Top 6 Bài soạn "Thương nhớ bầy ong" (Ngữ văn 6 - SGK Chân trời sáng tạo) hay nhất
"Thương nhớ bầy ong" là đoạn trích thuộc thể loại hồi kí của tác giả Huy Cận. Đoạn trích bày tỏ tình yêu, say mê của nhân vật tôi dành cho bầy ong mà nhà...xem thêm ...
Bài soạn "Thương nhớ bầy ong" số 1
Tóm tắt
Nhà nhân vật tôi có truyền thống nuôi ong. Tuổi thơ của nhân vật tôi gắn liền với những đõ ong đó, mặc dù bị ong đốt nhiều lần những vẫn rất say mê xem đàn ong bay ra họp đàn trước đõ. Nhân vật tôi rất buồn khi chứng kiến đàn “trại” đi rời bỏ tổ mang theo một con ong chúa bay đi. Nhiều lần khi thấy ong “trại” người chú phải hô lên cho cả xóm ném đất vụn lên để đàn ong mệt lử không thể bay tiếp. Trong một lần ở nhà khi chứng kiến đàn ong “trại” nhân vật tôi đã cố gắng ném vụn đất lên nhưng chẳng có ích gì. Nhân vật tôi buồn không nói nên lời, hình ảnh bầy ong bay đi như một mảnh linh hồn của nhân vật tôi đã bị san sẻ đi nơi khác.
Bố cục
Có thể chia văn bản thành 2 phần:
- Phần 1 (Từ đầu đến ...ra đồng cày tra): Gia đình nhân vật tôi nuôi ong
- Phần 2 (Còn lại): Nhân vật tôi chứng kiến đàn ong bay đi
Nội dung chính
“Thương nhớ bầy ong” là hồi ức của nhân vật tôi về những đõ ong mà nhân vật tôi đã từng được nhìn thấy, cảm nhận, mê đắm ngày nhỏ. Kèm theo những hồi ức tươi đẹp ấy là nỗi buồn không dứt, buồn đến phát khóc khi chúng rời xa. Từ đó nêu lên triết lí, những vật nhỏ bé, vô tri vô giác đều gây vương vấn, ám ảnh vào tâm hồn, ảnh hưởng đến thơ ca, nghệ thuật của mỗi người.
Thương nhớ bầy ong
* Chuẩn bị đọc
Câu 1. Đã bao giờ em phải chia tay mãi mãi với một con vật nuôi, một đồ chơi, một vật dụng… hết sức thân thiết đối với mình? Tâm trạng của em khi ấy thế nào?
- Em đã từng chia tay chú chó nhỏ của mình vì chú bị bệnh và đã chết.
- Tâm trạng của em lúc đó rất buồn, hụt hẫng như mất đi một người thân yêu của mình.
Câu 2. Em hãy tìm hiểu về công việc nuôi ong và tình cảm của người nuôi ong với bầy ong của mình.
Tìm hiểu về công việc nuôi ong và tình cảm của người nuôi ong với bầy ong của mình.
* Kỹ thuật tạo chúa và chia đàn ong
- Tạo chúa:
+ Khi đàn ong xung mãn, Khi nguồn phấn, mật dồi dào hoặc ong chúa đã già thì đàn ong có khuynh hướng tạo những nụ để nuôi chúa mới để thay thế hoặc chia bay. Đây là đặc điểm sinh học nhằm bảo vệ nòi giống, luôn có ong chúa dự trữ trong đàn.
+ Phương pháp đàn có chúa: Chọn đàn ong có 8 hoặc 9 cầu quân thật đông (có thể quân bu cả trên nắp). Dùng một ván ngắn đặt vào giữa 4 cầu nhộng, như vậy 2 cầu nhộng và cầu mật sẽ ở bên ngoài và ở đây không có ong chúa, bên kia ong chúa vẫn đẻ bình thường. Đưa khung tạo chúa vào giữa hai cầu nhộng và làm công việc như ở phương pháp đàn không chúa.
- Chia đàn: Những đàn từ 7 cầu đông quân trở lên đều có thể chia đàn.
* Kỹ thuật khai thác phấn hoa
- Khai Thác Phấn Hoa: Vào mùa bông chè, cà phê, mắc cỡ ..vv.., nếu nguồn phấn dồi dào ta có thể tổ chức khai thác phấn hoa:
Dùng một tấm lưới có các lỗ có đường kính 5,7mm chận trước cửa tổ, bên dưới dùng một máng để hứng phấn. Ong đi làm về mang hai hạt phấn ở hai chân sau khi chui vào lỗ của lưới thoái phấn sẽ đễ lại hai hạt phấn ở bên ngoài. Hai hạt phấn này sẽ rơi xuống màng hứng phấn. Trưa hoặc chiều người nuôi ong sẽ gom số phấn này lại.
* Để bảo quản phấn hoa người ta có 3 cách:
+ Phơi nắng: trải mỏng phấn hoa trên tấm bạt hay tấm tôn, phơi 3 nắng để đạt độ khô 10%. Phương pháp này phấn hoa sẽ mất đi một số thành phần và không được vệ sinh. Do đó phấn hoa thành phẩm chỉ để cho ong ăn vào mùa khan phấn hoặc mùa khai thác mật cao su.
+ Sấy bằng tủ sấy: Để phấn hoa có thể trở thành thực phẩm cho người sử dụng được. Ta cần sấy phấn hoa trong tủ sấy ở 450 C đựng vào bao bì sạch và đậy kín có chống ẩm.
+ Bảo quản bằng cách ủ với đường: Phấn hoa phơi một nắng cho ráo nước, sau đó cho vào những bình miệng rộng cứ 1 lớp phấn khoảng 3cm thì 1 lớp đường 2cm và trên cùng là lớp đường. Sau một thời gian đường chảy ra và hoà vào phấn. Cách bảo quản này hầu như giữ được gần hết các thành phần phấn hoa rất tốt để làm hàng hoá và cho ong ăn.
- Khai thác mật ong: Vào những mùa hoa nở rộ như: Cà phê, cao su, chôm chôm, nhãn .v.v.
+ Người ta đem những đàn ong mạnh (tức những đàn đã đạt đến 10 cầu quân thật đông) đến những vùng có hoa nở rộ để khai thác mật ong.
+ Lấy các khung cầu ra (có thể để lại 1 => 2 cầu hoặc lấy hết) giũ hết ong vào thùng, dùng chổi ong quét hết ong xuống thùng.
+ Dùng dao thật sắt để cắt lớp mặt sáp trám trên các ô lắng chứa mật.
+ Đưa các khung cầu này vào thùng quay ly tâm để lấy mật ra.
+ Sau khi đã lấy hết mật lại bỏ các khung cầu này vào thùng ong trở lại. Thường thì mùa hoa có thể có từ 10 => 15 ngày có thể lấy mật một lần. Mỗi lần 1 đàn 10 cầu có thể lấy được từ từ 4 => 12 kg mật ong.
* Trải nghiệm cùng văn bản
Câu 1. Câu văn nào trong đoạn ăn này giải thích thế nào là ong “trại”?
“Ong trại” có nghĩa là một phần đàn ong rời bỏ tổ nhà, mang theo một ong chúa – con duy nhất trong đàn ong có khả năng sinh sản.
Câu 2. Trong hai đoạn cuối, cậu bé đã mấy lần dùng từ “linh hồn? Cách dùng từ “linh hồn” ở đây có gì khác thường?
- Tác giả đã sử dụng 3 lần từ “linh hồn”.
- Từ linh hồn được hiểu là phần tinh thần sâu kín thiêng liêng nhất mang lại sức sống cho con người, sự vật.
- Thế nhưng với cách dùng từ “linh hồn” của tác giả trong đoạn văn có nét khác biệt: những vật vô tri, vô giác, nhỏ nhẹ, vụn vặt như giá đặt đõ ong, chậu nước con ở chân giá… đều có linh hồn khiến cho con người phải nhớ nhung, yêu mến.
* Suy ngẫm và phản hồi
Câu 1. Những dấu hiệu nào đã giúp em biết văn bản trên thuộc thể hồi kí?
* Văn bản thuộc thể loại hồi kí vì nó mang những đặc điểm đặc trưng của thể loại:
- Kể lại những sự việc mà người viết trực tiếp tham dự trong quá khứ. Trong văn bản, tác giả đã kể lại sự việc trong quá khứ khi gia đình nuôi ong và chứng kiến cảnh “ong trại” với tâm trạng buồn bã.
- Người kể chuyện: ngôi thứ nhất, xưng “tôi”.
- Hình thức ghi chép: tác giả ghi chép lại những sự việc có thật khi tác giả chứng kiến “ong trại” và truyện được kể hấp dẫn, sâu sắc, thể hiện những tâm sự, chiêm nghiệm của tác giả.
Câu 2. Trong câu văn “Và ý thơ cuộc đời, ý thơ vũ trụ, cái xa xôi vắng vẻ sau này ám ảnh tôi, ngày thơ bé tôi đã nghe rồi, mỗi lần ong trại”, theo em, có thể bỏ bớt cụm từ “sau này” hoặc “ngày thơ bé” được không? Vì sao? Từ đó nêu tác dụng của việc sử dụng các cụm từ chỉ thời gian trong hồi kí.
- Theo em, không thể bỏ bớt cụm từ “sau này” hoặc “ngày thơ bé”
- Vì câu văn thể hiện những cảm xúc, suy tư trong quá khứ đã ảnh hưởng đến ý thơ, những cảm xúc trong thơ của tác giả sau này.
- Tác dụng của việc sử dụng các cụm từ chỉ thời gian trong hồi kí:
+ Đó là mối liên hệ giữa quá khứ với hiện tại và tương lai. Nên nếu bỏ bớt cụm từ, người đọc sẽ không thể hiểu được ý nghĩa của câu văn.
+ Các sự việc trong hồi kí thường được kể theo trình tự thời gian. Vì vậy cần có các cụm từ chỉ thời gian để xác định được thời điểm xảy ra sự việc.
Câu 3. Tìm trong văn bản một số từ ngữ, câu văn diễn tả nỗi buồn của nhân vật “tôi” khi chứng kiến bày ong bỏ tổ bay đi. Em có nhận xét gì về tình cảm mà cậu bé dành cho bày ong?
- Một số từ ngữ, câu văn diễn tả nỗi buồn của nhân vật “tôi” khi chứng kiến bày ong bỏ tổ bay đi:
+ Tôi cũng ném đất vụn lên nhưng không ăn thua gì
+ Tôi nhìn theo, buồn không nói được.
+ Nhìn ong trại đi, tưởng như một mảnh hồn của tôi đã san đi nơi khác.
- Nhận xét gì về tình cảm mà cậu bé dành cho bày ong:
Qua những câu văn đó cho thấy cậu bé có tình cảm yêu mến đặc biệt với bầy ong, khi chúng rời xa, cậu cảm thấy buồn bã, như mất đi một phần vốn rất thân quen với mình.
Câu 4. Để tái hiện lại quá khứ một cách chân thực, sinh động người viết hồi kí có thể tập trung kể lại sự việc, cũng có thể vừa kể lại sự việc vừa kể lại cảm xúc, suy tư của mình trước sự việc ấy. Theo em, Thương nhớ bày ong thuộc trường hợp nào trong hai trường hợp trên? Dựa vào đâu có thể khẳng định như vậy?
- Theo em, “Thương nhớ bầy ong” thuộc kiểu hồi kí vừa kể lại sự việc vừa kể lại cảm xúc, suy tư của mình trước sự việc ấy.
- Có thể khẳng định được điều ấy vì nhân vật tôi đã kể về những lần ong trại và từ đó thể hiện những suy nghĩ, chiêm nghiệm của mình: những vật vô tri vô giác, nhỏ nhẻ, vụn vặt cũng mang một linh hồn vương vấn với hồn ta và khiến ta yêu mến. Những cảm xúc ngày thơ bé đó cũng đã ảnh hưởng, ám ảnh đến tác giả về sau.
Câu 5. Em có nhận xét gì về cách quan sát, cảm nhận thiên nhiên, loài vật của nhân vật “tôi”?
Tác giả đã thể hiện nhân vật tôi có cách quan sát tỉ mỉ, thể hiện những hiểu biết về đặc điểm loài ong, cách cảm nhận về thiên nhiên, loài vật vô cùng tinh tế và phát hiện ra những điều sâu sắc: mọi vật đều mang trong nó một linh hồn, gần gũi và thân thuộc với con người.
Câu 6. Đọc Thương nhớ bày ong, có bạn khẳng định rằng nhân vật cậu bé xưng “tôi”, trong văn bản chính là tác giả Cù Huy Cận, một số bạn khác lại cho là không phải như vậy. Cho biết ý kiến của em về các nhận định trên.
- Theo em, nhân vật cậu bé xưng “tôi”, trong văn bản chính là tác giả Cù Huy Cận – Điều này được thể hiện qua câu văn “ Và ý thơ cuộc đời, ý thơ vũ trụ, cái xa xôi vắng vẻ sau này ám ảnh tôi, ngày thơ bé tôi đã nghe rồi, mỗi lần ong trại”. Ông là một nhà thơ nổi tiếng của nước ta, những bài thơ của ông thường thấm đẫm một nỗi buồn mênh mang khó tả.
Bài soạn "Thương nhớ bầy ong" số 2
Phần I: Chuẩn bị đọc
Câu 1 (trang 117 SGK Ngữ văn 6 tập 1)
Đã bao giờ em phải cha tay mãi mãi với một con vật nuôi, một đồ chơi, một vật dụng… hết sức thân thiết đối với mình? Tâm trạng của em khi ấy thế nào?
Phương pháp giải:
Nhớ lại các con vật nuôi hoặc đồ vật nhà em (chó, mèo, chim, gà…) và kể lại cảm nghĩ của mình.
Lời giải chi tiết:
Em đã từng chia tay chú chó nhỏ của mình vì chú bị trộm chó bắt đi. Tâm trạng của em lúc đó rất buồn, giống như mất đi một người bạn, một người thân và những kỉ niệm quý báu của cuộc đời.
Câu 2 (trang 117 SGK Ngữ văn 6 tập 1)
Em hãy tìm hiểu về công việc nuôi ong và tình cảm của người nuôi ong với bầy ong của mình.
Phương pháp giải:
Em có thể tìm hiểu trên internet về thông tin này.
Lời giải chi tiết:
KỸ THUẬT TẠO CHÚA VÀ CHIA ĐÀN ONG
- Tạo chúa:
- Khi đàn ong sung mãn, khi nguồn phấn, mật dồi dào hoặc ong chúa đã già thì đàn ong có khuynh hướng tạo những nụ để nuôi chúa mới để thay thế hoặc chia bầy. Đây là đặc điểm sinh học nhằm bảo vệ nòi giống, luôn có ong chúa dự trữ trong đàn.
- Phương pháp đàn có chúa: Chọn đàn ong có 8 hoặc 9 cầu quân thật đông (có thể quân bu cả trên nắp). Dùng một ván ngắn đặt vào giữa 4 cầu nhộng, như vậy 2 cầu nhộng và cầu mật sẽ ở bên ngoài và ở đây không có ong chúa, bên kia ong chúa vẫn đẻ bình thường. Đưa khung tạo chúa vào giữa hai cầu nhộng và làm công việc như ở phương pháp đàn không chúa.
- Chia đàn: Những đàn từ 7 cầu đông quân trở lên đều có thể chia đàn.
KỸ THUẬT KHAI THÁC PHẤN HOA
- Khai Thác Phấn Hoa: Vào mùa bông chè, cà phê, mắc cỡ..vv.., nếu nguồn phấn dồi dào ta có thể tổ chức khai thác phấn hoa:
- Dùng một tấm lưới có các lỗ có đường kính 5,7mm chận trước cửa tổ, bên dưới dùng một máng để hứng phấn. Ong đi làm về mang hai hạt phấn ở hai chân sau khi chui vào lỗ của lưới thoái phấn sẽ đễ lại hai hạt phấn ở bên ngoài. Hai hạt phấn này sẽ rơi xuống màng hứng phấn. Trưa hoặc chiều người nuôi ong sẽ gom số phấn này lại.
* Để bảo quản phấn hoa người ta có 3 cách:
- Phơi nắng: trải mỏng phấn hoa trên tấm bạt hay tấm tôn, phơi 3 nắng để đạt độ khô 10%. Phương pháp này phấn hoa sẽ mất đi một số thành phần và không được vệ sinh. Do đó phấn hoa thành phẩm chỉ để cho ong ăn vào mùa khan phấn hoặc mùa khai thác mật cao su.
- Sấy bằng tủ sấy: Để phấn hoa có thể trở thành thực phẩm cho người sử dụng được. Ta cần sấy phấn hoa trong tủ sấy ở 450 C đựng vào bao bì sạch và đậy kín có chống ẩm.
- Bảo quản bằng cách ủ với đường: Phấn hoa phơi một nắng cho ráo nước, sau đó cho vào những bình miệng rộng cứ 1 lớp phấn khoảng 3cm thì 1 lớp đường 2cm và trên cùng là lớp đường. Sau một thời gian đường chảy ra và hoà vào phấn. Cách bảo quản này hầu như giữ được gần hết các thành phần phấn hoa rất tốt để làm hàng hoá và cho ong ăn.
- Khai thác mật ong: Vào những mùa hoa nở rộ như: Cà phê, cao su, chôm chôm, nhãn ..v.v..
- Người ta đem những đàn ong mạnh (tức những đàn đã đạt đến 10 cầu quân thật đông) đến những vùng có hoa nở rộ để khai thác mật ong.
- Lấy các khung cầu ra (có thể để lại 1 -> 2 cầu hoặc lấy hết) giũ hết ong vào thùng, dùng chổi ong quét hết ong xuống thùng.
- Dùng dao thật sắt để cắt lớp mặt sáp trám trên các ô lắng chứa mật.
- Đưa các khung cầu này vào thùng quay ly tâm để lấy mật ra.
- Sau khi đã lấy hết mật lại bỏ các khung cầu này vào thùng ong trở lại. Thường thì mùa hoa có thể có từ 10 -> 15 ngày có thể lấy mật một lần. Mỗi lần 1 đàn 10 cầu có thể lấy được từ từ 4 -> 12 kg mật ong.
Phần II: Trải nghiệm cùng văn bản
Câu 1 (trang 118 SGK Ngữ văn 6 tập 1)
Câu văn nào trong đoạn văn này giải thích thế nào là ong “trại”?
Phương pháp giải:
Đọc kĩ đoạn văn này và tìm câu văn đó.
Lời giải chi tiết:
“Ong trại” có nghĩa là một phần đàn ong rời bỏ tổ nhà, mang theo một ong chúa – con duy nhất trong đàn ong có khả năng sinh sản.
Phần III: Suy ngẫm và phản hồi
Câu 1 (trang 118 SGK Ngữ văn 6 tập 1)
Những dấu hiệu nào đã giúp em biết văn bản trên thuộc thể hồi kí?
Phương pháp giải:
Nhớ lại kiến thức về văn bản hồi kí.
Lời giải chi tiết:
Văn bản thuộc thể loại hồi kí vì nó mang những đặc điểm đặc trưng của thể loại:
- Kể lại những sự việc mà người viết trực tiếp tham dự trong quá khứ. Trong văn bản, tác giả đã kể lại sự việc trong quá khứ khi gia đình nuôi ong và chứng kiến cảnh ong trai với tâm trạng buồn bã.
- Người kể chuyện: ngôi thứ nhất, xưng “tôi”.
- Hình thức ghi chép: tác giả ghi chép lại những sự việc có thật khi tác giả chứng kiến ong trại và truyện được kể hấp dẫn, sâu sắc, thể hiện những tâm sự, chiêm nghiệm của tác giả.
Câu 2 (trang 118 SGK Ngữ văn 6 tập 1)
Trong câu văn “Và ý thơ cuộc đời, ý thơ vũ trụ, cái xa xôi vắng vẻ sau này ám ảnh tôi, ngày thơ bé tôi đã nghe rồi, mỗi lần ong trại”, theo em, có thể bỏ bớt cụm từ “sau này” hoặc “ngày thơ bé” được không? Vì sao? Từ đó nêu tác dụng của việc sử dụng các cụm từ chỉ thời gian trong hồi kí.
Phương pháp giải:
Em thử bỏ cụm từ trên xem câu văn có gì thay đổi không, từ đó đưa ra nhận xét.
Lời giải chi tiết:
- Theo em, không thể bỏ bớt cụm từ “sau này” hoặc “ngày thơ bé” vì đó là thành phần quan trọng tạo nên ý nghĩa của câu văn. Đó là mối liên hệ giữa quá khứ với hiện tại và tương lai. Nên nếu bỏ bớt cụm từ, người đọc sẽ không thể hiểu được ý nghĩa của câu văn.
- Các sự việc trong hồi kí thường được kể theo trình tự thời gian. Vì vậy cần có các cụm từ chỉ thời gian để xác định được thời điểm xảy ra sự việc.
Câu 3 (trang 119 SGK Ngữ văn 6 tập 1)
Tìm trong văn bản một số từ ngữ, câu văn diễn tả nỗi buồn của nhân vật “tôi” khi chứng kiến bày ong bỏ tổ bay đi. Em có nhận xét gì về tình cảm mà cậu bé dành cho bầy ong?
Phương pháp giải:
Chú ý cảm xúc (yêu, ghét, buồn, vui…) của tác giả được bộc lộ trong đoạn văn cuối.
Lời giải chi tiết:
Một số từ ngữ, câu văn diễn tả nỗi buồn của nhân vật “tôi” khi chứng kiến bày ong bỏ tổ bay đi:
- Tôi nhìn theo, buồn không nói được.
- Cái buồn của đứa bé rộng lớn đến bao nhiêu, các thi sĩ, văn nhân đã ai nói đến chưa?
- Nhìn ong trại đi, tưởng như một mảnh hồn của tôi đã san đi nơi khác.
=> Qua những câu văn đó cho thấy cậu bé có tình cảm yêu mến đặc biệt với bầy ong, khi chúng rời xa, cậu cảm thấy buồn bã, như mất đi một phần vốn rất thân quen với mình.
Câu 4 (trang 119 SGK Ngữ văn 6 tập 1)
Để tái hiện lại quá khứ một cách chân thực, sinh động người viết hồi kí có thể tập trung kể lại sự việc, cũng có thể vừa kể lại sự việc vừa kể lại cảm xúc, suy tư của mình trước sự việc ấy. Theo em, Thương nhớ bầy ong thuộc trường hợp nào trong hai trường hợp trên? Dựa vào đâu có thể khẳng định như vậy?
Phương pháp giải:
Xác định nội dung văn bản, từ đó lựa chọn đáp án phù hợp cho câu hỏi trên.
Lời giải chi tiết:
Văn bản Thương nhớ bầy ong thuộc kiểu hồi kí vừa kể lại sự việc vừa kể lại cảm xúc, suy tư của mình trước sự việc ấy. Có thể khẳng định được điều ấy vì nhân vật tôi đã kể về những lần ong trại và từ đó thể hiện những suy nghĩ, chiêm nghiệm của mình: những vật vô tri vô giác, nhỏ nhẻ, vụn vặt cũng mang một linh hồn vương vấn với hồn ta và khiến ta yêu mến. Những cảm xúc ngày thơ bé đó cũng đã ảnh hưởng, ám ảnh đến tác giả về sau.
Câu 5 (trang 119 SGK Ngữ văn 6 tập 1)
Em có nhận xét gì về cách quan sát, cảm nhận thiên nhiên, loài vật của nhân vật “tôi”?
Phương pháp giải:
Chú ý cách kể chuyện của nhân vật đối với bầy ong trong văn bản.
Lời giải chi tiết:
Nhân vật tôi đã quan sát, cảm nhận thiên nhiên, loài vật bằng tất cả các giác quan và tâm hồn vô cùng tinh tế để từ đó phát hiện ra những điều sâu sắc: mọi vật đều mang trong nó một linh hồn, gần gũi và thân thuộc với con người.
Câu 6 (trang 119 SGK Ngữ văn 6 tập 1)
Đọc Thương nhớ bầy ong, có bạn khẳng định rằng nhân vật cậu bé xưng “tôi”, trong văn bản chính là tác giả Cù Huy Cận, một số bạn khác lại cho là không phải như vậy. Cho biết ý kiến của em về các nhận định trên.
Phương pháp giải:
Chú ý đoạn văn cuối, có những câu văn xác định thời gian, địa điểm, cảm nhận của tác giả. Đó chính là câu trả lời cho câu hỏi đây có phải là tác giả hay không.
Lời giải chi tiết:
Theo em, nhân vật cậu bé xưng “tôi”, trong văn bản chính là tác giả Cù Huy Cận được thể hiện qua câu văn “Và ý thơ cuộc đời, ý thơ vũ trụ, cái xa xôi vắng vẻ sau này ám ảnh tôi, ngày thơ bé tôi đã nghe rồi, mỗi lần ong trại”. Ông là một nhà thơ nổi tiếng của nước ta, những bài thơ của ông thường thấm đẫm một nỗi buồn mênh mang khó tả.
Bài soạn "Thương nhớ bầy ong" số 3
I. Tìm hiểu chung
- Tác giả
Huy Cận (1919 - 2005)
- Tên thật là Cù Huy Cận.
- Quê quán: xã Ân Phú, huyện Hương Sơn (nay là huyện Vũ Quang), tỉnh Hà Tĩnh.
- Tác phẩm
- Xuất xứ: Tác giả đặt tên là Tổ ong "trại" trích từ tập 1 Hồi kí Song đôi.
- Thể loại: Hồi kí.
- PTBĐ chính: Tự sự.
II. Đọc hiểu văn bản
Bầy ong trong kí ức tuổi thơ của nhân vật tôiBầy ong và nỗi buồn của nhân vật tôi trong hiện tại
- Những đõ ong:
+ Ngày xưa, ông nuôi nhiều ong, đằng sau nhà có hai dãy đõ ong mật.
+ Ngày xưa, hai đõ ong "sây".
+ Chiều lỡ buổi (khoảng 4h chiều) thì ong bay ra họp đàn trước đõ.
→ Nhiều, sung túc, sai trĩu.
- Những đõ ong:
+ Sau ngày ông chết, cha và chú còn nuôi một ít đõ, nhưng không vượng như xưa.
+ Mấy lần ong "trại": một phần đàn ong rời xa, bỏ tổ nhà, mang theo một ong chúa.
+ Thường thì chú biết được và hô lên cho cả xóm ném đất vụn lên để cả bầy ong mệt lử lại đậu vào cây nào đó hoặc về trõ. Ong đậu trên cây thì chú hay người khác trèo lên bắt mang về đõ cũ hoặc đõ mới.
+ Nhưng cũng có hôm lỡ vì chú phải ra đồng cày tra.
+ Có lần ong vù vù lên cao, bay mau và mất hút trong chốc lát.
→ Ít, bay đi, rời đi.
- Nhân vật tôi:
+ Hay ra xem ong họp đàn.
+ Nhiều khi bị ong đốt nhưng mê xem không thôi.
→ Vui vẻ, hứng khởi, mê mải.
- Nhân vật tôi:
+ Buồn lắm, cái buồn xa côi vắng tanh của chiều quê, của không gian.
+ Những lúc cả nhà đi vắng thì còn buồn đến nỗi khóc một mình, nghe long bị ép lại, như trời hạ xuống. → So sánh.
+ Một lần ở nhà một mình, thấy ong trại mà không thể làm gì được. Chỉ nhìn theo, buồn không nói được.
+ Cái buồn của đứa trẻ rộng lớn đến bao nhiêu, các thi sĩ, văn nhân đã ai nói đến chưa? → Câu hỏi tu từ.
+ Nhìn trại ong đi, tưởng như một mảnh hồn tôi đã san đi nơi khác. Nơi xa xôi nào đó đã nhận một phần cốt tủy của linh hồn nhà tôi với bầy ong trại? → Câu hỏi tu từ.
→ Buồn bã, nỗi buồn không thôi, buồn đến phát khóc.
➩ Bài học
+ Đưa ra nhận định thi sĩ phương Tây: Những vật vô tri vô giác đều có một linh hồn, nó vương vấn với hồn ta và khiến ta yêu mến.
+ Liên hệ với bản thân: Bao nhiêu vật nhỏ nhẻ, vụn vặt đã gom góp cho tôi những cảm giác đầu tiên, những cái nhìn ngó đầu tiên vào ý nghĩa cuộc đời và vũ trụ.
+ Liên hệ với thơ ca của mình: Ý thơ cuộc đời, ý thơ vũ trụ, cái xa xôi vắng vẻ sau này ám ảnh tôi, ngày thơ bé tôi đã nghe rồi. Linh hồn của đất đá, có phải là một điều bịa đặt của các thi nhân đâu.
III. Tổng kết
1. Nội dung
Thương nhớ bầy ong là hồi ức của nhân vật tôi về những đõ ong mà nhân vật tôi đã từng được nhìn thấy, cảm nhận, mê đắm ngày nhỏ. Kèm theo những hồi ức tươi đẹp ấy là nỗi buồn không dứt, buồn đến phát khóc khi chúng rời xa. Từ đó nêu lên triết lí, những vật nhỏ bé, vô tri vô giác đều gây vương vấn, ám ảnh vào tâm hồn, ảnh hưởng đến thơ ca, nghệ thuật của mỗi người.
2. Nghệ thuật
Hồi kí kết hợp các biện pháp tu từ: so sánh, câu hỏi tu từ, đối lập.
IV. Chuẩn bị đọc:
- Đã bao giờ em phải chia tay mãi mãi với một con vật nuôi, một đồ chơi, một vật dụng… hết sức thân thiết đối với mình? Tâm trạng của em khi ấy thế nào?
- Em hãy tìm hiểu về công việc nuôi ong và tình cảm của người nuôi ong với bầy ong của mình.
Bài Làm:
- Em đã từng chia tay chú chó nhỏ của mình vì chú bị bệnh và đã chết. Tâm trạng của em lúc đó rất buồn, hụt hẫng như mất đi một người thân yêu của mình.
- KỸ THUẬT TẠO CHÚA VÀ CHIA ĐÀN ONG
Tạo chúa:
- Khi đàn ong xung mãn, Khi nguồn phấn, mật dồi dào hoặc ong chúa đã già thì đàn ong có khuynh hướng tạo những nụ để nuôi chúa mới để thay thế hoặc chia bay. Đây là đặc điểm sinh học nhằm bảo vệ nòi giống, luôn có ong chúa dự trữ trong đàn.
- Phương pháp đàn có chúa: Chọn đàn ong có 8 hoặc 9 cầu quân thật đông (có thể quân bu cả trên nắp). Dùng một ván ngắn đặt vào giữa 4 cầu nhộng, như vậy 2 cầu nhộng và cầu mật sẽ ở bên ngoài và ở đây không có ong chúa, bên kia ong chúa vẫn đẻ bình thường. Đưa khung tạo chúa vào giữa hai cầu nhộng và làm công việc như ở phương pháp đàn không chúa.
Chia đàn: Những đàn từ 7 cầu đông quân trở lên đều có thể chia đàn.
KỸ THUẬT KHAI THÁC PHẤN HOA
Khai Thác Phấn Hoa: Vào mùa bông chè, cà phê, mắc cỡ ..vv.., nếu nguồn phấn dồi dào ta có thể tổ chức khai thác phấn hoa:
Dùng một tấm lưới có các lỗ có đường kính 5,7mm chận trước cửa tổ, bên dưới dùng một máng để hứng phấn. Ong đi làm về mang hai hạt phấn ở hai chân sau khi chui vào lỗ của lưới thoái phấn sẽ để lại hai hạt phấn ở bên ngoài. Hai hạt phấn này sẽ rơi xuống màng hứng phấn. Trưa hoặc chiều người nuôi ong sẽ gom số phấn này lại.
* Để bảo quản phấn hoa người ta có 3 cách:
- Phơi nắng: trải mỏng phấn hoa trên tấm bạt hay tấm tôn, phơi 3 nắng để đạt độ khô 10%. Phương pháp này phấn hoa sẽ mất đi một số thành phần và không được vệ sinh. Do đó phấn hoa thành phẩm chỉ để cho ong ăn vào mùa khan phấn hoặc mùa khai thác mật cao su.
- Sấy bằng tủ sấy: Để phấn hoa có thể trở thành thực phẩm cho người sử dụng được. Ta cần sấy phấn hoa trong tủ sấy ở 450 C đựng vào bao bì sạch và đậy kín có chống ẩm.
- Bảo quản bằng cách ủ với đường: Phấn hoa phơi một nắng cho ráo nước, sau đó cho vào những bình miệng rộng cứ 1 lớp phấn khoảng 3cm thì 1 lớp đường 2cm và trên cùng là lớp đường. Sau một thời gian đường chảy ra và hoà vào phấn. Cách bảo quản này hầu như giữ được gần hết các thành phần phấn hoa rất tốt để làm hàng hoá và cho ong ăn.
Khai thác mật ong: Vào những mùa hoa nở rộ như: Cà phê, cao su, chôm chôm, nhãn .v.v.
- Người ta đem những đàn ong mạnh (tức những đàn đã đạt đến 10 cầu quân thật đông) đến những vùng có hoa nở rộ để khai thác mật ong.
- Lấy các khung cầu ra (có thể để lại 1 --> 2 cầu hoặc lấy hết) giũ hết ong vào thùng, dùng chổi ong quét hết ong xuống thùng.
- Dùng dao thật sắt để cắt lớp mặt sáp trám trên các ô lắng chứa mật.
- Đưa các khung cầu này vào thùng quay ly tâm để lấy mật ra.
- Sau khi đã lấy hết mật lại bỏ các khung cầu này vào thùng ong trở lại. Thường thì mùa hoa có thể có từ 10 --> 15 ngày có thể lấy mật một lần. Mỗi lần 1 đàn 10 cầu có thể lấy được từ từ 4 --> 12 kg mật ong.
V. Trải nghiệm cùng văn bản
- Câu văn nào trong đoạn ăn này giải thích thế nào là ong “trại”?
- Trong hai đoạn cuối, cậu bé đã mấy lần dùng từ “linh hồn:. Cách dùng từ “linh hồn” ở đây có gì khác thường?
Bài Làm:
- “Ong trại” có nghĩa là một phần đàn ong rời bỏ tổ nhà, mang theo một ong chúa – con duy nhất trong đàn ong có khả năng sinh sản.
- Tác giả đã sử dụng 3 lần từ “linh hồn”. Từ linh hồn được hiểu là phần tinh thần sâu kín thiêng liêng nhất mang lại sức sống cho con người, sự vật. Thế nhưng với cách dùng từ “linh hồn” của tác giả trong đoạn văn có nét khác biệt: những vật vô trí vô giác, nhỏ nhẹ, vụn vặt như giã đặt đõ ong, chậu nước con ở chân giá… đều có linh hồn khiến cho con người phải nhớ nhung, yêu mến.
VI. Suy ngẫm và phản hồi
- Những dấu hiệu nào đã giúp em biết văn bản trên thuộc thể hồi kí?
Văn bản thuộc thể loại hồi kí vì nó mang những đặc điểm đặc trưng của thể loại:
- Kể lại những sự việc mà người viết trực tiếp tham dự trong quá khứ. Trong văn bản, tác giả đã kể lại sự việc trong quá khứ khi gia đình nuôi ong và chứng kiến cảnh ong trai với tâm trạng buồn bã.
- Người kể chuyện: ngôi thứ nhất, xưng “tôi”.
- Hình thức ghi chép: tác gia ghi chép lại những sự việc có thật khi tác giả chứng kiến ong trại và truyện được kể hấp dẫn, sâu sắc, thể hiện những tâm sự, chiêm nghiệm của tác giả.
- Trong câu văn “Và ý thơ cuộc đời, ý thơ vũ trụ, cái xa xôi vắng vẻ sau này ám ảnh tôi, ngày thơ bé tôi đã nghe rồi, mỗi lần ong trại”, theo em, có thể bỏ bớt cụm từ “sau này” hoặc “ngày thơ bé” được không? Vì sao? Từ đó nêu tác dụng của việc sử dụng các cụm từ chỉ thời gian trong hồi kí.
Theo em, không thể bỏ bớt cụm từ “sau này” hoặc “ngày thơ bé” vì câu văn thể hiện những cảm xúc, suy tư trong quá khứ đã ảnh hưởng đến ý thơ, những cảm xúc trong thơ của tác giả sau này. Đó là mối liên hệ giữa quá khứ với hiện tại và tương lai. Nên nếu bỏ bớt cụm từ, người đọc sẽ không thể hiểu được ý nghĩa của câu văn.
Các sự việc trong hồi kí thường được kể theo trình tự thời gian. Vì vậy cần có các cụm từ chỉ thời gian để xác định được thời điểm xảy ra sự việc.
- Tìm trong văn bản một số từ ngữ, câu văn diễn tả nỗi buồn của nhân vật “tôi” khi chứng kiến bầy ong bỏ tổ bay đi. Em có nhận xét gì về tình cảm mà cậu bé dành cho bầy ong?
Một số từ ngữ, câu văn diễn tả nỗi buồn của nhân vật “tôi” khi chứng kiến bày ong bỏ tổ bay đi:
- Tôi nhìn theo, buồn không nói được.
- Tôi buồn đến nối khóc một mình, nghe lòng bị ép lại.
- Cái buồn của đứa bé rộng lớn đến bao nhiêu, tưởng như một mảnh hồn của tôi đã san đi nơi khác.
- Nhìn trại ong đi, tưởng như một mảnh hồn tôi đã san đi nơi khác. Nơi xa xôi nào đó đã nhận một phần cốt tủy của linh hồn nhà tôi với bầy ong trại.
Qua những câu văn đó cho thấy cậu bé có tình cảm yêu mến đặc biệt với bầy ong, khi chúng rời xa, cậu cảm thấy buồn bã, như mất đi một phần vốn rất thân quen với mình.
- Để tái hiện lại quá khứ một cách chân thực, sinh động người viết hồi kí có thể tập trung kể lại sự việc, cũng có thể vừa kể lại sự việc vừa kể lại cảm xúc, suy tư của mình trước sự việc ấy. Theo em, Thương nhớ bầy ong thuộc trường hợp nào trong hai trường hợp trên? Dựa vào đâu có thể khẳng định như vậy?
Văn bản thuộc kiểu hồi kí vừa kể lại sự việc vừa kể lại cảm xúc, suy tư của mình trước sự việc ấy. Có thể khẳng định được điều ấy vì nhân vật tôi đã kể về những lần ong trại và từ đó thể hiện những suy nghĩ, chiêm nghiệm của mình: những vật vô tri vô giác, nhỏ nhẻ, vụn vặt cũng mang một linh hồn vương vấn với hồn ta và khiến ta yêu mến. Những cảm xúc ngày thơ bé đó cũng đã ảnh hưởng, ám ảnh đến tác giả về sau.
- Em có nhận xét gì về cách quan sát, cảm nhận thiên nhiên, loài vật của nhân vật “tôi”?
Tác giả đã thể hiện nhân vật tôi có cách quan sát tỉ mỉ, thể hiện những hiểu biết về đặc điểm loài ong, cách cảm nhận về thiên nhiên, loài vật vô cùng tinh tế và phát hiện ra những điều sâu sắc: mọi vật đều mang trong nó một linh hồn, gần gũi và thân thuộc với con người.
- Đọc Thương nhớ bầy ong, có bạn khẳng định rằng nhân vật cậu bé xưng “tôi”, trong văn bản chính là tác giả Cù Huy Cận, một số bạn khác lại cho là không phải như vậy. Cho biết ý kiến của em về các nhận định trên.
Theo em, nhân vật cậu bé xưng “tôi”, trong văn bản chính là tác giả Cù Huy Cận được thể hiện qua câu văn “ Và ý thơ cuộc đời, ý thơ vũ trụ, cái xa xôi vắng vẻ sau này ám ảnh tôi, ngày thơ bé tôi đã nghe rồi, mỗi lần ong trại”. Ông là một nhà thơ nổi tiếng của nước ta, những bài thơ của ông thường thấm đẫm một nỗi buồn mênh mang khó tả.
Bài soạn "Thương nhớ bầy ong" số 4
I. Chuẩn bị đọc và soạn bài thương nhớ bầy ông ngữ văn 6 mới Chân trời sáng tạo
Câu 1: Em đã bao giờ phải cha tay mãi mãi với một con vật nuôi, một đồ chơi, một vật dụng… thân thiết đối với mình? Tâm trạng của em khi ấy thế nào?
Em đã từng phải chia tay chú chó mà mình rất thân thiết bởi vì nó bị tai nạn giao thông. Khi ấy, em cảm thấy rất buồn và hối hận vì đã không trông coi chú chó một cách cẩn thận.
Câu 2 trang 117 sgk ngữ văn 6 mới Chân trời sáng tạo tập 1
Công việc nuôi ong là một công việc đòi hỏi sự thận trọng, tỉ mỉ và yêu nghề cao. Để thành công với nghề nuôi ong và thu về những sản phẩm mật ong nguyên chất, người nuôi ong cần phải nắm vững những kiến thức cũng như yêu cầu về kỹ thuật, bao gồm:
Nắm rõ thành phần đàn ong, sự sinh trưởng của ong và cấu tạo của thùng nuôi ong.
- Nắm rõ kỹ thuật chăm sóc ong.
- Nắm rõ kỹ thuật tạo chúa và chia đàn cho ong.
- Nắm rõ kỹ thuật phòng và trị bệnh cho ong.
- Nắm rõ cách khai thác phấn hoa và khai thác mật ong.
=> Để nuôi ong không phải ai cũng có thể làm được, ngoài việc nắm rõ những kiến thức và kỹ thuật nuôi trên, người nuôi ong còn phải có tình yêu với nghề và có sự gắn với với đàn ong thì mới có thể làm công việc này lâu dài, hiệu quả.
II. Trải nghiệm cùng văn bản Thương nhớ bầy ông văn 6 mới Chân trời sáng tạo
Câu 1: Đâu là câu văn trong đoạn văn giải thích thế nào là ong “trại”?
Câu giải thích “ong trại”: “Ong trại” có nghĩa là một phần đàn ong rời bỏ tổ nhà, mang theo một ong chúa – con duy nhất trong đàn ong có khả năng sinh sản.
Câu 2 trang 118 sgk ngữ văn 6 mới Chân trời sáng tạo
Trong hai đoạn cuối, cậu bé đã mấy lần dùng từ “linh hồn”, Linh hồn có thể được hiểu là giá trị tinh thần và cốt lõi tinh túy nhất của một thực thể. Tuy nhất, tác giả lại dùng từ “linh hồn” này một cách rất độc đáo khi nói về những vật nhỏ bé, vô tri vô giác. Điều đó khẳng định những điều nhỏ bé cũng rất tinh túy và thể hiện tình cảm, sự trân trọng của cậu bé đối với những điều đó trong cuộc sống của mình.
III. Suy ngẫm và phản hồi văn bản Thương nhớ bầy ong văn 6 mời Chân trời sáng tạo tập 1
Câu 1: Văn bản trên thuộc thể loại gì? Dấu hiệu nào giúp em nhận biết?
Văn bản trên thuộc thể loại hồi ký qua những đặc điểm mà nó mang thuộc đặc trưng của thể loại này, bao gồm:
Người viết kể lại những chuyện đã trực tiếp tham dự trong quá khứ: việc gia đình nuôi bầy ong và chứng kiến ong trai trong sự hụt hẫng, buồn bã.
Người kể ở ngôi thứ nhất, xưng vai “tôi”.
Tác giả ghi chép sự việc có thật, tự mình chứng kiến, từ đó nêu quan điểm, tâm sự và chiêm nghiệm của chính mình.
Câu 2 trang 118 sgk ngữ văn 6 mới tập 1 Chân trời sáng tạo
Trong câu văn “Và ý thơ cuộc đời, ý thơ vũ trụ, cái xa xôi vắng vẻ sau này ám ảnh tôi, ngày thơ bé tôi đã nghe rồi, mỗi lần ong trại”, theo em, không nên lược bỏ bớt cụm từ “sau này” hoặc “ngày thơ bé” bởi vì nó giúp người đọc hình dung được những cảm xúc và suy tư của cậu bé trong quá khứ ảnh hưởng đến cảm xúc hiện tại. Đây là một mối liên hệ giữa quá khứ - hiện tại - tương lai. Nếu lược bỏ đi, câu văn sẽ không diễn đạt tròn nghĩa.
Tác dụng của việc sử dụng các cụm từ chỉ thời gian trong hồi kí: hồi ký được kể theo một trình tự thời gian, qua sự tham gia, chứng kiến trực tiếp của người viết. Việc sử dụng những cụm từ chỉ thời gian trên sẽ giúp người đọc dễ dàng xác định được thời điểm sự việc được nhắc đến xảy ra.
Câu 3:
Một số từ ngữ, câu văn diễn tả nỗi buồn của nhân vật “tôi” khi chứng kiến bầy ong bỏ tổ bay đi:
“Một lần, ở nhà một mình tôi thấy ong trại mà không thể làm gì được”.
“Tôi cũng ném đất vụn lên không nhưng không ăn thua gì”
“Tôi nhìn theo, buồn không nói được”
“Nhìn ong trại đi, tưởng như một mảnh hồn của tôi đã san đi nơi khác”
Tình cảm cậu bé dành cho bầy ong: cậu bé dành tình cảm đặc biệt với bầy ong. Vì thế, khi chúng rời đi, cậu sẽ cảm thấy hụt hẫng, buồn bã và tiếc nuối, như phải rời bỏ một phần quen thuộc và thiết yếu của cuộc sống.
Câu 4:
Văn bản Thương nhớ bầy ong thuộc thể loại hồi kí vừa kể lại sự việc vừa kể lại cảm xúc, suy tư của mình trước sự việc ấy. Có thể dựa vào việc cậu bé có những chiêm nghiệm, suy nghĩ riêng từ những lần ong trại: “Những vật vô tri vô giác … khiến ta yêu mến”.
Câu 5 bài soạn Thương nhớ bầy ông Chân trời sáng tạo mới
Nhận xét về cách quan sát, cảm nhận thiên nhiên, loài vật của nhân vật “tôi”:
Nhân vật tôi có sự quan sát một cách tỉ mỉ , tinh tế và có những hiểu biết sâu về đặc điểm của loài ong. Từ đó, cậu bé đã rút ra được những cảm nhận, suy nghĩ rất riêng về thiên nhiên cũng như mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên.
Câu 6:
Theo em, nhân vật “tôi” chính là tác giả Cù Huy Cận. Điều đó được thể hiện qua câu “Và ý thơ cuộc đời … mỗi lần ong trại”. Huy Cận là một nhà thơ nổi tiếng với các tác phẩm luôn mang một nỗi buồn mang mác, mênh mang khó tả.
Bài soạn "Thương nhớ bầy ong" số 5
Chuẩn bị đọc
Câu 1 (trang 117 SGK Ngữ văn 6 tập 1): Đã bao giờ em phải cha tay mãi mãi với một con vật nuôi, một đồ chơi, một vật dụng… hết sức thân thiết đối với mình? Tâm trạng của em khi ấy thế nào?
Trả lời:
Em đã từng chia tay chú chó nhỏ của mình vì chú bị trộm chó bắt đi. Tâm trạng của em lúc đó rất buồn, giống như mất đi một người bạn, một người thân và những kỉ niệm quý báu của cuộc đời.
Câu 2 (trang 117 SGK Ngữ văn 6 tập 1): Em hãy tìm hiểu về công việc nuôi ong và tình cảm của người nuôi ong với bầy ong của mình.
Trả lời:
KỸ THUẬT TẠO CHÚA VÀ CHIA ĐÀN ONG
- Tạo chúa:
- Khi đàn ong sung mãn, Khi nguồn phấn, mật dồi dào hoặc ong chúa đã già thì đàn ong có khuynh hướng tạo những nụ để nuôi chúa mới để thay thế hoặc chia bay. Đây là đặc điểm sinh học nhằm bảo vệ nòi giống, luôn có ong chúa dự trữ trong đàn.
- Phương pháp đàn có chúa: Chọn đàn ong có 8 hoặc 9 cầu quân thật đông (có thể quân bu cả trên nắp). Dùng một ván ngắn đặt vào giữa 4 cầu nhộng, như vậy 2 cầu nhộng và cầu mật sẽ ở bên ngoài và ở đây không có ong chúa, bên kia ong chúa vẫn đẻ bình thường. Đưa khung tạo chúa vào giữa hai cầu nhộng và làm công việc như ở phương pháp đàn không chúa.
- Chia đàn: Những đàn từ 7 cầu đông quân trở lên đều có thể chia đàn.
KỸ THUẬT KHAI THÁC PHẤN HOA
- Khai Thác Phấn Hoa: Vào mùa bông chè, cà phê, mắc cỡ ..vv.., nếu nguồn phấn dồi dào ta có thể tổ chức khai thác phấn hoa:
Dùng một tấm lưới có các lỗ có đường kính 5,7mm chận trước cửa tổ, bên dưới dùng một máng để hứng phấn. Ong đi làm về mang hai hạt phấn ở hai chân sau khi chui vào lỗ của lưới thoái phấn sẽ đễ lại hai hạt phấn ở bên ngoài. Hai hạt phấn này sẽ rơi xuống màng hứng phấn. Trưa hoặc chiều người nuôi ong sẽ gom số phấn này lại.
* Để bảo quản phấn hoa người ta có 3 cách:
Phơi nắng: trải mỏng phấn hoa trên tấm bạt hay tấm tôn, phơi 3 nắng để đạt độ khô 10%. Phương pháp này phấn hoa sẽ mất đi một số thành phần và không được vệ sinh. Do đó phấn hoa thành phẩm chỉ để cho ong ăn vào mùa khan phấn hoặc mùa khai thác mật cao su.
Sấy bằng tủ sấy: Để phấn hoa có thể trở thành thực phẩm cho người sử dụng được. Ta cần sấy phấn hoa trong tủ sấy ở 450 C đựng vào bao bì sạch và đậy kín có chống ẩm.
Bảo quản bằng cách ủ với đường: Phấn hoa phơi một nắng cho ráo nước, sau đó cho vào những bình miệng rộng cứ 1 lớp phấn khoảng 3cm thì 1 lớp đường 2cm và trên cùng là lớp đường. Sau một thời gian đường chảy ra và hoà vào phấn. Cách bảo quản này hầu như giữ được gần hết các thành phần phấn hoa rất tốt để làm hàng hoá và cho ong ăn.
- Khai thác mật ong: Vào những mùa hoa nở rộ như: Cà phê, cao su, chôm chôm, nhãn .v.v.
Người ta đem những đàn ong mạnh (tức những đàn đã đạt đến 10 cầu quân thật đông) đến những vùng có hoa nở rộ để khai thác mật ong.
Lấy các khung cầu ra (có thể để lại 1 → 2 cầu hoặc lấy hết) giũ hết ong vào thùng, dùng chổi ong quét hết ong xuống thùng.
Dùng dao thật sắt để cắt lớp mặt sáp trám trên các ô lắng chứa mật.
Đưa các khung cầu này vào thùng quay ly tâm để lấy mật ra.
Sau khi đã lấy hết mật lại bỏ các khung cầu này vào thùng ong trở lại. Thường thì mùa hoa có thể có từ 10 → 15 ngày có thể lấy mật một lần. Mỗi lần 1 đàn 10 cầu có thể lấy được từ từ 4 → 12 kg mật ong.
Trải nghiệm cùng văn bản
Câu 1 (trang 118 SGK Ngữ văn 6 tập 1): Câu văn nào trong đoạn văn này giải thích thế nào là ong “trại”?
Trả lời:
“Ong trại” có nghĩa là một phần đàn ong rời bỏ tổ nhà, mang theo một ong chúa – con duy nhất trong đàn ong có khả năng sinh sản.
Suy ngẫm và phản hồi
Câu 1 (trang 118 SGK Ngữ văn 6 tập 1)
Trả lời:
Văn bản thuộc thể loại hồi kí vì nó mang những đặc điểm đặc trưng của thể loại:
- Kể lại những sự việc mà người viết trực tiếp tham dự trong quá khứ. Trong văn bản, tác giả đã kể lại sự việc trong quá khứ khi gia đình nuôi ong và chứng kiến cảnh ong trai với tâm trạng buồn bã.
- Người kể chuyện: ngôi thứ nhất, xưng “tôi”.
- Hình thức ghi chép: tác gia ghi chép lại những sự việc có thật khi tác giả chứng kiến ong trại và truyện được kể hấp dẫn, sâu sắc, thể hiện những tâm sự, chiêm nghiệm của tác giả.
Câu 2 (trang 118 SGK Ngữ văn 6 tập 1)
Trả lời:
- Theo em, không thể bỏ bớt cụm từ “sau này” hoặc “ngày thơ bé” vì đó là thành phần quan trọng tạo nên ý nghĩa của câu văn. Đó là mối liên hệ giữa quá khứ với hiện tại và tương lai. Nên nếu bỏ bớt cụm từ, người đọc sẽ không thể hiểu được ý nghĩa của câu văn.
- Các sự việc trong hồi kí thường được kể theo trình tự thời gian. Vì vậy cần có các cụm từ chỉ thời gian để xác định được thời điểm xảy ra sự việc.
Câu 3 (trang 119 SGK Ngữ văn 6 tập 1)
Trả lời:
Một số từ ngữ, câu văn diễn tả nỗi buồn của nhân vật “tôi” khi chứng kiến bày ong bỏ tổ bay đi:
- Tôi nhìn theo, buồn không nói được.
- Cái buồn của đứa bé rộng lớn đến bao nhiêu, các thi sĩ, văn nhân đã ai nói đến chưa?
- Nhìn ong trại đi, tưởng như một mảnh hồn của tôi đã san đi nơi khác.
=> Qua những câu văn đó cho thấy cậu bé có tình cảm yêu mến đặc biệt với bầy ong, khi chúng rời xa, cậu cảm thấy buồn bã, như mất đi một phần vốn rất thân quen với mình.
Câu 4 (trang 119 SGK Ngữ văn 6 tập 1):
Trả lời:
Văn bản “Thương nhớ bầy ong” thuộc kiểu hồi kí vừa kể lại sự việc vừa kể lại cảm xúc, suy tư của mình trước sự việc ấy. Có thể khẳng định được điều ấy vì nhân vật tôi đã kể về những lần ong trại và từ đó thể hiện những suy nghĩ, chiêm nghiệm của mình: những vật vô tri vô giác, nhỏ nhẻ, vụn vặt cũng mang một linh hồn vương vấn với hồn ta và khiến ta yêu mến. Những cảm xúc ngày thơ bé đó cũng đã ảnh hưởng, ám ảnh đến tác giả về sau.
Câu 5 (trang 119 SGK Ngữ văn 6 tập 1):
Trả lời:
Nhân vật tôi đã quan sát, cảm nhận thiên nhiên, loài vật bằng tất cả các giác quan và tâm hồn vô cùng tinh tế để từ đó phát hiện ra những điều sâu sắc: mọi vật đều mang trong nó một linh hồn, gần gũi và thân thuộc với con người.
Câu 6 (trang 119 SGK Ngữ văn 6 tập 1):
Trả lời:
Theo em, nhân vật cậu bé xưng “tôi”, trong văn bản chính là tác giả Cù Huy Cận được thể hiện qua câu văn “ Và ý thơ cuộc đời, ý thơ vũ trụ, cái xa xôi vắng vẻ sau này ám ảnh tôi, ngày thơ bé tôi đã nghe rồi, mỗi lần ong trại”. Ông là một nhà thơ nổi tiếng của nước ta, những bài thơ của ông thường thấm đẫm một nỗi buồn mênh mang khó tả.
B. Tóm tắt những nội dung chính khi soạn bài Thương nhớ bầy ong:
I. Tác giả
- Cuộc đời
- Huy Cận (1919-2005) quê ở làng Ân Phú, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
- Thuở nhỏ ông học ở quê rồi vào Huế học hết trung học.
- Từ năm 1942, Huy Cận tích cực hoạt động trong mặt trận Việt Minh sau đó được bầu vào uỷ ban dân tộc giải phóng toàn quốc.
- Sau cách mạng tháng 8, giữ nhiều trọng trách quan trọng trong chính quyền cách mạng.
- Từ 1984, ông là Chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam. Ngoài ra, ông còn là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I, II và VII.
- Sự nghiệp văn học
Phong cách nghệ thuật
- Huy Cận là nhà thơ lớn, một đại biểu xuất sắc của phong trào Thơ Mới với hồn thơ ảo não.
- Thơ Huy Cận hàm súc, giàu chất suy tưởng triết lí.
Tác phẩm chính
- Trước cách mạng tháng 8: Lửa thiêng, Kinh cầu tự, Vũ trụ ca
- Sau cách mạng tháng 8: Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa, Chiến trường gần đến chiến trường xa...
Vị trí và tầm ảnh hưởng
- Huy Cận đã được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I - năm 1996).
- Tháng 6 năm 2001, Huy Cận được bầu là viện sĩ Viện Hàn lâm Thơ Thế giới.
- Ngày 23 tháng 2 năm 2005, ông được Nhà nước truy tặng Huân chương Sao Vàng.
II. Tác phẩm
- Hoàn cảnh ra đời, xuất xứ:
Tác giả đặt tên là Tổ ong "trại" trích từ tập 1 Hồi kí Song đôi.
- Thể loại: Hồi kí
- Bố cục:
- Đoạn 1 (Từ đầu đến “ra đồng cày tra”): Bầy ong trong kí ức tuổi thơ của nhân vật tôi.
- Đoạn 2 (Đoạn còn lại): Bầy ong và nỗi buồn của nhân vật tôi trong hiện tại.
- Tóm tắt:
Nhà nhân vật tôi có truyền thống nuôi ong. Tuổi thơ của nhân vật tôi gắnliền với những đõ ong đó, mặc dù bị ong đốt nhiều lần những vẫn rất say mê xem đàn ong bay ra họp đàn trước đõ. Nhân vật tôi rất buồn khi chứng kiến đàn “trại” đi rời bỏ tổ mang theo một con ong chúa bay đi. Nhiều lần khi thấy ong “trại” người chú phải hô lên cho cả xóm ném đất vụn lên để đàn ong mệt lử không thể bay tiếp. Trong một lần ở nhà khi chứng kiến đàn ong “trại” nhân vật tôi đã cố gắng ném vụn đất lên nhưng chẳng có ích gì. Nhân vật tôi buồn không nói nên lời, hình ảnh bầy ong bay đi như một mảnh linh hồn của nhân vật tôi đã bị san sẻ đi nơi khác.
- Giá trị nội dung:
- Thương nhớ bầy ong là hồi ức của nhân vật tôi về những đõ ong mà nhân vật tôi đã từng được nhìn thấy, cảm nhận, mê đắm ngày nhỏ. Kèm theo những hồi ức tươi đẹp ấy là nỗi buồn không dứt, buồn đến phát khóc khi chúng rời xa. Từ đó nêu lên triết lí, những vật nhỏ bé, vô tri vô giác đều gây vương vấn, ám ảnh vào tâm hồn, ảnh hưởng đến thơ ca, nghệ thuật của mỗi người.
- Giá trị nghệ thuật:
- Hồi kí kết hợp các biện pháp tu từ: so sánh, câu hỏi tu từ, đối lập.
- Thể loại hồi kí có đan xen giữa tự sự, miêu tả và biểu cảm (kể chuyện với giọng văn thấm đẫm chất trữ tình) giúp diễn tả đầy đủ, sâu sắc chủ đề văn bản.
Bài soạn "Thương nhớ bầy ong" số 6
Tri thức đọc hiểu
Kí là thể loại văn học coi trọng sự thật và những trải nghiệm, chứng kiến của chính người viết. Trong kí, có những tác phẩm thiên về kể sự việc (tự sự), có những tác phẩm thiên về biểu cảm (trữ tình). Trong kí tự sự có hồi kí và du kí.
Hồi kí chủ yếu kể lại những sự việc mà người viết đã từng tham dự hoặc chứng kiến trong quá khứ. Các sự việc trong hồi kí thường được kể theo trình tự thời gian, gắn với một hoặc nhiều giai đoạn trong cuộc đời của tác giả. Du kí chủ yếu kể về những sự việc mới diễn ra hoặc đang diễn ra gắn với các chặng đường trong hành trình tìm hiểu những vùng đất nước kì thú của Việt Nam và thế giới. Nhân vật xung “tôi” trong hồi kí và du kí là hình ảnh của tác giả.
Người kể chuyện ngôi thứ nhất trong hồi kí (thường xung “tôi”, “chúng tôi") là hình ảnh của tác giả, nhưng không hoàn toàn đồng nhất với tác giả. Bởi vì giữa tác giả và người kể chuyện ngôi thứ nhất trong hồi kí luôn có những khoảng cách về tuổi tác, thời gian, hay những khác biệt trong nhận thức, quan niệm,...
Hình thức ghi chép và cách kể sự việc trong hồi kí: “ghi chép” hiểu theo cách thông thường, là việc chuẩn bị nguồn tư liệu về những điều có thật, đã xảy ra để viết nên tác phẩm. Tư liệu được “ghi chép” để viết hồi kí, khác với tư liệu để viết truyện, phải hoàn toàn xác thực, tin cậy. Nhưng “ghi chép”, hiểu cách khác, cũng chính là viết, kể, sáng tác. Theo nghĩa này, người viết hồi kí không thể bê nguyên cái có thật, từng xảy ra ngoài đời vào văn bản mà phải ghi sao cho thành chuyện và kể sao cho hấp dẫn, sâu sắc.
Tri thức tiếng Việt
* Ẩn dụ, hoán dụ
- Ẩn dụ là gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng tên sự vật, hiện tượng khác có nét tương đồng với nó nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.
Ví dụ:
“Những mũi tên đen...” trong đoạn “Lần này nó chưa kịp ăn, những mũi tên đen, mang hình đuôi cá từ đầu bay tới tấp.
“Ấy là những con chèo bẻo” là hình ảnh ẩn dụ.
Ẩn dụ này dựa trên sự giống nhau về hình dáng, màu sắc, tốc độ bay,... của bầy chim chèo bẻo với những mũi tên được bắn đi từ dây cung.
- Hoán dụ là gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng tên sự vật, hiện tượng khác có quan hệ gần gũi với nó nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.
Ví dụ:
“Cả nhà ăn cơm trong hương lúa đầu mùa...”
(Lấy vật chứa để gợi vật được chứa); “Kháng chiến ba ngàn ngày không nghi/ Bắp chân, đầu gối vẫn săn gân” (lấy bộ phận để gợi toàn thể);...
I. CHUẨN BỊ ĐỌC
Câu 1: Đã bao giờ em phải chia tay mãi mãi với một con vật nuôi, một đồ chơi, một vật dụng… hết sức thân thiết đối với mình? Tâm trạng của em khi ấy thế nào? (SGK Ngữ văn 6 tập 1- trang 121)
Lời giải chi tiết:
Khi lên cấp 2 em đã phải chia tay với căn nhà mà em đã gắn bó suốt bao lâu vì ba mẹ phải đi công tác nơi khác. Nơi ấy gắn liền với biết bao kỷ niệm lúc đó em rất buồn và hụt hẫng. Cảm giác như mất đi một mảnh ký ức cùng những kỉ niệm không bao giờ quay lại được nữa.
Câu 2: Em hãy tìm hiểu về công việc nuôi ong và tình cảm của người nuôi ong với bầy ong của mình. (SGK Ngữ văn 6 tập 1- trang 121)
Lời giải chi tiết:
Các em có thể tìm hiểu trên Google hoặc Wikipedia.
II. TRẢI NGHIỆM CÙNG VĂN BẢN
Câu 1: Câu văn nào trong đoạn văn này giải thích thế nào là ong “trại”? (SGK Ngữ văn 6 tập 1- trang 122)
Lời giải chi tiết:
Câu văn giải thích về ong “trại” là : “Ong trại” nghĩa là một phần đàn ong rời xa, bỏ tổ nhà, mang theo một ong chúa.
Câu 2: Trong hai đoạn cuối, cậu bé đã mấy lần dùng từ “linh hồn: Cách dùng từ “linh hồn” ở đây có gì khác thường? (SGK Ngữ văn 6 tập 1- trang 122)
Lời giải chi tiết:
Trong hai đoạn cuối cậu bé đã 3 lần sử dụng từ “linh hồn”. Từ linh hồn được hiểu là phần tinh thần sâu kín thiêng liêng nhất mang lại sức sống cho con người và sự vật. Ấy vậy mà cách dùng từ “linh hồn” của cậu bé có sự khác biệt. Những thứ tưởng như vô tri vô giác lại đều có linh hồn khiến cho con người phải nhớ nhung, yêu mến.
III. SUY NGẪM VÀ PHẢN HỒI
Câu 1: Những dấu hiệu nào đã giúp em biết văn bản trên thuộc thể hồi kí? (SGK Ngữ văn 6 tập 1- trang 122)
Lời giải chi tiết:
Những dấu hiệu cho em biết văn bản thuộc loại hồi kí là:
- Văn bản kể lại những sự việc mà người viết trực tiếp tham dự trong quá khứ.
- Sử dụng ngôi kể thứ nhất, xưng “tôi”.
- Tác giả sử dụng hình thức ghi chép sự việc có thật khi được vào chứng kiến ong trại. Truyện được kể hấp dẫn, sâu sắc và thể hiện được những tâm sự cùng chiêm nghiệm của tác giả.
Câu 2: Trong câu văn “Và ý thơ cuộc đời, ý thơ vũ trụ, cái xa xôi vắng vẻ sau này ám ảnh tôi, ngày thơ bé tôi đã nghe rồi, mỗi lần ong trại”, theo em, có thể bỏ bớt cụm từ “sau này” hoặc “ngày thơ bé” được không? Vì sao? Từ đó nêu tác dụng của việc sử dụng các cụm từ chỉ thời gian trong hồi kí. (SGK Ngữ văn 6 tập 1- trang 122)
Lời giải chi tiết:
Theo em không thể bỏ cụm từ “sau này” hoặc “ngày thơ bé” đi vì nó là thành phần quan trọng tạo nên ý nghĩa cho câu văn. Đó là sự liên hệ giữa quá khứ với hiện tại và tương lai nếu bổ bớt đi người đọc sẽ không hiểu được ý hết ý nghĩa của câu văn.
⇒ Từ đó em thấy việc sử dụng cụm từ chỉ thời gian rất quan trọng vì thể loại kí là việc hồi tưởng các sự việc và thường được kể theo trình từ thời gian.
Câu 3: Tìm trong văn bản một số từ ngữ, câu văn diễn tả nỗi buồn của nhân vật “tôi” khi chứng kiến bầy ong bỏ tổ bay đi. Em có nhận xét gì về tình cảm mà cậu bé dành cho bầy ong? (SGK Ngữ văn 6 tập 1- trang 123)
Lời giải chi tiết:
Những từ ngữ và câu văn diễn tả nỗi buồn của nhân vật “tôi” khi thấy đàn ong bỏ tổ bay đi là:
- Tôi nhìn theo, buồn không nói được.
- Cái buồn của đứa bé rộng lớn đến bao nhiêu, các thi sĩ, văn nhân đã ai nói đến chưa?
- Nhìn ong trại đi, tưởng như một mảnh hồn của tôi đã san đi nơi khác.
⇒ Từ những câu văn trên ta thấy cậu bé vô cùng yêu mến bầy ong khi chúng rời đi cậu thấy buồn bã như mất đi một phần vốn rất thân quen với mình.
Câu 4: Để tái hiện lại quá khứ một cách chân thực, sinh động người viết hồi kí có thể tập trung kể lại sự việc, cũng có thể vừa kể lại sự việc vừa kể lại cảm xúc, suy tư của mình trước sự việc ấy. Theo em, Thương nhớ bầy ong thuộc trường hợp nào trong hai trường hợp trên? Dựa vào đâu có thể khẳng định như vậy? (SGK Ngữ văn 6 tập 1- trang 123)
Lời giải chi tiết:
Theo em văn bản “Thương nhớ bầy ong” thuộc kiểu hồi kí vừa kể lại sự việc vừa kể lại cảm xúc, suy tư của mình trước sự việc ấy. Em khẳng định được điều ấy là nhờ những lần nhân vật tôi kể về ông trại từ đó thể hiện những suy nghĩ cùng chiêm nghiệm của mình, những cảm xúc ngày bé đó luôn vấn vương và ảnh hưởng đến tác giả về sau.
Câu 5: Em có nhận xét gì về cách quan sát, cảm nhận thiên nhiên, loài vật của nhân vật “tôi”? (SGK Ngữ văn 6 tập 1- trang 123)
Lời giải chi tiết:
Nhân vật tôi đã dùng tất cả các giác quan và tâm hồn tinh tế để phát hiện ra những điều sâu sắc. Mọi vật đều mang trong mình một linh hồn, nó gần gũi và thân thuộc với con người.
Câu 6: Đọc Thương nhớ bầy ong, có bạn khẳng định rằng nhân vật cậu bé xưng “tôi”, trong văn bản chính là tác giả Cù Huy Cận, một số bạn khác lại cho là không phải như vậy. Cho biết ý kiến của em về các nhận định trên. (SGK Ngữ văn 6 tập 1- trang 123)
Lời giải chi tiết:
Theo em cậu bé xưng “tôi” trong văn bản là tác giả Cù Huy Cận. Ông là nhà thơ nổi tiếng những bài thơ của ông thường thấm đẫm một nỗi buồn khó tả.
Hãy đăng nhập để bình luận
Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .