Top 6 Bài soạn "Kiêu binh nổi loạn" (Ngữ văn 10 - SGK Cánh diều) hay nhất
Đoạn trích “Kiêu binh nổi loạn” trong "Hoàng Lê nhất thống chí" của tác giả Ngô Gia văn phái đã cho thấy sự thối nát của phủ chúa Trịnh: cha, con, anh, em tranh giành...xem thêm ...
Bài soạn "Kiêu binh nổi loạn" (Ngữ văn 10 - SGK Cánh diều) - mẫu 1
Nội dung chính
Đoạn trích “Kiêu binh nổi loạn” thể hiện sự thối nát của phủ chúa Trịnh và miêu tả sự nổi loạn của đám kiêu binh khi căm ghét và khinh bỉ cách làm của chúa Trịnh và quận Huy.
Tóm tắt
Đoạn trích “Kiêu binh nổi loạn” trong Hoàng Lê nhất thống chí đã cho thấy sự thối nát của phủ chúa Trịnh: cha, con, anh, em tranh giành quyền lực, việc phế con trưởng lập con thứ hoàn toàn do quyền lợi ích kỉ của phe đảng, không vì quyền lợi của đất nước, của nhân dân. Tất cả sự nổi loạn, tàn bạo của đám kiêu binh “căm ghét”, “hậm hực” khinh bỉ cách làm của chúa Trịnh và quận Huy, chỉ muốn diệt trừ cho hả giận.
Chuẩn bị
- Đọc kĩ phần Kiến thức ngữ văn để vận dụng phần đọc hiểu.
- Đọc kĩ một số lưu ý trước khi đọc văn bản Kiêu binh nổi loạn.
- Đọc nội dung đoạn giới thiệu để hiểu rõ bối cảnh của đoạn trích.
Trong khi đọc
Câu 1
Đề bài: Người kể chuyện là ai?
Phương pháp giải:
Đọc kĩ văn bản.
Lời giải chi tiết:
Người kể chuyện là tác giả.
Câu 2
Đề bài: Người kể chuyện nhận xét gì về đầu bếp, gia thần của Trịnh Tông?
Phương pháp giải:
- Đọc kĩ phần 1 văn bản.
- Chú ý những chi tiết miêu tả về đầu bếp và gia thần của Trịnh Tông.
Lời giải chi tiết:
Lời nhận xét của người kể chuyện về đầu bếp và gia thần của Trịnh Tông như sau:
- Đầu bếp: tên là Dự Vũ, vốn là người cơ trí, nói năng rành mạch.
- Gia thần: tên là Gia Thọ, người làng Bát Tràng, huyện Gia Lâm, là kẻ tinh khôn.
Câu 3
Đề bài: Chú ý động cơ và thái độ của đầu bếp, thân quân.
Phương pháp giải:
Chú ý chi tiết nói về động cơ và thái độ của đầu bếp và thân quân.
Lời giải chi tiết:
Sau khi được thế tử mời ăn uống no nê và ngỏ ý mong mọi người một lòng giúp đỡ nhà chúa cùng lời hứa hẹn “Nếu trời cho xong việc, tất nhiên sẽ có sách son, khoán sắt lưu truyền muôn đời”. Nghe xong, tất cả mọi người (bao gồm đầu bếp và thần quân) đều một mực đống ý.
Câu 4
Đề bài: Ai là người kể chuyện về nhân vật Bằng Vũ?
Phương pháp giải:
Đọc kĩ đoạn văn giới thiệu về nhân vật Bằng Vũ.
Lời giải chi tiết:
Tác giả là người kể chuyện về nhân vật Bằng Vũ.
Câu 5
Đề bài: Chú ý lời nói, thái độ và hành động của Quận Huy.
Phương pháp giải:
Đọc kĩ đoạn văn miêu tả lời nói, thái độ và hành động của Quận Huy.
Lời giải chi tiết:
- Lời nói của Quận Huy khi biết tin mình sắp gặp tai họa không có vẻ lo sợ mà vẫn rất thản nhiên và tuyên bố khá mạnh mẽ: “Ngày mai có biến, tôi sẽ chết. Nhưng tôi chết cũng phải có dăm ba mạng đi theo”.
- Khi được người nhà đưa ra các lời khuyên rằng nên bế tân chúa đi trốn, rồi gọi quân bên ngoài vào bắt bọn gian; khuyên nên đưa nghĩa sĩ vào trong phủ để tự vệ, ..., Quận Huy luôn chối bỏ.
- Thái độ và hành động không hề có chút đề phòng (Dẫn chứng: “Đêm ấy, Quận Huy ngủ ở trong phủ, cũng chỉ đem theo vài người hầu như mọi ngày, không hề phòng bị gì hết”).
Câu 6
Đề bài: Khí thế của kiêu binh được miêu tả như thế nào?
Phương pháp giải:
Đọc kĩ đoạn văn miêu tả khí thế của kiêu binh.
Lời giải chi tiết:
Khí thế của kiêu binh:
- Quân lính khi nghe thấy tiếng trống thì nhảy nhót hăng hái, cầm binh khí xô lấn nhau vào trong phủ.
- Khi các cửa đã đóng, quân lính bên ngoài đừng hò reo, quát tháo long trời lở đất.
=> Khí thế của các kiêu binh khá mạnh mẽ, hào hứng, có chút hơi náo loạn và thiếu tính tổ chức.
Câu 7
Đề bài: Chú ý hành động và thái độ của Quận Châu trước đám kiêu binh.
Phương pháp giải:
Đọc kĩ đoạn văn miêu tả hành động và thái độ của Quận Châu trước đám kiêu binh.
Lời giải chi tiết:
- Tình huống: đám kiêu binh dọa rằng nếu không mở cửa, họ sẽ chèo vào và xác Quận Châu sẽ nát như cám.
- Hành động và thái độ của Quận Châu: run sợ và đã phải mở cửa cho bọn kiêu binh xông vào.
=> Hành động và thái độ của Quận Châu khá nhu nhược, hèn nhát.
Câu 8
Đề bài: Tình thế bất lực, thảm hại và bi đát của Quận Huy được miêu tả qua những chi tiết nào?
Phương pháp giải:
Chú ý đoạn văn miêu tả sự thất bại của Quận Huy.
Lời giải chi tiết:
Tình thế bất lực, thảm hại và bi đát của Quận Huy được miêu tả qua những chi tiết:
- Voi của Quận Huy cưỡi bị đâm chém túi bụi, bị ném gạch à voi co vòi mà gầm, không dám húc nữa.
- Khi định giương cúng bắn à cung bị đứt dây; vớ lấy súng để nạp đạn à mồi lửa tịt không cháy.
- Quân lính thừa dịp dùng câu liêm lôi viên quản tượng xuống đất rồi chém.
- Một toán ở cửa Tuyên Vũ xông vào, đứng chắn ở đằng sau voi, khiến voi không thể nhúc nhích à dùng câu liêm móc cổ Quận Huy kéo xuống, đánh đấm túi bụi giết chết ngay tại chỗ.
Câu 9
Đề bài: Những hình ảnh so sánh trong lời kể có tác dụng gì?
Phương pháp giải:
- Chú ý những hình ảnh so sánh trong đoạn văn cuối trang 10.
- Liệt kê những hình ảnh so sánh trong đoạn trích.
- Đọc kĩ đoạn trích để tìm ra tác dụng.
Lời giải chi tiết:
Những hình ảnh so sánh trong lời kể:
- “Cứ thế lên lên xuống xuống y như người ta giỡn quả cầu hoặc rước pho tượng Phật”
=> Tác dụng: giúp người đọc hình dung rõ hơn về tư thế nâng thế tử.
- “Những kẻ buôn bán ở các phố phường, chợ búa đều tranh nhau kéo đến xem mặt chúa, sân phủ đông như họp chợ”.
=> Tác dụng: nhấn mạnh sự đông đúc, trí tò mò của mọi người khi muốn xem mặt chúa.
Câu 10
Đề bài: Kiêu binh lộng hành bức ép chúa cũ, trả thù các đại thần như thế nào?
Phương pháp giải:
- Chú ý đoạn văn miêu tả sự lộng hành của bọn kiêu binh, bức ép chúa cũ, trả thù các đại thần (đoạn văn cuối trang 11)
Lời giải chi tiết:
Kiêu binh lộng hành bức ép chúa cũ, trả thù các đại thần được miêu tả:
- Nhà cửa Quận Huy bị phá tan tành, một mảnh ngói cũng không còn.
- Những người thuộc bè đảng của Thị Huệ và Quận Huy, những viên quan hầu mà quân lính ghét cũng đều bị phá nhà hàng loạt, bị lùng bắt đem giết chết.
- Làm náo động kinh thành. Tông hạ chỉ ngăn cấm nhưng vẫn không thôi.
Câu 11
Đề bài: Chi tiết nào cho thấy Trịnh Tông bất lực, không kiểm soát được kiêu binh?
Phương pháp giải:
Đọc kĩ đoạn văn miêu tả sự bất lực của Trịnh Tông trước sự lộng hành quá đà của kiêu binh (đoạn văn cuối bài).
Lời giải chi tiết:
Trước sự lộng hành quá đà của đám kiêu binh, Trịnh Tông tỏ ra bất lực, thể hiện ở chi tiết:
- Trịnh Tông cho người dò xét trong kinh kì, lén đến chỗ đám kiêu binh tụ họp, bắt phứa một người thường dân ở gần đem chém để ra oai.
=> Kết quả: việc phá phách nhà cửa tạm ngưng nhưng việc lùng bắt người để giết vẫn chưa dứt.
Trả lời câu hỏi
Câu 1
Đề bài: Hãy nêu những sự kiện chính trong văn bản Kiêu binh nổi loạn và cho biết mâu thuẫn ở đây là gì?
Phương pháp giải:
- Đọc kĩ tác phẩm
- Chú ý đến nhân vật, sự kiện và tình huống để phân tích tìm ra mâu thuẫn.
Lời giải chi tiết:
Những sự kiện chính trong văn bản là:
- Dự Vũ, Gia Thọ đều có tính chất xúi giục, hậu thuẫn cho Tông làm phản. Tông mời cơm ngỏ ý chỉ là một biểu hiện phó thác chính thức, lái mũi nhọn chĩa vào quận Huy.
- Vũ Bằng là người dẫn đầu chủ mưu và giao cho hắn đánh trống để thúc giục ba quân.
- Sự can thiệp của bọn quý tộc, thân tộc trong phủ như quận Viêm, con hắn là Chiếu lĩnh bá, quận Hoàn, Thánh mẫu... cho thấy chúng chỉ muốn lợi dụng để hớt lấy công hoặc che chắn đế bảo vệ quyền lợi mình.
- Đám khiêu binh nổi loạn xông thẳng vào phủ và giết chết Quận Huy cùng với đó là Đốt phủ của Quận Huy
- Lập Trịnh Tông làm vua, Trịnh Cán bị phế truất.
Mâu thuẫn ở đây là: Sự căm ghét Quận Huy như kẻ thù vì những chính sách tàn độc và mục đích của đám khiêu binh nổi loạn là trả thù, rửa hận.
Câu 2
Đề bài: Những chi tiết miêu tả hành động của đám khiêu binh. Em có nhận xét gì về những hành động ấy?
Phương pháp giải:
- Đọc văn bản
- Tìm những chi tiết miêu tả hành động của kiêu binh
- Rút ra nhận xét của bản thân một cách khách quan.
Lời giải chi tiết:
Những chi tiết miêu tả hành động của đám khiêu binh:
- Khi đến lúc họp, đám khiêu binh đều hội họp, không ai là không hăng hái nhưng vẫn sợ Quận Huy.
- Nghe thấy tiếng trống thì người nào cũng nhảy nhót hăng hái, cầm binh khí xô lấn nhau vào phủ.
- Khi cửa đóng không vào được thì chúng reo hò, quát tháo long trời lở đất.
- Khi Quận Châu ra đàm phán nhưng bọn chúng không nghe mà còn thét lên ra oan: “Nếu cậu không mở cửa ra, thì chúng tôi sẽ trèo tường mà vào, thì xác cậu sẽ nát như cám!”.
- Vào phủ thấy thấy Quận Huy cưỡi voi và đe dọa thì bọn chúng vốn sợ lại càng run sợ hơn, chúng ngồi rụp xuống nghe lệnh, không dám lên tiếng, không dám xông tới. Nhưng về sau bọn chúng lại nhao nhao đứng dậy tấn công, càng đánh càng hăng kéo nhau tới bao quanh chân voi, dùng câu liêm kéo cổ Quận Huy xuống rồi đánh túi bụi và giết chết hắn ngay tại chỗ.
- Em trai Quận Huy cũng bị khiêu binh quát đứng lại, dùng gạch đá đập cho vỡ đầu và vứt xác xuống hồ Thủy Quân.
- Anh em Quận Huy đều chết, bọn chúng vỗ tay, vui sướng hò reo như sấm. Nhưng nỗi uất hận vẫn chưa hả, bọn chúng cùng nhau kéo đến xin Chúa cho phá dinh cơ của Quận Huy.
Nhận xét về những hành động của đám khiêu binh:
Lúc đầu cả đám run sợ về khí thế Quận Huy nhưng càng về sau bọn chúng vùng lên chiến đầu, sẵn sàng hi sinh để đòi lại công bằng, để vượt qua áp bức bóc lột để trở thành người làm chủ tình thế. Bọn chúng như nhưng “con giun xéo lắm cũng quằn”, xuất phát từ lòng căm phẫn, kinh bỉ nên đã khiêu binh nổi loạn và hành động ấy với mục đích như để trả thù, rửa hận.
Có thể lúc đầu do thói quen của sự phục tùng, nghe lệnh nhưng chỉ trong giây lát sự căm phẫn nổi lên bọn chúng cùng nhau hợp lại để tấn công đã cho ta thấy sức mạnh của sự đoàn kết, sức mạnh của tập thể.
Những hành động của đám khiêu binh còn cho ta thấy được sự suy tàn, thối nát của chế độ cầm quyền, sự sụp đổ của một vương triều bất lực ngồi nhìn đám lính tự phát nổi lên làm chủ.
Câu 3
Đề bài: Những chi tiết, hình ảnh nào cho thấy sự bất lực và thất bại của phe cánh Quận Huy?
Phương pháp giải:
- Đọc và ìm hiểu kĩ tác phẩm
- Tìm ra chi tiết bằng cách phân tính bối cảnh, tình huống và diễn biến.
Lời giải chi tiết:
Những chi tiết, hình ảnh cho thấy sự bất lực và thất bại của phe phái Quận Huy:
- Không đề phòng, thiếu mưu lược.
- Quận Châu lúc đầu theo Huy đứng trong cửa định lên giọng đe quân lính. Kiêu binh mới đe một câu liền mở cửa ngay.
- Quận Huy cưỡi voi định giương cung ra bắn nhưng bị đứt dây, vớ súng nạp đạn nhưng mồi lửa lại không cháy.
- Quân lính lôi viên quản tượng xuống đất chém
- Quân Huy lao xuống đánh khiến vài người bị thương nhưng cuối cùng lại bị quân lính dùng câu liêm móc vào cổ kéo xuông đánh túi bụi và giết chết.
- Em ruột Quận Huy vội vàng chạy vào phủ đường nhưng đến chùa Báo Thiên thì cũng bị quân lính đánh cho vỡ đầu và ném xác xuống hồ Thủy Quân.
- Kiêu binh đã giết hết anh em quận Huy rồi, Châu còn phất cờ đuôi báo và khua chiêng thu quân.
- Chúa thì chạy trốn, đói bụng khóc nheo nhéo phải dọa bị bắt mới không khóc nữa.
Câu 4
Đề bài: Cảnh Trịnh Tông lên ngôi có gì đặc biệt? Nhận xét về nghệ thuật miêu tả của tác giả.
Phương pháp giải:
- Đọc kĩ tác phẩm
- Chú ý đến chi tiết về hoàn cảnh, sự kiên và diễn biến khi Trịnh Tông lên ngôi vua.
- So sánh khách quan để nhận ra điểm đặc biệt.
Lời giải chi tiết:
Dùng tạm chiếc mâm vẫn bày cỗ lộc làm ghế, đặt thế tử ngồi lên, rồi tám người kề vai khiêng.
Kiêu binh đã lập Trịnh Tông lên, cảnh khiêng Tông trên chiếc mâm gỗ, đưa lên, đưa xuống, mọi người xúm lại đông như họp chợ. Hai tiếng “họp chợ” thật mỉa mai! Họ lại đặt sập gụ ngoài phủ đường để đưa Tông lên ngôi. Mấy chữ “ngoài phủ đường” cũng hài hước, chẳng có chút uy nghiêm nào. Trịnh Tông thì tuy vẫn được gọi bằng những danh hiệu những từ ngữ trang trọng cao quy của bậc đế vương: thế tử, mặt rồng, Thánh chúa... nhưng ngai vàng chỉ là cái mâm đặt trên vai đám lính tráng, để cho hàng phố đến xem như họp chợ.
Câu 5
Đề bài: Hãy dẫn ra một số bình luận, đánh giá của người kể chuyện đối với các sự kiện và nhân vật lịch sử trong văn bản. Theo em, quan điểm và thái độ của người kể chuyện có khách quan và đáng tin cậy không? Vì sao?
Phương pháp giải:
- Đọc và tìm hiểu kĩ các tác phẩm
- Chú ý đến cách diễn đạt, thái độ của người kể chuyện
- Đánh giá khách quan
Lời giải chi tiết:
Một số đánh giá, bình luận của người kể chuyện:
- Bằng Vũ được người làng thuê đi lính thay. Gã người thấp bé, thanh nhã như học trò.
- Quân lính vốn sợ Quận Huy, thấy hắn cưỡi voi, lại càng khiếp đảm, đều ngồi sụp xuống nghe lệnh, không ai dám lên tiếng, cũng không dám xông tới.
- Anh em Quận Huy chết rồi, quân lính vui mừng reo hò như sấm.
Theo em quan niệm và thái độ của người kể chuyện đáng tin cậy vì người kể chuyện là sẽ là người mang điểm nhìn bên trong là nhân vật ngay trong câu chuyện, cũng có thể đây chính là người chứng kiến hoặc người tham gia giấu mặt trong câu chuyện. Chính người kể chuyện cũng cho ta cái nhìn trọn vẹn hơn về các tình tiết, hành động, thái độ, tình cảm. Những nhân vật trong tiểu thuyết chương hồi đều là những nhân vật có thật vậy nên người kể chuyện không thể bịa đặt, hay là áp đặt suy nghĩ cá nhân vào những đánh giá, bình luận.
Câu 6
Đề bài: Người xưa từng nói về năm nguy cơ làm mất nước: “Một, trẻ không kính già; hai, trò không trọng thầy; ba,binh kiêu tướng thoái; bốn, tham nhũng tràn lan; năm, sĩ phu ngoảnh mặt.” (Lê Quý Đôn). Sau khi đọc đoạn trích Kiêu binh nổi loạn em suy nghĩ gì về ý kiến này?
Phương pháp giải:
- Đọc và tìn hiểu kĩ tác phẩm
- Liên hệ với các tài liệu liên quan đến yêu cầu đề bài.
Lời giải chi tiết:
Sau khi đọc Kiêu binh nổi loạn em thấy đồng tình với ý kiến của Lê Quý Đôn bởi một triều đại phong kiến lâu đời, hiển hách đã rơi vào tình trạng suy sụp một cách thảm hại. Bố chết nằm đấy, anh em đã xung đột, tranh nhau ngai vàng. Trịnh Tông đúng là ông chúa bù nhìn, hắn lên ngôi chúa hoàn toàn nhờ sự đưa đẩy tình cờ của số phận, tất cả chỗ dựa là đám lính tráng tự phát nổi lên. Cho nên khi đã làm chúa rồi, vẫn không sao làm chủ được đám âm binh làm loạn: phá nhà, giết người, cướp của...
Bài soạn "Kiêu binh nổi loạn" (Ngữ văn 10 - SGK Cánh diều) - mẫu 2
I. Tác giả
* Ngô gia văn phái
- Là một nhóm tác giả Việt Nam thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội).
- Ngô Chi Thất và Ngô Trân là người đề xướng và dựng nên Văn phái, về sau được mệnh danh là Ngô gia văn phái.
- Ngô gia văn phái gồm 20 tác giả thuộc 9 thế hệ trong đó hai tác giả chính là Ngô Thì Chí (1753 – 1788) làm quan thời Lê Chiêu Thống và Ngô Thì Du (1772-1840), làm quan dưới triều nhà Nguyễn.
II. Tác phẩm Kiêu binh nổi loạn (Ngô gia văn phái)
- Thể loại: Tiểu thuyết chương hồi
- Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác:
- Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm viết bằng chữ Hán theo hình thức tiểu thuyết chương hồi. Nội dung chính của Hoàng Lê nhất thống chí phản ánh thời kì lịch sử khoảng 30 năm, từ khi Trịnh Sâm lên ngôi chúa (1768) đến lúc Gia Long lên ngôi vua (1802). Tác phẩm tái hiện một cách phong phú, sinh động bức tranh xã hội trong thời kì khủng hoảng triền miên, dẫn đến sự sụp đổ của các tập đoàn phong kiến Lê -Trịnh và khí thế quật khởi, tinh thần quyết liệt chống thù trong giặc ngoài của phong trào khởi nghĩa Tây Sơn do Nguyễn Huệ đứng đầu.
- Đoạn trích Kiêu binh nổi loạn dưới đây thuộc Hồi thứ hai của tác phẩm, kể chuyện kiêu binh nổi loạn, giết Quận Huy Hoàng Đinh Bảo, phế Trịnh Cạn, lập Trịnh Tông lên ngôi chúa.
- Phương thức biểu đạt: Tự sự + Biểu cảm
- Tóm tắt tác phẩm Kiêu binh nổi loạn (Ngô gia văn phái)
Đoạn trích “Kiêu binh nổi loạn” trong Hoàng Lê nhất thống chí đã cho thấy sự thối nát của phủ chúa Trịnh: cha, con, anh, em tranh giành quyền lực, việc phế con trưởng lập con thứ hoàn toàn do quyền lợi ích kỉ của phe đảng, không vì quyền lợi của đất nước, của nhân dân. Tất cả sự nổi loạn, tàn bạo của đám kiêu binh “căm ghét”, “hậm hực” khinh bỉ cách làm của chúa Trịnh và quận Huy, chỉ muốn diệt trừ cho hả giận đã thể hiện cụ thể, sống động. Điều nó cho thấy sức mạnh của đám đông có thể làm nổi thuyền, có thể làm lật thuyền.
III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Kiêu binh nổi loạn (Ngô gia văn phái)
- Hành động của đám kiêu binh
Mục đích nổi loạn cùa kiêu binh là trả thù, rửa hận. Lời nói của Dự Vũ đã cho thấy quân lính “căm ghét”, “hậm hực” khinh bỉ cách làm của chúa Trịnh và quận Huy, chỉ muốn diệt trừ cho hả giận. Đề xuất kế sách của Bằng Vũ chứng tỏ quân lính rất khinh nhờn thế lực của phủ chúa: “Đánh một hồi trống làm hiệu, rồi kẻo ùa cả vào, nắm cẳng hắn, vứt chỏng gọng xuống dưới thềm một cái là xong thôi mà!”.
- “Bằng Vũ vào trong phủ, đánh luôn ba hồi, chín tiếng trống.”
- “Lại nói, quân lính nghe thấy tiếng trống tức thì người nào cũng nhảy nhót hăng hái, cùng cầm binh khí xô lấn nhau mà vào trong phủ”
- “…quân lính ở bên ngoài không vào được, họ cứ đứng hò reo, quát tháo long trời lở đất.”
- “…bao nhiêu người đang ngồi lại nhao nhao đứng dậy, kéo ập vào trước đầu voi.”
- “Rồi họ lấy khí giới đâm chém túi bụi, có kẻ cạy gạch ngói ở phủ ra ném tới tấp…”
- “Quân lính hăng máu kéo đến càng đông…Họ bèn dung câu liêm móc cổ Quận Huy kéo xuống, rồi đánh đấm túi bụi giết chết ngay tại chỗ.”
....
=> Qua những hành động này ta thấy được sự ngang tàng và hung bạo, không chịu khuất phục của kiêu binh, nhưng cũng đồng thời cho thấy sự nổi loạn, tàn bạo đã thể hiện cụ thể, sống động, nó cho thấy sức mạnh của đám đông có thể làm những điều lay chuyển thế lực cầm quyền.
- Sự bất lực và thất bại của phe cánh Quận Huy
- Quận Huy vẫn tin ở uy quyền của mình, biết trước âm mưu nổi loạn của đám kiêu binh vẫn không thèm phòng bị gì, một mình giữa đám loạn quân hung hãn vẫn quát tháo thị oai.
+ “Quận Huy giương cung định bắn, chẳng may cung bị đứt dây; lại vớ lấy sung để nạp đạn nhưng mồi lửa tịt không cháy”
+ “Em ruột Quận Huy là Lý Vũ hầu Hoàng Lương nghe tin có biến vội vàng chạy bổ vào phủ đường. Nhưng mới đến cửa chùa Báo Thiên thì bị quân lính quát đứng lại, rồi họ vớ luôn gạch đá trên đường đập cho vỡ đầu và vứt xác xuống hồ Thủy Quân”.
- Cảnh Trịnh Tông lên ngôi chúa có gì đặc biệt
- Trịnh Tông đúng là ông chúa bù nhìn, hắn lên ngôi chúa hoàn toàn nhờ chỗ dựa là đám lính tráng tự phát nổi lên.
- Kiêu binh đã lập Trịnh Tông lên, cảnh khiêng Tông trên chiếc mâm gỗ, đưa lên, đưa xuống, như “giỡn quả cầu” trong tiếng reo hò của đám loạn quân và dân hàng phố mọi người xúm lại đông như họp chợ. Hai tiếng “họp chợ” thật mỉa mai! Họ lại đặt sập gụ ngoài phủ đường để đưa Tông lên ngôi. Mấy chữ “ngoài phủ đường” cũng hài hước, chẳng có chút uy nghiêm nào với một vị chúa.
Chuẩn bị
Yêu cầu (trang 35 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2 – Cánh diều):
- Đoạn trích có những nhân vật và sự kiện nào nổi bật? Các nhân vật và sự kiện đó có liên quan đến lịch sử hay được tác giả hư cấu?
- Nhân vật: Dự Vũ, Đầu bếp
- Sự kiện nào nổi bật: kiêu binh nổi loạn, giết Quận Huy, phế Trịnh cán và lập Trịnh Tông lên ngôi chúa.
- Các nhân vật và sự kiện đó có liên quan đến lịch sử và vừa có tính hư cấu.
- Nội dung (đề tài, chủ đề) và những hình thức nghệ thuật đặc sắc của đoạn trích là gì?
- Đề tài: cuộc chiến giành chính quyền
- Chủ đề: Phản ánh sự sụp đổ của triều đại Lê – Trịnh và sự hỗn loạn khi kiêu binh nổi lên giành chính quyền.
- Nội dung đoạn trích mang lại cho em những hiểu biết, suy nghĩ và tình cảm gì?
- Nội dung giúp ta hiểu được sự suy đồi của phủ chúa Trịnh khi cha con, anh em tranh giành quyền lực mà hãm hại lẫn nhau, phế con trưởng lập con thứ vì tư lợi riêng, không đặt quyền lợi của nhân dân, đất nước lên hàng đầu.
Đọc hiểu
* Nội dung chính:
“Kiêu binh nổi loạn” thuộc hồi thứ hai của tác phẩm, kể chuyện kiêu binh nổi loạn, giết Quận Huy Hoàng Đình Bảo, phế Trịnh Cán, lập Trịnh Tông lên ngôi chúa.
* Trả lời câu hỏi giữa bài:
Câu 1 (trang 36 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2 – Cánh diều):
- Người kể chuyện toàn tri (ngôi thứ ba)
Câu 2 (trang 36 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2 – Cánh diều):
Người kể nhận xét đó là người cơ trí, nói năng rành mạch
Câu 3 (trang 37 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2 – Cánh diều):
- Lúc đầu: khiêm nhường, e sợ có điều gì kinh động
- Sau đó: tỏ ra nghe lời vương tử và thực hiện mệnh lệnh
Câu 4 (trang 37 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2 – Cánh diều):
Người kể chuyện về nhân vật Bằng Vũ là người kể chuyện toàn tri.
Câu 5 (trang 38 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2 – Cánh diều):
- Lời nói: “Ngày mai có biến, tôi sẽ chết. Nhưng tôi chết cũng phải có dăm ba mạng đi theo” => Dự đoán được điều không lành sắp xảy ra
- Thái độ: không chút sợ hãi, nao núng, “nói toạc ra ở trong triều”
- Hành động: Đưa ra một tờ khải nói là Huy Bá tố cáo Quận Viêm đang âm mưu làm phản và xin các quan hãy tra xét trừng trị.
Câu 6 (trang 39 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2 – Cánh diều):
Quân binh nghe thấy tiếng trống tức thì người nào cũng nhảy nhót, hăng hái, cầm binh khí xô lấn nhau vào trong phủ.
=> Khí thế hào hùng, mạnh mẽ
Câu 7 (trang 39 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2 – Cánh diều):
- Hành động: mở cửa
- Thái độ: hèn nhát, run sợ
Câu 8 (trang 40 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2 – Cánh diều):
- Quận Huy giương cung định bắn, chẳng may cung bị đứt dây, vớ lấy súng để nạp đạn nhưng mồi lửa tịt không cháy
- Quân lính thừa dịp dùng luôn câu liêm lôi viên quản tượng xuống đất mà chém, voi bước lùi trở lại
- Voi đứng yên một chỗ không thể nhúc nhích
- Họ dùng câu lương móc cổ Quận Huy kéo xuống rồi đánh đấm túi bụi, giết chết ngay tại chỗ
Câu 9 (trang 40 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2 – Cánh diều):
Khắc hoạ rõ nét hình ảnh quân lính kiệu thế tử lên vai, làm nổi bật khí thế vui mừng, phấn khởi khi phò thế tử Tông lên phủ đường.
Câu 10 (trang 41 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2 – Cánh diều):
- Chỉ trong chốc lát, nhà cửa Quận Huy bị phá tan tàng, một mảnh ngói cũng không còn.
- Các quan văn võ hễ ai thuộc bè đảng của Thị Huệ và Quận Huy cùng những người dự vào việc tố giác vụ án năm Cánh Tí, những viên quan hầu mọi ngày đều có tính nghiệt mã mà quân lính vẫn ghét, lúc bấy giờ đều bị phá nhà hàng loạt và bị lùng bắt đem giết chết.
Câu 11 (trang 41 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2 – Cánh diều):
- Chúa phải sai người dò xét trong kinh kì, lén đến chỗ họ tụ họp rồi bắt phứa một người thường dân ở gần đó đem chém để ra oai.
* Trả lời câu hỏi cuối bài:
Câu 1 (trang 42 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2 – Cánh diều):
- Kiêu binh bàn kế hoạch nổi loạn, cùng đề xuất kế sách của Bằng Vũ.
- Quận Huy đứng ra đỡ lời cho Bằng Vũ để không bị giết trước mặt các quan.
- Kiêu binh đến nhà Quận Huy nổi loạn và giết Quận Huy.
- Kiêu binh lập thế tử Tông lên ngôi làm chúa.
- Kiêu binh giết sạch những người liên quan đến bè đàng của Thị Huệ và Quận Huy.
Mâu thuẫn ở đây là việc chúa bỏ con cả, lập con út lên làm vua khiến thiên hạ đều căm ghét, nhất là quân lính lại càng thêm bất bình
Câu 2 (trang 42 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2 – Cánh diều):
- Kiêu binh tiến đến nhà Quận Huy: “Quân lính nghe thấy tiếng trống tức thi người nào cũng thấy nhảy nhót hăng hái, cùng cầm binh khí xô lấn nhau mà vào trong phủ; Họ cứ đứng hò reo, quát tháo long trời lở đất”.
- Kiêu binh xông vào nhà và giết Quận Huy: “Quân lính thừa dịp dùng luôn câu liêm lôi viên quan tượng xuống đất mà chém; Quân lính xúm đến vây kín dưới chân voi; Quân lính hăng máu kéo đến càng đông; Họ bèn dùng câu liêm móc cổ Quận Huy kéo xuống, rồi đánh đấm túi bụi, giết chết ngay tại chỗ”.
- Kiêu binh giết được Quận Huy và ăn mừng: “Quân lính vui mừng reo hò như sấm; Họ kiệu thế tử lên vai, rồi đứng xúm xung quanh, gào lên vui sướng; họ phải dùng tạm chiếc mâm vẫn bày cỗ lộc làm ghế, đặt tư thế ngồi lên, rồi tám người kề vai vào khiêng...mỗi lần thế tử được nhô lên cao, quân lính lãi vô tay reo hò vang lên một chặp.
Khi đám kiêu binh giết những người liên quan đến Quận Huy: họ lại kéo đến quỳ ở trước mặt chúa xin phá tất cả dinh cơ của Quận Huy; họ làm náo động cả kinh thành”.
=> Những hành động ấy cho thấy kiêu binh rất quyết tâm lật đổ bè phái Quận Huy, thế và lực đều rất mạnh, lực lượng đông đảo có thể chiến thắng mọi kẻ thù.
Câu 3 (trang 42 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2 – Cánh diều):
- Quận Huy giương cung định bắn, chẳng may cung bị đứt dây, vớ lấy súng để nạp đạn nhưng mồi lửa tịt không cháy
- Quân lính thừa dịp dùng luôn câu liêm lôi viên quản tượng xuống đất mà chém, voi bước lùi trở lại
- Voi đứng yên một chỗ không thể nhúc nhích
- Họ dùng câu lương móc cổ Quận Huy kéo xuống rồi đánh đấm túi bụi, giết chết ngay tại chỗ
Câu 4 (trang 42 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2 – Cánh diều):
- Cảnh Trịnh Tông lên ngôi chúa:
+ Họ dùng tạm chiếc mam vẫn bày cỗ lộc làm ghế, đặt thế tử ngồi lên. Chốc chốc họ lại nâng bổng chiếc mâm lên đầu mà đội, đầu mỏi lại hạ xuống vai rồi vai vai mỏi lại nâng lên đầu, cứ lên lên xuống xuống
+ Quân lính đặt chiếc sập ngụ ở ngoài phủ đường, các quan đều dìu thế tử lên ngôi chúa. Cuộc mừng lễ xong rồi, các quan mới đem đạo sắc của nhà vua và tờ chi của thánh mẫu dụ ba quân về việc phò lập chú, tới dán ở cửa các. Những tờ ấy đều là tạm thời thảo ra, nhưng được gọi là mệnh lệnh định sẵn.
- Nghệ thuật miêu tả: cách miêu tả sinh động, chân thực cùng hình ảnh so sánh cụ thể, sống động giúp ta thấy được vị chúa mới lên ngôi là bù nhìn, ngôi vị là do đám kiêu binh nổi loạn tạo ra, đến những giấy tờ không có giá trị nhưng cũng được coi là mệnh lệnh định sẵn.
Câu 5 (trang 42 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2 – Cánh diều):
- Một số bình luận, đánh giá của người kể chuyện:
+ Mọi người đều reo mừng hưởng ứng và cùng nhìn về phía kẻ mới nói, thì ra đó là viên biện lại của đội Tiệp bảo tên là Bằng Vũ
+ Cứ thế lên lên xuống xuống y như người ta giỡn quả cầu hoặc rước pho tượng Phật
+ Những kẻ buôn bán ở các phố phường, chợ búa đều tranh nhau kéo đến xem mặt chúa, sân phủ đông như họp chợ.
+ Lại nói, bọn quân lính tuy đã giết chết anh em Quận Huy nhưng cơn giận vẫn chưa hả
....
- Quan điểm và thái độ của người kể là khách quan và đáng tin cậy. Vì nhóm tác giả là những người kể sử, viết sử, tôn trọng sự thật khách quan, là người quan sát toàn năng, biết hết tất cả mọi việc, biết rõ suy nghĩ và hành động của các nhân vật.
Câu 6 (trang 42 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2 – Cánh diều):
Sau khi đọc “Kiêu binh nổi loạn”, ta thấy ý kiến của Lê Quý Đôn quả thật vô cùng đúng đắn, sâu sắc. Triều chính tham nhũng, vì tư lợi riêng mà bất chấp thủ đoạn, nội chiến xảy ra khiến người gánh chịu cực khổ nhất là nhân dân vô tội. Quận Huy dù biết trước kết cục nhưng lại thờ ơ, không phòng bị, tự kiêu và gánh chịu hậu quả. Dù Trịnh Tông được tôn xưng lên làm vua nhưng đó chỉ là một chức danh bù nhìn, ngai vàng lại là cái mâm trên vai đám lính tráng. Một xã hội binh kiêu tướng thoái, tham nhũng tràn lan, sĩ phi ngoảnh mặt đã khiến cho đất nước ngày một đi xuống, triều đại sụp đổ.
Bài soạn "Kiêu binh nổi loạn" (Ngữ văn 10 - SGK Cánh diều) - mẫu 3
Chuẩn bị
Yêu cầu (trang 35 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2):
- Đọc phần Kiến thức ngữ văn để vận dụng vào bài đọc hiểu văn bản này:
- Cần lưu ý: Tiểu thuyết chương hồi xuất hiện đầu tiên và thịnh hành ở Trung Quốc khoảng từ thế kỉ XIV đến cuối thế kỉ XVIII. Đặc điểm nổi bật của tiểu thuyết chương hồi là sự phân chia tác phẩm thành những hồi khác nhau. Mỗi hồi đều có tiêu đề khái quát nội dung được trình bày trong hồi. Kết thúc mỗi hồi thường có câu thơ mang tính chất bình luận. Sau những câu thơ là những lời gắn kết hồi trước với hồi sau, kích thích sự quan tâm, chú ý của người đọc. Tiểu thuyết chương hồi thường chú ý đến các sự kiện, tình huống bất ngờ, hồi hộp, căng thẳng, thú vị. Trong tiểu thuyết chương hồi, tính cách nhân vật được thể hiện tương đối nhất quán, rõ ràng thông qua đối thoại và hành động.
- Khi đọc văn bản Kiêu binh nổi loạn, em cần chú ý:
+ Đoạn trích có những nhân vật và sự kiện nào nổi bật? Các nhân vật và sự kiện đó có liên quan đến lịch sử hay được tác giả hư cấu?
+ Nội dung (đề tài, chủ đề) và những hình thức nghệ thuật đặc sắc của đoạn trích là gì?
+ Nội dung đoạn trích mang lại cho em những hiểu biết, suy nghĩ và tình cảm gì?
- Đọc trước văn bản Kiêu binh nổi loạn và tìm hiểu thêm thông tin về nhóm tác giả Ngô gia văn phái, tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí.
- Đọc nội dung giới thiệu sau đây để hiểu bối cảnh đoạn trích:
Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm viết bằng chữ Hán theo hình thức tiểu thuyết chương hồi. Nội dung chính của Hoàng Lê nhất thống chí phản ánh thời kì lịch sử khoảng 30 năm, từ khi Trịnh Sâm lên ngôi chúa (1768) đến lúc Gia Long lên ngôi vua (1802). Tác phẩm tái hiện một cách phong phú, sinh động bức tranh xã hội trong thời kì khủng hoảng triền miên, dẫn đến sự sụp đổ của các tập đoàn phong kiến Lê -Trịnh và khí thế quật khởi, tinh thần quyết liệt chống thù trong giặc ngoài của phong trào khởi nghĩa Tây Sơn do Nguyễn Huệ đứng đầu.
Đoạn trích Kiêu binh nổi loạn dưới đây thuộc Hồi thứ hai của tác phẩm, kể chuyện kiêu binh nổi loạn, giết Quận Huy Hoàng Đinh Bảo, phế Trịnh Cán, lập Trịnh Tông lên ngôi chúa.
Trả lời:
- Về nội dung, đây là đoạn trích phản ánh trực tiếp một sự kiện lớn, chấn động kinh thành Thăng Long vào những năm 80 của thế kỉ XVIII: loạn kiêu binh. Nguyên chúa Trịnh Sâm bỏ con cả là Trịnh Tông, lập con thứ là Trịnh Cán làm thế tử. Khi Trịnh Sâm mất, để di chiếu lập Cán làm chúa và Quận Huy Hoàng Đình Bảo làm phụ chính. Trịnh Tông bèn mưu với quân tam phủ nổi loạn, diệt phe cánh Quận Huy, phế chúa nhỏ Trịnh Cán, lập Trịnh Tông lên ngôi chúa mới. Sự kiện nóng bỏng này cho thấy cơn kịch phát khủng hoảng của tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh. Tập đoàn thống trị này hoàn toàn bất lực, bế tắc, không thể giải quyết được các mâu thuẫn nội bộ, dẫn đến sự can thiệp manh động của binh lính vào công việc đại sự quốc gia, khiến tình trạng loạn lạc trong cung phủ, ở nơi trung tâm nhất của chế độ trở nên hết sức gay gắt, trầm trọng và sự sụp đổ của chế độ là không thể cứu vãn.
Đọc hiểu
* Nội dung chính:
Đoạn trích Kiêu binh nổi loạn thuộc Hồi thứ hai của tác phẩm, kể chuyện kiêu binh nổi loạn, giết Quận Huy Hoàng Đinh Bảo, phế Trịnh Cán, lập Trịnh Tông lên ngôi chúa
.
* Trả lời câu hỏi giữa bài
Câu 1 (trang 36 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Người kể chuyện là ai?
Trả lời:
Câu chuyện được kể ở ngôi thứ ba, có thể cho rằng người kể chuyện là nhóm tác giả Ngô Gia Văn Phái.
Câu 2 (trang 36 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Người kể chuyện nhận xét gì về đầu bếp, gia thần của Trịnh Tông?
Trả lời:
Đầu bếp, gia thần của Trịnh Tông được nhận xét là “người cơ tri”, “kẻ tinh khôn”, có nhiều mưu trí, ứng phó linh hoạt
Câu 3 (trang 37 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Chú ý động cơ và thái độ của đầu bếp, thân quân
Trả lời:
Động cơ và thái độ đầu bếp Dự Vũ và gia thần Gia Thọ đều căm ghét Quận Huy và phe phái như kẻ thù của chúng. Chính vì vậy trong của lời nói của Dự Vũ, Gia Thọ đều có tính chất xúi giục, hậu thuẫn cho Tông làm phản. Tông mời cơm ngỏ ý chỉ là một biểu hiện phó thác chính thức, lái mũi nhọn chĩa vào Quận Huy.
Câu 4 (trang 37 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Ai là người kể chuyện về nhân vật Bằng Vũ
Trả lời:
Nhân vật Bằng Vũ xuất hiện qua ngày hội họp quân lính ở chùa Khán Sơn, với ngôi kể chuyện ở ngôi thứ ba, có thể cho rằng người kể chuyện là nhóm tác giả Ngô Gia Văn Phái.
Câu 5 (trang 38 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Chú ý lời nói, thái độ và hành động của quận Huy.
Trả lời:
“…Quận Huy cũng biết tai họa sắp xảy ra, liền nói toạc ra ở trong triều rằng:
- Ngày mai có biến, tôi sẽ chết. Nhưng tôi chết cũng phải có dăm ba mạng đi theo.”
“Gặp lúc trời sắp tối, người nhà Quận Huy có kẻ khuyên hắn nên bế tân chúa đi trốn,… Nhưng Quận Huy đều gạt đi mà rằng:
- Xưa nay thói đời … cần gì phải hốt hoảng!”
“Đêm ấy, Quận Huy ngủ ở trong phủ, cũng chỉ đem theo vài người hầu như mọi ngày, không hề phòng bị gì hết.”
→ Sự bất lực thảm hại của phe Quận Huy đã quá rõ. Không đề phòng, thiếu mưu lược, chủ quan khinh địch, cho rằng “thói đời hay phao nhảm”, chính điều đó đã mang tới cái kết bi kịch
Câu 6 (trang 39 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Khí thế của kiêu binh được miêu tả như thế nào?
Trả lời:
“Lại nói, quân lính nghe thấy tiếng trống tức thì người nào cũng nhảy nhót hăng hái, cùng cầm binh khí xô lấn nhau mà vào trong phủ”
“…quân lính ở bên ngoài không vào được, họ cứ đứng hò reo, quát tháo long trời lở đất.”
Câu 7 (trang 39 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Chú ý hành động và thái độ của Quận Châu trước đám kiêu binh.
Trả lời:
- Lúc đầu, Quận Châu đứng ở phía trái trong cửa các, lên tiếng “dụ” binh lính, nhắc nhở binh linh phải lễ phép vì có quan tài của Trịnh Sâm chưa được an táng ở đây.
- Lúc sau vì quá run sợ trước khí thế của binh lính, Quận Châu phải mở cửa cho binh lính xông vào.
Câu 8 (trang 40 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Tình thế bất lực, thảm hại và bi đát của quận Huy được miêu tả qua những chi tiết nào?
Trả lời:
Rồi họ lấy khí giới đâm chém túi bụi … giết chết ngay tại chỗ.
Câu 9 (trang 40 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Những hình ảnh so sánh trong lời kể có tác dụng gì?
Trả lời:
Những hình ảnh so sánh trong lời kể có tác dụng như những tư liệu đủ để dựng lại bộ mặt, không khí của lịch sử một cách cụ thể, sinh động.
Câu 10 (trang 41 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Kiêu binh lộng hành bức ép chúa cũ, trả thù các đại thần như thế nào?
Trả lời:
Phá tan nát tất cả dinh cơ của Quận Huy, một mảnh ngói cũng không còn. Phàm các quan văn võ hễ ai thuộc bè đảng của Thị Huệ và Quận Huy, cùng những người dự vào việc tố giác vụ án năm Canh Tí, những viên quan hầu mọi ngày có tính nghiệt ngã mà quân lính vẫn ghét, lúc ấy cũng đều bị phá nhà hàng loạt và bị lùng bắt đem giết chết.
Câu 11 (trang 41 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Chi tiết nào cho thấy Trịnh Tông bất lực, không kiểm soát được kiêu binh?
Trả lời:
Chi tiết cuối bài cho thấy Trịnh Tông bất lực, không kiểm soát được kiêu binh: “Chúa phải sai người dò xét trong kinh kì, lén đến chỗ họ tụ họp, rồi bắt phứa một người thường dân ở gần đó đem chém để ra oai” Cho thấy rằng Trịnh Tông chỉ là con rối trong tay kiêu binh, không dám động vào quân linh để thị uy.
* Trả lời câu hỏi cuối bài
Câu 1 (trang 42 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Hãy nêu những sự kiện chính trong văn bản Kiêu binh nổi loạn và cho biết mâu thuẫn ở đây là gì?
Trả lời:
- Sự kiện chính được kể trong văn bản Kiêu binh nổi loạn:
+ Trịnh Tông cùng đám đầu bếp, gia thần khích động binh lính nổi loạn.
+ Kiêu binh tụ họp, bàn bạc, hưởng ứng, bầu Bằng Vũ làm chủ mưu, cùng nhau uống máu ăn thề.
+ Quận Huy biết tai họa sắp xảy ra nhưng không phòng bị; kiêu binh xông vào nội phủ, Quận Huy liều chết chống lại, bị giết.
+ Kiêu binh phò Trịnh Tông lên ngôi chúa; kiêu binh đốt phá dinh thựu của Quận Huy, Thừa kế hoành hành trả thủ riêng, gây náo động cả kinh thành.
- Mâu thuẫn: Đây là cuộc tranh giành quyền lực giữa hai phe: phe Trịnh Tông – kiêu binh với phe Trịnh Cán – Quận Huy Hoàng Đình Bảo. Trịnh Tông muốn đoạt ngôi chúa từ Trịnh Cán. Quận Huy nhận ủy thác của Trịnh Sâm, làm phụ chính cho Trịnh Cán. Kiêu binh “căm ghét”, “bất bình”, “miễn cưỡng”, “hậm hực”, … về việc này, khi được Trịnh Tông kích động đã nổi loạn giết Quận Huy, phế chúa nhỏ Trịnh Cán, phò Trịnh Tông lên ngôi chúa.
Câu 2 (trang 42 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Tìm những chi tiết miêu tả hành động của đám kiêu binh. Em có nhận xét gì về những hành động ấy?
Trả lời:
Những chi tiết miêu tả hành động của đám kiêu binh:
- Khi bị Trịnh Tông xúi giục, khích động: liền hưởng ứng, “ngầm đi báo cho nhau, hẹn ngày tụ họp.
- Khi tụ họp, bàn bạc ở chùa Khán Sơn: thái độ hăng hái, âm mưu táo bạo, bầu ngay Bằng Vũ làm chủ mưu, uống máu ăn thề, không dự định ngày nổi dậy, chỉ hẹn nhau nghe hiệu lệnh trống là kéo đến khởi sự (hăng hái, manh động, tự phát, vô tổ chức, khinh nhờn thế lực của phe Quận Huy).
- Khi nghe tiếng trống, xông vào phù đường, giết anh em Quận Huy:
+ Nghe tiếng trống thì “nhảy nhót hăng hái, cùng cầm binh khí xô lẫn nhau mà vào trong phủ”, “đứng hò reo, quát tháo long trời lở đất” (khí thế hăng hái, thế lực rất mạnh).
+ “Thét lên”, đe doạ Quận Châu.
+ Mới đầu đối mặt với Quận Huy thì “khiếp đảm”, “ngồi xụp xuống”, “không dám lên tiếng” (thói quen phục tùng)
+ Sau đó thì “nhao nhao đứng dậy, kéo ập vào trước đầu voi”, “đâm chém túi bụi”, “cạy gạch ngói ở phủ ném ra tới tấp”, chém viên quản tượng, “xúm đến vây kín dưới chân voi”, “dùng câu liêm móc cổ Quận Huy kéo xuống, rồi đánh đấm túi bụi giết chết ngay tại chỗ”.
+ Với em Quận Huy: “vớ luôn gạch đá”, “đập cho vỡ đầu và vứt xác xuống hồ” (sức mạnh đám đông, tàn bạo).
- Khi phò Trịnh Tông lên ngôi chùa: “reo hò như sấm”, “kiệu thế tử trên vai”, “đứng xúm quanh, gào lên”; đặt Trịnh Tông trên mâm, nâng lên hạ xuống y như người ta giỡn quả cầu hoặc nước pho tượng Phật” (náo động, không chút uy nghiêm).
- Khi trả thù các đại thần; nhà cửa Quận Huy bị phá tan tành, “một mảnh ngói cũng không còn”; kiêu binh “thừa thế hoành hành” đốt phá giết người bừa bãi gây “náo động kinh thành” (đám đông tàn bạo, mù quáng, vô chính phủ).
Câu 3 (trang 42 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Những chi tiết, hình ảnh nào cho thấy sự bất lực và thất bại của phe cánh Quận Huy?
Trả lời:
- Những chi tiết, hình ảnh cho thấy Quận Huy và các đại thần bị động, lúng túng, không đề phòng, thiếu mưu lược đối phó: qua cuộc đối thoại giữa Quận Huy với các quan ở trong triều cho thấy Quận Huy biết tai hoạ sắp xảy ra nhưng không lường hết mức độ của tai hoạ, chủ quan, liều chết: đã biết trước (“Ngày mai có biến... ”), ở thái độ liều chết (“Nhưng tôi chết cũng có dăm ba mạng đi theo”); chủ quan, khinh xuất gạt ngoài tai lời khuyên “đi trốn”, “bắt bọn gian”, chủ động “tự vệ” của người nhà; đêm ấy, Quận Huy ngủ trong phủ “không hề phòng bị gì hết”; các quan không nắm được tình hình, hoàn toàn bị động (“nhìn nhau ngơ ngác”).
- Khi lâm vào tình thế tai hoạ, bị kiêu binh bao vây, uy hiếp thì Quận Châu “run sợ, phải mở cửa”; Quận Huy viết tờ khải, tỏ thái độ trung thành và tinh thần “liều chết” (“Nếu dẹp được..., nhược bằng không dẹp được, tôi cũng xin liều chết.. ) cưỡi voi thị oai trước đám lính nhưng nhanh chóng rơi vào tình thế bi đát, bị cô lập, bất lực, cùng đường (sờ đến cung thì cung đứt dây, sờ đến súng thì súng không nổ,...); cuối cùng “bị giết chết ngay tại chỗ”; em Quận Huy là Lý Vũ Hầu cũng bị quân lính đánh chết.
- Các chi tiết, hình ảnh diễn tả sự bế tắc, cùng đường, trơ trọi và thất bại thảm hại của phe cánh Quận Huy.
Câu 4 (trang 42 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Cảnh Trịnh Tông lên ngôi chúa có gì đặc biệt? Nhận xét về nghệ thuật miêu tả của tác giả.
Trả lời:
- Cảnh Trịnh Tông lên ngôi chúa “đặc biệt”: Kiêu binh không có chuẩn bị gì cho việc đăng quang ngôi chùa của Trịnh Tông, khiến lễ đăng quang diễn ra không khác trò hề, mua vui cho thiên hạ: đặt thế tử ngồi trên “chiếc mâm vẫn bày cỗ lộc”, “chốc chốc, họ lại nâng bổng chiếc mâm lên đầu mà đội; đầu mỏi lại hạ xuống vai, rồi vai mỏi lại năng lên đầu. Cứ thế lên lên xuống xuống y như người ta giỡn quả cầu hoặc rước pho tượng Phật. Mỗi lần thế tử được nhô lên cao, quân lính lại vỗ tay reo hò vang lên một chặp. Những kẻ buôn bán ở các phố phường, chợ búa đều tranh nhau kéo đến xem mặt chúa, sân phủ đông như họp chợ.”.
- Nhận xét về nghệ thuật miêu tả của tác giả: Tác giả có cách miêu tả rất sắc nét, sinh động cảnh Trịnh Tông lên ngôi chúa. Qua các So sánh (“y như người ta giỡn quả cầu hoặc rước pho tượng Phật”, “đông như họp chợ”), tác giả bày tỏ thái độ mỉa mai kín đáo. Lễ đăng quang ngôi chúa đáng lẽ phải trang nghiêm, trang trọng, nhưng qua cách miêu tả của tác giả thì chẳng khác gì một trò diễn vụng về, lố bịch.
Câu 5 (trang 42 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Hãy dẫn ra một số bình luận, đánh giá của người kể chuyện đối với các sự kiện và nhân vật trong văn bản. Theo em, quan điểm và thái độ của người kể chuyện có khách quan và đáng tin cậy không? Vì sao?
Trả lời:
- Một số bình luận, đánh giá của người kể chuyện đối với các sự kiện và nhân vật lịch sử:
+ Thế tử có người đầu bếp tên là Dự Vũ, vốn là người cơ trí, nói năng rành mạch.
+ Thọ người làng Bát Tràng, huyện Gia Lâm, cũng là kẻ tinh khôn.
+ Bằng Vũ được người làng thuê đi lính thay. Gã người thấp bé, thanh nhã như học trò. Sau khi vào đội Tiệp bảo, nhờ biết dăm ba chữ, gã được làm chân biện lại. Ở kinh, gã thường làm mướn đơn kiện cho người ta, vẫn lừng tiếng là tay điêu toa trong việc xui nguyên giục bị.
+ Đêm ấy, Quận Huy ngủ ở trong phủ, cũng chỉ đem theo vài người hầu như mọi ngày, không hề phòng bị gì hết.
- Thái độ mỉa mai kín đáo của người kể chuyện thể hiện rõ nhất khi miêu tả việc kiêu binh phò Trịnh Tông lên ngôi chúa: “Cứ thế lên lên xuống xuống y như người ta giỡn quả cầu hoặc rước pho tượng Phật. Mỗi lần thế tử được nhô lên cao, quân lính lại vỗ tay reo hò vang lên một chặp. Những kẻ buôn bán ở các phố phường, chợ búa đều tranh nhau kéo đến xem mặt chúa, sân phủ đông như họp chợ.”
- Thái độ mỉa mai kín đáo thể hiện ngầm qua các so sánh. Lễ đăng quang ngôi
chúa đáng lẽ phải trang nghiêm nhưng qua cách miêu tả của tác giả thì không phải vậy.
- Quan điểm, thái độ của người kể chuyện là khách quan và đáng tin cậy vì người kể chuyện không trực tiếp dự phần vào cuộc chính biến, không dính líu về mặt tình cảm hay có quyền lợi chính trị liên quan đến các phe phái xung đột; không tỏ rõ thái độ bênh vực ai, có thành kiến với ai hay ủng hộ phe phái nào; các nhận xét, bình luận của người kể chuyện về nhân vật và sự việc là có cơ sở thực tế; người kể chuyện đóng vai trò như người quan sát từ bên ngoài, bình tĩnh, chừng mực và kín đáo trong cách nhận xét, miêu tả, tường thuật sự kiện và nhân vật.
Câu 6 (trang 42 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Người xưa từng nói về năm nguy cơ làm mất nước: “Một, trẻ không kính già; hai, trò không trọng thầy; ba, binh kiêu tướng thoái; bốn, tham nhũng tràn lan; năm, sĩ phu ngoảnh mặt”. Sau khi đọc đoạn trích Kiêu binh nổi loạn, em suy nghĩ gì về ý kiến này?
Trả lời:
Suy nghĩ về ý kiến của người xưa:
1) Trẻ không kính già, trò không kính thầy: Người trẻ phải hiếu kính với người già, đó là đạo hiếu. Học trò phải tôn trọng thầy, cô. Đó là đạo học. Giữ đạo hiếu, đạo học là giữ vững luân thường. Làm trái hai điều trên là xã hội vô đạo, có nguy cơ hỗn loạn.
2) Binh kiêu, tướng thoái: Quân lính cậy công trạng dẫn đến kiêu căng, làm nhiều điều trái phép; tướng lĩnh suy thoái về đạo đức và bản lĩnh, trốn tránh nhiệm vụ, chỉ biết lo thân, không đủ uy tín, uy quyền để sai khiến binh lính. Hậu quả là quân đội hỗn loạn, mất sức mạnh chiến đấu bảo vệ chế độ, đất nước.
3) Tham nhũng tràn lan: Quan chức tham lam vơ vét của công làm của riêng, viên lại (viên chức) nhũng nhiễu vòi vĩnh, quấy rầy, gây phiền hà nhân dân để trục lợi. Hiện tượng này nếu tràn lan, mất kiểm soát sẽ dẫn đến việc nhân dân mất niềm tin với quan chức và hệ thống chính quyền sẽ trở thành thế lực đối lập với nhân dân, bị nhân dân căm ghét.
4) Sĩ phu ngoảnh mặt: Sĩ phu là tầng lớp trí thức trong xã hội xưa, có kiến thức, hiểu biết; có năng lực phân tích, phản biện nhằm ngăn chặn, điều chỉnh các chính sách sai lầm, đề xuất các chính sách ích nước lợi dân. Khi tầng lớp này chán nản, thờ ơ đối với công việc quốc gia thì đất nước có nguy cơ lầm đường, lạc lối trong đối nội và đối ngoại, khó tránh suy tàn, sụp đổ.
→ Ý kiến của người xưa là sự tổng kết các kinh nghiệm trị nước hàng ngàn năm, hoàn toàn đúng đắn. Loạn kiêu binh trong Kiêu binh nổi loạn vừa là một hiện tượng nhãn tiền vừa là hệ quả của các nguy cơ mà người xưa đã tổng kết.
Bài soạn "Kiêu binh nổi loạn" (Ngữ văn 10 - SGK Cánh diều) - mẫu 4
1. Chuẩn bị
- Đoạn trích có những nhân vật: Dự Vũ, đầu bếp của Tông; Gia Thọ là gia thần, Bằng Vũ là gia binh, Quận Huy.
- Đề tài: Cuộc nổi loạn của binh lính; Chủ đề: Phản ánh sự sụp đổ của của triều đình Lê - Trịnh và nạn kiêu binh nổi loạn.
- Đặc sắc nghệ thuật: Ngôi kể thứ ba, tư liệu trình bày cụ thể và tỉ mỉ…
2. Đọc hiểu
Câu 1. Người kể chuyện là ai?
Người kể chuyện theo ngôi thứ ba, là người kể chuyện toàn tri.
Câu 2. Người kể chuyện nhận xét gì về đầu bếp, gia thần của Trịnh Tông?
Dự Vũ là người cơ trí, nói năng rành mạch; Gia Thọ là kẻ tinh khôn.
Câu 3. Ai là người kể chuyện về nhân vật Bằng Vũ?
Người kể chuyện theo ngôi thứ ba, là người kể chuyện toàn tri.
Câu 4. Khí thế của kiêu binh được miêu tả như thế nào?
Khí thế của kiêu binh: người nào cũng nhảy nhót hăng hái, cùng cầm binh khí xô lấn nhau vào trong phủ; không vào được thì hò reo, quát tháo long trời lở đất.
Câu 5. Tình thế bất lực, thảm hại và bi đát của Quận Huy được miêu tả qua những chi tiết nào?
Quận Huy giương cung định bắn, chẳng may cung bị đứt dây, lại vớ lấy súng để nạp đạn nhưng mồi lửa tịt không cháy… Họ dùng câu liêm móc cổ Quận Huy kéo xuống, rồi đánh đấm túi bụi, giết chết ngay tại chỗ.
Câu 6. Những hình ảnh so sánh trong lời kể có tác dụng gì?
Khắc họa một cách sinh động về hình ảnh quân lính.
Câu 7. Kiêu binh lộng hành bức ép chúa cũ, trả thù các đại thần như thế nào?
Chỉ trong chốc lát, nhà cửa của Quận Huy bị phá tan tành, một mảnh ngói cũng không còn; Phàn các quan văn võ hễ ai thuộc bè đảng của Thị Huệ và Quận Huy, cùng những người dự vào việc tố giác vụ án năm Canh Tí đều bị phá nhà hàng loạt và bị lùng bắt đem giết chết.
Câu 8. Chi tiết nào cho thấy Trịnh Tông bất lực, không kiểm soát được kiêu binh?
Tông phải hạ chỉ ngăn cấm mà họ vẫn không thôi…
3. Trả lời câu hỏi
Câu 1. Hãy nêu những sự kiện chính trong văn bản Kiêu binh nổi loạn và cho biết mâu thuẫn ở đây là gì?
- Những sự kiện chính trong văn bản:
- Dự Vũ, Gia Thọ xúi giục, hậu thuẫn cho Trịnh Tông làm phản.
- Trịnh Tông mời cơm ngỏ ý chỉ là một biểu hiện phó thác chính thức, lái mũi nhọn chĩa vào Quận Huy.
- Vũ Bằng là người dẫn đầu chủ mưu và giao cho hắn đánh trống để thúc giục ba quân.
- Kiêu binh nổi loạn đến phủ và giết chết Quận Huy.
- Lập Trịnh Tông làm vua, giết sạch bè đảng của Thị Huệ và Quận Huy.
- Mâu thuẫn: Chúa bỏ con cả, lập con út khiến thiên hạ căm ghét, quân lính bất bình.
Câu 2. Tìm những chi tiết miêu tả hành động của đám kiêu binh. Em có nhận xét gì về những hành động ấy?
- Kiêu binh tiến đến nhà Quận Huy: “Quân lính nghe thấy tiếng trống tức thi người nào cũng thấy nhảy nhót hăng hái, cùng cầm binh khí xô lấn nhau mà vào trong phủ; Họ cứ đứng hò reo, quát tháo long trời lở đất”.
- Kiêu binh xông vào nhà và giết Quận Huy: “Quân lính thừa dịp dùng luôn câu liêm lôi viên quan tượng xuống đất mà chém; Quân lính xúm đến vây kín dưới chân voi; Quân lính hăng máu kéo đến càng đông; Họ bèn dùng câu liêm móc cổ Quận Huy kéo xuống, rồi đánh đấm túi bụi, giết chết ngay tại chỗ”.
- Kiêu binh giết được Quận Huy và ăn mừng: “Quân lính vui mừng reo hò như sấm; Họ kiệu thế tử lên vai, rồi đứng xúm xung quanh, gào lên vui sướng; họ phải dùng tạm chiếc mâm vẫn bày cỗ lộc làm ghế, đặt tư thế ngồi lên, rồi tám người kề vai vào khiêng... mỗi lần thế tử được nhô lên cao, quân lính lãi vỗ tay reo hò vang lên một chặp.
Khi đám kiêu binh giết những người liên quan đến Quận Huy: họ lại kéo đến quỳ ở trước mặt chúa xin phá tất cả dinh cơ của Quận Huy; họ làm náo động cả kinh thành”.
=> Những hành động của kiều binh thể hiện sự căm tức, lòng quyết tâm lật đổ bè phái của Quận Huy.
Câu 3. Những chi tiết, hình ảnh nào cho thấy sự bất lực và thất bại của phe cánh Quận Huy?
- Quận Huy giương cung định bắn, chẳng may cung bị đứt dây, vớ lấy súng để nạp đạn nhưng mồi lửa tịt không cháy.
- Quân lính thừa dịp dùng luôn câu liêm lôi viên quản tượng xuống đất mà chém.
- Voi bước lùi trở lại. Quân lính xúm vây kín dưới chân voi. Voi đứng yên một chỗ không thể nhúc nhích.
- Họ dùng câu lương móc cổ Quận Huy kéo xuống rồi đánh đấm túi bụi, giết chết ngay tại chỗ.
- Em ruột Quận Huy là Lý Vũ hầu Hoàng Lương nghe tin có biến vội vàng chạy bổ vào phủ đường. Nhưng mới đến cửa chùa Báo Thiên thì bị quân lính quát dừng lại, rồi họ vớ luôn gạch đá trên đường đập cho vỡ đầu và vứt xác xuống hồ Thủy Quân.
Câu 4. Cảnh Trịnh Tông lên ngôi chúa có gì đặc biệt? Nhận xét về nghệ thuật miêu tả của tác giả.
- Cảnh Trịnh Tông lên ngôi chúa đặc biệt:
- Trong lúc gấp vội không có kỉ sập, họ phải dùng tạm chiếc mâm vẫn bày cỗ lộc làm ghế, đặt thế tử ngồi lên, rồi tám người kề vai vào khiêng. Chốc chốc họ lại nâng bổng chiếc mâm lên đầu mà đội, đầu mỏi lại hạ xuống vai rồi vai vai mỏi lại nâng lên đầu. Cứ thế lên lên xuống xuống, y như người ta giỡn quả cầu hoặc rước pho tượng Phật.
- Quân lính đặt chiếc sập ngụ ở ngoài phủ đường, các quan đều dìu thế tử lên ngôi chúa. Cuộc mừng lễ xong rồi, các quan mới đem đạo sắc của nhà vua và tờ chi của thánh mẫu dụ ba quân về việc phò lập chú, tới dán ở cửa các. Những tờ ấy đều là tạm thời thảo ra, nhưng được gọi là mệnh lệnh định sẵn.
- Nghệ thuật miêu tả của tác giả: Sinh động, chân thực mà có phần hài hước để thấy được vị chúa mới cũng chỉ là kẻ bù nhìn.
Câu 5. Hãy dẫn ra một số bình luận, đánh giá của người kể chuyện đối với các sự kiện và nhân vật trong văn bản. Theo em, quan điểm và thái độ của người kể chuyện có khách quan và đáng tin cậy không? Vì sao?
- Một số bình luận, đánh giá của người kể chuyện:
- Lúc quân lính đến hội họp, bàn về việc ấy không ai là không hăng hái…
- Mọi người đều reo mừng hưởng ứng và cùng nhìn về phía kẻ mới nói, thì ra đó là viên biện lại của đội Tiệp bảo tên là Bằng Vũ…
- Cứ thế lên lên xuống xuống y như người ta giỡn quả cầu hoặc rước pho tượng Phật.
- Những kẻ buôn bán ở các phố phường, chợ búa đều tranh nhau kéo đến xem mặt chúa, sân phủ đông như họp chợ.
- Lại nói, bọn quân lính tuy đã giết chết anh em Quận Huy nhưng cơn giận vẫn chưa hả…
- Quan điểm và thái độ của người kể chuyện có khách quan và đáng tin cậy. Vì người kể là ngôi thứ ba đã quan sát toàn bộ diễn biến sự việc, nắm được hành động của các nhân vật…
Câu 6. Người xưa từng nói về năm nguy cơ làm mất nước: “Một, trẻ không kính già; hai, trò không trọng thầy; ba, binh kiêu tướng thoái; bốn, tham nhũng tràn lan; năm, sĩ phu ngoảnh mặt.” Sau khi đọc đoạn trích Kiêu binh nổi loạn, em suy nghĩ gì về ý kiến này?
- Ý kiến trên: Đúng đắn.
- Giải thích: Sự nổi loạn của kiêu binh cho thấy sự hỗn loạn của đất nước lúc bấy giờ, dễ dẫn đến mất nước.
Bài soạn "Kiêu binh nổi loạn" (Ngữ văn 10 - SGK Cánh diều) - mẫu 5
CHUẨN BỊ
Câu 1: Đoạn trích có những nhân vật và sự kiện nào nổi bật? Các nhân vật và sự kiện đó có liên quan đến lịch sử hay được tác giả hư cấu?
Trả lời:
Đoạn trích có những nhân vật: Dự Vũ, đầu bếp của Tông; Gia Thọ là gia thần, Bằng Vũ là gia binh, Quận Huy.
Sự kiện nào nổi bật: kiêu binh nổi loạn, giết Quận Huy, phế Trịnh cán và lập Trịnh Tông lên ngôi chúa.
Các nhân vật và sự kiện đó có liên quan đến lịch sử và vừa có tính hư cấu.
Câu 2: Nội dung (đề tài, chủ đề) và những hình thức nghệ thuật đặc sắc của đoạn trích là gì?
Trả lời:
Đề tài: một cuộc nổi loạn của binh lính.
Chủ đề: phản ánh sự sụp đổ triều đại Lê - Trịnh và sự hỗn loạn khi kiêu binh nổi loạn.
Những hình thức nghệ thuật đặc sắc: sử dụng ngôi kể thứ ba, những tư liệu được trình bày hết sức cụ thể, tỉ mỉ, bút pháp tả thực.
Câu 3: Nội dung đoạn trích mang lại cho em những hiểu biết, suy nghĩ và tình cảm gì?
Trả lời:
Nội dung đoạn trích mang lại cho em biết về sự thối nát của phủ chúa Trịnh: cha, con, anh em tranh giành quyền lực, việc phế con trưởng lập con thứ hoàn toàn do quyền lợi ích kỉ của phe đảng, không vì quyền lợi của đất nước, nhân dân. Qua đó, thấy được một đất nước bị rữa nát từ chính quyền trung ương.
ĐỌC HIỂU
Câu 1: Người kể chuyện là ai?
Trả lời:
Người kể chuyện là người kể chuyện toàn tri.
Câu 2: Người kể chuyện nhận xét gì về đầu bếp, gia thần của Trịnh Tông?
Trả lời:
Đầu bếp Dự Vũ là người cơ tri, nói năng rành mạch. Gia thần Gia Thọ là kẻ tinh khôn.
Câu 3: Chú ý động cơ và thái độ của đầu bếp, thân quân.
Trả lời:
Động cơ và thái độ của đầu bếp, thân quân: ban đầu nói với giọng điệu thể hiện sự khiêm nhường, e sợ rằng nếu có điều gì kinh động, sẽ bị quở trách gây tội, sau đó, tỏ ra là nghe lời vương tử và thực hiện theo mệnh lệnh đó.
Câu 4: Ai là người kể chuyện về nhân vật Bằng Vũ?
Trả lời:
Người kể chuyện về nhân vật Bằng Vũ là người kể chuyện toàn tri.
Câu 5: Chú ý lời nói, thái độ và hành động của Quận Huy.
Trả lời:
Lời nói: như biết trước có tai họa sắp xảy ra không lành với mình (cái chết).
Thái độ: không hề nao núng, sợ hãi, "nói toạc ra ở trong triều".
Hành động: Quận Huy đưa ra một tờ khải với nội dung: Huy Bá tố cáo Quận Viêm đang âm mưu làm phản và xin các quan hãy tra xét để trừng trị.
Câu 6: Khí thế của kiêu binh được miêu tả như thế nào?
Trả lời:
Khí thế của kiêu binh được miêu tả: người nào cũng nhảy nhót hăng hái, cùng cầm binh khí xô lấn nhau vào trong phủ; không vào được thì hò reo, quáy tháo long trời lở đất.
Câu 7: Chú ý hành động và thái độ của Quận Châu trước đám kiêu binh.
Trả lời:
Hành động: mở cửa, chống kiếm lên voi, cưỡi ra giữa sân phủ, trỏ ba quân và quát chúng.
Thái độ: run sợ, sợ hãi.
Câu 8: Tình thế bất lực, thảm hại và bi đát của Quận Huy được miêu tả qua những chi tiết nào?
Trả lời:
Tình thế bất lực, thảm hại và bi đát của Quận Huy được miêu tả qua những chi tiết: Quận Huy giương cung định bắn, chẳng may cung bị đứt dây, vớ lấy súng để nạp đạn nhưng mồi lửa tịt không cháy; quân lính thừa dịp dùng luôn câu liêm lôi viên quản tượng xuống đất mà chém; voi bước lùi trở lại; họ dùng câu liêm móc cổ Quận Huy kéo xuống, rồi đánh đấm túi bụi, giết chết ngay tại chỗ.
Câu 9: Những hình ảnh so sánh trong lời kể có tác dụng gì?
Trả lời:
Tác dụng: khắc họa rõ nét, thêm sinh động về hình ảnh quân lính nâng mâm lên đầu, hạ mâm xuống vai.
Câu 10: Kiêu binh lộng hành bức ép chúa cũ, trả thù các đại thần như thế nào?
Trả lời:
Kiêu binh lộng hành bức ép chúa cũ, trả thù các đại thần: phá huy dinh Quận Huy, các quan văn võ hễ ai thuộc bè đảng của Thị Huệ và Quận Huy, cùng những người dự vào việc tố giác vụ án năm Canh Tí đều bị phá nhà hàng loạt và bị lùng bắt đem giết chết.
Câu 11: Chi tiết nào cho thấy Trịnh Tông bất lực, không kiểm soát được kiêu binh?
Trả lời:
Chi tiết cho thấy Trịnh Tông bất lực, không kiểm soát được kiêu binh: "luôn trong mấy ngày, họ náo động cả kinh. Tông phải hạ chỉ ngăn cấm mà họ vẫn không thôi"; "sai người dò xét trong kinh kì, lén đến chỗ họ tụ họp, rồi bắt phứa một người thường dân ở gần đó đem chém để ra oai".
B. Bài tập và hướng dẫn giải
TRẢ LỜI CÂU HỎI
Câu 1: Hãy nêu những sự kiện chính trong văn bản Kiêu binh nổi loạn và cho biết mâu thuẫn ở đây là gì?
=> Xem hướng dẫn giải
Những sự kiện chính trong văn bản Kiêu binh nổi loạn:
- Kiêu binh bàn kế hoạch nổi loạn, cùng đề xuất kế sách của Bằng Vũ.
- Quận Huy đứng ra đỡ lời cho Bằng Vũ để không bị giết trước mặt các quan.
- Kiêu binh đến nhà Quận Huy nổi loạn và giết Quận Huy.
- Kiêu binh lập thế tử Tông lên ngôi làm chúa.
- Kiêu binh giết sạch những người liên quan đến bè đàng của Thị Huệ và Quận Huy.
Câu 2: Tìm những chi tiết miêu tả hành động của đám kiêu binh. Em có nhận xét gì về những hành động ấy?
=> Xem hướng dẫn giải
Những chi tiết miêu tả hành động của đám kiêu binh:
- Khi đám kiêu binh tiến đến nhà Quận Huy: Quân lính nghe thấy tiếng trống tức thi người nào cũng thấy nhảy nhót hăng hái, cùng cầm binh khí xô lấn nhau mà vào trong phủ; Họ cứ đứng hò reo, quát tháo long trời lở đất.
- Khi đám kiêu binh xông vào nhà và giết Quận Huy: Quân lính thừa dịp dùng luôn câu liêm lôi viên quan tượng xuống đất mà chém; Quân lính xúm đến vây kín dưới chân voi; Quân lính hăng máu kéo đến càng đông; Họ bèn dùng câu liêm móc cổ Quận Huy kéo xuống, rồi đánh đấm túi bụi, giết chết ngay tại chỗ.
- Khi đám kiêu binh giết được Quận Huy và ăn mừng: Quân lính vui mừng reo hò như sấm; Họ kiệu thế tử lên vai, rồi đứng xúm xung quanh, gào lên vui sướng; họ phải dùng tạm chiếc mâm vẫn bày cỗ lộc làm ghế, đặt tư thế ngồi lên, rồi tám người kề vai vào khiêng...mỗi lần thế tử được nhô lên cao, quân lính lãi vô tay reo hò vang lên một chặp.
- Khi đám kiêu binh giết những người liên quan đến Quận Huy: họ lại kéo đến quỳ ở trước mặt chúa xin phá tất cả dinh cơ của Quận Huy; họ làm náo động cả kinh thành.
=> Những hành động của đám kiêu binh đã cho thấy thế lực của họ thật mạnh. Tất cả sự nổi loạn, tàn bạo đã thể hiện cụ thể, sống động, nó cho thấy sức mạnh của đám đông có thể làm nổi thuyền, có thể làm lật thuyền.
Câu 3: Những chi tiết, hình ảnh nào cho thấy sự bất lực và thất bại của phe cánh Quận Huy?
=> Xem hướng dẫn giải
Những chi tiết, hình ảnh cho thấy sự bất lực và thất bại của phe cánh Quận Huy:
- Quận Huy giương cung định bắn, chẳng may cung bị đứt dây; lại vớ lấy súng để nạp đạn nhưng mồi lửa tịt không cháy.
- Quân lính thừa dịp dùng luôn câu liêm lôi viên quản tượng xuống đất mà chém.
- Lại có một toán ở cửa Tuyên Vũ xông vào, đứng chắn ở đằng sau voi, khiến voi phải đứng yên không thể nhúc nhích.
- Họ bèn dùng câu liêm móc cổ Quận Huy kéo xuống, rồi đánh đấm túi bụi, giết chết ngay tại chỗ.
- Em ruột Quận Huy là Lý Vũ hầu Hoàng Lương nghe tin có biến vội vàng chạy bổ vào phủ đường...họ vớ luôn gạch đá trên đường đập cho vỡ đầu và vứt xác xuống hồ Thúy Quân.
Câu 4: Cảnh Trịnh Tông lên ngôi chúa có gì đặc biệt? Nhận xét về nghệ thuật miêu tả của tác giả.
=> Xem hướng dẫn giải
Cảnh Trịnh Tông lên ngôi chúa:
- Kiêu binh đã lập Trịnh Tông lên, cảnh khiêng Tông trên chiếc mâm gỗ, đưa lên, đưa xuống, mọi người xúm lại đông như họp chợ.
- Quân lính đặt chiếc sập ngự ở ngoài phủ đường, các quan đều dìu thế thử lên ngôi chúa; cuộc lễ mừng xong, các quan đem đạo sắc của nhà vua và tờ chỉ của thánh mẫu dụ ba quân về việc phò lập chúa, tới dán ở cửa các, những tờ ấy tạm thời thảo ra, nhưng đều được gọi là mệnh lệnh định sẵn.
=> Nghệ thuật miêu tả của tác giả đã khắc họa hình tượng nhân vật Trịnh Tông rõ nét. Đây đúng là ông chúa bù nhìn, hắn lên ngôi chúa hoàn toàn nhờ sự đưa đẩy tình cờ của số phận, tất cả chỗ dựa là đám lính tráng tự phát nổi lên, đến những giấy tờ không có giá trị nhưng vẫn được coi là mệnh lệnh định sẵn.
Câu 5: Hãy dẫn ra một số bình luận, đánh giá của người kể chuyện đối với các sự kiện và nhân vật trong văn bản. Theo em, quan điểm và thái độ của người kể chuyện có khách quan và đáng tin cậy không? Vì sao?
=> Xem hướng dẫn giải
Một số bình luận, đánh giá của người kể chuyện đối với các sự kiện và nhân vật trong văn bản:
- Lúc quân lính đến hội họp, bàn về việc ấy không ai là không hăng hái. Nhưng họ còn sợ thanh thế Quận Huy, nên chưa biết khởi sự như thế nào cho ổn thỏa.
- Mọi người đều reo mừng hưởng ứng và cùng nhìn về phía kẻ mới nói, thì ra đó là viên biên lại của đội Tiệp bảo, tên là Bằng Vũ...
- Quân lính vốn sợ Huy, thấy hắn cưỡi voi, lại càng khiếp đảm, đều ngồi sụp xuống nghe lệnh, không dám lên tiếng, cũng không dám xông tới.
- ...
Theo em, quan điểm và thái độ của người kể chuyện có khách quan và đáng tin cậy bởi người kể chuyện là người quan sát toàn năng, biết hết tất cả mọi việc, biết rõ suy nghĩ và hành động của các nhân vật.
Câu 6: Người xưa từng nói về năm nguy cơ làm mất nước: "Một, trẻ không kính già; hai, trò không trọng thầy; ba, binh kiêu tướng thoái; bốn, tham nhũng tràn lan; năm, sĩ phu ngoảnh mặt." Sau khi đọc đoạn trích Kiêu binh nổi loạn, em suy nghĩ gì về ý kiến này?
=> Xem hướng dẫn giải
Sau khi đọc đoạn trích Kiêu binh nổi loạn, em thấy quan điểm của người xưa từng nói về năm nguy cơ làm mất nước lại càng đúng. Những nhân vật đã bị lịch sử lên án, đã hết vai trò lịch sử, vẫn cố khẳng định uy quyền của mình và trở thành những vai hề như quận Huy vẫn tin ở uy quyền của mình, biết trước âm mưu nổi loạn của đám kiêu binh vẫn không thèm phòng bị gì, một mình giữa đám loạn quân hung hãn vẫn quát tháo thị oai...cuối cùng bị kéo cổ xuống đất. Còn Trịnh Tông thì tuy vẫn được gọi bằng những danh hiệu những từ ngữ trang trọng cao quy của bậc đế vương: thế tử, mặt rồng, Thánh chúa... nhưng ngai vàng chỉ là cái mâm đặt trên vai đám lính tráng, để cho hàng phố đến xem như họp chợ. Qua đó, ta thấy được làn sóng nổi loạn của quân lính và số phận bèo bọt của một vương triều, chứng tỏ sự thối nát cùng cực của một chế độ.
Bài soạn "Kiêu binh nổi loạn" (Ngữ văn 10 - SGK Cánh diều) - mẫu 6
I. Tác giả văn bản Kiêu binh nổi loạn
- Ngô Gia Văn Phái là một nhóm tác giả Việt Nam gồm 20 tác giả thuộc 9 thế hệ trên dưới 200 năm, từ đầu thế kỷ thứ 17 đến đầu thế kỷ thứ 20.
- Quê quán
Họ thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội).
- Phong cách nghệ thuật
+ Thiết tha, trong trẻo nhưng sâu lắng
+ Pha chút hài hước dí dỏm
- Tác phẩm chính: Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm tiêu biểu nhất, Đại Nam Quốc túy, Hoàng Việt hưng long chí, …
II. Tìm hiểu tác phẩm Kiêu binh nổi loạn
- Thể loại: Tiểu thuyết chương hồi
- Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác:
- Đoạn trích “ kiêu binh nổi loạn” là hồi thứ hai của tác phẩm “ Hoàng Lê nhất thống chí”
- Phương thức biểu đạt: Tự sự
- Người kể chuyện: Ngôi thứ ba
- Tóm tắt:
Hoàng Lê Nhất thống chí phản thời kì lịch sử từ lúc Trịnh Sâm lên ngôi chúa (1768) đến lúc Nguyễn Anhs lên ngôi vua (1802). Đoạn trích “ Kiêu binh nổi loạn” kể chuyện kiêu binh nổi loạn, giết Quận Huy Hoàng Đình Bảo, phế Trịnh Cán, lập Trịnh Tông lên ngôi chúa.
- Bố cục:
- Phần 1: Cuộc trò chuyện giữ Thế tử Trịnh Tông với hạ nhân và quan thần.
- Phần 2: Kế sách của Vũ Bằng được mọi người đồng tình, ủng hộ.
- Phần 3: Tình thế bất lực, thảm hại, bi đát và cái chết của Quận Huy.
- Phần 4: Sự thắng thế của thế tử Tông.
- Giá trị nội dung:
- Sử dụng tư liệu hết sức cụ thể, tỉ mỉ: về lai lịch tính cách các nhân vật, về địa chỉ của các vụ việc, về âm mưu của các phe phái, về quá trình hình thành, phát triển và kết thúc của sự kiện => tình cảnh khủng hoảng của xã hội lúc bấy giờ
- Giá trị nghệ thuật:
- Bút pháp tả thực của lối chép sử biên niên không che dấu một nụ cười mỉa mai và xót xa trước tình cảnh đất nước bị rữa nát từ chính quyền trung ương.
III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Kiêu binh nổi loạn
- Cuộc trò chuyện giữ Thế tử Trịnh Tông với hạ nhân
- Lời nói của Dự Vũ, Gia Thọ đều có tính chất xúi giục, hậu thuẫn cho Trịnh Tông làm phản.
+ “ Nhà Chúa bỏ con cả, lập con út, thiên hạ đều căm ghét nhất là quân lính”
+ “ Lòng người như thế nếu lấy nghĩa khí mà khích động… thì mọi việc ắt thành”
=> Thế tử nghe ra tỏ ra mừng lắm bèn gọi quan thần vào họp bàn
- Kế sách của Vũ Bình
- Không khí: Quân lính hăng hái đến hội họp nhưng còn sự thanh thế của Quận Huy nên không biết giải quyết thế nào cho ổn thỏa, giữa lúc đó Vũ Bằng liền đưa ra kế sách của mình.
- Kế sách của Vũ Bằng: “Chỉ sợ anh em không cùng một bụng thôi. Chứ nếu ba quân đồng lòng, thì bất quá chỉ thừa dịp cũng cơm sáng xong, đánh một hồi trống trong phủ làm hiệu rồi kéo ùa cả vào, nắm cẳng hắn, vứt chỏng gọng xuống dưới thềm một cái là xong thôi mà!”
=> Kế sách sáng suốt, đúng đắn, phù hợp được mọi người đồng tình ủng hộ.
- Tình thế bất lực, thảm hại, bi đát và cái chết của Quận Huy.
- Quận Huy đã lường trước được cái chết của mình “Ngày mai có biến, tôi sẽ chết. Nhưng tôi chết cũng phải có dăm ba mạng đi theo”
-> Mặc dù được răn nên bế tân chúa đi trốn nhưng Quận Huy vẫn thong thả, khẳng khái, cho rằng việc mình làm là đúng, không việc gì phải hốt hoảng.
- Quận Huy nghe lời các quan bắt, trói Vũ Bằng à đem chém.
- Khí thế của quân kiểu binh: hò reo, hăng hái, quát tháo, cùng cầm binh khí xô lấn nhau mà vào trong phủ.
- Hành động và thái độ của Quận Châu
+ Hành động: dụ quân lính: “Làm lính phải biết lễ phép… ta sẽ trình bày giúp” và mở cửa cho quân lính xông vào.
+Thái độ: run sợ, sơ hãi trước lời đe dọa của quân lính.
- Tình thế của Quận Huy:
+ Dương cung định bắn - chẳng may cung đứt dây.
+Vớ súng để nạp đạn - mồi lửa tịt không cháy
+ Quân lính thừa dịp vùng lên, dùng móc câu liêm móc cổ Quận Thuy kéo xuống, đánh đấm túi bụi, giết chết ngay tại chỗ.
+ Em ruột Quận Huy cũng bị đập cho vỡ đầu rồi vứt xác xuống hồ Thủy Quân.
=> Tình thế bất lực, bi đát, thảm hại.
- Sự thắng thế của thế tử Tông.
- Sau cái chết của anh em Quận Huy, quân lính vui mừng phò thế tử Tông lên phủ đường.
+ “Xin ngồi cao thêm nữa để thiên hạ đều thấy được mặt rồng, cho thỏa lòng vui của mọi người!”, “Cứ thế lên lên xuống xuống y như người ta giỡn quả cầu hoặc rước pho tượng Phật."
+ “Mấy hôm trước, ngày nào trời cũng u ám. Hôm ấy, tự dưng bầu trời lại trong sáng, mọi người đều cho đó là cái điềm thái bình”.
- Kiêu binh được lệnh lộng hành phá hủy nhà cửa Quận Huy kiến cho Trịnh Tông mất kiểm soát.
Chuẩn bị
Hiển thị nội dung
Yêu cầu (trang 35 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2):
- Đọc phần Kiến thức ngữ văn để vận dụng vào bài đọc hiểu này.
- Cần lưu ý: Tiểu thuyết chương hồi xuất hiện đầu tiên và thịnh hành ở Trung Quốc khoảng từ thế kỉ XIV đến cuối thế kỉ XVIII. Đặc điểm nổi bật của tiểu thuyết chương hồi là sự phân chia tác phẩm thành những hồi khác nhau. Mỗi hồi đều có tiêu đề khái quá nội dung được trình bày trong hồi. Kết thúc mỗi hồi thường có câu thơ mang tính chất bình luận. Sau những câu thơ là những lời gắn kết hồi trước với hồi sau, kích thích sự quan tâm, chú ý của người đọc. Tiểu thuyết chương hồi thường chú ý đến các sự kiện, tình huống bất ngờ, hồi hộp, căng thẳng, thú vị. Trong tiểu thuyết chương hồi, tính cách nhân vật được thể hiện tương đối nhất quán, rõ ràng thông qua đối thoại và hành động.
- Khi đọc văn bản Kiêu binh nổi loạn, em cần chú ý:
+ Đoạn trích có những nhân vật và sự kiện nào nổi bật? Các nhân vật và sự kiện đó có liên quan đến lịch sử hay được tác giả hư cấu?
+ Nội dung (đề tài, chủ đề) và những hình thức nghệ thuật đặc sắc của đoạn trích là gì?
+ Nội dung đoạn trích mang lại cho em những hiểu biết, suy nghĩ và tình cảm gì?
- Đọc trước văn bản Kiêu binh nổi loạn và tìm hiểu thêm thông tin về nhóm tác giả Ngô gia văn phái, tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí.
- Đọc nội dung giới thiệu sau đây để hiểu bối cảnh đoạn trích:
Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm viết bằng chữ Hán theo hình thức tiểu thuyết chương hồi. Nội dung chính của Hoàng Lê nhất thống chí phản ánh thời kì lịch sử khoảng 30 năm, từ khi Trịnh Sâm lên ngôi chúa (1768) đến lúc Gia Long lên ngôi vua (1802). Tác phẩm tái hiện một cách phong phú, sinh động bức tranh xã hội trong thời kì khủng hoảng triền miên, dẫn đến sự sụp đổ của các tập đoàn phong kiến Lê -Trịnh và khí thế quật khởi, tinh thần quyết liệt chống thù trong giặc ngoài của phong trào khởi nghĩa Tây Sơn do Nguyễn Huệ đứng đầu.
Đoạn trích Kiêu binh nổi loạn dưới đây thuộc Hồi thứ hai của tác phẩm, kể chuyện kiêu binh nổi loạn, giết Quận Huy Hoàng Đinh Bảo, phế Trịnh Cạn, lập Trịnh Tông lên ngôi chúa.
Trả lời:
- Khi đọc tùy bút các em cần chú ý
+ Đoạn trích có các nhân vật và sự kiện nổi bật như: Trịnh Tông – Thế tử bị phế truất xuống làm con út do tạo phản bất thành. Lính kiêu binh phần nhiều thuộc phe Trịnh Tông, Dự Vũ - đầu bếp của Tông; Gia Thọ là gia thần, Bằng Vũ là gia binh. Chúng căm ghét quận Huy như kẻ thù của chúng. Tình thế bất lực, thảm hại và cái chết bi tráng của anh em Quận Huy với sự không đề phòng, thiếu mưu lược của những kẻ nắm quyền quốc gia trong phủ. Các nhân vật và sự kiện này đều có thật và có liên quan mật thiết đến lịch sử Việt Nam
+ Đoạn trích mang chủ đề lịch sử, những hình thức nghệ thuật đặc sắc của đoạn trích tiêu biểu là bút pháp tả thực của lối chép sử biên niên, không che dấu một nụ cười mỉa mai và xót xa trước tình cảnh đất nước bị rữa nát từ chính quyền trung ương.
+ Nội dung đoạn trích mang lại cho em những hiểu biết về một tấn bi kịch lịch sử, nhưng chất hài của tấn kịch lịch sử này cũng rất rõ: Những nhân vật đã bị lịch sử lên án, đã hết vai trò lịch sử, vẫn cố khẳng định uy quyền của mình và trở thành những vai hề như quận Huy vẫn tin ở uy quyền của mình, biết trước âm mưu nổi loạn của đám kiêu binh vẫn không thèm phòng bị gì, một mình giữa đám loạn quân hung hãn vẫn quát tháo thị oai.
Đọc hiểu
* Nội dung chính:
Đoạn trích “Kiêu binh nổi loạn” trong Hoàng Lê nhất thống chí đã cho thấy sự thối nát của phủ chúa Trịnh: cha, con, anh, em tranh giành quyền lực, việc phế con trưởng lập con thứ hoàn toàn do quyền lợi ích kỉ của phe đảng, không vì quyền lợi của đất nước, của nhân dân. Tất cả sự nổi loạn, tàn bạo của đám kiêu binh “căm ghét”, “hậm hực” khinh bỉ cách làm của chúa Trịnh và quận Huy, chỉ muốn diệt trừ cho hả giận đã thể hiện cụ thể, sống động. Điều nó cho thấy sức mạnh của đám đông có thể làm nổi thuyền, có thể làm lật thuyền.
* Trả lời câu hỏi giữa bài:
Câu 1 (trang 36 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Người kể chuyện là ai?
Trả lời:
Câu chuyện được kể ở góc nhìn thứ ba, có thể cho rằng người kể chuyện là nhóm tác giả Ngô Gia Văn Phái
Câu 2 (trang 36 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Người kể chuyện nhận xét gì về đầu bếp, gia thần của Trịnh Tông?
Trả lời:
Đầu bếp, gia thần của Trịnh Tông được nhận xét là “người cơ tri”, “kẻ tinh khôn”, có nhiều mưu trí, ứng phó linh hoạt
Câu 3 (trang 37 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Chú ý động cơ và thái độ của đầu bếp, thân quân
Trả lời:
Động cơ và thái độ đầu bếp Dự Vũ và gia thần Gia Thọ đều căm ghét quận Huy và phe phái như kẻ thù của chúng. Chính vì vậy trong của lời nói của Dự Vũ, Gia Thọ đều có tính chất xúi giục, hậu thuẫn cho Tông làm phản. Tông mời cơm ngỏ ý chỉ là một biểu hiện phó thác chính thức, lái mũi nhọn chĩa vào quận Huy..
Câu 4 (trang 37 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Ai là người kể chuyện về nhân vật Bằng Vũ
Trả lời:
Nhân vật Bằng Vũ xuất hiện qua ngày hội họp quân lính ở chùa Khán Sơn, với ngôi kể chuyện ở ngôi thứ ba, có thể cho rằng người kể chuyện là nhóm tác giả Ngô Gia Văn Phái.
Câu 5 (trang 38 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Chú ý lời nói, thái độ và hành động của quận Huy.
Trả lời:
“…Quân Huy cũng biết tai họa sắp xảy ra, liền nói toạc ra ở trong triều…”
“Gặp lúc trời sắp tối, người nhà Quận Huy có kẻ khuyên hắn nên bế tân chúa đi trốn,… Nhưng Quận Huy đều gạt đi”
“Nếu việc gấp quá không thể trị nổi bọn chúng, thì ta đây vâng mệnh của đấng tiên vương, sống thác cũng cam, cần gì mà phải hốt hoảng!”
“Đêm ấy, Quận Huy ngủ ở trong phủ, cũng chỉ đem theo vài người hầu như mọi ngày, không hề phòng bị gì hết.”
→ Sự bất lực thảm hại của phe quận Huy đã quá rõ. Không đề phòng, thiếu mưu lược, chủ quan khinh địch, cho rằng “thói đời hay phao nhảm”, chính điều đó đã mang tới cái kết bi kịch
Câu 6 (trang 39 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Khí thế của kiêu binh được miêu tả như thế nào?
Trả lời:
“Bằng Vũ vào trong phủ, đánh luôn ba hồi, chín tiếng trống.”
“Lại nói, quân lính nghe thấy tiếng trống tức thì người nào cũng nhảy nhót hăng hái, cùng cầm binh khí xô lấn nhau mà vào trong phủ”
“…quân lính ở bên ngoài không vào được, họ cứ đứng hò reo, quát tháo long trời lở đất.”
Câu 7 (trang 39 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Chú ý hành động và thái độ của Quận Châu trước đám kiêu binh.
Trả lời:
- Lúc đầu, Quận Châu đứng ở phía trái trong cửa các, lên tiếng “dụ” binh lính, nhắc nhở binh linh phải lễ phép vì có quan tài của Trịnh Sâm chưa được an tang ở đây
- Lúc sau vì quá run sợ trước khí thế của binh lính, Quận Châu phải mở cửa cho binh lính xông vào.
Câu 8 (trang 40 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Tình thế bất lực, thảm hại và bi đát của quận Huy được miêu tả qua những chi tiết nào?
Trả lời:
Sự bất lực thảm hại của phe quận Huy đã quá rõ. Không đề phòng, thiếu mưu lược, sờ đến cung thì cung đứt dây, sờ đến súng thì súng không nổ! Quận Huy bị quân lính dung câu liêm móc cổ kéo từ voi ngã xuống, bị đánh đấm túi bụi và giết chết ngay tại chỗ.
Câu 9 (trang 40 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Những hình ảnh so sánh trong lời kể có tác dụng gì?
Trả lời:
Những hình ảnh so sánh trong lời kể có tác dụng như những tư liệu đủ để dựng lại bộ mặt, không khí của lịch sử một cách cụ thể, sinh động.
Câu 10 (trang 41 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Kiêu binh lộng hành bức ép chúa cũ, trả thù các đại thần như thế nào?
Trả lời:
Dù đã giết chết anh em Quận Huy nhưng cơn giận của binh lính vẫn chưa hả. Kiêu binh lộng hành bức ép chúa cũ, trả thù các đại thần rất dã man. Phò lập thế tử Tông lên ngôi chúa xong xuôi, họ lại kéo đến quỳ ở trước mặt chúa xin phá tan nát tất cả dinh cơ của Quận Huy, một mảnh ngói cũng không còn. Phàm các quan văn võ hễ ai thuộc bè đảng của Thị Huệ và Quận Huy, cùng những người dự vào việc tố giác vụ án năm Canh Tí, những viên quan hầu mọi ngày có tính nghiệt ngã mà quân lính vẫn ghét, lúc ấy cũng đều bị phá nhà hàng loạt và bị lùng bắt đem giết chết.
Câu 11 (trang 41 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Chi tiết nào cho thấy Trịnh Tông bất lực, không kiểm soát được kiêu binh?
Trả lời:
Chi tiết cuối bài cho thấy Trịnh Tông bất lực, không kiểm soát được kiêu binh: “Chúa phải sai người dò xét trong kinh kì, lén đến chỗ họ tụ họp, rồi bắt phứa một người thường dân ở gần đó đem chém để ra oai” Cho thấy rằng Trịnh Tông chỉ là con rối trong tay kiêu binh, không dám động vào quân linh để thị uy.
* Trả lời câu hỏi cuối bài:
Câu 1 (trang 42 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Hãy nêu những sự kiện chính được kể trong văn bản Kiêu binh nổi loạn và cho biết mâu thuẫn ở đây là gì?
Trả lời:
Những sự kiện chính được kể trong văn bản Kiêu binh nổi loạn:
- Trịnh Tông bất mãn vì bị phế truất ngôi Thái tử, nghe lời xúi giục của Dự Vũ, Gia Thọ, lái mũi nhọn chĩa vào Quận Huy và Trịnh Cán
- Trịnh Tông khơi dậy lòng thù hằn và căm phẫn Quận Huy trong lính kiêu binh, thúc đẩy mục đích nổi loạn trả thù, rửa hận
- Quận Huy và phe phái không đề phòng và thiếu mưu lược trước sự nổi dậy của Trịnh Tông và kiêu binh, cho rằng “thói đời hay phao nhảm”
- Quận Huy và em ruột bị đám kiêu binh đánh đập và chết rất bi thảm, Trịnh Cán bị phế truất, quân lính phò thế tử Trịnh Tông lên làm chúa. Nhưng cơn giận vẫn chưa nguôi ngoai, kiêu binh lộng hành bức ép chúa cũ, trả thù các đại thần hết sức tàn bạo
→ Mẫu thuẫn đó chính là sự thối nát của phủ chúa Trịnh, sự bất lực và thảm hại của giai cấp thống trị: cha, con, anh, em tranh giành quyền lực, việc phế con trưởng lập con thứ hoàn toàn do quyền lợi ích kỉ của phe đảng, không vì quyền lợi của đất nước, của nhân dân. Từ đó dẫn tới những tranh chấp vương quyền và cái kết bi thảm, tất cả là do bọn lính tráng, bọn bồi bếp tự phát nổi lên. Trịnh Tông lên ngôi mà bất lực trước đám, âm binh bất trị... Đúng là tấn bi kịch lịch sử.
Câu 2 (trang 42 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Tìm những chi tiết miêu tả hành động của đám kiêu binh. Em có nhận xét gì về những hành động ấy?
Trả lời:
Mục đích nổi loạn cùa kiêu binh là trả thù, rửa hận. Lời nói của Dự Vũ đã cho thấy quân lính “căm ghét”, “hậm hực” khinh bỉ cách làm của chúa Trịnh và quận Huy, chỉ muốn diệt trừ cho hả giận. Đề xuất kế sách của Bằng Vũ chứng tỏ quân lính rất khinh nhờn thế lực của phủ chúa: “Đánh một hồi trống làm hiệu, rồi kẻo ùa cả vào, nắm cẳng hắn, vứt chỏng gọng xuống dưới thềm một cái là xong thôi mà!”.
- “Bằng Vũ vào trong phủ, đánh luôn ba hồi, chín tiếng trống.”
- “Lại nói, quân lính nghe thấy tiếng trống tức thì người nào cũng nhảy nhót hăng hái, cùng cầm binh khí xô lấn nhau mà vào trong phủ”
- “…quân lính ở bên ngoài không vào được, họ cứ đứng hò reo, quát tháo long trời lở đất.”
- “…bao nhiêu người đang ngồi lại nhao nhao đứng dậy, kéo ập vào trước đầu voi.”
- “Rồi họ lấy khí giới đâm chém túi bụi, có kẻ cạy gạch ngói ở phủ ra ném tới tấp…”
- “Quân lính hăng máu kéo đến càng đông…Họ bèn dung câu liêm móc cổ Quận Huy kéo xuống, rồi đánh đấm túi bụi giết chết ngay tại chỗ.”
....
→ Qua những hành động này ta thấy được sự ngang tàng và hung bạo, không chịu khuất phục của kiêu binh, nhưng cũng đồng thời cho thấy sự nổi loạn, tàn bạo đã thể hiện cụ thể, sống động, nó cho thấy sức mạnh của đám đông có thể làm những điều lay chuyển thế lực cầm quyền.
Câu 3 (trang 42 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Những chi tiết, hình ảnh nào cho thấy sự bất lực và thất bại của phe cánh Quận Huy?
Trả lời:
Quận Huy vẫn tin ở uy quyền của mình, biết trước âm mưu nổi loạn của đám kiêu binh vẫn không thèm phòng bị gì, một mình giữa đám loạn quân hung hãn vẫn quát tháo thị oai.
“Quận Huy giương cung định bắn, chẳng may cung bị đứt dây; lại vớ lấy sung để nạp đạn nhưng mồi lửa tịt không cháy”
“Em ruột Quận Huy là Lý Vũ hầu Hoàng Lương nghe tin có biến vội vàng chạy bổ vào phủ đường. Nhưng mới đến cửa chùa Báo Thiên thì bị quân lính quát đứng lại, rồi họ vớ luôn gạch đá trên đường đập cho vỡ đầu và vứt xác xuống hồ Thủy Quân”.
Câu 4 (trang 42 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Cảnh Trịnh Tông lên ngôi chúa có gì đặc biệt? Nhận xét về nghệ thuật miêu tả của tác giả.
Trả lời:
- Trịnh Tông đúng là ông chúa bù nhìn, hắn lên ngôi chúa hoàn toàn nhờ chỗ dựa là đám lính tráng tự phát nổi lên.
- Kiêu binh đã lập Trịnh Tông lên, cảnh khiêng Tông trên chiếc mâm gỗ, đưa lên, đưa xuống, như “giỡn quả cầu” trong tiếng reo hò của đám loạn quân và dân hàng phố mọi người xúm lại đông như họp chợ. Hai tiếng “họp chợ” thật mỉa mai! Họ lại đặt sập gụ ngoài phủ đường để đưa Tông lên ngôi. Mấy chữ “ngoài phủ đường” cũng hài hước, chẳng có chút uy nghiêm nào với một vị chúa.
Câu 5 (trang 42 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Hãy dẫn ra một số bình luận, đánh giá của người kể chuyện đối với các sự kiện và nhân vật lịch sử trong văn bản. Theo em, quan điểm và thái độ của người kể chuyện có khách quan và đáng tin cậy không? Vì sao?
Trả lời:
“Bằng Vũ mạnh bạo nhận lời. Rồi cả bọn cùng nhau uống máu ăn thề.”
“Ở kinh, gã thường làm mướn đơn kiện cho người ta, vẫn lừng tiếng là tay điêu toa trong việc xúi nguyên giục bị.”
….
Quan điểm và thái độ của người kể chuyện khách quan và đáng tin cậy vì có sự theo sát lịch sử.
Câu 6 (trang 42 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Người xưa từng nói về năm nguy cơ làm mất nước: “Một, trẻ không kính già; hai, trò không trọng thầy; ba, binh kiêu tướng thoái; bốn, tham nhũng tràn lan; năm, sĩ phu ngoảnh mặt”(Lê Quý Đôn). Sau khi đọc đoạn trích Kiêu binh nổi loạn, em suy nghĩ gì về ý kiến này?
Trả lời:
Đoạn trích “Kiêu binh nổi loạn” trong Hoàng Lê nhất thống chí đã cho thấy sự thối nát của phủ chúa Trịnh: cha, con, anh, em tranh giành quyền lực, việc phế con trưởng lập con thứ hoàn toàn do quyền lợi ích kỉ của phe đảng, không vì quyền lợi của đất nước, của nhân dân.
Bút pháp tả thực của lối chép sử biên niên không che dấu một nụ cười mỉa mai và xót xa trước tình cảnh đất nước bị rữa nát từ chính quyền trung ương. Cơn hấp hối vào giờ chót của một triều đại bao giờ cũng chẳng là một màn bi hài của lịch sử?
Hãy đăng nhập để bình luận
Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .