Top 6 Bài soạn "Thực hành đọc: Con khướu sổ lồng trang 70" (Ngữ văn 10 - SGK Kết nối tri thức) hay nhất

Mời các bạn tham khảo một số bài soạn "Thực hành đọc: Con khướu sổ lồng trang 70" (Ngữ văn 10 - SGK Kết nối tri thức) hay nhất mà Alltop tổng hợp trong bài...xem thêm ...
Bài soạn "Thực hành đọc: Con khướu sổ lồng trang 70" (Ngữ văn 10 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu 1
Tác giả Nguyễn Quang Sáng
- Tiểu sử
- Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
- Từ tháng 4 năm 1946, ông xung phong vào bộ đội, làm liên lạc viên cho đơn vị Liên Chi 2.
- Đến năm 1948, được bộ đội cho đi học thêm văn hóa ở Trường Trung học kháng chiến Nguyễn Văn Tố.
- Năm 1950, ông về công tác tại Phòng Chính trị Bộ Tư lệnh phân khu miền Tây Nam Bộ, làm cán bộ nghiên cứu tôn giáo.
- Năm 1955, ông theo đơn vị tập kết ra Bắc, chuyển ngành với quân hàm Chuẩn úy, về làm cán bộ Phòng Văn nghệ Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam.
- Từ năm 1958, công tác ở Hội Nhà văn Việt Nam, làm biên tập viên tuần báo Văn nghệ biên tập nhà xuất bản Văn học, cán bộ sáng tác.
- Năm 1966, ông vào chiến trường miền Nam, làm cán bộ sáng tác của Hội Văn nghệ Giải phóng.
- Năm 1972, trở ra Hà Nội, tiếp tục làm việc ở Hội Nhà văn.
- Sau ngày đất nước thống nhất 30/4/1975, ông về Thành phố Hồ Chí Minh, giữ chức Tổng Thư ký (về sau đổi tên gọi thành Chủ tịch) Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh các khóa l, 2, 3.
- Nhà văn Nguyễn Quang Sáng là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1957; Ủy viên Ban Chấp hành Hội khóa 2, 3 và là Phó tổng thư ký Hội khóa 4.
- Ông mất tại nhà riêng ở Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh vào lúc 17 giờ ngày 13 tháng 2 năm 2014.
- Sự nghiệp văn học
- Những năm chống Mĩ, Nguyễn Quang Sáng trở về Nam Bộ tham gia kháng chiến và tiếp tục sáng tác văn học.
- Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng có nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim và hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như sau hòa bình.
- Năm 2000, ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
- Tác phẩm chính:
+ Con chim vàng (tập truyện ngắn, 1956)
+ Người quê hương (tập truyện ngắn, 1968)
+ Nhật ký người ở lại (tiểu thuyết, 1961)
+ Đất lửa (tiểu thuyết, 1963)
+ Câu chuyện bên trận địa pháo (truyện vừa, 1966)
+ Chiếc lược ngà (tập truyện ngắn, 1966)
Tác phẩm
Con khướu sổ lồng
I. Tìm hiểu chung
- Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác: Văn bản Con khướu sổ lồng được trích từ tập truyện Con mèo của Foujita – NXB Kim Đồng – Hà Nội.
- Phương thức biểu đạt: Tự sự + Miêu tả
- Ngôi kể thứ: Ngôi thứ 1
- Tóm tắt:
Văn bản kể về câu chuyện con chim khướu của gia đình “tôi” nuôi hai lần sổ lồng bay đi, lần đầu tiên chim một mình bay trở về, lần thứ hai, chim khướu gặp được chim mái trên bầu trời, và đã bay đi mãi cùng đôi cánh của tình yêu.
Bố cục
Chia văn bản làm 3 đoạn.
- Đoạn 1: Từ đầu đến “không thể thiếu”: Giới thiệu về con khướu nhà tôi.
- Đoạn 2: Tiếp theo đến “Và nó trở về lồng, lại hót”: Con khướu bay đi mất nhưng lạ thay hôm sau nó lại trở về lồng.
- Đoạn 3: Còn lại: Một lần nữa con khướu sổ lồng nhưng nó không quay về lồng nữa mà trở về với bầu trời tự do.
II. Tìm hiểu chi tiết
- cảm xúc, suy nghĩ của các nhân vật về sự việc diễn ra trong câu chuyện.
- Lần đầu tiên chim khướu sổ lồng: nhân vật con trai hoảng hốt, nhân vật người ba hụt hẫng (“cái lồng trống, lòng tôi cũng trống”)
- Khi chim khướu quay trở về: các nhân vật đều vui vẻ, sung sướng: “Cả nhà reo lên.” Sung sướng khi chim quay lại, và sung sướng khi đã đưa chim quay lại cái lòng: “Cả nhà vừa lao ra vừa reo lên”. Nhưng riêng người ba trở nên trầm ngâm, suy tư về việc cái lồng giam hãm chim khướu quá lâu khiến nó chới với khi bay ra ngoài.
- Khi chim khướu sổ lồng lần thứ hai: các nhân vật không lo buồn như lần trước, vì đoán thế nào chim cũng quay trở về.
- Khi biết chim khướu không quay trở về nữa: người con trai vẫn kiên nhẫn đợi chờ, trông mong chim khướu bay trở lại, còn người ba đã thấu hiểu và chấp nhận sự thật.
- Tác dụng của ngôi kể thứ nhất
- Truyện được kể theo ngôi thứ nhất. Người kể là nhân vật người ba trong gia đình.
- Người kể chuyện tham gia vào các sự việc, nên có thể bao quát hành vi, cảm xúc của các nhân vật khác cũng như tái hiện khách quan các sự việc xảy ra. Trong truyện, người kể chuyện đã lớn, đã trưởng thành, nên có đủ khả năng để lý giải các sự việc bên cạnh việc tái hiện.
- Giá trị nội dung
- Thể hiện tình yêu thiên nhiên, các loài vật mà cụ thể là loài chim khướu
- Giá trị nghệ thuật
- Ngôn ngữ trong sáng giản dị, gần gũi
* Một số điều cần lưu ý khi đọc văn bản:
- Hiểu được mức độ bao quát các nhân vật, sự kiện của người kể theo ngôi thứ nhất.
- Mức độ bao quát các nhân vật, sự kiện của người kể:
+ Người kể chứng kiến và hiểu hết được suy nghĩ của các nhân vật.
+ Người kể chuyện khách quan.
- Nắm bắt được cảm xúc, suy nghĩ của các nhân vật về sự việc diễn ra trong câu chuyện.
- Cảm xúc, suy nghĩ của các nhân vật:
+ Tác giả: Vui mừng khi nhà có con khướu hót hay, say mê trước tiếng hót của nó; buồn, trống trải khi con khướu sổ lồng; rồi lại trầm tư khi con khướu bay đi lần hai.
+ Thằng con: Háo hức khi nhà nuôi khướu, trống vắng khi khước bay đi, băn khoăn tại sao khướu lại không về.
+ Con khướu: Được ăn no, ở trong lồng đẹp khiến nó cảm thấy sung sướng. Lo lắng, cô đơn, nhỏ bé trước bầu trời. Hạnh phúc khi tìm được tình yêu, tìm được tự do.

Bài soạn "Thực hành đọc: Con khướu sổ lồng trang 70" (Ngữ văn 10 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu 2
* Nội dung chính:
Câu chuyện kể về con chim khướu vốn ở trong lồng nhưng trong một lần sổ lồng, nó tự do tung cánh giữa bầu trời rộng lớn rồi quyết định quay lại chiếc lồng quen thuộc. Cho đến khi nó gặp được đôi cánh của tình yêu, con khướu đã bay đi với cảnh thênh thang của đất trời.
Tóm tắt
Văn bản kể về câu chuyện con chim khướu của gia đình “tôi” nuôi hai lần sổ lồng bay đi, lần đầu tiên chim một mình bay trở về, lần thứ hai, chim khướu gặp được chim mái trên bầu trời, và đã bay đi mãi cùng đôi cánh của tình yêu.
Bố cục
Văn bản chia thành 3 phần:
- Đoạn 1: Từ đầu đến “không thể thiếu”: Giới thiệu về con khướu nhà tôi.
- Đoạn 2: Tiếp theo đến “Và nó trở về lồng, lại hót”: Con khướu bay đi mất nhưng lạ thay hôm sau nó lại trở về lồng.
- Đoạn 3: Còn lại: Một lần nữa con khướu sổ lồng nhưng nó không quay về lồng nữa mà trở về với bầu trời tự do.
* Một số điều cần lưu ý khi đọc văn bản:
Câu 1: Hiểu được mức độ bao quát các nhân vật, sự kiện của người kể theo ngôi thứ nhất.
- Người kể ngôi thứ nhất quan sát mọi hành động của các nhân vật
Câu 2: Nắm bắt được cảm xúc, suy nghĩ của các nhân vật về sự việc diễn ra trong câu chuyện.
- Nhân vật tôi nhận ra được triết lí của cuộc đời: khi con người ta đã quá quen với một không gian nào đó, nó sẽ không thể hoà mình vào thế giới bao la, rộng lớn. Nhưng khi đã tìm được người bạn đồng hành, con người cũng sẽ mạnh mẽ hơn và sẵn sàng đối mặt với những điều bí ẩn trước mắt.

Bài soạn "Thực hành đọc: Con khướu sổ lồng trang 70" (Ngữ văn 10 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu 3
Nội dung chính
Văn bản là câu chuyện về con khướu nhưng lại gửi gắm bài học về sự tự do đích thực.
Câu 1
Mức độ bao quát các nhân vật, sự kiện của người kể chuyện ngôi thứ nhất.
Phương pháp giải:
Đọc kĩ văn bản
Lời giải chi tiết:
- Truyện được kể theo ngôi thứ nhất. Người kể là nhân vật người ba trong gia đình.
- Người kể chuyện tham gia vào các sự việc, nên có thể bao quát hành vi, cảm xúc của các nhân vật khác cũng như tái hiện khách quan các sự việc xảy ra. Trong truyện, người kể chuyện đã lớn, đã trưởng thành, nên có đủ khả năng để lý giải các sự việc bên cạnh việc tái hiện.
Câu 2
Nắm bắt được cảm xúc, suy nghĩ của các nhân vật về sự việc diễn ra trong câu chuyện.
Phương pháp giải:
Đọc kĩ văn bản, chú ý những chi tiết thể hiện cảm xúc, suy nghĩ của các nhân vật
Lời giải chi tiết:
- Lần đầu tiên chim khướu sổ lồng: nhân vật con trai hoảng hốt, nhân vật người ba hụt hẫng (“cái lồng trống, lòng tôi cũng trống”)
- Khi chim khướu quay trở về: các nhân vật đều vui vẻ, sung sướng: “Cả nhà reo lên.” Sung sướng khi chim quay lại, và sung sướng khi đã đưa chim quay lại cái lòng: “Cả nhà vừa lao ra vừa reo lên”. Nhưng riêng người ba trở nên trầm ngâm, suy tư về việc cái lồng giam hãm chim khướu quá lâu khiến nó chới với khi bay ra ngoài.
- Khi chim khướu sổ lồng lần thứ hai: các nhân vật không lo buồn như lần trước, vì đoán thế nào chim cũng quay trở về.

Bài soạn "Thực hành đọc: Con khướu sổ lồng trang 70" (Ngữ văn 10 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu 4
Câu 1: Hiểu được mức độ bao quát các nhân vật, sự kiện của người kể chuyện ngôi thứ nhất.
- Truyện được kể theo ngôi thứ nhất. Người kể chuyện là nhân vật người ba.
- Người kể chuyện là người trực tiếp tham gia, chứng kiến câu chuyện nên có thể bao quát hành vi, cảm xúc của các nhân vật khác cũng như tái hiện khách quan các sự việc xảy ra. Người kể chuyện là một người trưởng thành, có khả năng lí giải và tái hiện các sự việc.
Câu 2: Nắm bắt được cảm xúc, suy nghĩ của các nhân vật về sự việc diễn ra trong câu chuyện.
- Lần đầu tiên con chim khướu sổ lồng: Nhân vật cậu con trai út hoảng hốt, nhân vật người ba hụt hẫng, cả nhà ai cũng thấy thiếu vắng.
- Khi chim khướu quay trở về: Các nhân vật đều vui vẻ, sung sướng: “Cả nhà reo lên, ngước cổ nhìn lên…”; “Cả nhà lại ngồi quanh nó, nghe nói hót, quên cả buổi cơm chiều”. Riêng người ba lại có suy nghĩ khác (Nói đến tự do, người ta thường nghĩ đến đôi cánh… Cái lồng đã giam hãm nó quá lâu…)
- Khi chim khướu sổ lồng lần thứ hai: Các nhân vật đều không lo lắng và buồn bã như lần trước, vì đoán thế nào chim cũng trở về.
- Khi chim khướu trở về rồi lại bay đi cùng một con chim trời và không quay trở về nữa: Người con trai vẫn kiên nhẫn đợi chờ, trông mong chim khướu bay trở lại, còn người ba đã hiểu được và chấp nhận sự thật.
* Đôi nét về Nguyễn Quang Sáng:
- Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932.
- Quê quán: huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang
- Từ năm 1954, Nguyễn Quang Sáng bắt đầu viết văn.
- Những năm chống Mỹ, ông trở về Nam bộ tham gia kháng chiến rồi tiếp tục sáng tác văn học.
- Sau khi đất nước thống nhất, ông là Tổng thư ký Hội nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh.
- Các tác phẩm của ông thuộc nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim…
- Năm 2000, ông được Nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật.
- Một số tác phẩm tiêu biểu: Con chim vàng (tập truyện ngắn, 1956), Nhật ký người ở lại (tiểu thuyết, 1961), Chiếc lược ngà (tập truyện ngắn, 1966), Mùa gió chướng (tiểu thuyết, 1975), Dòng sông thơ ấu (tiểu thuyết, 1985), Paris – tiếng hát Trịnh Công Sơn (1990).

Bài soạn "Thực hành đọc: Con khướu sổ lồng trang 70" (Ngữ văn 10 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu 5
Bài tập 9. Đọc lại văn bản Con khướu sổ lồng trong SGK Ngữ văn 10, tập hai (tr. 70 – 72) và trả lời các câu hỏi:
- Hãy sơ đồ hoá câu chuyện bằng cách dùng mũi tên đánh dấu sự tiến triển của các sự việc diễn ra trong truyện ngắn Con khướu sổ lồng.
- Con khướu đã được “ưu ái” như thế nào? Điều này có liên quan gì đến việc con khướu sổ lồng bay đi rồi lại trở về?
- Có những cách lí giải nào về nguyên nhân con khướu sổ lồng đã trở lại nơi nó được nuôi dưỡng, chăm sóc? Cách lí giải nào đề cập đến “yếu tố tinh thần” của con khướu, góp phần thể hiện chủ đề của truyện?
- Con khướu trở về rồi lại bay đi và có khả năng sẽ bay đi mất. Điều đó đã được người kể chuyện xưng “tôi” lí giải như thế nào?
- Tiếng hót của con khướu khi ở trong lồng và khi tung cánh bay lượn giữa không gian bao la khác nhau như thế nào? Điều đó có ý nghĩa gì?
- Nhân vật kể chuyện xưng “tôi” nhiều lần bộc lộ ý nghĩ riêng của mình về con khướu. Những ý nghĩ đó giúp người đọc hiểu gì thêm về ý nghĩa của tác phẩm?
- Theo bạn, tên truyện có ý nghĩa như thế nào?
Bài giải:
Trả lời:
- Có thể sơ đồ hoá diễn biến câu chuyện trong truyện ngắn Con khướu sổ lồng (hình minh họa)
- Con khướu được nuôi dưỡng rất chu đáo: nơi ở của nó là cái lồng tuyệt đẹp; trong lồng có ba cái lọ sứ Tàu để đựng thức ăn thức uống; quanh lồng có cây cảnh với phong lan, tuy không mưa nắng, nhưng vẫn nhìn thấy khoảng trời mênh mông... Có lẽ sự “ưu ái”, điều kiện sống “thần tiên" chính là nguyên nhân để con khướu sau khi sổ lồng bay đi vẫn tìm đường trở về.
- Khi con khướu trở về, mọi người trong nhà vui mừng và bàn cãi nhau về nguyên nhân. Có người bảo căn cứ vào “nhu cầu vật chất” của con khướu (quen với việc được uống nước đường); lại có người chú ý “nhu cầu tinh thần" (nó đã bị giam hãm quá lâu, bây giờ thấy cô đơn, quá nhỏ bé trước bầu trời). Cho rằng việc con khướu trở về do “yếu tố tinh thần” là cách lí giải có ý nghĩa góp phần thể hiện chủ đề của truyện.
- Người kể chuyện xưng “tôi” đã lí giải về việc con khướu trở về rồi lại bay đi và có khả năng sẽ bay đi mất: “Con khướu đã bay theo tiếng gọi của giống loài, thoát khỏi cảnh bị giam hãm trong lồng để trở lại nguyên vẹn một con chim tự do tung cánh giữa bầu trời bao la.”
- Ở trong lồng, tiếng hót của con khướu: “vừa vui vừa xao xuyến”. Tiếng hót của nó khi bay lượn giữa trời:“ Tiếng hót của đôi chim rộn rã quấn quýt như tiếng cười tiếng khóc trong giọng rối rít của đôi tình nhân hàng thế kỉ mới tìm gặp nhau, vừa xôn xao vừa vang động cả trời chiều”. Như vậy, sống trong lồng, tiếng hót của con khướu có vẻ cô độc; khi sổ lồng bay đi, tiếng hót của con khướu không còn là tiếng hót cô độc của mình nó nữa, mà là bản hoà ca của đôi chim tự do bay lượn giữa bầu trời mênh mông. Sự khác nhau giữa hai kiểu hót cho thấy, chỉ khi tự do, con khướu mới thực sự là nó, nghĩa là mới thể hiện tất cả những tố chất đặc biệt của nó, qua tiếng hót.
- Nhân vật kể chuyện xưng “tôi” vừa hiện diện trong câu chuyện, vừa là người quan sát, bộc lộ những nhận xét từ cách cảm nhận, suy nghĩ, dự đoán riêng của mình. Mặc dù rất quý con khướu và muốn tận hưởng cảm giác thanh thản mỗi khi nghe nó hót trong lồng, nhưng qua những ý nghĩ đó, dường như nhân vật “tôi” lại thể hiện sự “đồng tình” với việc sổ lồng của con khướu. Thái độ của nhân vật “tôi” giúp người có thể rút ra được ý nghĩa của tác phẩm: Con người sống cần phải có tự do, phải sống là chính mình. Cần phải vượt qua giới hạn của bản thân để thoả sức tung bay trên bầu trời rộng lớn.
- Tên truyện gắn rất chặt với sự việc được kể: Có một con khướu được nuôi, nhưng vì sự sơ hở của chủ, đã vụt bay đi. Đó là lớp nghĩa thứ nhất, nghĩa thực. Nhưng ẩn sau đó còn có nghĩa bóng. Con khướu muốn sổ lồng để thoát khỏi sự giam hãm, chật chội, để được tự do, được thể hiện những gì vốn có của mình. Xét ở lớp nghĩa này, tác phẩm không chỉ bó hẹp ở chuyện về một con chim khướu, mà suy rộng ra, đó còn là câu chuyện về nhu cầu tự do của con người.


Bài soạn "Thực hành đọc: Con khướu sổ lồng trang 70" (Ngữ văn 10 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu 6
* Nội dung chính Con khướu sổ lồng
- Văn bản kể về câu chuyện con chim khướu của gia đình “tôi” nuôi hai lần sổ lồng bay đi. Lần đầu tiên chim một mình bay trở về nhưng lần thứ hai, chim khướu gặp được chim mái trên bầu trời, gặp được bạn tình và đã bay đi mãi cùng đôi cánh của tình yêu.
* Một số điều cần lưu ý khi đọc văn bản
Mức độ bao quát các nhân vật, sự kiện của người kể chuyện ngôi thứ nhất
Trả lời:
- Truyện được kể theo ngôi thứ nhất.
+ Người kể là nhân vật người ba trong gia đình.
- Người kể chuyện là đối tượng có tham dự vào các sự việc diễn ra trong tác phẩm nên có thể bao quát hành vi, cảm xúc của các nhân vật khác cũng như tái hiện khách quan các sự việc xảy ra.
- Trong truyện, người kể chuyện đã lớn, đã trưởng thành, nên có đủ khả năng để lý giải các sự việc bên cạnh việc tái hiện.
Nắm bắt được cảm xúc, suy nghĩ của các nhân vật về sự việc diễn ra trong câu chuyện
Trả lời:
- Lần đầu tiên chim khướu sổ lồng:
+ Hai cha con hốt hoảng và hụt hẫng (“cái lồng trống, lòng tôi cũng trống”)
- Khi chim khướu quay trở về
+ Cảm xúc các nhân vật đều vui vẻ, sung sướng: “Cả nhà reo lên.”
+ Nhưng người ba trở nên trầm ngâm, suy tư về việc cái lồng giam hãm chim khướu quá lâu khiến nó chới với khi bay ra ngoài.
- Khi chim khướu sổ lồng lần thứ hai:
+ Các nhân vật không lo buồn như lần trước, vì đoán thế nào chim cũng quay trở về.
- Khi biết chim khướu không quay trở về nữa: người con trai vẫn kiên nhẫn đợi chờ, trông mong chim khướu bay trở lại, còn người ba đã thấu hiểu và chấp nhận sự thật.

Hãy đăng nhập để bình luận
Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .

