luật chơi, trò chơi phải tạo được sự hứng thú và vui thích của trẻ.


- Khi sử dụng phương pháp dạy học khám phá giáo viên nên lựa chọn nội dung vấn đề hoặc tình huống đảm bảo tính vừa sức đối với trẻ, chuẩn bị đồ chơi, đồ dùng trực quan và những điều kiện cần thiết để trẻ tự tìm tòi khám phá, tổ chức cho trẻ làm việc cá nhân, làm việc theo nhóm; khuyến khích trẻ tự tìm tòi khám phá, đưa ra các phát hiện, cách giải quyết có thể; liệt kê các cách giải quyết có thể có; phân tích, đánh giá kết quả mỗi cách giải quyết của cá nhân trẻ, của nhóm trẻ; lựa chọn cách giải quyết tối ưu nhất; kết luận về nội dung của vấn đề, làm cơ sở cho trẻ tự kiểm tra, tự điều chỉnh; rút kinh nghiệm cho việc giải quyết những vấn đề, tình huống khác.


- Đối với phương pháp dạy học trải nghiệm thì giáo viên nên tổ chức cho trẻ thực hiện đủ bốn bước: quan sát; suy nghĩ (tâm trí); Cảm nhận (cảm xúc); Hành động (cơ bắp). Để học hiệu quả, trẻ cần phải: tiếp nhận thông tin, suy ngẫm xem nó sẽ tác động đến cuộc sống của trẻ em như thế nào, so sánh mức độ phù hợp của nó với những trải nghiệm của trẻ em thế nào và suy nghĩ xem từ thông tin đó trẻ em sẽ có những cách hành xử mới nào. Việc học tập đòi hỏi không chỉ có nhìn, nghe, chuyển động hay động chạm. Trẻ cần biết kết hợp những gì trẻ cảm giác và suy nghĩ được với những gì trẻ cảm nhận và ứng xử.


- Phương pháp động não khi sử dụng đối với trẻ mầm non thì giáo viên nên hướng dẫn trẻ cách trả lời những câu hỏi ngắn, có khi chỉ cần một từ. Tất cả ý kiến của trẻ đều cần được giáo viên khích lệ, thừa nhận. Đặc biệt, không phê phán các câu trả lời của trẻ và luôn khen ngợi trẻ đúng lúc. Cuối giờ thảo luận cần nhấn mạnh kết quả có được là thành quả của cả nhóm hoặc của tất cả các thành viên trong nhóm.


- Làm thế nào để vận dụng có hiệu quả phương pháp dạy học theo Dự án? Đây là một phương pháp dạy học rất có ý nghĩa đối với trẻ, tuy nhiên trong thực tế thì phương pháp này ít được giáo viên sử dụng. Các dự án thường xuất hiện từ các câu hỏi của trẻ. Dự án được thực hiện bởi một trẻ hoặc một nhóm trẻ em (4-6 thành viên) để trải nghiệm và khám phá các vấn đề, câu hỏi, vấn đề và thách thức có liên quan. Thời gian thực hiện dự án thường phải mất vài tuần để hoàn thành - và đôi khi lâu hơn nữa, tùy thuộc vào độ tuổi và sở thích của trẻ. Phương pháp dạy học theo Dự án được tổ chức thành 3 giai đoạn:


+ Giai đoạn 1: Thử hứng thú của trẻ

Ngay từ khi bắt đầu dự án, giáo viên quan tâm đến chủ đề thông qua việc khuyến khích trẻ chia sẻ những câu chuyện cá nhân có liên quan. Khi trẻ có hiểu biết hiện tại về chủ đề nào đó, từ đó giáo viên đánh giá xem mức độ hiểu biết của trẻ như thế nào và giúp trẻ xây dựng các câu hỏi mà trẻ có thể tìm hiểu.


+ Giai đoạn 2: Hoạt động khám phá

Cho phép trẻ đi thực địa, phỏng vấn những người trưởng thành, những nhà chuyên môn giỏi. Trẻ em có thể xem sách, mạng Internet qua sự hỗ trợ của người lớn, Video… Sau đó trẻ sử dụng nhiều hình thức để minh họa những gì trẻ đã học được và chia sẻ kiến ​​thức mới với bạn.


+ Giai đoạn 3: Đánh giá kết quả và những điều trẻ đã học được

Giáo viên hướng dẫn kết luận và giúp trẻ xem lại thành quả của mình. Trẻ chia sẻ công việc của mình với cha mẹ, với một lớp học khác. Đánh giá của giáo viên về những gì trẻ đã học được thông qua dự án. Sau đó trẻ tạo ra các bài thuyết trình và sản phẩm để chia sẻ những gì trẻ đã nghiên cứu, tìm hiểu. Kết thúc dự án sẽ cho ra sản phẩm như là: Poster, mô hình, bài báo cáo, vật thật, …


Như vậy, các phương pháp dạy học tích cực trong giáo dục mầm non không phải là một phương pháp hoàn toàn mới, mà chính là sự kế thừa và phát huy tối đa những ưu điểm và khả năng có sẵn của các phương pháp dạy học truyền thống. Việc sử dụng và phối hợp một cách khéo léo, hợp lý các phương pháp dạy học khác nhau sẽ phát huy tính tích cực và sự hợp tác của đứa trẻ. Tùy thuộc vào đặc điểm tiếp nhận kiến thức của trẻ mà giáo viên lựa chọn phương pháp tiếp cận cho phù hợp. Để thực hiện tốt các phương pháp dạy học tích cực thì giáo viên phải được tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn về nội dung này, thường xuyên rèn luyện cho mình kỹ năng ứng xử các tình huống sư phạm thật tinh tế và linh hoạt, sử dụng thành thạo các trang thiết bị dạy học hiện đại, biết định hướng sự phát triển của trẻ theo mục tiêu giáo dục nhưng cũng đảm bảo sự tự do của trẻ trong các hoạt động giáo dục khác./

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 2
(có 2 lượt vote)

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 13

Hiện nay, ở mỗi con người đều có sự khác biệt về: Điều kiện sống, hoàn cảnh, thể chất, năng lực, … ngay cả trẻ em cũng vậy.


Mỗi trẻ đều có một sự khác biệt về hoàn cảnh, môi trường sống, điều kiện gia đình và học tập, … Chính vì thế, mỗi trẻ em là một cá thể riêng biệt khác nhau về thể chất, mối quan hệ xã hội, trí tuệ, tình cảm, tâm lý, … Điều này đồng nghĩa với việc từng trẻ sẽ có hứng thú, cách học và trình độ học tập khác nhau.


Chính vì thế, người lớn cần chú ý những điều xảy ra trong suốt thời thơ ấu của trẻ. Vì nó có thể ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến tương lai của trẻ. Những trải nghiệm đầu đời của trẻ cần phải phù hợp với mức độ phát triển. Đồng thời phải xây dựng dựa trên những cơ sở mà trẻ đã được biết và có thể thực hiện được. Chính vì vậy, chúng ta phải cẩn trọng, không được dạy những gì quá khó đối với trẻ.


Vậy giáo dục lấy trẻ làm trung tâm là gì?

“Mỗi đứa trẻ là một cá thể riêng biệt” và “mỗi đứa trẻ đều có cơ hội được học bằng nhiều cách khác nhau”, các giáo viên mầm non hiện nay đã tiếp cận phương pháp “lấy trẻ làm trung tâm”, giúp trẻ hứng thú với học tập và phát triển thế mạnh của mỗi trẻ:


Bản chất quan điểm Giáo dục trẻ làm trung tâm là gì?

– Dựa trên những nhu cầu, khả năng, thế mạnh và hứng thú của từng trẻ. Tuy nhiên, bạn phải tin tưởng vào chúng và hy vọng chúng có thể đạt được những thành công, tiến bộ.

– Tạo những cơ hội học cho trẻ bằng những cách khác nhau và cả hoạt động vui chơi.

– Phản ánh sự phát triển của từng trẻ và xây dựng trên tất cả những gì mà trẻ đã được biết và có thể thực hiện được


Giáo dục lấy trẻ làm trung tâm cần đảm bảo những gì?

– Cần tạo cho trẻ những hứng thú, thế mạnh, khả năng, nhu cầu của từng trẻ. Đồng thời người lớn đều phải tạo cho bé cơ hội được hiểu, được đánh giá đúng và cần được tôn trọng.

– Luôn hướng đến cho mỗi đứa trẻ một cơ hội tốt nhất để có thể thành công.

– Mỗi đứa trẻ đều có cơ hội học khác nhau, đặc biệt là thông qua việc vui chơi.


Để thực hiện việc giáo dục lấy trẻ làm trung tâm cần làm gì?

– Các giáo viên cần dựa trên những khả năng, nhu cầu, hứng thú và thế mạnh của trẻ. Từ đó có thể xây dựng các kế hoạch giáo dục phù hợp với từng đứa trẻ.

– Cần đặt niềm tin vào những đứa trẻ và tin rằng mọi trẻ đều có thể tiến bộ và thành công.

– Có nhiều phương pháp để dạy học có hiệu quả cho trẻ. Trong đó, phương pháp được áp dụng nhiều nhất là các hoạt động vui chơi. Vì vui chơi sẽ làm cho trẻ có thể khám phá, tưởng tượng, sáng tạo, và tương tác với bạn bè…



– Xây dựng các kế hoạch dựa trên những gì mà trẻ đã được biết và có thể làm được. Các kế hoạch giáo dục trẻ phải phản ánh được từng mức độ phát triển của mỗi đứa trẻ.


Sự quan trọng của giáo dục lấy trẻ làm trung tâm


Hiện nay, phương pháp giáo dục lấy trẻ làm trung tâm được áp dụng vào chương trình giáo dục mầm non trên cả nước. Đặc biệt, phương pháp này được áp dụng nhiều ở những thành phố lớn.


Phương pháp giáo dục lấy trẻ làm trung tâm đã làm cho nhiều phụ huynh thấy được những ưu điểm mà nó mang lại con con mình. Đây phương pháp lấy trẻ làm trung tâm đang phát triển và dần tạo nên một nền móng vững chắc.


Những nền tảng đầu đời rất quan trọng để nâng bước chân của trẻ vững chắc khi bước vào đời. Ngoài ra, nhiều phụ huynh còn đánh giá phương pháp giáo dục này mang nhiều giá trị nhân văn và giá trị tinh thần vô cùng to lớn.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 3
(có 0 lượt vote)

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 14


I. LÝ DO CHỌN BIỆN PHÁP:


Như chúng ta đã biết, nhiệm vụ của giáo dục Mầm non là khâu đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo viên Mầm non được xem là người thầy đầu tiên đặt nền móng cho việc đào tạo nhân cách con người mới cho xã hội chủ nghĩa, tuỳ theo mỗi độ tuổi mà nội dung giáo dục khác nhau. Trẻ ở độ tuổi mầm non là tuổi học nói, những nhu cầu của trẻ thông qua lời nói để đến với người lớn, chính vì thế cung cấp Tiếng việt cho các cháu, nhất là trẻ người dân tộc thiểu số là rất quan trọng. Phần đa các cháu dân tộc thiểu số thường hay dùng tiếng mẹ đẻ để giao tiếp, nên khi đến lớp các cô giáo của cháu là người kinh cháu không biết tiếng kinh nên trong qúa trình cô giáo giảng dạy bằng tiếng việt thì trẻ rất khó tiếp thu bài giảng cũng như những chỉ dẫn, khẩu lệnh của cô trẻ không hiểu để thực hiện, cháu trở nên nhút nhát, thụ động, thậm chí tự ti, mặc cảm, dẫn đấn khả năng tiếp thu bài rất chậm. Bởi thế nên việc tăng cường tiếng việt cho trẻ dân tộc thiểu số là vấn đề đáng để tất cả chúng ta quan tâm, việc làm này sẽ góp phần vào việc hình thành và phát triển toàn diện cho trẻ.


Trong thực tế cuộc sống hằng ngày, con người chúng ta sử dụng lời nói để trao đổi, thảo luận, yêu cầu, trò chuyện, bày tỏ, thuyết trình, nói lên những suy nghĩ, hiểu biết của mình, giải thích những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống: như trò chuyện, trao đổi kinh nghiệm, nói lên suy nghĩ của mình để chia sẽ, giúp đỡ mọi người xung quanh…


Bản thân tôi là giáo viên trực tiếp giảng dạy các cháu lớp 5 tuổi của trường mẫu giáo .........với số lượng trẻ hàng năm của lớp tôi là ........cháu trong đó số trẻ con em dân tộc thiểu số chiếm ....... Đa số các cháu là người dân tộc ê đê, các cháu lên lớp đều nói bằng tiếng mẹ đẻ, không hiểu được tiếng Việt, vì trình độ dân trí thấp nên bố mẹ các cháu chưa thực sự quan tâm đến việc việc học tập của con em mình, còn các cháu thì vì không hiểu tiếng việt nên các hoạt động trên lớp của giáo viên chưa cảm hóa, thu hút được trẻ đến lớp đầy đủ.


Cùng một môi trường học tập như nhau, cũng bài học đó, lượng kiến thức đó, phương pháp đó sao sự chêng lệch về khả năng tiếp thu của trẻ người kinh và trẻ người dân tộc thiểu số lại cách xa nhau đến vậy? phải chăng là bất đồng ngôn ngữ, là vốn tiếng việt của trẻ dân tộc thiểu số quá ít, bởi vì mọi cử chỉ, hành động của con người đều thông qua ngôn ngữ để hiểu và làm theo nhưng chính vì trẻ không hiểu nên không biết để làm theo.


Đứng trước thực trạng đó tôi rất băn khoăn, lo lắng phần vì ngay từ đầu năm mồi giáo viên đã kí cam kết chất lượng với hiệu trưởng phải thực hiện đúng yêu cầu mục tiêu giáo dục độ tuổi. Trẻ 5 tuổi khi ra lớp một trong những mục tiêu đó là trẻ phải thuộc 29 chữ cái, 10 chữ số thuộc một số bài thơ, biết kể một số câu chuyện … làm thế nào để tất cả các cháu cuối năm học đều đạt được yêu cầu cần đạt theo bộ chuẩn đây? Khi các cháu con em dân tộc thiểu số đến lớp chưa biết nghe, nói và chưa hiểu tiếng kinh? đó là câu hỏi, là nổi lo lắng, băn khoăn mà hàng đêm tôi trăn trở, phần nữa là lương tâm trách nhiệm của người giáo viên tôi không thể hàng ngày đến lớp hết giờ ra về mặc cho các cháu với một hành trang trống rỗng khi ra trường, vậy nên bản thân tôi tự thấy mình cần tìm cách nghiên cứu, chọn lọc một số phương pháp, biện pháp để cho các cháu học sinh dân tộc trong lớp của tôi biết nghe, nói và hiểu tiếng việt. Để các cháu không tự ti,mặc cảm, thích thú đến lớp, vốn tiếng việt được tăng lên, biết giao tiếp băng tiếng việt để từ đó thu hút trẻ hứng thú tham gia vào các hoạt động trong lớp để cuối năm trẻ có một hàng trang vững bước vào lớp 1.



Nội dung và cách thức thực hiện các giải pháp, biện pháp:

*Giải pháp thứ nhất: “Tạo hứng thú cho trẻ đi học chuyên cần

+ Nội dung:

Ngay từ đầu năm học tôi lên kế hoạch để duy trì sĩ số học sinh, duy trì tỉ lệ các cháu đi học chuyên cần 97%. Trong buổi họp phụ huynh đầu năm tôi đã huy động phụ huynh động viên trẻ đến trường, tuyên truyền cho cha mẹ trẻ về nội dung của các môn học, các hoạt động ở bậc học mẫu giáo nhất là lớp 5-6 tuổi, đó là gốc rễ, nền móng cho các cháu trong chương trình của tiểu học mà gần nhất là lớp 1 trong năm học tới của các cháu.

+ Cách thực hiện:

Phải làm sao để các cháu thực sự thích đến lớp mỗi ngày để các cháu được tiếp thu, được lĩnh hội đầy đủ kiến thức là hành trang theo cháu vào lớp 1. Trong khi các cháu phần đông là năm đầu đi học mẫu giáo lớp 5 tuổi mà không qua lớp mầm, chồi, rồi ngôn ngữ tiếng việt của các cháu thì hạn chế, bố mẹ đưa đến lớp các cháu còn khóc nhè đòi về, cô dỗ cháu không hiểu tiếng kinh, nên không nín. Phụ huynh thì chiều con thấy con khóc thì không muốn cho con học nữa, còn mong muốn con lớn lên có đất, có rẫy làm là được rồi. Trước cách nghĩ đó tôi thật sự rất lo lắng tôi đã tự nhủ mình phải thu hút được các cháu đến lớp đã sau đó rồi tính tiếp, hàng ngày phụ huynh đưa trẻ đến lớp tôi trò chuyện với họ, kể cho họ nghe một số trường hợp các cháu ở trong buôn năm học 2018-2019 đủ tuổi vào lớp 1 mà chưa qua mẫu giáo vào học lớp 1 được một thời gian rồi gia đình đến gặp hiệu trưởng trường mẫu giáo xin gửi vào học mẫu giáo để cho biết chữ cái đã chứ chưa biết chữ cái vào học lớp 1 không theo được các bạn…



Tôi cũng đưa ra một số gương mặt các cháu người dân tộc thiểu số đi học chuyên cần từ lớp 3-4, 4-5 tuổi giờ đang học lớp 5-6 tuổi thì cháu rất mạnh dạn, trong năm học cô cho cháu tham gia các hội thi mà nhà trường tổ chức cháu đạt kết quả cao như cháu..................

Về phía các cháu trong thời gian cô trò chuyện với phụ huynh thì cháu cũng nguôi ngoai, không khóc nữa và thấy cô trò chuyện thân mật với bố, mẹ mình thì hình như cháu có cảm giác an toàn, tự tin hơn, lúc bố mẹ trẻ giao trẻ cho tôi để ra về thì trẻ ngoài nhìn theo và mếu máo nhưng bằng tình yêu thương, nhiệt tình, một chút kinh nghiệm sẵn có của mình tôi ôm trẻ vào lòng, xoa đầu và ân cần, thì thầm với trẻ vài tiếng dân tộc bảo trẻ nín đi chiều mẹ đến đón về, giờ con hãy giúp cô xếp ghế, cho các bạn cùng ngồi, giúp cô trải chiếu, lấy đồ chơi, lấy kéo cắt hình bông hoa, tô màu cái ô tô này cho đẹp chiều mang về cho mẹ xem… vậy là trẻ khuây khỏa và quên đi cảm giác sợ hãi, rụt rè,yên tâm ngồi làm những việc cô nhờ. hết việc này tôi lại bày việc khác cho cháu và tôi không quên xen kẽ các cháu người kinh, các cháu mạnh dạn để chơi cùng cháu nhút nhát. Đến cuối buổi học thời điểm bố mẹ các cháu sắp đến đón cháu về tôi lấý những món đồ chơi mới ra ví dụ: bịch bóng bay, búp bê với chén muỗng đồ chơi, ô tô… nói với trẻ là các con ơi cô có bong bay đẹp lắm mà cô chưa thổi lên được cô muốn nhờ bạn ...... thổi bóng bay cho cô, ...... cho búp bê ăn cháo để em búp bê mau lớn…, ....... lái ô tô chở gạch để xây nhà cho búp bê ở nè…các con biết làm không? Trẻ rất thích thú trả lời là có. Tôi nói: Nhưng giờ đã đến giờ bố mẹ các con đón về rồi vậy sáng mai các con nhớ bảo bố mẹ đưa đến lớp sớm để cùng chơi với cô nhé…


– Những việc làm đó thật đơn giản nhưng với những trẻ không hiểu tiếng kinh thì với tôi đó lại là một thách thức lớn bởi bản thân tôi là một giáo viên người kinh vậy nên để làm được điều đó tôi đã phải nhờ cô giáo ........ (Một đồng nghiệp chủ nhiệm lớp chồi bên cạch lớp tôi) chỉ cho tôi một số tiếng dân tộc như: ‘Nín đi, đừng khóc nữa, học ngoan chiều bố mẹ đón về, muốn đi tiểu con hãy xin cô, lúc vào học không được nói chuyện….” . Những việc làm đó tôi không quên thực hiện thường xuyên xen kẽ một cách sáng tạo đi kèm những lời nói, việc làm đó ngoài tình yêu thương trẻ như con cháu của mình rồi thì cần phải mày mò làm thêm đồ dùng đồ chơi lạ mắt, bữa thì những con bướm, con trâu làm từ lá cây, bữa thì mua bột cho trẻ cùng cô nặn bánh, bữa thì thiết kế trang phục cho trẻ làm người mẫu để cô đo đo, cắt cắt để cố tình cho trẻ đứng đợi cô mà quên đi sự nhút nhát e dè.



Cứ thế và kết quả thật đáng ghi nhận là các cháu sau 2 tuần đến lớp đã không khóc nữa, qua trò chuyện với phụ huynh tôi được biết trẻ về nhà không còn sợ phải đến lớp như trước nữa mà cháu thích thú khi bố, mẹ chuẩn bị chở đi học, không còn đòi quà bánh trước khi vào lớp, đến lớp cháu biết chào cô đi cất đồ dùng cá nhân đúng chỗ và vào chơi cùng các bạn một cách hòa đồng.

* Giải pháp thứ hai: “Tăng cường tiếng việt cho trẻ qua các môn học”

* Nội dung:

Đầu năm học tôi lên kế hoạch năm, tháng và đặc biệt là cụ thể vào kế hoạch tuần những nội dung tăng cường tiếng việt cho trẻ qua các môn học cụ thể tôi có kế hoạch hàng ngày từ thứ 2 đến thứ 6 mỗi ngày tôi tăng cường cho trẻ 3-4 từ mới đồng thời trẻ được ôn luyện lại vốn từ cũ một cách thường xuyên.

Khi tổ chức hoạt động tôi đã mời các cháu người đồng bào tham gia vào các hoạt động. Nhưng kết quả chưa được như mong đợi, so với trước đây trẻ đã nghe và hiêu cô giáo nói và làm theo yêu cầu của cô giáo nhưng vẫn còn bỡ ngỡ, chưa thật tự tin, mạnh dạn.

* Cách thực hiện:

Phải làm sao đây để các cháu thực sự hứng thú, nghe hiểu và nói thành thạo tiếng việt để các cháu tiếp thu bài một cách tốt hơn. Tôi lên kế hoạch một hoạt động trong ngày tôi tăng cường cho trẻ dân tộc một số từ có liên quan trong bài dạy của tôi bởi vì cách làm đó rất thuận tiện bởi khi tổ chức bất kì một hoạt động nào cho trẻ giáo viên cũng cần chuẩn bị tranh ảnh, đồ dùng để phục vụ cho hoạt động của trẻ nên việc kết hợp tăng cường tiếng việt vào trong hoạt động là rất thích hợp để trẻ hứng thú và qua đó trẻ dân tộc nghe, thấy và hiểu từ tiếng việt.

Ví dụ: Xây dựng kế hoạch tuần có nội dung tăng cường tiếng việt cụ thể



+ Tăng cường tiếng việt cho trẻ qua môn học môi trường xung quanh:

Tôi nắm được tâm lí của trẻ là thích tìm tòi khám phá, thích những cái mới lạ và trực quan hình ảnh, trực quan hành động chiếm ưu thế ở trẻ nên ngay trong môn khám phá tùy vào từng đề tài tôi chuẩn bị tranh ảnh động đẹp mắt, đa dạng để thu hút trẻ tập trung chú ý kết hợp cho trẻ đọc từ dưới tranh, đồ dùng, tôi ưu tiên những cháu dân tộc được đọc trước, cho các cháu đọc theo từ, tôi tăng cường và cho trẻ nói theo tôi câu có từ.

Vd: Dạy trẻ về chủ đề thực vật đề tài cây xanh và môi trường sống tôi đã chuẩn bị tranh ảnh về cây xanh, và tôi không quên nhờ đồng nghiệp của tôi là cô ............ người dân tộc .........cung cấp cho tôi những tiếng mẹ đẻ của các từ tôi có ý định tăng cường cho trẻ dân tộc trong mỗi hoạt động để tôi dùng 2 thứ tiếng khi nói chuyện với trẻ, hỏi trẻ, trò chuyện với trẻ để trẻ hiểu nội dung câu hỏi của cô và trẻ tự tin gần gũi và cách này cũng làm cho trẻ chủ động hơn trong giao tiếp. Khi trò chuyện với trẻ tôi cho trẻ được thoải mái nói lên điều trẻ suy nghí và tôi luôn tôn trọng ý kiến của trẻ, tạo môi trường thân thiện để trẻ không cảm thấy tự ti, mặc cảm phân biệt dân tộc trong lớp

– Và không chỉ gợi ý cho các cháu bằng lời, tôi đã hành động để các cháu nắm vững cách : Thường xuyên tổ chức theo nhóm, theo tổ, xen kẽ các cháu người Kinh và các cháu đồng bào dân tộc. Hay những giờ sinh hoạt ngoài trời, giờ vui chơi, nói chuyện với trẻ bằng tình cảm chân tình và gần gũi.Ví dụ như: “bạn ......... mới cắt tóc phải không, đẹp quá nhỉ, ai đưa cháu đi cắt tóc đó, bạn ........ sáng đi học quần áo, đầu tóc thật gọn gàng đẹp thật đấy phải không các bạn…” Những lần quan tâm hỏi han trẻ tôi trerất thích thú, gần gũi, tôi xoa đầu âu yếm trẻ. Để trẻ cảm nhận được tình thương yêu của cô giáo đối với mình.

– Những buổi sinh hoạt cuối tuần tôi thường đưa ra những tấm gương các bạn chăm phát biểu, sáng tạo, nói tiếng kinh giỏi…Để thúc đẩy sự cố gắng , phấn đấu hơn của các cháu trong thời gian tới, tạo cho trẻ vui tươi, mạnh dạn, tự tin, tôi luôn gần gũi trò chuyện cùng trẻ không rầy la khi cháu làm sai. Mà ngược lại tôi luôn tôn trọng, yêu thương cháu. Không phân biệt đối xử bất công bằng với trẻ. Thường xuyên để ý giao tiếp và tạo cơ hội cho trẻ tham gia vào các hoạt động.

Các hoạt động cô giáo sử dụng tiếng kinh trẻ không hiểu thì giáo viên sử dụng cả hai thứ tiếng hoặc vừa nói vừa cho trẻ nhìn, chỉ vào sự vật.

VD: Cô nói từ “Hạt nẩy mầm” thì phải có tranh minh họa và cho trẻ biết đó là hiện tượng nẩy mầm của hạt, Qua những câu chuyện đơn giản bằng cách gợi cho cháu trả lời bằng những ngôn ngữ thông dụng, dần dần các cháu hết bị gò bó, không còn nhút nhát nữa và còn thấy rằng cô giáo thật hiền dịu và tin yêu.

+ Tăng cường tiếng việt cho trẻ qua môn học Làm quen chữ cái:

Sau mỗi tiết học làm quen chữ cái tôi tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi với chữ cái như trẻ nói từ có chứa chữ cái đã học thi đua tìm, nói tên các bạn trong lớp ví dụ học chữ e,ê trẻ tìm tên bạn lê, bạn sen…và không chỉ là tên các bạn mà những đồ dùng, những bức tranh, những món đồ chơi có tên chứa chữ cái tôi đều khai thác để cho trẻ được luyện đọc vừa tăng cường cho trẻ phát âm chữ cái để ghi nhớ chữ cái tôi còn có mục đích cho trẻ được luyện âm tiếng việt và hơn nữa qua đó trẻ có ý thức thi đua và làm sôi nổi hơn các hoat động. Với đặc điểm của trẻ mầm non là học qua chơi, chơi mà học nên tôi luôn có gắng chuyển thể các bài học sang hình thức vui chơi để trẻ được: thứ nhất là nhẹ nhàng không áp lực, thứ 2 là huy động được tính tích cực, hứng thú tự giác của trẻ. Tôi thường cho trẻ chơi các trò chơi với chữ cái như: trò chơi bánh xe chữ cái (vòng quay kì diệu)., nối chữ cái trong từ về chữ cái tương ứng, xếp chữ cái bằng hội hạt, nặn chữ cái, gắn chữ cái lên đồ dùng có tên chứa chữ cái theo yêu cầu của cô…ví dụ: gắn chữ u lên cái xích đu,chữ e lên tranh em bé, chữ a lên mái nhà… bên cạnh đó tô thường cho trẻ được trải nghiệm thực tế như cho trẻ đi dao chơi tham quan tìm chữ cái trong các bảng hiệu, cổng thôn… thiết nghĩ trẻ được thực hành trải nghiệm nhiều với đồ dùng đồ chơi, tiếp xúc thực tế ngoài xã hội sẽ giúp trẻ ghi nhớ chữ cái một cách sâu sắc hơn, tập phát âm Tiếng việt một cách chính xác hơn. Chính những việc làm đó đã góp phần không nhỏ vào việc cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ.



Vd: Tôi cho trẻ đi thăm nhà văn hóa cộng đồng tôi giait thích cho trẻ hiểu đó là nơi sinh hoạt văn hoa, văn nghệ của tất cả mọi người trong buôn vào những dịp lễ, cho trẻ nhận biết, tự hào về buôn làng của mình và tôi không quên cho trẻ nhận biết, tìm chữ cái đã học trong những bảng hiệu, những dòng chữ trong nhà văn hóa, vô tình những lần trẻ theo bố mẹ đến sinh hoạt văn nhóa, văn nghệ trẻ khoe với bố me, với các bạn là trẻ đã biết được các chưc cái trên dòng chữ kia…

Qua một thời gian thực hiện lớp tôi tiến bộ rõ rệt, cháu hứng thú trong học tập, nhiều cháu thuộc chữ cái và phát âm chuẩn chữ cái khi đã được làm quen.

+ Tăng cường tiếng việt cho trẻ qua môn học làm quen văn học:

Muốn trẻ giao tiếp, tiếp thu được kiến thức cô giáo truyền thụ trước hết thì trẻ phải nghe hiểu được yêu cầu của cô giáo nên việc giúp trẻ học ngôn ngữ và nâng cao khả năng sử dụng ngôn ngữ Tiếng việt trong học tập cũng như trong cuộc sống là vấn đề cần thiết. đối với trẻ 5 tuổi môn văn học là môi trường, là cơ hội cho trẻ tiếp xúc với nhiều nhân vật trong thơ, chuyện…qua tên các nhân vật trẻ được gọi tên, được đọc, được thể hiện lời thoại…và được phát triển ngôn ngữ, với đặc điểm tình hình trẻ lớp tôi phần đông là học sinh người dân tộc thiểu số nên mỗi lúc lên kế hoạch tôi đã chú ý tới việc lựa chọn những bài thơ, câu chuyện không quá dài, nội dung dễ hiểu,nhân vật gần gũi với trẻ vì vốn từ cũng như thời gian tập trung chú ý của các cháu không được như những trẻ người kinh, khi lên tiết tôi luôn tạo tình huống bất ngờ để thu hút trẻ trẻ tập trung chú ý, khơi gợi ở trẻ tính tò mò dể tạo tâm thế cho trẻ trước khi vào học. trước lúc vào giờ học tôi trò chuyện dẫn dắt trẻ bằng những câu hỏi gần gũi, thân thiện vào bài một cách nhẹ nhàng không gây áp lực cho trẻ, trong quá trình đọc, kể tôi thường dừng lại trực tiếp ở những câu, từ khó để giải thích cho trẻ hiểu ngay trong quá trình tôi đọc một cách kịp thời, kết hợp tranh, ảnh, đồ dùng trực quan để giải thích là một cách làm tôi thấy rất hiệu quả, ngoài ra tôi không quên phối hợp các động tác minh họa đơn giản phù hợp, và tôi cho trẻ thực hiện động tác minh họa cùng với cô nhằm lôi cuốn, khích lệ trẻ chăm chú lắng nghe, để lĩnh hội từng câu, từng lời của cô mà không bị mệt mỏi, uể oải, có thể nói đó là chất xúc tác, tiếp sức cho các cháu một cách hiệu quả.


Vd: khi tôi kể chuyện cáo, thỏ gà trống cho cacvs cháu nghe đến những lời thoại các nhân vật tôi cho trẻ nói theo như “gâu gâu cáo ở đâu” của bầy chó,cúc cù cu cu cu của anh gà trống… tôi cho trẻ nói và làm điệu bộ và trẻ đã rất thích. Khi đã lôi cuốn được sự chú ý của trẻ tôi tiến hành các công việc tiếp theo và không quên gọi những cháu dân tộc đọc từ, đọc câu với nhiều hình thức như là tôi đố trẻ, nhờ trẻ, gợi ý cho trẻ, cho các cháu thi đua, cho trẻ nói tiếp…và tất nhiên là sử dụng những câu từ gần gũi, cụ thể để giảng nội dung câu chuyện, bài thơ một cách ngắn gọn để trẻ có thể tiếp thu một cách nhẹ nhàng sau đó tôi cho trẻ nói tên nhân vật trong thơ, chuyện qua tranh ảnh, và không quên khuyến khích trẻ bằng những món quà hay những tràng pháo tay động viên, bởi thế nên học sinh lớp tôi ngày càng mạnh dạn, tự tin, ham thích học thơ, kể chuyện và nhiều cháu thuộc thơ, kể lại câu chuyện một cách hoàn chỉnh, qua những việc làm đó học sinh dân tộc của lớp tôi so với trước vốn từ được tăng lên rất nhiều, trẻ nghe, hiểu được lời của cô, nắm được yêu cầu của bài và tôi nghĩ mình đã gặt hái được nhiều thành công hơn so với trước.


* Giải pháp thứ ba: “Tăng cường tiếng việt cho trẻ qua hoạt động vui chơi”

* Nội dung:

Hoạt động vui chơi đóng vai trò chủ đạo, không thể thiếu ở lứa tuổi mầm non. Nhận thức được điều đó, bản thân tôi luôn thực hiện tốt nhiệm vụ năm học mà nghành đề ra. Ngoài việc dạy và học thì hoạt động vui chơi luôn diến ra trong các ngày trẻ được đến lớp, tôi luôn sáng tạo làm nhiều đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho hoạt động vui chơi của trẻ. Bởi vì đối với trẻ những món dồ chơi mới mẻ, lạ mắt là điểm đến, là động lực thu hút trẻ nhiều nhất và qua hoạt động vui chơi này phát huy cho trẻ tính mạnh dạn, tự tin trước đám đông. Trẻ thể hiện hết cái tôi của mình trẻ biết và độc lập trong suy nghĩ và dám khẳng định chính bản thân mình và đó cũng là cơ hội giúp trẻ được tăng cường tiếng việt, trong khi các cháu chơi thì trẻ vô tư thể hiện hết những gì trẻ biết, trẻ có và cô giáo qua đó phát hiện được khả năng của trẻ giúp trẻ phát triển ngôn ngữ để thuận tiện trong việc phát triển các lĩnh vực khác ở trẻ. Nhờ sự tích cực hứng thú trong hoat động vui chơi mà trong năm học này chúng tôi đã đạt được những thành tích đáng kể về chiến lược tăng cường tiếng việt cho trẻ dân tộc.


  1. KẾT LUẬN:

Để làm tròn nhiệm vụ của một người giáo viên chủ nhiệm nhất là đối tượng học sinh phần đông là trẻ con em dân tộc thiểu số người giáo viên phải là người có tâm huyết với nghề có chuyên môn vững vàng, kinh nghiệm dày dặn, đạo đức trong sáng, có uy tín với phụ huynh, bà con trong thôn buôn tin tưởng, phải có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc, biết xây dựng kế hoạch giáo dục, tạo môi trường lớp học phù hợp chủ đề, mới lạ để thu hút trẻ, tập thể sư phạm có tinh thần đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau trong công tác, đối tượng nghiên cứu là trẻ em trong độ tuổi Mẫu Giáo.


Vận dụng một số biện pháp giúp tăng cường tiếng việt cho các cháu học sinh con em dân tộc thiểu số tạo cho trẻ sự mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp giúp cho trẻ sử dụng tiếng việt một cách thành thạo bản thân tôi đã nghiên cứu những nội và áp dụng linh hoạt trong việc tổ chức các hoạt động vui chơi, học tập, mọi lúc mọi nơi phù hợp với hoàn cảnh thực tế tình hình của lớp, của địa phương.giáo viên luôn tạo tình cảm cho trẻ giao lưu trò chuyện với cô,với bạn nghe hiểu lời nói của cô, của bạn. tăng cường công tác làm đồ dùng đồ chơi đẹp, tạo ra môi trường mới lạ để thu hút trẻ tham gia vào các hoạt động phát triển ngôn ngữ thực sự hứng thú, thực hiện thông qua các hoạt động ở lớp và mọi lúc mọi nơi. Với vốn kinh nghiệm tích luỹ ít ỏi về việc tăng cường tiếng việt ấy tôi đã áp dụng và có hiệu quả cao, tại lớp của mình. Tôi tin rằng cuối năm học này 97% trẻ dân tộc thiểu số nói được tiếng việt thàng thạo.


Xác định mục tiêu nhận ra tầm quan trọng trong việc phát triển nhân cách của trẻ trong trường Mẫu Giáo để giúp trẻ nghe hiểu tiếng việt, Phải coi trọng những hành động, suy nghĩ của trẻ dù là nhỏ nhất và luôn đạt câu hỏi “Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu” lên hàng đầu. Tạo được nề nếp hoạt động thường xuyên, liên tục, mang tính tự giác, tự nguyện cao, và quyết tâm thực hiện không ngại khó khăn.

Luôn luôn làm tốt công tác tham mưu, công tác xã hội hoá giáo dục để toàn xã hội chung tay xây dựng trường học ngày càng đi lên.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 4
(có 1 lượt vote)

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 15


Nội dung

*Nguyên tắc giáo dục PTTC kỹ năng xã hội cho trẻ mầm non

*Lập kế hoạch giáo dục phát triển tình cảm kỹ năng xã hội cho trẻ trong chương trình GDMN

*Hướng dẫn tổ chức các hoạt động giáo dục phát triển tình cảm, kỹ năng xã hội cho trẻ trong CĐSH hàng ngày

Nguyên tắc giáo dục phát triển TC, KNXH

  • Nội dung giáo dục phát triển TC,KNXH được tích hợp ở tất cả các lĩnh vực giáo dục trong chương trình GDMN
  • Nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục phát triển TC, KNXH phải phù hợp với đặc điểm phát triển TC, KNXH của từng lứa tuổi.
  • Giáo dục phát triển TC, KNXH cần được thực hiện thường xuyên, mọi lúc, mọi nơi,ở tất cả các thời điểm trong chế độ sinh hoạt hằng ngày của trẻ ở trường mầm non.
  • Giáo dục phát triển TC, KNXH cần tăng cường cho trẻ tham gia các trải nghiệm, thực hành gắn với cuộc sống thực tế của trẻ.
  • Trẻ phải được sống và giáo dục trong môi trường tích cực, thân thiện, ở đó mỗi trẻ đều được yêu thương, chăm sóc, an toàn, tôn trọng, đối xử công bằng và phát huy mọi tiềm năng sẵn có.
  • Người lớn phải luôn làm gương và là hình mẫu trong cách thể hiện tình cảm, biểu lộ cảm xúc, các hành vi giao tiếp, ứng xử trong cuộc sống.

Xây dựng kế hoạch giáo dục phát triển TC, KNXH.


Giáo dục phát triển TC, KNXH được thực hiện trong các thời điểm hằng ngày rất linh hoạt, tuy nhiên người giáo viên vẫn có thể dự kiến trước một số nội dung đưa vào kế hoạch giáo dục của mình để chủ động hơn trong quá trình thực hiện các hoạt động giáo dục. Tất nhiên kế hoạch nayfchir là dự kiến, linh hoạt, giáo viên có thể lựa chọn thực hiện phù hợp với các hoàn cảnh, tình huống thực tế của lớp mình.

- Bằng những trải nghiệm thực tế của mình, giáo viên lựa chọn nội dung giáo dục TC, KNXH vào kế hoạch chủ đề hàng tháng.

Những điểm cần chú ý khi xây dựng kế hoạch và tổ chức HĐGD phát triển TC, KNXH

- Lựa chọn các nội dung phát triển TC, KNXH thiết thực, phù hợp kinh nghiệm, khả năng và nhu cầu của trẻ để đưa vào KH giáo dục.

- Tổ chức đa dạng các hoạt động GD tình cảm kỹ năng xã hội để tạo cơ hội cho trẻ được tích cực hoạt động, được thể hiện bản thân, được thực hành, trải nghiệm các kỹ năng sống cần thiết.

- Các phương tiện, học liệu phù hợp với nội dung, và mục đích của hoạt động, nên sử dụng các nguyên liệu có sẵn của địa phương, vật liệu tái sử dụng,.. những vật liệu trẻ có thể sử dụng sáng tạo và tự làm ra sản phẩm để chơi, để học.


Giáo dục phát triển TC, KNXH trong chế độ sinh hoạt hằng ngày

phát triển TC, KNXH trong giờ đón trẻ, thể dục sáng

- Phát triển kỹ năng xã hội:

+ Chia sẻ ý kiến, nói trước cả nhóm, trả lời câu hỏi

+ Kỹ năng giao tiếp có văn hóa( nói lời chào với cô giáo, bạn bè, nói lời tạm biệt với cha mẹ, người thân)

+ Thực hiện một số quy tắc, quy định (Để đồ dùng đồ chơi đúng nơi quy định, tập trung vào nghe và làm theo hướng dẫn của cô giáo.)

+ Quan tâm đến bạn bè, trong lúc điểm danh nếu có một trẻ vắng mặt do bệnh tật, dạy cho trẻ biết động viên, thăm hỏi; nếu bạn đi du lịch- hãy vui mừng, vui vẻ khi bạn quay trở về.


Phát triển tình cảm

Di chuyển theo điệu nhạc, theo nhiều cachs khác nhau,

+ Đối phó, kiểm soát cảm xúc với sự xa cách ba mẹ

+ Nhận biết, thể hiện cảm xúc.


Nội dung giáo dục PT TC, KNXH trong thời điểm chơi

PT TC, KNXH trong góc đóng vai

- Phát triển kỹ năng xã hội:

+ Học cách cư xử với bạn, hợp tác với bạn, dọn dẹp đồ chơi

+ Học các quy tắc trong cuộc sống, trò chuyện, đóng vai các vai trò xã hội khác nhau(vd: mẹ, bố, bác sỹ…)

- Phát triển tình cảm

+ Trẻ nhận biết cảm xúc của người khá

+ Học cách biểu lộ và kiểm soát cảm xúc của bản thân


PT TC, KNXH trong góc xây dựng

- Phát triển kỹ năng xã hội:

+ Cộng tác chia sẻ các khối, các nguyên liệu

+ Thảo luận kế hoạch cùng nhau

+ Lắng nghe ý kiến của bạn…

- Phát triển tình cảm

+ Tự hào khi xây xong một công trình

+ Chia sẻ niềm vui với bạn

+ Cảm nhận cái đẹp

+ Đối phó với sự thất vọng và giận dữ

+ Giải quyết xung đột


PT TC, KNXH trong góc sách


- Phát triển kỹ năng xã hội:

+ Lắng nghe giáo viên hoặc bạn

+ Học những từ mới hoặc câu mới

+ Trao đổi ý kiến và thảo luận với bạn

+ Chia sẻ hợp tác

- Phát triển tình cảm

+ Học nhận biết, phân biệt các trạng thái cảm xúc qua hình ảnh trong sách.

+ Học biểu hiện cảm xúc qua ngôn ngữ, hành vi…


PT TC, KNXH trong góc nghệ thuật

- Phát triển kỹ năng xã hội:

+ Xem hay lắng nghe lẫn nhau, lần lượt hát, chia sẻ kinh nghiệm, chia sẻ với bạn ý tưởng tạo hình, nguyên vật liệu…

+ Nhận biết một số quy tắc như thu dọn đồ dùng khi vẽ, nặn xong

+ Cùng nhau vẽ một bức tranh chung

- Phát triển tình cảm

+ Biểu hiện cảm xúc vui buồn, ngạc nhiên… qua âm nhạc và vẽ

+ Âm nhạc, tạo hình giúp trẻ thư giãn, tự hào về sản phẩm


PT TC, KNXH trong trò chơi vận động

- Phát triển kỹ năng xã hội:

+ Thay phiên nhau, chờ đợi đến lượt mình

+ Chia sẻ hợp tác

+ Làm theo quy tắc, vui chơi an toàn và không an toàn

- Phát triển tình cảm

+ Kiểm soát và biểu lộ cảm xúc gắn liền với chiến thắng và thua

+ Học cách đồng cảm…

  1. Ăn /ngủ trưa

- Phát triển kỹ năng xã hội:

+ Các kỹ năng tự phục vụ trước, trong và sau khi ăn; rửa tay bằng xà phòng, vặn vòi nước…

+ Hành vi văn hóa khi ăn uống, cầm thìa, bát, cách ăn… sắp xếp bàn ăn,…

- Phát triển tình cảm

+ Quan tâm giúp đỡ bạn; Món ăn ưa thích,…


* Tóm lại:

Giáo dục phát triển tình cảm, kỹ năng xã hội chủ yếu được thực hiện tích hợp trong mọi thời điểm trong chế độ sinh hoạt, tình huống thực tế hằng ngày, qua hoạt động chơi, học, tham quan, lễ hội, lao động vừa sức…

Giáo dục phát tiển TC,KNXH cũng có thể tiến hành qua một số hoạt động học/ giờ học chuyên biệt.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 5
(có 0 lượt vote)

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 16

Giáo dục thẩm mỹ là một quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch của nhà giáo dục đến trẻ, nhằm giúp trẻ biết nhận ra cái đẹp, có hứng thú, yêu thích cái đẹp và mong muốn tạo ra cái đẹp trong sinh hoạt và hoạt động cá nhân.


Giáo dục thẩm mỹ mà trung tâm là giáo dục cái đẹp và đưa cái đẹp vào trong đời sống một cách sáng tạo, là một nhiệm vụ rất quan trọng của giáo dục nhân cách phát triển toàn diện.



Tuổi thơ luôn nhìn thế giới bằng cặp mắt trong sáng, tất cả đối với trẻ dường như rực rỡ hơn, mặt trời chói lọi hơn, chị "Hằng Nga" huyền bí hơn, bông hoa rực rỡ, dòng sông tung sóng, cơn giông ập đến v.v... chúng bộc lộ xúc cảm thẩm mỹ thật hồn nhiên và trong trẻo. Lứa tuổi này tiếp nhận và hình thành năng lực sáng tạo thẩm mỹ ban đầu rất cần thiết cho việc hình thành tài năng sáng tạo về sau.

Để xây dựng cơ sở ban đầu cho giáo dục nhân cách con người phát triển toàn diện, giáo dục mầm non cần phải được tiến hành một cách tổng hợp và đồng bộ các mặt sau đây:

  • Giáo dục thể chất
  • Giáo dục trí tuệ
  • Giáo dục đạo đức
  • Giáo dục thẩm mĩ
  • Giáo dục lao động.

Giáo dục thẩm mỹ có mối liên hệ mật thiết với giáo dục đạo đức, giáo dục trí tuệ, lao động và thể chất. Những cảm xúc thẩm mỹ có ảnh hưởng lớn đến bộ mặt đạo đức của con người và làm cho tình cảm con người thêm cao thượng. Những mặt giáo dục trên đây gắn bó, bổ sung cho nhau trong quá trình hình thành cơ sở ban đầu về nhân cách con người phát triển toàn diện. Tuy nhiên, do đặc điểm tăng trưởng và phát triển của trẻ ở mỗi thời kì khác nhau là khác nhau, nên cần phải xác định được các nhiệm vụ nội dung, phương pháp, biện pháp… chăm sóc và giáo dục phù hợp với đặc điểm tăng trưởng và phát triển của từng thời kì.



  1. Giáo dục thẩm mĩ cho trẻ lứa tuổi mầm non

1.1. Khái niệm và ý nghĩa của giáo dục thẩm mĩ cho trẻ lứa tuổi mầm non

1.1.1. Khái niệm giáo dục thẩm mĩ

Giáo dục thẩm mĩ, về bản chất là bồi dưỡng lòng khao khát đưa cái đẹp vào cuộc sống, tạo nên sự hài hoà giữa xã hội – con người – tự nhiên, nâng cao năng lực cảm thụ và sáng tạo cái đẹp ở con người, làm cho con người được phát triển một cách hài hoà trong mọi hoạt động lao động cũng như nghỉ ngơi, trong quan hệ gia đình cũng như xã hội.

Cũng như mọi hoạt động giáo dục khác, giáo dục thẩm mĩ là một quá trình lâu dài, diễn ra một cách có hệ thống: từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Giáo dục thẩm mĩ cho trẻ lứa tuổi mầm non là sự khởi đầu cho toàn bộ quá trình giáo dục thẩm mĩ trong nhà trường.

Giáo dục thẩm mĩ cho trẻ em lứa tuổi mầm non là một quá trình sư phạm, nhằm hình thành và phát triển ở trẻ em năng lực ban đầu về cảm thụ và nhận thức đúng đắn cái đẹp trong đời sống sinh hoạt, xã hội, trong tự nhiên và trong nghệ thuật, giáo dục trẻ lòng yêu cái đẹp, sống theo cái đẹp và biết tạo ra cái đẹp trong cuộc sống.

Giáo dục thẩm mĩ là một khái niệm rộng, bao gồm việc giáo dục cho trẻ thái độ thẩm mĩ đối với thiên nhiên, lao động, đời sống xã hội và đối với nghệ thuật. Từ việc cho trẻ có được sự hiểu biết đúng đắn thế nào là đẹp, xấu đến sự hình thành thái độ tích cực ủng hộ cái đẹp, loại trừ cái xấu, đồng thời có hành vi thích hợp với bản thân để tạo ra cái đẹp cho bản thân và cái đẹp trong cuộc sống xung quanh là một quá trình tác động sư phạm lâu dài của người lớn (cô giáo, cha mẹ, ông bà…).



1.1.2. Ý nghĩa của giáo dục thẩm mĩ cho trẻ lứa tuổi mầm non

Giáo dục thẩm mĩ là một trong những mặt quan trọng trong giáo dục để con người phát triển toàn diện, do vậy, trong công tác giáo dục mầm non không thể thiếu giáo dục thẩm mĩ.
Tuổi mầm non là giai đoạn phát triển nhanh nhất các chức năng tâm lí, là giai đoạn hình thành cơ sở ban đầu về nhân cách. Trong đó phải kể đến những cơ sở để hình thành thị hiếu và năng khiếu thẩm mĩ sau này.

Đặc tính của cái đẹp và đặc tính của tuổi thơ rất gần nhau, nên trẻ nhỏ đến cái đẹp như đến với những gì thân thiết, quý mến. Trẻ tích cực, vui sướng khi được sống trong thế giới của cái đẹp: đồ dùng, đồ chơi đẹp, ngộ nghĩnh, màu sắc, âm thanh của cảnh vật xung quanh hấp dẫn… Vì vậy, nếu không giáo dục cái đẹp cho trẻ ngay từ khi còn nhỏ là bỏ lỡ một cơ hội trong giáo dục con người. Có thể coi đó là một sự lãng phí đáng kể trong việc bồi bổ những năng khiếu, những phẩm chất tất đẹp cho tâm hồn trẻ thơ.

Mặt khác, tình yêu cái đẹp không phải là cái bẩm sinh mà nó được nảy sinh và phát triển trong quá trình giáo dục. Một em bé sẽ không thể có được tình yêu cái đẹp nếu chúng ta không tạo điều kiện để em bé đó tiếp xúc với nhiều cái đẹp xung quanh, không làm cho những thuộc tính sinh động và phong phú của cái đẹp tràn vào các giác quan của trẻ để ghi lại trong tâm trí nó những ấn tượng tươi mát, dễ chịu; nếu chúng ta không biết khêu gợi ở trẻ những xúc cảm tốt lành về con người và làm thức dậy trong trẻ những gì thân thiết, gần gũi khi tiếp xúc với cái đẹp.



Đừng nên nghĩ rằng, trẻ còn nhỏ không biết thế nào là đẹp, là xấu mà chỉ cần cho ăn no, mặc ấm là được. Tất nhiên ăn no, mặc ấm là nhu cầu không thể thiếu, cần được thoả mãn để bảo đảm cho trẻ sống. Nhưng để lớn lên thành người, trẻ cần được thoả mãn nhiều nhu cầu tinh thần, trong đó có nhu cầu về cái đẹp và chính những nhu cầu ấy mới là động lực phát triển tâm lí, phát triển đời sống tinh thần của trẻ.

Lời ru ngọt ngào, giọng nói âu yếm, âm điệu du dương của một bản nhạc; bông hoa tươi sắc, đồ chơi nhiều dáng vẻ, màu sắc hài hoà… tất cả đều cần được đưa đến cho trẻ. Thiếu những cái tưởng như bình thường ấy sẽ là nỗi bất hạnh cho trẻ thơ. Sớm tiếp xúc với cái vẻ đẹp đó sẽ giúp cho việc hình thành ở trẻ những ấn tượng tươi mát, làm nảy sinh nhu cầu về cái đẹp, làm cho trạng thái tinh thần của trẻ được thoải mái, dễ chịu, trẻ sẽ luôn cười vui với mọi người. Nhưng ngược lại, những tác động xấu từ bên ngoài như: những lời nói tục tĩu, những nét mặt cau có, những hành vi thô lỗ, nơi ăn chốn ở nhếch nhác, bẩn thỉu sẽ làm cho tính tình của trẻ trở nên cáu kỉnh, khó chịu hoặc nguy hại hơn là trẻ dễ thích nghi với cái xấu ngay từ tấm bé.

Giáo dục thẩm mĩ liên quan mật thiết với các mặt giáo dục nhân cách con người phát triển toàn diện, đặc biệt là giáo dục đạo đức và giáo dục trí tuệ. Cái đẹp của thế giới xung quanh (gia đình, trường lớp mầm non, góc sân chơi, màu sắc, hình dáng đồ chơi…) và cái đẹp trong nghệ thuật (hát múa, thơ truyện, tạo hình…) không những ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành nhận thức thẩm mĩ mà còn tác động đến việc hình thành tình cảm đạo đức cho trẻ. Những xúc cảm thẩm mĩ có ảnh hưởng lớn đến bộ mặt đạo đức của con người. Nhờ xúc cảm này mà tính cách của trẻ trở nên cao thượng, đời sống của trẻ thêm phong phú, trẻ thêm lạc quan hơn trong cuộc sống… Tất cả những điều đó tác động mạnh mẽ đến việc hình thành mối quan hệ tốt đẹp của trẻ với cuộc sống và con người. Thông qua việc tiếp nhận những tác phẩm nghệ thuật trẻ sẽ nhận thức đúng đắn về cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài trong cuộc sống… điều đó ảnh hưởng lớn đến việc giáo dục các phẩm chất đạo đức cho trẻ (như lòng nhân ái, tính cộng đồng, hành vi đẹp trong cuộc sống xã hội…).



Qua giáo dục thẩm mĩ mà trẻ có được cảm thụ thẩm mĩ và nhận thức sâu sắc hơn những hiện tượng của cuộc sống, nhờ đó mở rộng tầm nhìn của trẻ, làm cho các biểu tượng về thế giới xung quanh càng thêm sâu sắc hơn, đồng thời khơi dậy ở trẻ lòng ham hiểu biết. Chẳng hạn, những đồ dùng, đồ chơi đẹp, màu sắc hài hoà… sẽ giúp trẻ tri giác sự vật nhanh hơn, dễ dàng hơn, do vậy mà dễ hình thành được biểu tượng về đồ vật đó trong đầu. Mặt khác, trên cơ sở những biểu tượng phong phú về thế giới xung quanh được hình thành sẽ giúp cho trẻ cảm thụ cái đẹp sâu sắc hơn, xúc cảm thẩm mĩ của trẻ trở nên mạnh mẽ hơn. Thật vậy, xúc cảm thẩm mĩ không chỉ được xây dựng trên cơ sở cảm thụ cái đẹp, mà còn được dựa trên cơ sở hiểu biết sâu sắc hơn nội dung cái đẹp.

Có thể nói, cái đẹp là dòng suối nuôi dưỡng lòng tốt và trí thông minh. Chính vì thế mà các nhà giáo dục học đã coi giáo dục thẩm mĩ là một mặt rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách ở trẻ mầm non. Thiếu cái đẹp, đứa trẻ sẽ buồn rầu, già trước tuổi, thế giới tinh thần sẽ nghèo nàn, làm thui chột năng khiếu và những phẩm chất tốt đẹp của trẻ.

Cuộc sống tinh thần trong thế giới cái đẹp khơi dậy ở trẻ nhu cầu muốn làm cho mình trở nên đẹp hơn, nhu cầu khám phá cái đẹp ở xung quanh. Đứa trẻ càng sớm thấy được vẻ đẹp đó bao nhiêu thì sự phát triển đời sống tinh thần và thể chất của nó càng thuận lợi bấy nhiêu.

Tóm lại, giáo dục thẩm mĩ là việc làm không thể thiếu được trong công tác chăm sóc – giáo dục trẻ em lứa tuổi mầm non. Giáo dục thẩm mĩ cần được tiến hành ngay từ nhỏ với những phương tiện đa dạng, phong phú.


1.2. Nhiệm vụ, nội dung và phương pháp giáo dục thẩm mĩ cho trẻ lứa tuổi nhà trẻ

1.2.1. Nhiệm vụ

Cũng như các mặt giáo dục khác, giáo dục thẩm mĩ cho trẻ là một quá trình lâu dài và mang tính hệ thống. Mỗi lứa tuổi có những nhiệm vụ giáo dục cụ thể phù hợp với đặc điểm phát triển của lứa tuổi đó ở lứa tuổi nhà trẻ, giáo dục thẩm mĩ bao gồm ba nhiệm vụ cơ bản sau:

a) Cung cấp và làm giàu ấn tượng xung quanh cho trẻ, trên cơ sở đó phát triển tri giác thẩm mĩ cho chúng

Quá trình phát triển thẩm mĩ của con người diễn ra ngay từ khi còn nhỏ. Khi mà thị giác và thính giác là phương tiện cơ bản giúp trẻ liên hệ với thế giời bên ngoài. Nhờ cặp mắt và đôi tai đứa trẻ tích luỹ được những ấn tượng về thế giới.

Trẻ nhỏ thường hứng thú và có ấn tượng với những đồ vật, đồ chơi có màu sắc tươi sáng, sống động, phát ra âm thanh, những hiện tượng thiên nhiên “bí ẩn”, hấp dẫn (mặt trời mọc, giọt sương long lanh, tiếng chim hót líu lo, những bông hoa đua sắc…), những hành vi, việc làm của mọi người gây cho trẻ tò mò, thích thú… Người lớn cần tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc với thế giới xung quanh để giúp trẻ có những ấn tượng phong phú, tốt đẹp về thế giới xung quanh. Bởi vì thế giới màu sắc âm thanh, hình dáng, động tác càng phong phú, đẹp đẽ bao nhiêu thì việc giáo dục thẩm mĩ càng có cơ sở tốt bấy nhiêu.



Trong quá trình cho trẻ tiếp xúc với thế giới xung quanh, người lớn cần dạy trẻ biết nhìn và phát hiện ra vẻ đẹp của thế giới xung quanh: (của đồ chơi, đồ dùng, của thiên nhiên và cuộc sống con người). Đối với trẻ em lứa tuổi nhà trẻ, đây là một việc làm khó khăn, vì trẻ chưa ý thức được cái đẹp trong cuộc sống xung quanh, chưa có tiêu chuẩn đánh giá cái đẹp… mà chỉ là sự nhận biết cảm tính vẻ bề ngoài của sự vật, hiện tượng.

b) Bước đầu phát triển ở trẻ năng lực cảm xúc thẩm mĩ và hứng thú với nghệ thuật

Những cảm xúc thẩm mĩ của con người không phải là những cảm xúc đơn giản, chúng diễn ra trên cơ sở những tri thức mà con người có được về cái đẹp. Bởi vậy, quá trình tiếp thu tri thức về cái đẹp và hình thành cảm xúc thẩm mĩ diễn ra một cách thống nhất, liên tục. Khi cảm xúc thẩm mĩ được hình thành sẽ thúc đẩy con người hoạt động tích cực hơn, lạc quan hơn trong cuộc sống. Vì vậy, hình thành và phát triển cảm xúc thẩm mĩ cho trẻ là một nhiệm vụ quan trọng trong giáo dục thẩm mĩ cho trẻ lứa tuổi nhà trẻ.

Ở lứa tuổi nhà trẻ, trẻ em thường biểu hiện cảm xúc của mình một cách trực tiếp: qua nụ cười, qua những phản ứng, qua những câu nói biểu lộ sự thích thú hay không thích. Do vậy, người lớn có thể suy đoán được xúc cảm, tình cảm của trẻ, qua đó mà khơi sâu và làm phong phú những cảm xúc dương tính và uốn nắn những cảm xúc âm tính cho trẻ, giúp cho sự phát triển cảm xúc của trẻ phù hợp với nhiệm vụ giáo dục thẩm mĩ.


Theo N. Kiiasenco: “Chất dinh dưỡng tạo ra khả năng nghệ thuật là cái đẹp trong nghệ thuật… Nhờ nghệ thuật mà con người hiểu được vẻ đẹp của cuộc sống, do đó mở rộng được lĩnh vực cái đẹp. Vì nghệ thuật chân chính không bao giờ thoát li cuộc sống, mà trái lại, nó khao khát tìm hiểu ý nghĩa nghệ thuật cuộc sống, nên trong nghệ thuật tập trung toàn bộ kinh nghiệm thẩm mĩ của nhân dân”.


Như vậy, nghệ thuật là một phương tiện, con đường giáo dục và phát triển cảm xúc thẩm mĩ có hiệu quả cho trẻ em. Bằng những giai điệu ngọt ngào của những bài hát, những câu thơ, những câu ca dao giàu nhạc tính, những tác phẩm hội hoạ đặc sắc… người lớn đã đưa trẻ vào những giá trị văn hoá nhân loại, dân tộc, tạo cho trẻ những cảm xúc mang tính thẩm mĩ, làm nảy sinh nhu cầu về cái đẹp trong cuộc sống xung quanh.


c) Bước đầu giáo dục thị hiếu thẩm mĩ và phát triển năng lực sáng tạo nghệ thuật cho trẻ

Thị hiếu thẩm mĩ là thái độ, tình cảm khiến người ta phản ứng mau lẹ trước những cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài trong cuộc sống và nghệ thuật là một bộ phận quan trọng của tình cảm thẩm mĩ, thị hiếu thẩm mĩ đã giúp cho con người tiến sâu hơn vào thế giới thẩm mĩ bằng những mẫn cảm đặc biệt và những khát vọng thiết tha. Khi thưởng thức cái đẹp, căm giận cái xấu, xót xa trước cái bi thương, khâm phục cái cao cả, định hướng các giá trị thẩm mĩ, hưởng thụ và sáng tạo thẩm mĩ… Thị hiếu thẩm mĩ tốt sẽ hướng mỗi người phấn đấu cho những cái đẹp, cái tốt, cái đúng. Không có thị hiếu thẩm mĩ lành mạnh, đúng đắn thì không có cuộc sống đẹp. Vì vậy, giáo dục thị hiếu thẩm mĩ cho trẻ em ngay từ lúc lứa tuổi nhà trẻ là việc làm rất quan trọng trong công tác giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thơ.


Thị hiếu thẩm mĩ của trẻ nhỏ thường thể hiện ở việc đánh giá cái đẹp phân biệt cái xấu, cái đẹp. Trường mầm non cần dạy trẻ biết phân biệt cái đẹp với cái không đẹp, cái thô kệch và xấu xí. Cần giúp trẻ biết trình bày rõ tại sao thích bài hát, bức tranh, truyện cổ tích hay một nhân vật nào đó trong tác phẩm. Phải giúp trẻ biết cảm thụ cái đẹp ở xung quanh và biết tạo tạo ra cái đẹp trong cuộc sống hằng ngày. Một bông hoa đẹp trong khóm hoa, một lớp học sạch sẽ, ấm cúng trang trí trong nhà phải được trẻ yêu quý. Trẻ không vứt rác bừa bãi, biết xếp gọn đồ chơi, đồ dùng để luôn giữ được vẻ đẹp của trường lớp, đem lại nguồn vui cho mọi người.



Thị hiếu thẩm mĩ của mỗi trẻ có sự khác nhau. Vì vậy, trong việc giáo dục thị hiếu thẩm mĩ cho trẻ, người lớn, cô giáo cần tôn trọng và phát huy ý thích thẩm mĩ lành mạnh của trẻ, tránh gò bó, áp đặt làm thui chột óc thẩm mĩ và thị hiếu thẩm mĩ của trẻ.

Hoạt động tạo hình rất hấp dẫn với trẻ, vì sản phẩm tạo thành với màu sắc, đường nét, hình khối, dáng vẻ đã tác động trực tiếp đến thị giác và xúc giác của trẻ. Ngay từ những năm tháng đầu tiên của đời người, đôi mắt trẻ thơ đã hoạt động để tiếp nhận ánh sáng, màu sắc. Đứa trẻ 3 – 4 tháng tuổi đã cảm thấy thoả mãn khi nhìn thấy màu sắc rực rỡ từ những giải lụa hay chùm bóng treo trên nôi, 5 – 6 tháng tuổi đã biết vờn theo đồ vật, đồ chơi có màu sắc và có hình thù hấp dẫn. Trẻ 3 tuổi đã có thể nhận ra con gà, con vịt, hay những người trong tranh… và bằng cách đó mà trẻ đi vào thế giới tạo hình một cách tự nhiên. Do vậy, người lớn cần chú ý giáo dục và hình thành năng lực tạo hình cho trẻ, trước hết là hướng dẫn trẻ cảm thụ được vẻ đẹp của những sản phẩm tạo hình, sau đó tập cho trẻ một kĩ năng nặn, vẽ… những thứ mà trẻ yêu thích.


1.2.2. Nội dung và phương pháp giáo dục thẩm mĩ cho trẻ em lứa tuổi nhà trẻ

a) Dạy trẻ quan sát, cảm thụ vẻ đẹp của thiên nhiên

Thiên nhiên không chỉ mang lại cho trẻ em những thứ cần thiết để sống mà còn hấp dẫn chúng bởi những điều kì diệu mà không có gì thay thế nổi. Đến với thiên nhiên là sở thích vốn có của trẻ, nhưng không phải cứ đến với thiên nhiên, sống trong lòng thiên nhiên là các em phát hiện và cảm thụ được vẻ đẹp của nó. Nhiều trẻ đến với thiên nhiên là để chơi đùa cho thoả thích, nhiều khi còn có những hành động phá phách nữa. Do đó, người lớn cần dạy trẻ biết ngắm nhìn, quan sát thiên nhiên với thái độ say mê, trân trọng – Thái độ thẩm mĩ đối với thiên nhiên.


Khi còn nhỏ, trẻ được người lớn bế ra ngoài trời ngắm những màu sắc của hoa lá trong vườn, lắng nghe tiếng chim hót, tiếng con mèo kêu, chó sủa…; lớn hơn một chút, trẻ được người lớn chỉ cho xem ông trăng sáng tỏ trên trời, bầu trời sao lấp lánh vào buổi tối, ánh bình minh khi mặt trời mọc, con vịt bơi trên hồ nước, con cá vàng phất phơ cái đuôi như lá cờ, con cua bò ngang, con tôm đi giật lùi… trẻ vừa thích thú vừa cảm nhận được vẻ đẹp kì thú của thiên nhiên.


Thiên nhiên mãi mãi vẫn dành cho trẻ em những niềm vui bất ngờ và nếu được rèn luyện óc quan sát từ thuở ấu thơ thì trẻ có khả năng phát hiện ra bao nhiêu điều thú vị, cả trong những sự vật tưởng như là bình thường và tẻ nhạt đối với người lớn. Thiên nhiên đẹp, tự nó đã là những chất dinh dưỡng cho tâm hồn trẻ thơ, nếu được người lớn hướng dẫn trẻ nhìn, nghe, màu sắc, âm thanh tuyệt diệu của nó thì cảm giác, tri giác của trẻ trở nên nhạy bén, tinh tế hơn. Do vậy, người lớn, cô giáo mầm non cần quan tâm giáo dục, dẫn dắt trẻ đến với thiên nhiên.


Tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc với thiên nhiên, hướng dẫn trẻ quan sát thiên nhiên là vấn đề mang tính giáo dục lớn lao và là một trong những nội dung giáo dục thẩm mĩ quan trọng cho trẻ. Trường mầm non cần có góc thiên nhiên, trồng nhiều cây cảnh, hoa lá để trẻ quan sát cần có bể cá cảnh, chuồng gà, chuồng chim, chuồng thỏ… để trẻ chiêm ngưỡng, qua đó giáo dục thẩm mĩ cho trẻ.


Thực tế ở nhiều địa phương, nhất là ở thành phố, nhiều trường mầm non không có góc thiên nhiên, trẻ ít được tiếp xúc với thiên nhiên đa dạng – một thiệt thòi lớn của tuổi thơ. Nhìn lũ trẻ chơi trên bãi cát, nó đào xới, hí hoáy xúc cát ở chỗ này đổ sang chỗ khác một cách lí thú; ngỡ ngàng, sung sướng khi phát hiện con tôm đi giật lùi, con cua thì lại bò ngang, con cá vàng phất phơ cái đuôi như lá cờ…, ta càng nhận thấy sự thiệt thòi, bất hạnh của những đứa trẻ không có điều kiện tiếp xúc với các hiện tượng thiên nhiên đa dạng.


Người lớn, cô giáo mầm non tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc với các sự vật, hiện tượng đa dạng, phong phú của thiên nhiên và dạy trẻ biết quan sát, cảm thụ được vẻ đẹp muôn màu của thiên nhiên, là đem lại hạnh phúc cho tuổi thơ.

b) Giáo dục vẻ đẹp trong đời sống sinh hoạt hằng ngày


Trẻ em không chỉ tìm thấy cái đẹp trong thiên nhiên mà còn tìm thấy cái đẹp trong đời sống xã hội. Đưa cái đẹp vào cuộc sống và giáo dục cái đẹp của cuộc sống cho trẻ thơ là trách nhiệm của người lớn. Vì một óc thẩm mĩ tốt hay xấu, một thị hiếu lành mạnh hay thấp hèn, một cách cư xử có văn hoá hay thiếu văn hoá… đều bắt nguồn từ đời sống của con người. Do vậy, giáo dục vẻ đẹp trong đời sống sinh hoạt hằng ngày cho trẻ là một nội dung giáo dục thẩm mĩ cơ bản cho trẻ em lứa tuổi nhà trẻ. Vẻ đẹp trong đời sống sinh hoạt của con người rất đa dạng, phong phú, được thể hiện trước hết ở mối quan hệ giữa con người với con người, trong những hành vi văn hoá – vệ sinh… Dưới đây là một số nội dung giáo dục cơ bản:



– Giáo dục vẻ đẹp trong mối quan hệ với những người thân. Đó là giáo dục cho trẻ biết thương yêu, gắn bó, chào hỏi lễ phép với ông bà, cha mẹ, cô giáo…, biết thân thiện với bạn bè và biết cám ơn người khác mang lại niềm vui cho mình, biết xin lỗi khi gây phiền hà cho người khác.


– Giáo dục cho trẻ những hành vi văn hoá – vệ sinh. Đó là việc giáo dục trẻ những hành vi, cử chỉ, lời ăn tiếng nói đẹp đẽ thể hiện thái độ đúng đắn với mọi người (lễ phép với người lớn, thân thiện với bạn bè…).


Giáo dục trẻ thói quen sạch sẽ, vệ sinh trong ăn uống (rửa tay trước khi ăn, ngồi ăn ngay ngắn, không vừa nhai vừa nói chuyện, lau miệng, uống nước sau khi ăn…) thói quen sạch sẽ, vệ sinh trong ăn mặc (không bôi bẩn ra quần áo, đầu tóc gọn gàng...); giáo dục và rèn luyện cho trẻ tác phong sinh hoạt văn hoá, văn minh (đi đứng nhanh nhẹn, khoẻ khoắn, tự tin, ăn nói gãy gọn…).


Tất cả những hành vi này cần được giáo dục và rèn luyện ngay từ nhỏ. Nếu người lớn, cô giáo mầm non không có ý thức dạy dỗ, rèn luyện tỉ mỉ và chu đáo sẽ dễ hình thành những thói quen hành vi không mong muốn (như nói tục, chửi bậy, nhếch nhác, bẩn thỉu trong ăn, mặc…). Việc hình thành thói quen tốt là một việc làm đòi hỏi tính kiên trì, và việc phá vỡ thói quen xấu cũng cần đòi hỏi sự kiên trì.


– Giáo dục cho trẻ vẻ đẹp trong mối quan hệ với thế giới đồ vật xung quanh


Thế giới đồ vật, đồ chơi là cái hấp dẫn trẻ mạnh mẽ. Đồ vật càng đẹp đẽ, hấp dẫn trẻ bao nhiêu thì trẻ càng say sưa khám phá bí ẩn của đồ vật và thích chơi với đồ vật đó bấy nhiêu. Do vậy, để giáo dục trẻ vẻ đẹp trong mối quan hệ với thế giới đồ vật có hiệu quả, trước hết người lớn phải cung cấp cho trẻ đồ vật, đồ chơi đẹp. Trong quá trình trẻ hoạt động với đồ vật, người lớn cần dạy trẻ biết cách sử dụng đồ vật theo đúng chức năng của nó, nắm được nguyên tắc sử dụng đồ vật và cảm nhận được vẻ đẹp của nó.


Trong khi lĩnh hội được những hành động, thao tác sử dụng đồ vật, thì đồng thời trẻ cũng lĩnh hội được quy tắc hành vi trong xã hội (chức năng xã hội của đồ vật, nguyên tắc sử dụng nó…). Đây chính là cơ hội để dạy trẻ cách cư xử đẹp, có văn hoá đối với những đồ vật xung quanh.


Trong quá trình hướng dẫn trẻ hoạt động với đồ vật, người lớn cần tỏ thái độ hài lòng hay không hài lòng với những hành vi, việc làm của trẻ khi sử dụng đồ vật là rất cần thiết. Nhờ thái độ đó của người lớn, đứa trẻ có thể điều chỉnh hành vi của mình để có được cách ứng xử tốt nhất đối với thế giới đồ vật. Ví dụ: Người lớn có thể chấp nhận để trẻ tháo một vài bộ phận của chiếc ô tô đồ chơi để xem xét nó, nhưng không thể bằng lòng khi nhìn thấy đứa trẻ vặt chân, tay, đầu búp bê.

Khi dạy trẻ vẻ đẹp trong mối quan hệ với thế giới đồ vật cũng cần tập cho trẻ thói quen ngăn nắp, gọn gàng, sạch sẽ trong việc sắp xếp, trang trí phòng chơi – tập, phòng ăn, phòng ngủ của chúng. Việc làm này chính là một nội dung cơ bản của việc giáo dục và rèn luyện hành vi văn hoá – vệ sinh thẩm mĩ cho trẻ trong đời sống sinh hoạt hằng ngày.


c) Bước đầu cho trẻ làm quen với nghệ thuật

– Bước đầu cho trẻ làm quen với âm nhạc

Thực tiễn cuộc sống và kết quả của nhiều công trình nghiên cứu cho thấy rằng, trẻ thơ rất lí thú với nghệ thuật, nhất là âm nhạc. Những giai điệu, tiết tấu nhẹ nhàng của âm nhạc đưa trẻ vào thế giới của cái đẹp một cách êm ái và hấp dẫn. Đối với trẻ nhỏ, những bài hát ru có ý nghĩa cực kì to lớn: Lời ru chan chứa tình yêu thương đằm thắm của người mẹ chính là những giai điệu đẹp đẽ đầu tiên đến với con người, và cũng có thể nói: nền văn hoá của dân tộc, của loài người đến với mỗi chúng ta trước tiên qua lời ru của mẹ. Đó là những âm điệu đằm thắm nhất, êm ái nhất, có tác dụng giáo dục lòng yêu con người, yêu quê hương đất nước cho trẻ em từ thuở còn nằm nôi. Những giai điệu mượt mà, êm dịu của lời ru tác động vào đôi tai non nớt của trẻ, giúp cho trẻ có được đôi tai nghe nhạc tinh tế. Do vậy, người lớn (người mẹ, giáo viên mầm non…) cần phải biết hát ru để ru trẻ ngủ, dỗ dành khi trẻ khóc, chuyện trò với trẻ bằng những âm thanh tuyệt vời ấy. Các bà mẹ, cô giáo mầm non khi hát ru cho trẻ nghe phải hát với cả tấm lòng mình: vừa hát vừa nhìn vào trẻ, bế trẻ vào lòng để ôm ấp, vỗ về cầm tay trẻ để cử động theo giai điệu, phù hợp với tình cảm của bài hát để tạo ra một cảm giác an toàn cho trẻ đi vào giấc ngủ, thôi khóc hay chịu chơi. Người mẹ, cô giáo mầm non không biết hát ru, hoặc hát một cách vô cảm sẽ gặp khó khăn trong giáo dục trẻ thơ.


Khi trẻ biết nói, cần khuyến khích trẻ hát và vận động theo nhạc. Để giúp trẻ làm quen với tiết tấu, người lớn cần tạo điều kiện cho trẻ vỗ tay, gõ mõ, đánh trống… khi hát.


Người lớn, cô giáo mầm non cần tuyển chọn những bài hát ngắn, vừa có giai điệu đẹp, vừa có tiết tấu vui thì trẻ nhỏ nối tiếp nhận được. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng cho trẻ tiếp xúc với những bài hát có tiết tấu rộn ràng, lại càng nên tránh những bài hát có tiết tấu quá sôi động đến nhức tai, nhức óc gây kích động có hại cho thần kinh của trẻ.


Giáo dục vẻ đẹp trong thơ ca cho trẻ

Thơ ca là tinh hoa của ngôn ngữ, là kết tinh vẻ đẹp của tiếng mẹ đẻ sản phẩm trí tuệ và tình cảm của biết bao thế hệ nối tiếp nhau. Thơ ca không chỉ gieo vào lòng chúng ta vẻ đẹp của tiếng nói dân tộc mà còn ánh lên vẻ đẹp của tâm hồn Việt Nam, thiên nhiên Việt Nam.


Sớm cho trẻ tiếp xúc với thơ ca là điều rất cần thiết, vì thơ ca là nguồn dinh dưỡng cho tâm hồn trẻ thơ về nhiều mặt: giáo dục cho trẻ cái hay, cái đẹp của tiếng nói dân tộc; làm giàu thế giới xúc cảm của trẻ thơ và nuôi dưỡng trí tưởng tượng của trẻ.


Tính nhạc điệu của thơ ca giúp trẻ tiếp nhận nó một cách dễ dàng và thích thú. Thật tuyệt vời khi bắt đầu học nói, trẻ được tiếp xúc với thơ ca, một thứ ngôn ngữ giàu nhạc điệu, vần điệu và giàu hình tượng. Tất cả những yếu tố đó thúc đẩy ý thức ngôn ngữ của trẻ được nảy sinh, giúp cho lời nói của trẻ được hay hơn, đẹp hơn, thế giới xúc cảm của trẻ phong phú hơn, lành mạnh hơn, cân bằng hơn, trí tưởng tượng của trẻ phong phú, bay bổng, đầy ước mơ.



Người lớn, cô giáo mầm non cần tuyển chọn những bài thơ ngắn, giàu nhạc điệu, dễ nhớ, dễ thuộc đem đến cho trẻ thơ. Đồng thời cần khuyến khích, tạo điều kiện cho tâm hồn thơ của trẻ được nảy nở khi giao tiếp với mọi người, khi tiếp xúc với vẻ đẹp của thiên nhiên, cũng như trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày.

Giáo dục vẻ đẹp trong khúc hát đồng dao cho trẻ

Đồng dao là những câu vè ngắn gọn có vần điệu, nhịp điệu được trẻ thơ thích hát trong khi chơi, trong sinh hoạt cộng đồng – Đồng dao có tác dụng giáo dục mạnh mẽ đối với trẻ em, trước hết là giáo dục thái độ văn hoá đối với hai mối quan hệ chủ yếu của con người: con người – thiên nhiên; con người – xã hội.

Đối với thiên nhiên, đồng dao gợi lên ở trẻ tình yêu hồn nhiên đối với con ong, con kiến, con cò, con vạc, cỏ cây hoa lá…

Đối với con người, đồng dao gợi lên ở trẻ tình yêu đối với ông bà, cha mẹ, bà con xóm làng; đồng cảm với những người có cảnh ngộ éo le, sẵn lòng giúp đỡ người nghèo khổ; tàn tật. Có thể nói, đồng dao là những bài học đạo đức rất nhẹ nhàng và hấp dẫn đối với trẻ thơ.

Mặt khác, đồng dao với tính hài hước của nó đã mang lại cho trẻ những niềm vui sướng vô tư, nụ cười sảng khoái. Hơn nữa, chính sự hài hoà, hóm hỉnh của đồng dao đã bồi dưỡng trí tuệ của trẻ thêm thông minh, sắc sảo.

– Giáo dục cái đẹp trong hoạt động tạo hình

Như đã trình bày trong nhiệm vụ giáo dục thẩm mĩ cho trẻ lứa tuổi nhà trẻ, tạo hình rất hấp dẫn trẻ thơ. Ngay từ nhỏ, trẻ đã thích nhìn ngắm những bức tranh màu sắc sặc sỡ, những hình khối đa dạng, nhưng chúng chưa tự nhận biết, chưa tự phát hiện ra cái đẹp của những tác phẩm ấy. Bởi vậy, người lớn cần phải hướng dẫn trẻ, tổ chức cho trẻ được tiếp xúc với nhiều tác phẩm tạo hình có giá trị như tranh, tượng… và hướng dẫn trẻ cảm thụ được vẻ đẹp của mỗi tác phẩm.

Tranh, tượng đưa đến cho trẻ em phải đẹp, rõ ràng, màu sắc tươi sáng, đường nét hài hoà để sao cho trẻ có thể cảm nhận được vẻ đẹp của chúng một cách dễ dàng. Chúng ta có thể bắt đầu từ những bức tranh dân gian (gà, lợn, cá) với những đường nét khoẻ khoắn, màu sắc tươi sáng đến những bức tranh hiện đại (của hoạ sĩ và của tuổi thơ). Cho trẻ chơi với những con giống; những đồ chơi dân gian; đồ chơi thường; cho trẻ xem những bức tượng đặt ở công viên, đại lộ… Trẻ rất thích ngắm nhìn những tác phẩm nghệ thuật này, và cũng thích thú hơn khi người lớn hướng dẫn trẻ cảm nhận được vẻ đẹp của mỗi tác phẩm.

Cùng với việc hướng dẫn trẻ cảm thụ vẻ đẹp của tác phẩm tạo hình khi được xem, sờ mó nó, người lớn cần tạo điều kiện cho trẻ tập cầm bút, vẽ những đường cơ bản, cho trẻ chơi với đất nặn, tập nặn. Mặc dù trẻ vẽ nguệch ngoạc, nặn còn thô kệch chưa có hình thù rõ rệt, nhưng dần dần trẻ sẽ có kĩ năng vẽ những tranh đơn giản (vẽ quả cam, quả thị, quả táo, cái lá…), nặn theo ý định – một số cái đơn giản (đôi đũa, cái thìa, quả cam, quả thị…).

Các hoạt động tạo hình khác như xếp hình, xé dán… cũng là những hoạt động được trẻ ưa thích và người lớn có thể giáo dục thẩm mĩ cho trẻ qua việc tổ chức cho trẻ tham gia những hoạt động này.

Tóm lại, tuổi thơ là giai đoạn đầu tiên của cuộc đời, là thời kì con người tiếp nhận cái đẹp một cách dễ dàng, bởi vì trẻ nhỏ đến với cái đẹp một cách tự nhiên như đến với những gì thân thiết, yêu quý. Vì vậy nếu bỏ qua tuổi thơ trong việc giáo dục cái đẹp là bỏ lỡ một cơ hội thuận lợi trong giáo dục con người. Nội dung giáo dục thẩm mĩ cho trẻ phải phong phú, bao gồm nhiều thể loại, đặc biệt là giáo dục cho trẻ cái đẹp gần gũi trong cuộc sống hằng ngày, để hình thành năng lực thẩm mĩ cho trẻ. Giáo dục thẩm mĩ không thể áp đặt, gò bó, mà phải để trẻ tự nhiên, thoải mái, giữ được tính hồn nhiên của trẻ thơ.

1.3. Nhiệm vụ, nội dung và phương pháp giáo dục thẩm mĩ cho trẻ em lứa tuổi mẫu giáo

1.3.1. Nhiệm vụ và nội dung giáo dục thẩm mĩ cho trẻ em lứa tuổi mẫu giáo

– Phát triển tri giác, tình cảm và hình thành biểu tượng về cái đẹp cho trẻ mẫu giáo.

Giáo dục thẩm mĩ bắt đầu từ sự phát triển năng lực tri giác cái đẹp, cảm thụ cái đẹp, hiểu cái đẹp theo cách người ta thường nói về nghệ thuật.

Theo quan điểm của mĩ học Mác– Lê nin, sự tri giác cái đẹp được hiểu là quá trình cảm thụ cái đẹp mà kết quả của nó là những rung cảm thẩm mĩ, những tình cảm thẩm mĩ.

Cơ sở của sự tri giác cái đẹp là sự nhận thức cảm tính, cụ thể về mặt thẩm mĩ. Ngay từ những năm đầu tiên của cuộc sống, trẻ đã bị lôi cuốn một cách vô ý thức vào tất cả những gì mới lạ, hấp dẫn như đồ vật có màu sắc sặc sỡ, những âm thanh và nhịp điệu rộn rã, tươi vui của thế giới xung quanh. Từ “đẹp” sớm đi vào cuộc sống của trẻ. Trẻ say sưa lắng nghe bài hát, nghe truyện cổ tích, xem tranh ảnh. Song đó chưa phải là tình cảm thẩm mĩ mà chỉ là sự biểu hiện của hứng thú nhận thức. Nhiệm vụ của giáo dục thẩm mĩ là giúp trẻ chuyển từ tri giác tự phát sang sự tri giác có ý thức về cái đẹp. Cô giáo cần làm cho trẻ chú ý đến những sự vật và hiện tượng của tự nhiên, đến những hành vi của con người, dạy cho các em biết nhìn ra và phát triển được cái đẹp trong đời sống, trong thiên nhiên, trong lao động, trong hành vi và hành động của con người, dạy cho các em biết nhìn nhận về phương diện thẩm mĩ đối với thế giới xung quanh.

Sự tri giác thẩm mĩ bao giờ cũng liên quan chặt chẽ với cảm xúc và tình cảm thẩm mĩ. Với trẻ em, đặc điểm của tình cảm thẩm mĩ là niềm vui vô tư, là cảm xúc trong sáng xuất hiện khi thấy cái đẹp. Tình cảm thẩm mĩ giữ vai trò rất to lớn trong việc đánh giá các sự vật và hiện tượng khác nhau, trong việc rèn luyện thị hiếu thẩm mĩ sau này cho trẻ.

Giáo viên còn có nhiệm vụ dẫn dắt trẻ đi từ sự tri giác cái đẹp, cảm xúc đối với nó, đến chỗ hiểu và hình thành biểu tượng về cái đẹp, biết nhận xét và đánh giá thế nào là đẹp, thế nào là xấu.

– Phát triển hứng thú và năng lực sáng tạo nghệ thuật cho trẻ

Năng lực sáng tạo nghệ thuật không phải là cái bẩm sinh, nó được hình thành trong quá trình giáo dục của người lớn. Mọi trẻ em bình thường đều có khả năng sáng tạo nghệ thuật nếu được hướng dẫn đúng đắn về mặt sư phạm. Do vậy, việc phát triển hứng thú và năng lực sáng tạo nghệ thuật cho trẻ là một nhiệm vụ quan trọng. Tuy nhiên, đây là một nhiệm vụ khó khăn và phức tạp. Bởi lẽ, nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, dùng những hình tượng sinh động, cụ thể, gợi cảm để phản ánh hiện thực và truyền đạt tư tưởng, tình cảm. Song ở lứa tuổi mẫu giáo, hầu hết trẻ em đều yêu thích các loại hình nghệ thuật và có khả năng tiếp thu các loại hình nghệ thuật như, múa hát, kể chuyện, đọc thơ, vẽ, nặn, xé dán,… Vì vậy, nhiệm vụ của cô giáo mầm non là phải khêu gợi hứng thú và tạo điều kiện cho trẻ tham gia tích cực, tự giác vào các loại hình nghệ thuật đó để phát triển năng lực sáng tạo nghệ thuật cho trẻ.


– Hình thành những cơ sở của thị hiếu thẩm mĩ

Sự thụ cảm cái đẹp có liên hệ mật thiết đến năng lực đánh giá cái đẹp một cách đúng đắn. Thị hiếu thẩm mĩ của con người biểu hiện ở khả năng phán đoán, đánh giá về cái đẹp, cái xấu trong hiện thực xung quanh. Trường mẫu giáo có nhiệm vụ hình thành cho trẻ những cơ sở của thị hiếu thẩm mĩ, thị hiếu nghệ thuật. Cần dạy cho các em phân biệt cái đẹp với cái không đẹp, cái thô kệch và xấu xí. Cần giáo dục cho các em năng lực trình bày rõ lí do tại sao mình thích bài hát, truyện cổ tích hay bức tranh này. Dĩ nhiên, trường mẫu giáo hình thành cho trẻ cơ sở ban đầu về đánh giá, nhưng chính điều này có ý nghĩa to lớn, vì nó giáo dục trẻ một thái độ tự giác hơn với đối tượng thẩm mĩ.


Cần dạy trẻ biết nhận ra và cảm thụ cái đẹp ở cuộc sống xung quanh và biết bảo vệ nó. Một bông hoa đẹp trong khóm hoa, một lớp học trang hoàng, đẹp đẽ, ấm cúng và sạch sẽ, các đồ dùng được xếp, đặt gọn gàng, ngăn nắp v.v… đều là những cái đẹp trong cuộc sống, phải biết bảo vệ, chăm sóc và giữ gìn. Đồng thời, cũng cần giúp trẻ hiểu được thế nào là cái xấu xí, thô kệch cần tránh trong cuộc sống hằng ngày, như quần áo lôi thôi, bẩn thỉu; đầu tóc rối bù; đồ dùng, đồ chơi vứt ngổn ngang bừa bãi…

Nghiên cứu các nhiệm vụ cơ bản của giáo dục thẩm mĩ cho trẻ mẫu giáo cho thấy, chúng có ý nghĩa to lớn trong việc hình thành nhân cách của trẻ, đồng thời cũng thấy được quá trình giáo dục thẩm mĩ rất phức tạp nhiều hình, nhiều vẻ và đòi hỏi ở nhà giáo dục một vốn tri thức và kĩ năng văn hoá thẩm mĩ nhất định.


1.3.2. Phương pháp giáo dục thẩm mĩ cho trẻ em lứa tuổi mẫu giáo


Khái niệm và thuật ngữ “các phương pháp giáo dục thẩm mĩ” và “các phương pháp dạy nghệ thuật” có những điểm giống nhau và khác nhau. Các phương pháp giáo dục thẩm mĩ không chỉ nhằm hình thành thái độ thẩm mĩ đối với thế giới tự nhiên, xã hội, đối tượng thẩm mĩ mà còn đối với cả quá trình dạy nghệ thuật. Khái niệm “các phương pháp giáo dục thẩm mĩ” rộng hơn và bao hàm trong nó cả phương pháp dạy nghệ thuật.


Có thể coi các phương pháp giáo dục thẩm mĩ và dạy nghệ thuật là những cách thức hành động chung của giáo viên và trẻ em nhằm giúp cho trẻ nắm được kinh nghiệm hoạt động thẩm mĩ, nhằm hình thành những phương thức hành động và phát triển năng lực nghệ thuật ở chúng.


Các phương pháp giáo dục thẩm mĩ có mối liên hệ với các nhiệm vụ và bản chất của giáo dục thẩm mĩ. Những phương pháp giáo dục thẩm mĩ nhằm kích thích trẻ tích cực suy nghĩ, cảm xúc, tưởng tượng và hoạt động.


Hệ thống phương pháp phổ biến được phân loại trên cơ sở nguồn cung cấp tri thức, bao gồm:

– Nhóm các phương pháp dùng lời: giải thích, trò chuyện, chỉ dẫn, đọc kể…

- Nhóm các phương pháp trực quan: quan sát, sử dụng các đồ dùng trực quan.

- Nhóm các phương pháp thực hành (hay thực tiễn) luyện tập.

– Nhóm các phương pháp dùng trò chơi.


Các phương pháp này được sử dụng trong sự phối hợp thống nhất với nhau. Trước hết, cô cần tổ chức cho trẻ quan sát vẻ đẹp của cuộc sống, của thiên nhiên, như quan sát một vườn hoa, cảnh hoàng hôn đầy màu sắc, khung cảnh một ngày lễ, hay những tác phẩm nghệ thuật (bức tranh vẽ, bức tượng gỗ…) kết hợp với ngôn ngữ nghệ thuật trong kể chuyện, chỉ dẫn, giải thích… làm tăng khả năng cảm thụ thẩm mĩ và làm cho trẻ nhận ra cái đẹp và yêu thích cái đẹp trong cuộc sống, trong thiên nhiên và trong các tác phẩm nghệ thuật.


Những cảm xúc thẩm mĩ trở nên sâu sắc và giữ được lâu hơn nếu như trẻ hiểu rõ nội dung đối tượng (một bài hát, một câu chuyện cổ tích, một bức tranh, một bông hoa đẹp, một áng mây trôi,…). Do đó, cô giáo cần giải thích nội dung tác phẩm đang được tiếp thu, làm chính xác các biểu tượng của các em. Việc trình bày một cách nghệ thuật những tác phẩm âm nhạc, những ca khúc; việc đọc các tác phẩm văn học nghệ thuật tác động trực tiếp đến trẻ, khêu gợi tình cảm và cảm xúc thẩm mĩ, giúp các em hiểu sâu sắc hơn nội dung và hình thức tác phẩm.


Khi sử dụng phương pháp trò chuyện, bằng những câu hỏi của mình, cô giáo làm cho trẻ lưu ý, suy nghĩ về những điểm chủ yếu (ví như các tuyến hành động và các nhân vật), tìm hiểu và tổ chức kinh nghiệm của trẻ, làm sâu sắc những cảm xúc thẩm mĩ của trẻ. Trong khi trò chuyện, tập cho trẻ nói lên những ấn tượng của mình, bày tỏ thái độ của mình đối với tác phẩm và các hiện tượng trong cuộc sống. Khi trò chuyện phải dùng từ kích thích cảm xúc thẩm mĩ của trẻ đối với tác phẩm nghệ thuật.


Khi trẻ dạy vẽ, nặn, hát, múa, cô không chỉ hướng dẫn trẻ cách làm mà cần tổ chức cho trẻ thực hành nhằm hình thành những kỹ năng nhất định. Bởi vậy, giáo viên cần vận dụng phương pháp luyện tập. Để trẻ hiểu biết các thao tác, cách biểu hiện, cách sử dụng các đồ dùng học tập (bút chì, bút lông, màu vẽ v.v…) cô cần dùng các biện pháp chỉ dẫn, làm mẫu…

Trong giáo dục thẩm mĩ cũng cần dùng phương pháp tập luyện hành động có thể gọi đó là những hành động thẩm mĩ. Ở trẻ có những hành động với ý thức muốn làm cho hoàn cảnh sống xung quanh đẹp hơn, tức là trẻ muốn biến đổi nó theo sức mình và bằng cách đó làm cho bạn bè và người lớn vui thích. Cần giúp trẻ tập luyện hành động thông qua các bài tập khác nhau. Tập luyện đòi hỏi phải có sự lặp đi lặp lại nhiều lần. Nhưng khác với việc tập luyện những thói quen trong sinh hoạt, việc tập luyện những hành động thẩm mĩ không theo một trình tự chặt chẽ, ví như, trẻ có thể dùng sỏi đá, những tấm bìa nhỏ, những mảnh nhựa màu để xếp thành một hình gì đó (một con thuyền, một ngôi nhà chẳng hạn…). Vì vậy, rất cần giáo dục và phát triển năng lực hành động trong những hoàn cảnh có vấn đề, năng lực vận dụng những kĩ năng đã nắm được.


Trong giáo dục thẩm mĩ, hoạt động chủ yếu của trẻ là hoạt động nghệ thuật. Điều quan trọng là cho trẻ tiếp xúc với những phương thức hoạt động nghệ thuật khái quát nhất, điển hình nhất, tức là những phương thức cần thiết cho mọi biến thể của các loại hình nghệ thuật. Những phương thức chung đó là: những phương thức định hướng về âm thanh, màu sắc, hình dạng, vận động, những phương thức định hướng trong toàn bộ những phương tiện thể hiện của mỗi loại hình nghệ thuật (cảm giác), các phương thức tiếp xúc với nội dung tư tưởng, tình cảm của các tác phẩm và cùng xúc cảm với các nhân vật (hình tượng nghệ thuật), sự kết hợp những phương thức tổng thể và phân tích.


Về phương diện cảm thụ thẩm mĩ, sự khác biệt cá nhân rất lớn và bộc lộ ngay từ lứa tuổi mẫu giáo. I. P. Páplốp có nói đến hai kiểu người cơ bản, căn cứ vào kiểu hoạt động thần kinh của họ, đó là kiểu nghệ sĩ cảm thụ thế giới bên ngoài một cách mãnh liệt, trực tiếp và chủ yếu dựa vào hệ thống tín hiệu thứ nhất; kiểu người trí tuệ nặng về hoạt động phân tích dựa vào hệ thống tín hiệu thứ hai, dựa vào từ, vào sự phân tích và khái quát các hiện tượng. Bởi vậy, phương pháp giáo dục thẩm mĩ phải được xác định tuỳ theo đặc điểm lứa tuổi và cá nhân của trẻ.

Mặt khác, quan điểm tổng hợp đòi hỏi phải thiết lập mối quan hệ qua lại giữa các phương pháp và biện pháp giáo dục thẩm mĩ, có tính đến những điều kiện sư phạm, các nhân tố của quá trình sư phạm nhằm đem lại một kết quả tối ưu.


1.4. Phương tiện giáo dục thẩm mĩ cho trẻ em lứa tuổi mầm non

Có nhiều phương tiện để giáo dục thẩm mĩ cho trẻ lứa tuổi mầm non. Dưới đây là một số phương tiện cơ bản:


1.4.1. Vẻ đẹp của môi trường xung quanh trẻ

Những đồ đạc, vật dụng trong gia đình như: nhà cửa, đồ dùng, đồ chơi… từ hình dáng, kích thước, màu sắc… đến bài trí nó trong gia đình đảm bảo sự trang nhã, gọn gàng, sạch sẽ, trật tự… trở thành đối tượng thẩm mĩ của trẻ. Bởi vì, chính những cái đó đã gây ấn tượng sâu sắc ở trẻ và để lại trong trí nhớ và ý nghĩ của trẻ thơ.


Vẻ đẹp trong sinh hoạt của trường mầm non như các tiện nghi sinh hoạt, đồ chơi, cách sắp xếp, bài trí, màu sắc của các vật dụng đảm bảo sự trang nhã, hài hoà đã tạo ra vẻ đẹp của môi trường “học tập” cho trẻ. Điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến việc giáo dục thẩm mĩ cho trẻ. Người lớn, cô giáo mầm non cần tạo điều kiện cho cuộc sống sinh hoạt xung quanh trẻ từ nhà ở đến trường, lớp mầm non có vẻ đẹp trang nhã, tươi vui hợp lí, hấp dẫn và mang tính giáo dục thẩm mĩ cao.

Tóm lại: Giáo dục thẩm mỹ trong những nội dung quan trọng của giáo dục toàn diện đối với thế hệ trẻ, và là việc cần phải tiến hành một cách nghiêm túc từ tuổi mẫu giáo. Có thể coi trẻ mẫu giáo là thời kỳ “hoàng kim” của giáo dục thẩm mỹ. Ở lứa tuổi này, tâm hồn trẻ rất nhạy cảm dễ xúc động đối với con người và cảnh vật xung quanh, trí tưởng tượng của trẻ bay bổng và phong phú. Do vậy, năng khiếu nghệ thuật và cũng thường được nảy sinh từ lứa tuổi này.


Khi nó đến giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo, ta thường coi đó là nhiệm vụ của trường mầm non với các “tiết học” tạo hình, múa hát, đóng kịch… mà hầu như ít người chú ý đến một trong những nhà giáo dục chủ yếu nhất và tuyệt vời nhất – đó chính là gia đình. Sự cảm nhận đầu tiên , rực rỡ nhất, ấn tượng nhất về vẻ đẹp được bắt nguồn từ thẩm mỹ của cha mẹ từ mối quan hệ giao tiếp - ứng xử tốt đẹp trong gia đình, đây là điều kiện quan trọng nhất để giáo dục thẩm mỹ cho trẻ.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 6
(có 1 lượt vote)

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 17

Dạy trẻ bảo vệ môi trường là một điều vô cùng cần thiết từ khi trẻ còn nhỏ. Giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ mầm non là cung cấp những kiến thức sơ đẳng, cơ bản về môi trường phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ, nhằm tạo ra thái độ và hành vi đúng của trẻ đối với môi trường xung quanh.



Môi trường là vấn đề mang tính toàn cầu. Sự biến đổi mạnh mẽ của môi trường đang gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng đến đời sống, kinh tế và văn hóa của mỗi quốc gia. Muốn được sống trong môi trường lành mạnh thì việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cần hình thành từ sớm, ngay từ lứa tuổi mầm non. Đây là nhiệm vụ cần có chiến lược và kế hoạch cụ thể để phát triển toàn diện nhân cách của trẻ. Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường được lồng ghép vào các hoạt động hàng ngày để trẻ có thể vừa học vừa chơi, vừa tiếp thu được kiến thức một cách hiệu quả nhất.


Trong chế độ sinh hoạt hàng ngày của trẻ ở trường mầm non có rất nhiều các hoạt động giáo dục: hoạt động vui chơi; hoạt động ngoài trời; hoạt động âm nhạc; hoạt động tạo hình; hoạt động ăn, ngủ, vệ sinh. Thông qua các hoạt động này, giáo viên lên kế hoạch tổ chức cho trẻ tham gia các hoạt động với những trải nghiệm khác nhau. Từ đó, trẻ được tiếp cận với những tình huống có vấn đề và tự đưa ra các cách giải quyết các vấn đề đó.



Học thông qua trải nghiệm là gì? Học tập qua trải nghiệm (experiential learning) là một cách học thông qua làm, với quan niệm việc học là quá trình tạo ra tri thức mới trên cơ sở trải nghiệm thực tế, dựa trên những đánh giá, phân tích trên những kinh nghiệm, kiến thức sẵn có. Như vậy, thông qua các hoạt động trải nghiệm, trẻ được cung cấp các kiến thức, kĩ năng từ đó hình thành những năng lực, phẩm chất và kinh nghiệm. Trong các hoạt động trải nghiệm, giáo viên mầm non có vai trò định hướng, hỗ trợ, đánh giá, uốn nắn, sửa sai cho trẻ. Tùy thuộc vào từng hoạt động trải nghiệm, giáo viên đưa các tình huống có vấn đề để trẻ trải nghiệm với các tình huống đó. Như vậy, trẻ rất hứng thú và kiến thức, kĩ năng sẽ hình thành một cách nhẹ nhàng, tự nhiên.


Thông qua các hoạt động ngoài trời, các hoạt động khám phá khoa học, giáo viên lôi cuốn trẻ tham gia vào các cuộc trò chuyện bằng những câu hỏi ngắn về kinh nghiệm của trẻ, tạo hứng thú bước đầu cho trẻ đối với những nội dung đặt ra về bảo vệ môi trường. Ví dụ: Tại sao chúng ta phải trồng cây? Cây sống được là nhờ đâu? Muốn cây xanh trong sân trường tươi tốt chúng ta phải làm gì?...


Tùy theo từng điều kiện, cô có thể thiết kế các thí nghiệm cho trẻ. Hàng ngày, cô cùng trẻ tưới nước cho hạt và cùng nhau quan sát sự nảy mầm của hạt. Đối với con vật nuôi, cây xanh cho trẻ tìm hiểu về đặc điểm, giá trị, vẻ đẹp của con vật, cây, hoa, lá… Nói về sự sinh trưởng của cây xanh, cô cùng trẻ tham gia hoạt động thực tế: “gieo hạt”. Cô cho trẻ xem về quá trình phát triển, thay đổi của đối tượng: Hạt – nảy mầm – cây có chồi – lá non – lá xanh thẫm, to hơn, sau đó trẻ được xem cả quá trình lao động chăm sóc cây trồng. Tùy theo điều kiện tôi chọn những thí nghiệm làm cho trẻ xem và sau đó trò chuyện với trẻ: Điều gì xảy ra nếu không có nước? Phải làm những công việc gì để bảo vệ nguồn nước? Chúng ta làm gì để góp phần tiết kiệm nước? Chính hoạt động trải nghiệm này sẽ mang lại cho trẻ sự hứng thú khi hàng ngày được chăm sóc và tham gia các hoạt động như các bác nông dân thực thụ. Từ đó, trẻ biết trân trọng cây xanh và bảo vệ môi trường.



Những tình huống trong các hoạt động mà trẻ trải nghiệm cũng hình thành cho trẻ ý thức bảo vệ môi trường. Ví dụ: thông qua tranh, ảnh, băng, đĩa trẻ được nhìn thấy những hành vi phá hoại môi trường và những ảnh hưởng khi môi trường bị ô nhiễm như: phá hoạt cây xanh, vứt rác bừa bãi, săn bắn động vật… Từ đây trẻ có cái nhìn đúng, sai về ý thức và hành vi bảo vệ môi trường sống. Qua những hình ảnh trên máy chiếu, cho trẻ xem những vùng, miền thiếu nước, cây cối thiếu nước, đất đai thiếu nước hoặc nguồn nước bị ô nhiễm hay hình ảnh lãng phí nước sẽ tác động đến tình cảm của trẻ. Khi được xem và tìm hiểu về nước, các bé đã xây dựng được ý thức tiết kiệm và hình thành thói quen tắt nước khi không sử dụng. Có thể nói rằng, các hoạt động trải nghiệm có tác dụng rất lớn tới việc giáo dục ý thức về bảo vệ môi trường cho trẻ mầm non.


1.Dạy trẻ những khái niệm cơ bản


Giúp trẻ phân biệt được những khái niệm cơ bản như: Môi trường sạch, môi trường bẩn, vì sao không khí bị ô nhiễm, ô nhiễm môi trường sẽ gây ra những tác hại như thế nào, tại sao cần rửa tay sạch sẽ trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, tại sao cần bảo vệ và trồng cây xanh…


Khuyến khích các bé tìm hiểu thông tin bằng những cuộc thi nho nhỏ như cùng cha mẹ tìm hiểu về chủ đề mình thích rồi lên thuyết trình trên lớp. Hoạt động này phù hợp cho các lớp 5 tuổi. Các bé được học hỏi, khám phá theo cách này sẽ rất hào hứng và ghi nhớ lâu hơn. Thậm chí có bé còn có nhiều ý tưởng để bảo vệ môi trường


2.Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường thông qua hoạt động chơi

Hoạt động vui chơi có vai trò rất lớn đối với sự phát triển của trẻ mầm non nói chung và giáo dục ý thức bảo vệ môi trường nói riêng. Thông qua vai chơi, hoàn cảnh chơi, các tình huống chơi trẻ biết phân biệt những hành vi đúng, sai trong việc bảo vệ môi trường, từ đó có ý thức đúng đắn đối với môi trường sống.


Hoạt động chơi ngoài trời: đây là cơ hội trẻ được tiếp xúc với đa dạng các đối tượng về môi trường: cỏ, cây, hoa, lá, các hiện tượng thiên nhiên xung quanh trẻ. Trong quá trình quan sát môi trường, giáo viên dùng biện pháp đàm thoại, tạo tình huống có vấn đề để trẻ tự giải quyết. Ví dụ: quan sát cây bị héo. Cô hỏi: Tại sao cây bị héo? Cây sống được là do đâu? Muốn cây xanh tốt chúng ta phải làm gì? Chính những câu hỏi, lời dẫn dắt của giáo viên dần hình thành ở trẻ ý thức về bảo vệ cây xanh.


Hoạt động chơi ở góc: Căn cứ vào nội dung giáo dục cô sắp xếp các góc chơi phù hợp, thu hút trẻ vào các góc chơi. Trong quá trình chơi, cô đưa các tình huống về giáo dục ý thức bảo vệ môi trường để trẻ trải nghiệm như: đóng vai bác nông dân chăm sóc vườn rau; cô lao công đang quét dọn đường phố… Tất cả những tình huống, vai chơi, hoàn cảnh chơi giáo viên đều có thể tạo cơ hội để trẻ trải nghiệm nhằm lồng ghép các nội dung giáo dục.


Thông qua các trò chơi: trò chơi xây dựng, trò chơi học tập giáo viên lồng ghép các nội dung giáo dục ý thức bảo vệ môi trường.


Ở trường mầm non, hoạt động lao động rất có ý nghĩa đối với trẻ. Ngoài việc giúp trẻ phát triển thể chất, hoạt động lao động còn giúp trẻ yêu quý hoạt động lao động và được tiếp xúc nhiều với môi trường. Đây là phương tiện rất tốt để giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ.


Công việc lao động hàng ngày của trẻ ở trường có thể lồng ghép qua hoạt động chơi, có thể được tổ chức cuối giờ. Trẻ được chăm sóc cây hoa trong sân trường, chăm sóc vườn trường. Trong quá trình hoạt động cô hướng dẫn, giảng giải, giải thích, định hướng cho trẻ những hành vi bảo vệ môi trường


3.Cùng trẻ thực hiện các hành động thiết thực nhất ở trường mầm non


Hướng dẫn trẻ hình thành các thói quen như lau dọn bàn ghế, sắp xếp đồ chơi, đồ dùng gọn gàng, tự gấp chăn sau khi ngủ dậy, xếp đặt ngăn tủ của mình ngăn nắp. Tuyệt đối không được vứt rác bừa bãi hay để lớp học bừa bộn. Sẽ có một nhóm bạn đi theo dõi các hoạt động này để các bạn cùng thi đua xem tổ nào gọn gàng sạch sẽ hơn.

Hoạt động lao động công ích được thực hiện vào các cuối tuần. Các bé sẽ đi xung quanh các lớp học và xung quanh trường thu dọn rác, lau dọn kệ đồ chơi, sắp xếp lại đồ dùng…

Cô sẽ ghi những cảnh báo kèm những hình ảnh ngộ nghĩnh như “Tiết kiệm nước” ở vòi nước rửa tay và bình nước chung, “Xin hãy cho tôi rác” ở ngay trên thùng đựng rác, “Rửa tay sau khi đi vệ sinh” ở trong nhà vệ sinh… Trẻ sẽ dần thuộc lòng các thông báo và tự giác thực hiện.

Những giờ học gieo hạt, trồng cây là những giờ học được trẻ đón nhận hào hứng nhất. Các con có thể cùng cha mẹ trồng một chậu cây nhỏ rồi mang đến lớp để tự chăm sóc. Hoặc cùng cô và các bạn trồng cây xanh ở vườn của trường. Hoạt động này khiến trẻ hiểu được ý nghĩa thiết thực của việc trồng cây tạo ra môi trường xanh sạch đẹp và việc cần thiết bảo vệ cây cối xung quanh


4.Làm đồ tái chế tại lớp học

Các cô sẽ tìm các mẫu đồ chơi, đồ dùng được làm tự vật liệu tái chế trên mạng internet, sách báo. Sau đó cùng các con thực hiện làm các mẫu trên lớp. Đồ tái chế có thể sử dụng nguyên liệu như vỏ lon bia, vỏ trứng, giấy báo, lõi giấy vệ sinh, bìa cứng, ống hút…

Có những bé rất nhanh nhạy, có thể về nhà thực hiện cùng cha mẹ và mang những sản phẩm khá đẹp đến lớp


5.Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường thông qua hoạt động ăn, ngủ, vệ sinh

Thông qua các công việc hàng ngày như ăn, ngủ, vệ sinh cũng là một cơ hội tốt để trẻ được trải nghiệm. Trẻ tự chăm sóc, vệ sinh cá nhân sạch sẽ cũng là một cách bảo vệ môi trường xung quanh trẻ. Vì vậy, việc để cho trẻ tự trải nghiệm những hoạt động vệ sinh cá nhân trẻ cũng có vai trò lớn đối với việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ.


6.Tuyên truyền đến các phụ huynh

Ngoài các giờ học trên lớp, các cô tin rằng trẻ em có thể học hỏi rất nhiều kiến thức bảo vệ môi trường từ gia đình của mình. Ở Worldkids, các cô trong trường mầm non quốc tế sẽ tuyên truyền đến phụ huynh các biện pháp đơn giản và hữu hiệu nhất để trẻ thực hiện khi ở nhà.


Các bé sẽ trở thành “những người giám sát” khi nhắc nhở ông bà cha mẹ phải biết tiết kiệm nước, tắt điện sau khi dùng xong, phân loại rác thích hợp, hoặc tích góp những đồ dùng không cần dùng nữa để làm kế hoạch nhỏ. Khi các bé trở thành người quan trọng sẽ thực hiện công việc rất tốt. Bài học về bảo vệ môi trường sẽ phát huy được những tác dụng và ý nghĩa của nó.


Giáo dục môi trường ở trường mầm non sẽ hình thành những phản xạ, những thói quen đầu tiên trong việc bảo vệ môi trường. Thông qua các hoạt động trải nghiệm sẽ hình thành cho trẻ ý thức bảo vệ môi trường; giáo dục trẻ có thái độ, ứng xử đúng đắn với môi trường, tôn trọng và giữ gìn môi trường, biết cách sống tích cực và thân thiện với môi trường./.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 7
(có 2 lượt vote)

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 18

Với trẻ mẫu giáo, hoạt động vui chơi được xác định là hoạt động chủ đạo của trẻ, trẻ học bằng chơi, chơi mà học.

Để tổ chức hoạt động học cho trẻ mẫu giáo ở các lớp đơn đạt hiệu quả đòi hỏi phải có sự linh hoạt, mềm dẻo trong việc vận dụng các phương pháp, hình thức tổ chức giờ học.


Đối với lớp mẫu giáo ghép, sự linh hoạt, mềm dẻo đó còn đòi hỏi ở việc phù hợp với trẻ nhiều độ tuổi trong lớp, trẻ dân tộc thiểu số hạn chế về tiếng Việt. Do vậy, một trong những nguyên tắc vận dụng các hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ nói chung và hoạt động học nói riêng là "hướng vào sự tương tác giữa trẻ ở các độ tuổi".


Dự giờ ở lớp mẫu giáo ghép

Tổ chức hoạt động học ở lớp mẫu giáo ghép khác ở lớp đơn như thế nào?

- Mục tiêu giáo dục/ yêu cầu của hoạt động học: xác định riêng cho từng độ tuổi có trong lớp.

- Nội dung học: mang tính đồng tâm, phát triển, nghĩa là cùng một nội dung học nhưng mức độ khác nhau đối với từng độ tuổi.

- Phương pháp dạy - học: ưu tiên lựa chọn những phương pháp mà trẻ ở các độ tuổi đều được tham gia, tương tác với nhau và tương tác với giáo viên.

- Hình thức tổ chức hoạt động học: Đặc biệt hướng vào sự tương tác giữa các cá nhân và các nhóm.

- Đánh giá hoạt động học của trẻ: theo mục tiêu cần đạt của từng độ tuổi có trong lớp.

Từ sự khác biệt đó dẫn tới: công tác chuẩn bị cho giờ học, thực hiện hoạt động học và việc đánh giá chất lượng trẻ của giờ học cũng có sự khác biệt gì? Thực hiện như thế nào?


Công tác chuẩn bị cho giờ học

Thông qua việc soạn GA: Chuẩn bị gồm: Xác định mục tiêu/yêu cầu (căn cứ vào mục tiêu của chủ đề và kế hoạch của các tuần, trình độ của trẻ) -> chọn nội dung -> lựa chọn phương pháp -> chọn hình thức tổ chức-> chọn phương tiện.



1.1. Xác định mục tiêu cho giờ học

- Cần xác định mục tiêu về: kiến thức, kỹ năng, thái độ. Để xác định được GV cần căn cứ vào kế hoạch tuần.

- Thường biểu đạt rõ ràng bằng các động từ, có thể quan sát/đo/đếm/có khả năng thực hiện được.


1.2. Chọn nội dung học (bước này đã làm trong quá trình xây dựng KH tuần).

1.3. Chọn phương pháp dạy học/chọn hoạt động

- Lựa chọn phối hợp các phương pháp trong 5 nhóm phương pháp được quy định trong chương trình GDMN: (1) thực hành trải nghiệm, (2) trực quan - minh họa, (3) dùng lời nói, (4) giáo dục bằng tình cảm, và khích lệ, (5) nêu gương - đánh giá.

Lưu ý: MGG - nên lựa chọn phương pháp mà theo đó trẻ cùng độ tuổi và khác độ tuổi có thể tương tác với nhau để hoàn thành nội dung học và đạt mục tiêu của từng độ tuổi.

VD: PP dùng trò chơi, đàm thoại, làm mẫu - trẻ lớn làm, trẻ bé làm theo...

- PP dạy học được thể hiện ở các HĐ GD: vui chơi (HĐ góc), trò chuyện, kể chuyện, đọc thơ/ca dao/đồng dao.., hát, VĐ theo nhạc, đố- đoán, giấu - tìm, khám phá, trải nghiệm, trình diễn, thi đua....

Lưu ý: Hoạt động giáo dục cần phù hợp với phương pháp đã lựa chọn, với nội dung học và nhằm vào mục tiêu giáo dục/ yêu cầu đã xác định ở từng độ tuổi.



1.4. Chọn hình thức tổ chức HĐ học

- Có 3 hình thức: HĐ chung cả lớp, nhóm, cá nhân (giống lớp đơn).

- MGG phải tùy vào: đặc điểm nội dung học, đặc điểm trẻ, điều kiện CSVC mà mỗi hình thức được tiến hành khác nhau. Cụ thể:

a) Hình thức tổ chức chung cả lớp:

Sử dụng khi nào? Khi cả lớp học cùng 1 nội dung mới hoặc cả lớp học cùng 1 nội dung nhưng mức độ khác nhau ở các độ tuổi trong lớp.

Sử dụng như thế nào?

- Khi cùng học nội dung mới (tất cả trẻ trong lớp đều chưa biết): GV tổ chức HĐ theo trình tự các bước lên lớp như lớp đơn. Khác ở chỗ: yêu cầu đặt ra dễ hơn cho nhóm bé, yêu cầu khó hơn cho nhóm lớn.

VD: Cả lớp ghép 3 độ tuổi chưa biết hát bài hát "Cô giáo miền xuôi", GV thực hiện như sau:

Tổ chức cho trẻ học hát (GV hát mẫu, cả lớp hát) sau khi trẻ đã thuộc lời -> GV chia nhóm cho trẻ hát theo nhóm tuổi (3t/ 4t/ 5t) và yêu cầu đối với các nhóm cụ thể: MGB: hát tự nhiên thoải mái, MGN: hát đúng giai điệu và thể hiện sắc thái của bài hát.

- Khi cùng học nội dung nhưng khác mức độ (một số trẻ đã biết, mức độ biết về nội dung này là khác nhau ở các trẻ) - hình thức này phổ biến hơn ở lớp ghép do tỷ lệ huy động trẻ MG ra lớp của tỉnh ta cao, trẻ được học từ 2 đến 3 năm ở MG.

VD: Nội dung khám phá khoa học về đồ vật (CTGDMN, trang 43): trẻ 3 tuổi học đặc điểm nổi bật của đồ dùng, đồ chơi ; trẻ 4 tuổi và 5 tuổi học đặc điểm của đồ dùng, đồ chơi. Với nội dung này, giáo viên có thể chọn hình thức tổ chức hoạt động học cho trẻ như sau:

Giáo viên khuyến khích trẻ 3 tuổi tìm và kể đặc điểm nổi bật của đồ dùng, đồ chơi; trẻ 4 tuổi, 5 tuổi quan sát, lắng nghe và bổ sung cho trẻ 3 tuổi => Giáo viên khuyến khích trẻ 4 tuổi, 5 tuổi kể tiếp đặc điểm của đồ dùng, đồ chơi mà trẻ 3 tuổi chưa nêu ra; trẻ 3 tuổi lắng nghe và bắt chước theo trẻ 4 tuổi, 5 tuổi.


b) Hình thức tổ chức theo các nhóm nhỏ

Có những cách chia nhóm nào? Cùng độ tuổi; khác độ tuổi.

Sử dụng khi nào? Khi trẻ có thể tự chơi hoặc học cùng được với nhau. Phù hợp sử dụng khi tổ chức giờ học mà các độ tuổi học cùng 1 nội dung nhưng khác mức độ; cùng lĩnh vực phát triển nhưng khác nội dung giáo dục.

Sử dụng như thế nào?

- Khi trẻ học cùng một nội dung giáo dục nhưng khác mức độ:

VD: Trẻ ở lớp ghép 3 độ tuổi cùng học vẽ theo chủ đề Thuyền buồm. Trẻ 3 tuổi tô màu, trẻ 4 tuổi vẽ thuyền buồm và 5 tuổi vẽ và tô màu. Giáo viên chia trẻ ngồi theo nhóm 3 tuổi, 4 tuổi, 5 tuổi. Trẻ 5 tuổi phát đồ dùng cho cả nhóm/lớp.

Với trẻ 3 tuổi : Giáo viên làm mẫu, trẻ tô theo. Giáo viên cầm tay cho trẻ tô (nếu cần). Với trẻ 4 tuổi: Giáo viên khuyến khích trẻ hoàn thành bức vẽ, gợi ý để trẻ vẽ thêm những chi tiết khác vào bức tranh, quan sát giúp đỡ trẻ chưa biết cách vẽ. Trẻ 5 tuổi tự vẽ và tô màu. Nếu trẻ 5 tuổi xong trước có thể giúp cô hướng dẫn các em 3 tuổi, 4 tuổi.

- Khi trẻ học cùng lĩnh vực phát triển nhưng khác nội dung giáo dục:

VD: Trẻ ở lớp ghép 3 độ tuổi cùng học vẽ. Nội dung đối với trẻ 3 tuổi tập cầm bút di nguệch ngoạc, trẻ 4 tuổi vẽ, 5 tuổi vẽ và tô màu.

Giáo viên chia mỗi nhóm có cả 3 độ tuổi. Trẻ 5 tuổi phát đồ dùng cho cả nhóm. Giáo viên khuyến khích nhóm trẻ 3 tuổi bắt chước anh chị 4, 5 tuổi cầm bút và di nguệch ngoạc, nhóm trẻ 4 tuổi tự vẽ và nhờ anh chị 5 tuổi tô màu cho đẹp, nhóm trẻ 5 tuổi tự tô và vẽ, rồi giúp các em nhỏ tô màu.

c) Hình thức tổ chức cá nhân

Sử dụng khi nào? Sử dụng đối với những trẻ đặc biệt: mới đến lớp, trẻ không theo kịp các bạn, trẻ có khả năng đặc biệt, trẻ có khiếm khuyết về vật chất/tinh thần.

Sử dụng như thế nào?

GV cần nắm vững mức độ phát triển của trẻ => hướng dẫn phù hợp với trình độ của trẻ, có sự giúp đỡ của bạn bè.

Lưu ý: Trong 1 giờ học không bắt buộc chỉ sử dụng 1 hình thức mà có thể vận dụng linh hoạt nhiều hình thức khác nhau.Tùy vào nội dung học và trình độ của trẻ mà kết hợp 2 hay 3 hình thức, mỗi hình thức có thể sử dụng 1 lần hay nhiều lần trong một hoạt động học. Các hoạt động cá nhân thường sử dụng sau khi đã sử dụng các hình thức cả lớp, nhóm.



GV sử dụng các hình thức này có thể tạo ra sự tương tác tích cực giữa các thành viên trong nhóm, giữa các nhóm với nhau (nhóm cùng hoặc không cùng độ tuổi). => đây là lợi thế của lớp MGG.

Các tương tác thường thấy là:

Giúp đỡ: Trẻ bé thực hiện nhiệm vụ, trẻ lớn theo dõi, giúp đỡ trẻ bé nếu cần. Tương tác này thể hiện sự độc lập, tự lực tương đối của trẻ bé, tinh thần tương trợ của trẻ lớn đối với trẻ bé.

Hợp tác: Trẻ lớn sử dụng kết quả của trẻ bé để thực hiện tiếp nhiệm vụ của mình. Tương tác này khiến cho hoạt động của mỗi trẻ cần dựa vào kết quả của những trẻ khác. Kết quả của trẻ hoặc nhóm này ảnh hưởng tới hoạt động tiếp theo của trẻ hoặc nhóm khác. Do đó, mỗi trẻ phải chăm chú lắng nghe, thực hiện nhiệm vụ của mình, theo dõi kết quả của trẻ khác.

Học hỏi: Trẻ lớn hoặc trẻ thành thạo hơn thực hiện nhiệm vụ, hướng dẫn trẻ bé hoặc trẻ chưa thành thạo bắt chước theo. Tương tác này khiến cho các trẻ và các nhóm trẻ sẵn sàng chia sẻ kiến thức, kĩ năng, có thái độ đồng cảm với nhau.


Thực hiện giờ học

- Thời gian tối đa cho việc tổ chức 01 HĐ học: 30 phút (theo chế độ sinh hoạt). Lớp ghép có trẻ 3 tuổi, 4 tuổi thời gian từ 20-25 phút; MG ghép có trẻ 4 tuổi, 5 tuổi thời gian từ 25-30 phút; MG ghép 3 độ tuổi, thời gian từ 25 - 30 phút.

Khi thực hiện hoạt động học ở lớp mẫu giáo ghép, người giáo viên và trẻ có những vai trò đặc trưng:

- Giáo viên là hướng dẫn, quan sát, can thiệp, giúp đỡ, cùng tham gia chứ không phải làm hộ, làm thay cho trẻ. Giáo viên tận dụng những hoàn cảnh, tình huống mà trẻ ở các độ tuổi có thể tương tác với nhau để cùng học.

- Trẻ tích cực tương tác với nhau trong nhóm và với nhóm khác độ tuổi để học: trẻ bé, nhút nhát thực hiện những nhiệm vụ dễ hơn, những yêu cầu đơn giản hơn, tạo cho trẻ cảm giác thành công trong công việc, giúp trẻ dần dần mạnh dạn và tự tin vào bản thân.

Trẻ lớn tự lực và hỗ trợ các em bé, cho giáo viên trong mọi hoạt động của lớp học. Đồng thời, trẻ ở các độ tuổi hỗ trợ lẫn nhau: trẻ tự kiểm tra lẫn nhau, phát hiện ra đúng sai của nhau, giúp đỡ nhau, bày cho nhau cách làm, cách chơi, cách đọc, cách đếm, trao đổi và đặt các câu hỏi.


Việc đánh giá chất lượng trẻ của giờ học

Mục đích đánh giá hoạt động học của trẻ ở lớp mẫu giáo ghép là nhằm điều chỉnh lại mục tiêu GD/yêu cầu, nội dung học, phương pháp dạy học, hình thức tổ chức, phương tiện học, soạn giáo án và việc thực hiện giáo án trên lớp.

Nội dung đánh giá hoạt động học bao gồm đánh giá mục tiêu giáo dục/yêu cầu, nội dung học, phương pháp dạy học, hình thức tổ chức, phương tiện học, soạn giáo án và việc thực hiện giáo án trên lớp.



Cách đánh giá hoạt động học: Trước hết, cô giáo đánh giá trẻ có đạt được mục tiêu giáo dục/yêu cầu đặt ra không. Nếu trẻ đạt thì sẽ chọn mục tiêu giáo dục/yêu cầu mới. Nếu trẻ không đạt thì giáo viên xem lại mục tiêu giáo dục/yêu cầu, nội dung học, phương pháp dạy học, hình thức tổ chức, phương tiện học, soạn giáo án và việc thực hiện giáo án. Tìm nguyên nhân từ những yếu tố này và điều chỉnh lại cho phù hợp với trẻ.


Như vậy, để thực hiện thành công các hoạt động học cho trẻ ở lớp MGG, giáo viên cần nắm vững được những đặc điểm riêng ở lớp MGG trong các bước từ chuẩn bị giáo án đến thực hiện và đánh giá hoạt động học.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 8
(có 2 lượt vote)

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 19


Ý nghĩa của việc giáo dục kĩ năng sống

Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non là một nhiệm vụ đang được ngành giáo dục triển khai và thực hiện khá tốt trong trường mầm non.

Tùy theo lứa tuổi, các cháu sẽ được bắt đầu làm quen với các kỹ năng như giao tiếp, thích nghi, khám phá thế giới xung quanh, kỹ năng tự chăm sóc bản thân, kỹ năng tạo niềm vui, tự bảo vệ mình, kỹ năng làm việc nhóm, và kỹ năng tự quyết một số tình huống phù hợp với lứa tuổi.


Những bài học với những yêu cầu khác nhau sẽ được các cô giáo thực hiện ở từng lứa tuổi để các cháu có thể tiếp thu và thực hiện. Ví dụ ở lứa tuổi từ 3-4 tuổi, trẻ mẫu giáo sẽ được học các kỹ năng chào hỏi, lễ phép với người lớn, biết cám ơn và xin lỗi. Một số kỹ năng tự phục vụ như tự xúc ăn, tự uống nước, tự mặc áo quần và một số kỹ năng vệ sinh cá nhân đơn giản như rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh. Kỹ năng khám phá thế giới như nhận biết và cách gọi tên đồ dùng cá nhân, đồ dùng trong gia đình, cách nhận biết sự việc, các mối quan hệ gần gũi với trẻ trong cuộc sống.

Lớn lên thêm một chút, các cháu được học về kỹ năng bảo vệ mình như tránh xa các nơi nguy hiểm, bảo vệ môi trường, vệ sinh răng miệng, cơ thể, kỹ năng tự phục vụ mình như tự mặc quần áo, xếp áo quần và để đúng nơi qui định… Các kỹ năng làm việc nhóm và giải quyết các tình huống đơn giản trong cuộc sống. Lý thuyết luôn đi đôi với thực hành thông qua nhiều hoạt động hỗ trợ được tổ chức theo một thời khóa biểu nhất định hàng tuần trong chương trình giáo dục, khiến cho trẻ cảm thấy hứng thú với bài học theo phương pháp học mà chơi, chơi mà học.


Những bài học từ trường mẫu giáo đã giúp trẻ phát triển đúng tâm sinh lý lứa tuổi, có sức khỏe tốt, tự tin, mạnh dạn để học tập và sống tích cực, phát huy tốt những khả năng và sở trường của mình.


Câu chuyện giữa chúng tôi và một số cháu 5 tuổi tại trường Mầm non Ánh Dương xung quanh những điều rất đơn giản về gia đình, trường học, về những thông tin và sở thích cá nhân của các cháu đã chứng tỏ điều cô giáo nói là sự thật. Nhiều cháu tỏ ra khá mạnh dạn giao tiếp với người lạ, hiểu và trả lời câu hỏi rất nhanh, đúng nội dung.


Kỹ năng sống là một yếu tố quan trọng điều khiển ý thức và hành vi của con người. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non sẽ mang lại cho các cháu rất nhiều lợi ích về mặt sức khỏe, giáo dục và cả văn hóa xã hội, giúp các cháu sớm có một cơ thể cường tráng, lành mạnh về trí tuệ cũng như thể lực, sớm có ý thức và khả năng thích nghi với cuộc sống, làm chủ bản thân, sống tích cực và hướng đến những điều lành mạnh cho chính mình cũng như cho cộng đồng.

Giáo dục 3 năm đầu đời có ý nghĩa cho cả cuộc đời. Giáo dục mầm non là những viên gạch đầu tiên có ý nghĩa hết sức quan trọng cho những năm tiếp theo và cả cuộc đời của bé.

  1. Dạy kĩ năng sống gì cho trẻ?

Trong thực tế, ngay từ khi chào đời, trẻ đã học cách thích ứng với môi trường ở từng giai đoạn. Những kinh nghiệm và kích thích khác nhau tạo ra lộ trình mới trong não bộ – trí nhớ.

Từ khi trẻ có thể bước đi, nói chuyện và bắt đầu tương tác với môi trường của chúng, bạn có thể thiết lập để dạy cho trẻ những kĩ năng sau đây:

  • Vệ sinh
  • Công việc nhà
  • Tiền
  • Dịch vụ cộng đồng
  • Cam kết
  • Điều độ
  • Hậu quả của hành động
  • Suy nghĩ cho bản thân

Hãy phân chia thành những nhóm tuổi khác nhau để bạn có thể có được một ý tưởng vè những gì và khi nào là thích hợp cho con của bạn.

Trẻ trước tuổi đến lớp

Là những trẻ nằm trong độ tuổi từ 2 đến 4 tuổi. Chúng có thể đi, nói chuyện và hiểu.

Bé này ở trong độ tuổi từ 2-4. Dưới đây là ví dụ về các kỹ năng để dạy trẻ trong độ tuổi này.

Vệ sinh: Bắt đầu dạy trẻ ngồi bô. Trong việc này, các bé gái thường dễ dạy bảo hơn bé trai. nhưng đừng từ bỏ. Thưởng cho trẻ ngay khi chúng làm được việc đó và tiếp tục tác động tới những gì chúng thiếu. Ngoài ra, dạy trẻ đánh răng và rủa tay của mình khi thích hợp.

Công việc nhà: Nếu trẻ có thể chơi với đồ chơi sau đó chúng có khả năng cất trở lại nơi thích hợp. Điều này không phải là giới hạn những đồ chơi. Chúng có thể đặt quần áo bẩn trong các giỏ đựng đồ khi chúng thay quần áo.

Điều độ: Thiết lập lịch trình cho việc xem truyền hình, chơi, ngủ trưa và vui chơi hàng ngày. Ngay cả nếu chúng muốn tiếp tục thêm một điều gì đó, hướng chúng sang việc làm khác để chúng biết phân chia thời gian của chúng trong suốt cả ngày. Điều này rất quan trọng khi trẻ đến tuổi đi học.

Trẻ mẫu giáo

Con của bạn đã sẵn sàng tới trường học. Chúng sẽ bắt đầu sử dụng các kĩ năng mà bạn đã dạy cho chúng cũng như học hỏi những cái mới từ các bạn cùng lớp và giáo viên. Với những tác động mới, sẽ là cơ hội tốt để trẻ củng cố những gì chúng đã được học ở nhà.

Vệ sinh: Trẻ em chơi với nhau và có thể dễ dàng truyền vi trùng. Xin hãy dạy trẻ rửa tay sạch sau khi hắt hơi, bằng cách sử dụng vòi rửa tại phòng tắm hoặc phòng chơi. Trẻ em cũng sẽ có nhận thức đầy đủ về các bộ phận trên cơ thể của chúng để học cách tự mặc đồ vào buổi sáng.

Công việc nhà: Khi trẻ đến trường, chúng cần phải chuẩn bị sẵn sàng những thứ cần thiết mỗi ngày. Một lần nữa dạy chúng đặt đồ vật ở nơi thích hợp: đồ chơi, món tráng miệng, quần áo và các vật dụng tương tự. Sử dụng biểu đồ thi đua với các ngôi sao để đánh dấu khi chúng đã hoàn thành một cái gì đó. Biến nó trở nên thật vui vẻ để khiến trẻ quan tâm tới việc giúp đỡ dọn dẹp nhà cửa.

Hậu quả: Trẻ ở độ tuổi này chỉ quan tâm đến mình. Khi bạn dạy chúng kĩ năng như chia sẻ hoặc dọn dẹp, hãy đưa ra những hình phạt nếu chúng không thực hiện công việc của mình. Trẻ có thể bị phạt vì nghịch ngợm khuya và buộc đi ngủ sớm. Kỷ luật dẫn đến một sự hiểu biết đúng và sai. Nếu chúng hành động không thích hợp, ngay lập tức chỉ ra vấn đề để chúng biết được hành vi dẫn đến việc bị kỷ luật.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 9
(có 1 lượt vote)

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 20


I. Tổ chức quan sát và đánh giá sự phát triển của trẻ em lứa tuổi mầm non

Đánh giá sự phát triển của trẻ là gì?

- Là quá trình thu thập thông tin về trẻ một cách có hệ thống và có phân tích, đối chiếu với mục tiêu chương trình GDMN nhằm theo dõi sự phát triển của trẻ và điều chỉnh kế hoạch quá trình chăm sóc giáo dục trẻ.


Mục đích đánh giá:

Đánh giá là một phần không thể thiếu trong quá trình giáo dục. Đánh giá sự phát triển của trẻ trong chương trình GDMN nhằm xác định mức độ phát triển của trẻ so với mục tiêu của từng độ tuổi để có biện pháp thích hợp giúp trẻ tiến bộ.


Ý nghĩa của việc đánh giá sự phát triển của trẻ

Đánh giá sự phát triển của trẻ qua các hoạt động, qua các giai đoạn cho ta biết những biểu hiện về tâm sinh lý của trẻ hàng ngày, sự phát triển toàn diện của trẻ qua từng giai đoạn, khả năng sẵn sàng và chiều hướng phát triển của trẻ ở những giai đoạn tiếp theo từ đó có thể phục vụ nhiều mục đích khác nhau.

+ Đánh giá thường xuyên giúp giáo viên có thêm thông tin về sự tiến bộ của trẻ trong một thời gian dài.

+ Xác định những khó khăn những nguyên nhân cụ thể trong sự phát triển của trẻ làm cơ sở để giáo viên đưa ra quyết định giáo dục tác động phù hợp đối với trẻ.

+ Giúp giáo viên biết được hiệu quả của các hoạt động, mức độ kết quả đạt được theo dự kiến, làm sáng tỏ những vấn đề nhất định đòi hỏi có kế hoạch bổ sung.



+ Đánh giá là cơ sở xác định nhu cầu giáo dục cá nhân đứa trẻ căn cứ xây dựng kế hoạch tiếp theo.

+ Làm cơ sở trao đổi đưa ra quyết định phối hợp kế hoạch giáo dục với cha mẹ trẻ, với giáo viên/ nhóm lớp hoặc cơ sở giáo dục khác sẽ tiếp nhận trẻ tiếp theo.

+ Làm cơ sở đề xuất với các cấp quản lý giáo dục trong việc nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ của nhóm/ lớp/ trường/ địa phương.


Nội dung đánh giá:

Đánh giá sự phát triển của trẻ gồm các nội dung:

- Đánh giá sự phát triển thể chất

- Đánh giá sự phát triển nhận thức

- Đánh giá sự phát triển ngôn ngữ

- Đánh giá sự phát triển tình cảm và kỹ năng xã hội.

- Đánh giá sự phát triển thẩm mỹ.


II. Phương pháp đánh giá:

Các phương pháp sau đây thường được sử dụng để theo dõi và đánh giá sự phát triển của trẻ trong trường mầm non: quan sát tự nhiên; trò chuyện với trẻ; phân tích sản phẩm hoạt động của trẻ; sử dụng tình huống; trao đổi với phụ huynh; kiểm tra trực tiếp. Tuy nhiên quan sát tự nhiên là phương pháp sử dụng nhiều nhất trong chủ yếu trong trường mầm non.


Quan sát tự nhiên:

Là sự tri giác trực tiếp, không tác động hay can thiệp vào hoạt động tự nhiên của trẻ. Các thông tin quan sát về biểu hiện tâm lý, các hành vi của trẻ được ghi lại một cách có hệ thống, có kế hoạch. Cụ thể:


- Quan sát và lắng nghe cá nhân trẻ nói và làm (quá trình hoạt động): Tư tưởng, cách diễn đạt tư tưởng, cách khám phá, cách trẻ làm và sử dụng những gì đã biết.

- Quan sát và lắng nghe cách giao tiếp, cáh ứng xử, thái độ, tình cảm của trẻ với các bạn trong nhóm bạn, nhóm chơi trong hoạt động hàng ngày: có hợp tác và làm việc nhóm không, có lắng nghe người khác không, tham gia hay thụ động trong hoạt động nhóm, khi chơi trong nhóm bạn thường đặt mình ở vị trí nào: là nhóm trưởng, là thành viên tích cực hay phục tùng, phụ thuộc ; trẻ biểu đạt sự thỉnh cầu hay nguyện vọng của mình như thế nào; trẻ có biết chia sẻ cùng bạn trong khi chơi hay không, có thường gây ra hay biết cách giải quyết những xung đột không; trẻ có biết giải quyết những tình huống khác xảy ra trong quá trình chơi hay không...

Trò chuyện với trẻ:

- Trò chuyện là cách tiếp cận trực tiếp với trẻ thông qua giao tiếp bằng lời nói. Trong trò chuyện giáo viên có thể đưa ra câu hỏi, gợi mở kéo dài cuộc trò chuyện, để có thể thu thập các thông tin theo mục đích đã định.

- Khi trò chuyện với trẻ giáo viên cần xác định mục đích, nội dung phù hợp. Chuẩn bị phương tiện đồ dùng, đồ chơi,.... cần thiết để tạo ra sự gần gũi quen thuộc. Gợi ý để trẻ dùng động tác, cử chỉ biểu đạt, nếu trẻ chưa nói bằng lời. Dùng lời nói ngắn gọn, đơn giản; ân cần trò chuyện với trẻ, động viên khuyến khích trẻ hướng vào trò chuyện. Khi đưa ra câu hỏi cần cho trẻ thời gian suy nghĩ trả lời, có thể gợi ý. Trò chuyện khi trẻ thoải mái, vui vẻ, tự nguyện...


Phân tích sản phẩm hoạt động của trẻ:

- Dự vào sản phẩm hoạt động của trẻ (sản phẩm vẽ, nặn, xé dán, xếp hình...) để xem xét, phân tích, đánh giá tư tưởng, mức độ khéo léo, sự sáng tạo, khả năng thẩm mỹ của trẻ, sự tiến bộ của trẻ. Thông qua sản phẩm của trẻ có thể đánh giá được mức độ kiến thức, kỹ năng, trạng thái cảm xúc, thái độ của trẻ.

- Việc đánh giá sự phát triển của trẻ thông qua sản phẩm mà trẻ cần lưu ý: không chỉ căn cứ vào kết quả sản phẩm đó mà căn cứ vào quá trình trẻ thực hiện để tạo ra sản phẩm (sự chú ý, ý thức thực hiện sản phẩm đến cùng, thời gian thực hiện, cách thức sử dụng dụng cụ, vật liệu tạo nên sản phẩm, mức độ thể hiện sự khéo léo...

- Giáo viên cần ghi lại những nhận xét của mình vào từng sản phẩm của trẻ và lưu lại thành hồ sơ riêng của từng trẻ. Do sản phẩm của trẻ thu thập theo thừi gian nên giáo viên có thể dựa vào sản phẩm đó đánh giá sự phát triển của trẻ.


Sử dụng tình huống:

- Là cách thức thông qua tình huống thực tế hoặc tình huống giả định để đánh giá kiến thức, thái độ, hành vi xã hội, kỹ năng giải quyết vấn đề... của trẻ (Ví dụ: Thái độ đồng tình, không đồng tình đối với hành vi tốt/ không tốt: đỡ bạn khi bạn bị ngã, xả rác bừa bãi. Kỹ năng giải quyết vấn đề: có gọi người lớn khi gặp bất chắc không? biết chạy ra khỉ đám cháy? biết nối gậy để khều quả bóng dưới gầm gường? biết từ chối khi người lạ rủ đi không...

- Khi sử dụng các tình huống giả định để thu thập thông tin cần thiết về trẻ, giáo viên cần chú ý:

+ Tình hống phải phù hợp với mục đích đánh giá

+ Tổ chức tình huống khéo léo để trẻ tích cực tham gia và bộc lộ một cách tự nhiên.

+ Những kết quả theo dõi được về trẻ trong quá trình chơi cần được ghi chép lại.


Trao đổi với phụ huynh:

- Nhằm khẳng định thêm những nhận định, đánh giá của giáo viên về trẻ đồng thời có biện pháp tăng cường sự phối hợp với gia đình trong chăm sóc, giáo dục trẻ.

- Giáo viên có thể trao đổi với phụ huynh hàng ngày, trao đổi với các cuộc họp phụ huynh, qua những buổi thăm gia đình trẻ để thu thập thêm thông tin về trẻ (VD: Trẻ ít nói, thiếu hòa đồng có phải do chậm phát triển ngôn ngữ, hay chưa thích ứng với môi trường lớp học, do mắc bệnh tự kỷ hoặc do sự bất đồng trầm trọng với gia đình...)



  1. Sử dụng bài tập (Kiểm tra trực tiếp)

- Là cách sử dụng bài tập, giao nhiệm vụ cho trẻ tự giair quyết, thực hiện để xác định xem trẻ đã biết gì, làm được những việc gì

- Bài tập có thể thực hiện với một nhóm trẻ, hoặc với từng trẻ.

- Cho trẻ thực hiện bài tập khi trẻ vui vẻ, sảng khoái.

- Tránh các can thiệp gây ảnh hưởng khi trẻ thực hiện bài tập.

- Một bài tập có thể kết hợp đo một số chỉ số/ lĩnh vực.

- Kết quả thực hiện của trẻ được ghi vào phiếu đánh giá của từng trẻ.

Lưu ý: Khi thực hiện sự theo dõi, đánh giá trẻ giáo viên cần thực hiện phối hợp các phương pháp với nhau một cách linh hoạt để có kết quả đáng tin cậy.

Việc lựa chọn các phương pháp đánh gía là tùy thuộc vào sựu quyết định của giáo viên sao cho hợp lý nhất với hoàn cảnh, điều kiện thực tiễn.

III. Các hình thức đánh giá sự phát triển của trẻ:

Hoạt động đánh giá sự phát triển của trẻ trong nhà trường:

- Chủ yếu do giáo viên tiến hành trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ.

- Do cán bộ quản lý giáo dục (Bộ, Sở, Phòng giáo dục và đào tạo, Ban giám hiệu nhà trường) tiến hành với các mục đích khác nhau nhưng cùng hướng tới một mục đích chung là làm thế nào để nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ

* Đối với Nhà trẻ:

Đánh giá hàng ngày:

1.1 Mục đích đánh giá:

- Đánh giá những diễn biến tâm sinh lý của trẻ hàng ngày trong hoạt động, nhằm phát hiện những biểu hiện tích cực hoặc tiêu cực để kịp thời điều chỉnh kế hoạch hoạt động chăm sóc – giáo dục trẻ.

1.2 Nội dung đánh giá:

- Tình trạng sức khỏe

- Thái độ, trạng thái cảm xúc và hành vi của trẻ

- Kiến thức và kỹ năng.

1.3 Phương pháp đánh giá:

Sử dụng một hay kết hợp nhiều phương pháp sau đây để đánh giá sự phát triển của trẻ:

- Quan sát

- Trò chuyện, giao tiếp với trẻ.

- Phân tích sản phẩm hoạt động của trẻ;

- Trao đổi với phụ huynh.

Hàng ngày giáo viên theo dõi trong các hoạt động, ghi lại tiến bộ rõ rệt và những điều cần lưu ý vào sổ kế hoạch giáo dục hoặc nhật ký của lớp để điều chỉnh kế hoạch và biện pháp giáo dục.

Đánh giá theo giai đoạn:

2.1 Mục đích đánh giá

Xác định mức độ đạt được của trẻ ở các lính vực phát triển theo từng giai đoạn trên cơ sở đó điều chỉnh kế hoạch chăm sóc giáo dục cho giai đoạn tiếp theo.

2.2 Nội dung đánh giá:

Đánh giá mức độ phát triển của trẻ theo giai đoạn về thể chất, nhận thức, ngôn ngữ , tình cảm, kỹ năng xã hội và thẩm mỹ.

2.3 Phương pháp đánh giá:

Sử dụng một hay kết hợp nhiều phương pháp sau đây để đánh giá sự phát triển của trẻ:

- Quan sát

- Trò chuyện, giao tiếp với trẻ.

- Đánh giá qua bài tập

- Phân tích sản phẩm hoạt động của trẻ;

- Trao đổi với phụ huynh.



Đánh giá trẻ nhà trẻ vào cuối độ tuổi (6, 12, 18, 24 và 36 tháng tuổi) dựa vào các chỉ số phát triển của trẻ.

* Đối với trẻ mẫu giáo:

  1. Đánh giá trẻ hàng ngày:

1.1 Mục đích đánh giá:

Đánh giá trạng thái tâm sinh lý của trẻ hàng ngày trong các hoạt động ăn, ngủ, vui chơi, học tập... của trẻ nhằm phát hiện những biểu hiện tích cực hay tiêu cực để kịp thời điều chỉnh việc tổ chức hoạt động chăm sóc – giáo dục trẻ, lực chọn các điều kiện, biện pháp chăm sóc giáo dục trẻ phù hợp.

1.2 Nội dung đánh giá:

- Tình trạng sức khỏe của trẻ

- Trạng thái cảm xúc, thái độ và hành vi của trẻ

- Kiến thức và kỹ năng của trẻ

1.3 Phương pháp đánh giá:

Sử dụng một hay kết hợp nhiều phương pháp sau đây để đánh giá sự phát triển của trẻ:

- Quan sát

- Trò chuyện với trẻ.

- Đánh giá qua bài tập

- Phân tích sản phẩm hoạt động của trẻ;

- Trao đổi với phụ huynh.

- Sử dụng tình huống.

- Phương pháp sử dụng có hiệu quả dễ thực hiện là phương pháp quan sát và trao đổi với phụ huynh.

VD: Trẻ ăn có ngon không, ngủ có yên giấc không; trẻ thoải mái hứng thú, tích cực các hoạt động vui chơi, học tập không; những sự kiện nào đặc biệt xảy ra trong ngày đối với trẻ (trẻ bị ngã, trẻ đánh nhau, trẻ không nhìn thấy dơ vật nào dó khi ngồi xa; trẻ nói thêm được những câu, từ ngữ mới, trẻ không pát âm được những từ ngữ nào đó, trẻ vẽ được bức tranh khá đặc biệt, trẻ biểu hiện những cảm xúc quá thái....


Đánh giá sự phát triển của trẻ sau chủ đề giáo dục/ giai đoạn:

2.1 Mục đích:

- Xác định (nắm được) mức độ đạt được của trẻ ở các lĩnh vực phát triển của trẻ cuối chủ đề và theo giai đoạn.

- Làm căn cứ để xây dựng hoặc điều chỉnh kế hoạch hoạt động giáo dục của chủ đề / gia đoạn tiếp theo.

2.2. Nội dung đánh giá:

- Đánh giá kết quả đạt được của trẻ so với mục tiêu của chủ đề các lĩnh vực phát triển thể chất, nhận thức, ngôn ngữ , tình cảm, kỹ năng xã hội và thẩm mỹ hoặc theo yêu cầu cần đạt về kiến thức, kỹ năng, thái độ được xác định của chủ đề giáo dục.

- Đánh giá sự phù hợp của những nội dung, các hoạt động giáo dục của chủ đề với năng lực của trẻ, xác định nguyên nhân để bổ sung điều chỉnh kế hoạch hoạt động giáo dục của chủ đề tiếp theo.


2.3 Phương pháp đánh giá:

Sử dụng một hay kết hợp nhiều phương pháp sau đây để đánh giá sự phát triển của trẻ:

- Quan sát

- Trò chuyện với trẻ.

- Đánh giá qua bài tập

- Phân tích sản phẩm hoạt động của trẻ;

- Trao đổi với phụ huynh.

- Sử dụng tình huống.

Đối với hình thức đnáh giá sự phát triển của trẻ sau khi thực hiện một chủ đè giáo dục có thể sử dụng phương pháp phù hớp với thông tin cần thu thập để phân tích đánh giá.

VD: Đánh giá sự phát triển về vận động thô của trẻ như leo, trèo, chạy nhảy, bắt bóng... có thể đưa ra các bài tập để trẻ thực hiện.

Đánh giá khả năng phối hợp nhóm, thái độ ứng xử với bạn bè, tính tự tin, tự lực... có thể sử dụng phương pháp quan sát trẻ thông qua các hoạt động chơi, học tập... hoặc sử dụng các tình huống giả định.

Đánh giá khả nawg giao tiếp, sử dụng câu, vốn từ... của trẻ có thể sử dụng phương pháp trò chuyện trự tiếp với trẻ hoặc quan sát trẻ trong qua trình giao tiếp với bạn bè.


Đánh giá sự phát triển cuối độ tuổi của trẻ.

3.1 Mục đích:

- Nắm được sự phát triển của trẻ sau quá trình giáo dục, làm căn cứ đề xuất xây dựng, điều chỉnh kế hoạch giáo dục năm, kế hoạch hoạt động chủ đề, các điều kiện chăm sóc giáo dục trẻ: về CSVC, thiết bị đồ chơi, về nhân lực, thời gian, chính sách.... nhằm tác động tích cực tới chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ.


3.2 Nội dung đánh giá:

Đánh giá mức độ phát triển của trẻ ở các lĩnh vực: thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm và kỹ năng xã hội, tẩm mỹ ở cuối độ tuổi dựa vào các mục tiêu giáo dục trẻ lựa chọn phù hợp với yêu cầu thực tiễn của địa phương.

3.3 Phương pháp đánh giá:

Đánh giá sự phát triển của trẻ cuối độ tuổi được tiến hành vào tháng cuối cùng của năm học.

Các phương pháp đánh giá sự phát triển của trẻ cuối năm tùy thuộc vào sự lựa chọn và sử dụng của giáo viên sao cho phù hợp nhất với điều kiện và hoàn cảnh hiện tại. Giáo viên có thể sử dụng kết quả đánh giá trẻ hàng ngày và đánh giá trẻ sau chủ đề làm cơ sở đnáh giá sự phát triển của trẻ cuối độ tuổi.

Kết quả đánh giá được ghi vào phiếu đánh giá sự phát triển của trẻ và đưc[j lưu vào hồ sơ cá nhân và thông báo cho cha mẹ trẻ cũng như giáo viên phụ trách nơi trẻ sẽ nhập học tiếp theo để cùng phối hợp đề xuất các biện pháp giáo dục phù hợp. Kết quả này không dùng để xếp loại trẻ, không dùng để so sánh giữa các trẻ hoặc tuyển chọn trẻ vào lớp 1.


IV. Hồ sơ theo dõi đánh giá sự phát triển của trẻ mầm non:


Đánh giá trẻ hàng ngày:

Kết quả đánh giá trẻ hàng ngày được ghi vào nhật ký của lớp hoặc sổ kế hoạch giáo dục bằng nhận định chung, những vấn đề nổi bật, đặc biệt thu nhập được quan sát đối với cá nhân hoặc đối với một nhóm trẻ (có thể là ưu điểm hoặc hạn chế). Căn cứ vào những gì quan sát hoặc ghi chép được, giáo viên có thể trao đổi với phụ huynh để cùng xem xét, xác định nguyên nhân để điều chỉnh kế hoạch và biện pháp giáo dục tác động kịp thời khắc phục những tồn tại, phát huy những biểu hiện tích cực của trẻ trong những ngày tiếp theo hoặc lưu ý để tiếp tục theo dõi.


Đánh giá sự phát triển của trẻ cuối chủ đề:

Tổng hợp theo Phiếu đánh giá cuối chủ đề.

* Phiếu đánh giá cuối chủ đề: Các mục tiêu năm học được đánh thứ tự liên tiếp (MT1, MT2,....MTn)

Đối với những mục tiêu có tổng số trẻ đạt được (+) dưới 70% thì giáo viên tiếp tục đưa mục tiêu chưa đạt để giúp trẻ rèn luyện mọi lúc mọi nơi trong quá trình giáo dục phối hợp với phụ huynh để giúp trẻ đạt được.


Phiếu đánh giá sự phát triển của trẻ cuối độ tuổi:

Căn cứ vào mục tiêu giáo dục trẻ theo kế hoạch năm học, ngay từ đầu năm học, các giáo viên cùng cán bộ quản lý nhà trường, cán bộ quản lý ngành học có liên quan lựa chọn 30 – 40 mục tiêu để xây dựng thành phiếu đánh giá sự phát triển mẫu giáo. Các mục tiêu lựa chọn phải đảm bảo đầy đủ các lĩnh vực phát triển, đáp ứng những định hướng phát triển của trẻ ở từng địa phương./.


Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Trên đây là những bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN từ 11 - 20 mà AllTop chia sẻ tới bạn. Hi vọng bài viết mang đến những thông tin hữu ích.

Hãy đăng nhập để bình luận

Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .