Top 6 Bài soạn "Thực hành đọc: Lắc-ki thực sự may mắn trang 83 - 84" (Ngữ văn 6 - SGK Kết nối tri thức) hay nhất
Mời các bạn tham khảo một số bài soạn "Thực hành đọc: Lắc-ki thực sự may mắn trang 83 - 84" (Ngữ văn 6 - SGK Kết nối tri thức) hay nhất mà Alltop tổng...xem thêm ...
Bài soạn "Thực hành đọc: Lắc-ki thực sự may mắn trang 83 - 84" (Ngữ văn 6 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu 1
Tóm tắt
Lắc-ki lớn nhanh như thổi dưới sự bao bọc của đàn mèo. Thế nhưng Lắc-ki không muốn bay mà chỉ muốn làm mèo. Một buổi chiều, chú khỉ Mát-thiu đã khiến Lắc-ki hiểu lầm rằng lũ mèo chỉ muốn nuôi béo để ăn thịt hải âu. Lắc-ki buồn rầu khiến lũ mèo lo lắng. Sau khi nghe kể lại, Gióc-ba giận dữ khi biết Mát-thiu xấu tính khiến Lắc-ki suy nghĩ vớ vẩn. Gióc-ba giải thích cặn kẽ cho Lắc-ki hiểu rằng lũ mèo luôn yêu quý hải âu và giúp hải âu nhận ra những đặc điểm khác nhau giữa chúng.
Bố cục
3 phần:
+ Phần 1: Từ đầu đến “mà mèo thì không bay”: Cuộc nói chuyện của Lắc-ki với mèo Anh-xtanh.
+ Phần 2: Tiếp theo đến “con đười ươi rít lên”: Cuộc nói chuyện của Lắc-ki với con đười ươi.
+ Phần 3: Còn lại: Cuộc nói chuyện của Lắc-ki và Gióc-ba.
Nội dung chính
Đoạn trích “Lắc-ki thực sự may mắn” trích chương VI của “Chuyện con mèo dạy hải âu bay” kể về hành trình chú mèo mun Gióc-ba và các bạn mèo thực hiện lời hứa tìm cách dạy hải âu mồ côi tập bay. Qua đó thể hiện tình yêu thương giữa các loài vật với nhau. Chúng yêu thương nhau bằng tất cả tấm lòng, từ trái tim đơn giản và không toan tính.
Những vấn đề cần chú ý:
* Nội dung chính:
Đoạn trích “Lắc-ki thật sự may mắn” trích chương VI của “Chuyện con mào dạy hải âu bay” – tác phẩm gồm 11 chương, kể về việc chú mèo mun Gióc-ba nuôi dưỡng Lắc-ki, một con hải âu mồ côi. Mẹ Lắc-ki bị ngộ độc váng dầu nên đã chết gay sau khi đẻ trứng. Tình cờ chứng kiến cái chết của hải âu mẹ đáng thương. Gióc-ba đã hứa ba điều: sẽ ấp quả trứng, sẽ bảo vệ, nuôi lớn hải âu con và dạy nó bay. Bằng tình yêu thương Lắc-ki và được sự trợ giúp của các bạn mèo, Gióc-ba đã thực hiện được tất cả những lời hứa đó. Đoạn trích “Lắc-ki thực sự may mắn” bắt đầu kể về hành trình Gióc-ba thực hiện lời hứa thứ ba: dạy Lắc-ki bay! Qua đó thể hiện tình yêu thương giữa các loài vật với nhau. Chúng yêu thương nhau bằng tất cả tấm lòng, từ trái tim đơn giản và không toan tính.
- Tính chất gây tò mò của nhan đề “Chuyện con mèo dạy hải âu bay” :
- Điều phi lí: Mèo là loài vật không biết bay lại có thể dạy chim hải âu bay.
- Những sự kiện chính được kể lại trong chương VI, Lắc-ki (Lucky) thực sự may mắn:
- Lắc-ki lớn nhanh như thổi, được sống trong sự yêu thương của bầy mèo. chẳng mấy chốc đã ra dáng một con hải âu tuổi thiếu niên.
- Cuộc nói chuyện của Lắc-ki với con đười ươi Mét-thiu:
+ Thời điểm: Một buổi chiều, tại một tiệm tạp hóa.
+ Hành động và lời nói của các nhân vật:
Mét-thiu độc ác, thô lỗ.
Lắc-ki ngây thơ, ngoan ngoãn
- Lời nói miệt thị, cay độc, rít lên và gọi Lucky là “con nhỏ bẩn thỉu kia”.
- Hách dịch, đánh đồng “Chim chóc con nào chẳng thế.”
- Reo những ý nghĩ xấu vào đầu Lắc-ki:
+ Gọi những con mèo là “khố rách áo ôm”.
+ Phân biệt sự khác nhau giữa Lắc-ki và những con mèo.
+ Chê Lắc-ki giống giáo sư mèo thông thái “dở hơi”, “đần độn”.
+ Reo ý xấu: “Chúng nó đợi mày béo nẫn ra rồi làm thụt mày thành bữa ăn ra trò.”
→ Miệt thị, lời nói cay độc.
- Rụt rè, lễ phép hỏi lại khi bị miệt thị “Tại sao ngày lại gọi cháu thế, thưa ngài khỉ?”
- Giải thích, tìm sự đồng cảm từ người có ác ý “Ngài nhầm rồi.... Anh-xtanh”
→ Buồn tủi, chịu sự tác động về tâm lí.
- Cuộc nói chuyện của Lắc-ki với những con mèo
+ Cuộc trò chuyện thứ nhất:
Lắc-ki
Anh-xtanh
- Dáng hình: lớn nhanh như thổi, ra dánh một con hải âu tuổi thiếu niên thon thả vưới lớp lông vũ mềm màu bạc.
- Được yêu thương: được bao bọc trong sự yêu thương, sống trong tiệm tạp hóa của Ha-ri.
- Rất nghe lời: theo hướng dẫn của Đại Tá co mình nằm bất động giả vờ là những con chim nhồi bông.
- Thích khám phá: trầm trồ trước hàng nghìn loại vật thể chứa trong các căn phòng.
- Mong muốn được hòa nhập với loài mèo:
+ Hỏi “Tại sao con lại phải bay?”
+ Khẳng định mong muốn “Nhưng con không thích bay. Và con cũng không thích làm hải âu”, “Con muốn làm mèo, mà mèo thì không bay.”
- Giáo sư mèo thông thái hết lòng giúp: Tìm trong mọi cuốn sách để tìm phương pháp giúp Lắc-ki học bay.
+ Giải thích cho lắc-ki hiểu rằng Lắc-ki là hải âu.
+ Điểm đặc trưng: “thật là khủng khiếp”.
→ Cuộc nói chuyện thể hiện sự yêu thương từ cả giáo sư mèo và Lắc-ki. Thấy được ước muốn hòa nhập, tự coi bản thân là mèo của Lắc-ki.
+ Cuộc trò chuyện thứ hai:
Thời gian: Chiều hôm cùng ngày sau khi Lắc-ki nói chuyện với Mét-thiu
Lắc-ki
Gióc-ba
- Tâm trạng buồn bã:
+ Không xuất hiện xơi món mực ống yêu thích.
+ Chui rúc, trốn tránh giữa đám thú nhồi bông,
+ Khi được hỏi, không buồn hé mỏ.
+ Hỏi mà không ngẩng đầu “Má muốn con ăn để con béo tròn, ngon lành phải không?”
+ Vừa kể vừa nước mắt lưng tròng.
- Sợ hãi việc tập bay “Con sợ bay lắm.”
- Yêu thương, biết ơn “Con chim duỗi một cánh vắt ngang lưng con mèo.”
Tình yêu thương:
- Xe-crét-ta-ri-ô chôm món yêu thích cho Lắc-ki.
- Lo lắng vì không thấy Lắc-ki, đi tìm hỏi chuyện.
- Giải thích lí lẽ:
+ Khẳng định điểm đúng của Mét-thiu
+ Phân tích điểm sai để thể hiện tình yêu thương.
+ Công nhận tình cảm của Lắc-ki với chúng.
+ Phân tích điểm thú vị khi thành một con hải âu.
- Luôn sẵn sàng ở cạnh cổ vũ khi Lắc-ki học bay.
- Hành động dịu dàng: “Con mèo dịu dàng liếm đầu con hải âu.”
→ Cuộc nói chuyện thể hiện tình yêu thương giữa cả hai loài vật dành cho nhau.
- Đặc điểm của hai nhân vật Gióc-ba (Zorba) và Lắc-ki :
Gióc-ba
Lắc-ki
Mèo:
+ có 4 chân
+ có lông mao
+ không biết bay
Chim hải âu:
+ có 2 chân
+ có lông vũ
+ có thể học bay và biết bay
- Ý nghĩa những lời giảng giải của Gióc-ba với Lắc-ki ở đoạn kết:
- Giải thích lí lẽ:
+ Khẳng định điểm đúng của Mét-thiu
+ Phân tích điểm sai để thể hiện tình yêu thương.
+ Công nhận tình cảm của Lắc-ki với chúng.
+ Phân tích điểm thú vị khi thành một con hải âu.
→ Thể hiện tình yêu thương sâu sắc Gióc-ba dành cho Lắc-ki.
PHẦN ĐỌC MỞ RỘNG
- Tìm đọc một số truyện về đề tài tình bạn hay lòng nhân ái, khoan dung.
- Ví dụ: “Người ăn xin” (Tuốc-ghê-nhép), “Lưu Bình – Dương Lễ”, “Sự tích hoa mào gà”, …
- Khi đọc cần chú ý:
+ Người kể chuyện
+ Cốt truyện
+ Nhân vật
+ Lời người kể chuyện
+ Lời nhân vật
- Tìm đọc một số bài thơ viết về tình cảm gia đình.
- Ví dụ: “Quạt cho bà ngủ” (Thạch Quý), “Mẹ vắng nhà ngày bão” (Đặng Hiền), …
- Chú ý cách sử dụng:
+ Thể thơ
+ Từ ngữ
+ Hình ảnh
+ Biện pháp tu từ
- Trao đổi về những điều em thấy thú vị trong những tác phẩm truyện, thơ đã học
- Học thuộc lòng một số đoạn thơ, bài thơ em yêu thích.
Bài soạn "Thực hành đọc: Lắc-ki thực sự may mắn trang 83 - 84" (Ngữ văn 6 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu 2
1. Tác giả
- Lu-i Xe-pun-ve-da (1949 - 2020) tên gốc Luis Sepulveda
- Là nhà văn nổi tiếng của Chi-lê.
2. Tác phẩm
- Xuất xứ: Trích Chuyện con mèo dạy hải âu bay gồm 11 chương, đây là chương VI.
- Phương thức biểu đạt chính: Tự sự.
II. Soạn bài Lắc-ki thực sự may mắn phần đọc hiểu văn bản
1. Cuộc nói chuyện của Lắc-ki với con đười ươi Mét-thiu
- Thời điểm: Một buổi chiều, tại một tiệm tạp hóa.
- Hành động và lời nói của các nhân vật:
Matthew độc ác, thô lỗ
Lucky ngây thơ, ngoan ngoãn
- Lời nói miệt thị, cay độc, rít lên và gọi Lucky là "con nhỏ bẩn thỉu kia".- Hách dịch, đánh đồng "Chim chóc con nào chẳng thế."
- Reo những ý nghĩ xấu vào đầu Lucky:
+ Gọi những con mèo là "khố rách áo ôm".
+ Phân biệt sự khác nhau giữa Lucky và những con mèo.
+ Chê Lucky giống giáo sư mèo thông thái "dở hơi", "đần độn".
+ Reo ý xấu: "Chúng nó đợi mày béo nẫn ra rồi làm thụt mày thành bữa ăn ra trò.".
→ Miệt thị, lời nói cay độc.
- Rụt rè, lễ phép hỏi lại khi bị miệt thị "Tại sao ngày lại gọi cháu thế, thưa ngài khỉ?".
- Giải thích, tìm sự đồng cảm từ người có ác ý "Ngài nhầm rồi.... Anh - xtanh".
→ Buồn tủi, chịu sự tác động về tâm lí.
2. Cuộc nói chuyện của Lắc-ki với những con mèo
a) Cuộc trò chuyện thứ nhất
Lucky
Anh-xtanh
- Dáng hình: lớn nhanh như thổi, ra dánh một con hải âu tuổi thiếu niên thon thả vưới lớp lông vũ mềm màu bạc.
- Được yêu thương: được bao bọc trong sự yêu thương, sống trong tiệm tạp hóa của Harry.
- Rất nghe lời: theo hướng dẫn của Đại Tá co mình nằm bất động giả vờ là những con chim nhồi bông.
- Thích khám phá: trầm trồ trước hàng nghìn loại vật thể chứa trong các căn phòng.
- Mong muốn được hòa nhập với loài mèo:
+ Hỏi "Tại sao con lại phải bay?".
+ Khẳng định mong muốn "Nhưng con không thích bay. Và con cũng không thích làm hải âu" "Con muốn làm mèo, mà mèo thì không bay.".
- Giáo sư mèo thông thái hết lòng giúp: Tìm trong mọi cuốn sách để tìm phương pháp giúp Lucky học bay.
+ Giải thích cho Lucky hiểu rằng Lucky là hải âu.
+ Điểm đặc trưng: "thật là khủng khiếp".
=> Cuộc nói chuyện thể hiện sự yêu thương từ cả giáo sư mèo và Lucky. Thấy được ước muốn hòa nhập, tự coi bản thân là mèo của Lucky.
b) Cuộc trò chuyện thứ hai
Lucky
Gióc-ba
- Tâm trạng buồn bã:
+ Không xuất hiện xơi món mực ống yêu thích.
+ Chui rúc, trốn tránh giữa đám thú nhồi bông,
+ Khi được hỏi, không buồn hé mỏ.
+ Hỏi mà không ngẩng đầu "Má muốn con ăn để con béo tròn, ngon lành phải không?".
+ Vừa kể vừa nước mắt lưng tròng.
- Sợ hãi việc tập bay "Con sợ bay lắm.".
- Yêu thương, biết ơn "Con chim duỗi một cánh vắt ngang lưng con mèo.
Tình yêu thương:
- Secretario chôm món yêu thích cho Lucky.
- Lo lắng vì không thấy Lucky, đi tìm hỏi chuyện.
- Giải thích lí lẽ:
+ Khẳng định điểm đúng của Matthew.
+ Phân tích điểm sai để thể hiện tình yêu thương.
+ Công nhận tình cảm của Lucky với chúng.
+ Phân tích điểm thú vị khi thành một con hải âu.
- Luôn sẵn sàng ở cạnh cổ vũ khi Lucky học bay.
- Hành động dịu dàng: "Con mèo dịu dàng liếm đầu con hải âu.".
Thời điểm: Chiều hôm cùng ngày sau khi Lucky nói chuyện với Gióc-ba.
III. Tổng kết
1. Nội dung
Câu chuyện những chú mèo tìm cách dạy hải âu tập bay thể hiện tình yêu thương giữa các loài vật với nhau. Chúng yêu thương nhau bằng tất cả tấm lòng, từ trái tim đơn giản và không toan tính.
2. Nghệ thuật
Nhân hóa các con vật trong các cuộc đối thoại trên tinh thần vẫn giữ những đặc điểm thực tế của chúng để tạo nên câu chuyện thú vị, hấp dẫn.
Bài soạn "Thực hành đọc: Lắc-ki thực sự may mắn trang 83 - 84" (Ngữ văn 6 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu 3
I. Tìm hiểu Thực hành đọc: Lắc-ki thực sự may mắn sách Kết nối tri thức để soạn bài Thực hành đọc: Lắc-ki thực sự may mắn
- Tóm tắt bài Thực hành đọc: Lắc-ki thực sự may mắn
Đoạn trích “Lắc-ki thật sự may mắn” trích chương VI của “Chuyện con mào dạy hải âu bay” – tác phẩm gồm 11 chương, kể về việc chú mèo mun Gióc-ba nuôi dưỡng Lắc-ki, một con hải âu mồ côi. Mẹ Lắc-ki bị ngộ độc váng dầu nên đã chết gay sau khi đẻ trứng. Tình cờ chứng kiến cái chết của hải âu mẹ đáng thương. Gióc-ba đã hứa ba điều: sẽ ấp quả trứng, sẽ bảo vệ, nuôi lớn hải âu con và dạy nó bay. Bằng tình yêu thương Lắc-ki và được sự trợ giúp của các bạn mèo, Gióc-ba đã thực hiện được tất cả những lời hứa đó. Đoạn trích “Lắc-ki thực sự may mắn” bắt đầu kể về hành trình Gióc-ba thực hiện lời hứa thứ ba: dạy Lắc-ki bay! Qua đó thể hiện tình yêu thương giữa các loài vật với nhau. Chúng yêu thương nhau bằng tất cả tấm lòng, từ trái tim đơn giản và không toan tính.
II. Hướng dẫn soạn Thực hành đọc: Lắc-ki thực sự may mắn sách Kết nối tri thức
1. Đọc văn bản
Cuộc nói chuyện của Lắc-ki với mèo Anh-xtanh
- Đôi nét về Lắc-ki:
+ Ngoại hình: Lớn nhanh như thổi, ra dáng một con hải âu tuổi thiếu niên thon thả với lớp lông vũ màu bạc.
+ Hành động: Khi có khách tới tiệm tạp hóa, theo hướng dẫn của Đại Tá co mình nằm bất động giả vờ là những con chim nhồi bông; trầm trồ trước hàng nghìn loại vật thể chứa trong các căn phòng.
- Cuộc trò chuyện với giáo sư mèo Anh-xtanh:
+ Hoàn cảnh: Giáo sư mèo Anh-xtanh điên cuồng giở hết cuốn sách này sang cuốn sách khác để tìm ra phương pháp giúp Lắc-ki bay.
+ Lắc-ki: Tò mò vì sao hỏi giáo sư mèo Anh-xtanh: “Tạo sao con lại phải bay?
+ Anh-xtanh: Giải thích cho Lắc-ki: Bởi vì con là hải âu, mà hải âu thì phải bay. Và nếu Lắc-ki không nhận ra điều đó thì thật là khủng khiếp.
+ Lắc-ki: Mong muốn được hòa nhập với loài mèo: Nhưng con không muốn bay. Và con cũng không thích làm hải âu. Con muốn làm mèo, mà mèo thì không bay.
=> Cho thấy sự quan tâm của giáo sư mèo Anh-xtanh với Lắc-ki cũng như mong muốn được hòa nhập vào thế giới loài mèo của Lắc-ki.
Cuộc nói chuyện của Lắc-ki với con đười ươi
- Hoàn cảnh: Một buổi chiều Lắc-ki đi tới cửa tiệm tạp hóa.
- Đười ươi tỏ vẻ hống hách: “Tao không muốn phân chim quanh đây đâu”, gọi Lắc-ki là “con nhỏ bẩn thỉu”
- Lắc-ki rụt rè, lễ phép hỏi lại: Tại sao ngài lại gọi cháu như thế, thưa ngài nhỉ?
- Đười ươi tiếp tục chế nhạo: “Chim chóc con nào chẳng thế. Ị bậy khắp mọi nơi…”
- Lắc-ki tìm cách thuyết phục đười ươi thay đổi suy nghĩ: “Ngài nhầm rồi. Cháu là một con mèo và rất biết giữ vệ sinh…”
- Đười ươi lại tìm cách réo rắt những ý nghĩ xấu về gia đình mèo vào đầu Lắc-ki: “Bọn khố rách áo ôm”, “Mày cũng dở hơi chẳng kém gì con mèo kia”, “Đồ chim đần độn”, “Chúng nó đợi mày béo rồi làm thịt bữa ăn ra trò”...
Cuộc nói chuyện của Lắc-ki và Gióc-ba
- Hoàn cảnh: Chiều hôm ấy, bọn mèo ngạc nhiên khi không thấy con hải âu xuất hiện để xơi món yêu thích. Bọn chúng cảm thấy lo lắng nên đã chạy đi tìm con. Gióc-ba tìm thấy nó nằm buồn giữa đám thú nhồi bông.
Advertisementsarrow_forward_iosĐọc thêmPowered by GliaStudioclose
- Gióc-ba hỏi han ân cần: Con có đói không Lắc-ki?, Con thấy trong người khó chịu à?, Con có bị ốm không?
- Hỏi mà không ngẩng đầu "Má muốn con ăn để con béo tròn, ngon lành phải không?", Rồi khi con béo, ná sẽ mời bọn chuột tới chén thịt con phải không?; vừa kể lại vừa nước mắt lưng tròng.
- Gióc-ba giải thích:
+ Khẳng định điểm đúng của con đười ươi: Con là một con hải âu.
+ Phân tích điểm sai, khẳng định tình cảm: “Nhưng chúng ta yêu con...điều đó”.
+ Giải thích tại sao cần phải học bay: “Con là chim hải âu… khác nhau”.
- Lắc-ki sợ hãi: Con sợ bay lắm, nhận được sự an ủi của Gióc-ba: “Khi con tập bay…”
=> Cho thấy tình yêu thương của Gióc-ba dành cho Lắc-ki.
2. Sau khi đọc – Trả lời văn bản
- Tính chất gây tò mò của nhan đề “Chuyện con mèo dạy hải âu bay” :
- Điều phi lí: Mèo là loài vật không biết bay lại có thể dạy chim hải âu bay.
- Những sự kiện chính được kể lại trong chương VI, Lắc-ki (Lucky) thực sự may mắn:
- Lắc-ki lớn nhanh như thổi, được sống trong sự yêu thương của bầy mèo. chẳng mấy chốc đã ra dáng một con hải âu tuổi thiếu niên.
- Cuộc nói chuyện của Lắc-ki với con đười ươi Mét-thiu:
+ Thời điểm: Một buổi chiều, tại một tiệm tạp hóa.
+ Hành động và lời nói của các nhân vật:
- Cuộc nói chuyện của Lắc-ki với những con mèo
+ Cuộc trò chuyện thứ nhất:
→ Cuộc nói chuyện thể hiện sự yêu thương từ cả giáo sư mèo và Lắc-ki. Thấy được ước muốn hòa nhập, tự coi bản thân là mèo của Lắc-ki.
+ Cuộc trò chuyện thứ hai:
Thời gian: Chiều hôm cùng ngày sau khi Lắc-ki nói chuyện với Mét-thiu
→ Cuộc nói chuyện thể hiện tình yêu thương giữa cả hai loài vật dành cho nhau.
- Đặc điểm của hai nhân vật Gióc-ba (Zorba) và Lắc-ki :
- Ý nghĩa những lời giảng giải của Gióc-ba với Lắc-ki ở đoạn kết:
- Giải thích lí lẽ:
+ Khẳng định điểm đúng của Mét-thiu
+ Phân tích điểm sai để thể hiện tình yêu thương.
+ Công nhận tình cảm của Lắc-ki với chúng.
+ Phân tích điểm thú vị khi thành một con hải âu.
→ Thể hiện tình yêu thương sâu sắc Gióc-ba dành cho Lắc-ki.
III. Tổng kết bài soạn Thực hành đọc: Lắc-ki thực sự may mắn sách Kết nối tri thức
- Giá trị nội dung bài Thực hành đọc: Lắc-ki thực sự may mắn
Câu chuyện những chú mèo tìm cách dạy hải âu tập bay thể hiện tình yêu thương giữa các loài vật với nhau. Chúng yêu thương nhau bằng tất cả tấm lòng, từ trái tim đơn giản và không toan tính.
- Đặc sắc nghệ thuật bài Thực hành đọc: Lắc-ki thực sự may mắn
Nhân hóa các con vật trong các cuộc đối thoại trên tinh thần vẫn giữ những đặc điểm thực tế của chúng để tạo nên câu chuyện thú vị, hấp dẫn.
Bài soạn "Thực hành đọc: Lắc-ki thực sự may mắn trang 83 - 84" (Ngữ văn 6 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu 4
Tác giả
- Lu-i Xe-pun-ve-da sinh năm 1949, mất năm 2020.
- Là nhà văn nổi tiếng của Chi-lê.
Tác phẩm
- Xuất xứ
- Văn bản Lắc-ki thực sự may mắn trích trong “Chuyện con mèo dạy hải âu bay”.
- Chuyện con mèo dạy hải âu bay gồm 11 chương, kể về việc chú mèo mun Gióc- ba nuôi dưỡng Lắc-ki, một con hải âu mồ côi. Mẹ Lắc-ki bị ngộ độc váng dầu nên đã chết ngay sau khi để trứng. Tình cờ chứng kiến cái chết của hải âu mẹ, Gióc- ba đã hứa ba điều: ấp quả trứng, bảo vệ, nuôi lớn hải âu con và dạy nó bay. Bằng tình yêu thương Lắc-ki và được sự hỗ trợ trợ giúp của các bạn mèo, Gióc-ba đã hoàn thành ba lời hứa.
- Chương VI kể về hành trình Gióc-ba dạy Lắc-ki bay.
- Bố cục
Gồm 3 phần:
- Phần 1. Từ đầu đến “mà mèo thì không bay”: Cuộc nói chuyện của Lắc-ki với mèo Anh-xtanh.
- Phần 2. Tiếp theo đến “con đười ươi rít lên”: Cuộc nói chuyện của Lắc-ki với con đười ươi.
- Phần 3. Còn lại: Cuộc nói chuyện của Lắc-ki và Gióc-ba.
Những vấn đề cần chú ý
- Tính chất gây tò mò của nhan đề “Chuyện con mèo dạy hải âu bay”:
- Mèo và hải âu là hai loài vật hoàn toàn có những đặc điểm khác nhau.
- Mèo là loài vật không biết bay, nhưng ở đây lại dạy hải âu (một con chim) cách bay.
- Sự kiện chính được kể lại trong chương VI:
- Cuộc trò chuyện của giáo sư mèo Anh-xtanh với Lắc-ki.
- Lắc-ki đến một tiệm tạp hóa và gặp, trò chuyện đười ươi.
- Lắc-ki buồn bã không muốn ăn sau khi trở về.
- Gióc-ba giải thích cho Lắc-ki về mọi thứ.
- Đặc điểm của hai nhân vật:
- Gióc-ba: tốt bụng, giàu tình yêu thương
- Lăc-ki: hiền lành, lễ phép
- Ý nghĩa những lời giảng của Gióc-ba với Lắc-ki
- Học cách yêu thương một người khác mình.
- Mỗi người đều phải sống cuộc đời của chính mình.
Đọc - hiểu văn bản
Cuộc nói chuyện của Lắc-ki với mèo Anh-xtanh
- Đôi nét về Lắc-ki:
- Ngoại hình: Lớn nhanh như thổi, ra dáng một con hải âu tuổi thiếu niên thon thả với lớp lông vũ màu bạc.
- Hành động: Khi có khách tới tiệm tạp hóa, theo hướng dẫn của Đại Tá co mình nằm bất động giả vờ là những con chim nhồi bông; trầm trồ trước hàng nghìn loại vật thể chứa trong các căn phòng.
- Cuộc trò chuyện với giáo sư mèo Anh-xtanh:
- Hoàn cảnh: Giáo sư mèo Anh-xtanh điên cuồng giở hết cuốn sách này sang cuốn sách khác để tìm ra phương pháp giúp Lắc-ki bay.
- Lắc-ki: Tò mò vì sao hỏi giáo sư mèo Anh-xtanh: “Tạo sao con lại phải bay?
- Anh-xtanh: Giải thích cho Lắc-ki: Bởi vì con là hải âu, mà hải âu thì phải bay. Và nếu Lắc-ki không nhận ra điều đó thì thật là khủng khiếp.
- Lắc-ki: Mong muốn được hòa nhập với loài mèo: Nhưng con không muốn bay. Và con cũng không thích làm hải âu. Con muốn làm mèo, mà mèo thì không bay.
=> Cho thấy sự quan tâm của giáo sư mèo Anh-xtanh với Lắc-ki cũng như mong muốn được hòa nhập vào thế giới loài mèo của Lắc-ki.
Cuộc nói chuyện của Lắc-ki với con đười ươi
- Hoàn cảnh: Một buổi chiều Lắc-ki đi tới cửa tiệm tạp hóa.
- Đười ươi tỏ vẻ hống hách: “Tao không muốn phân chim quanh đây đâu”, gọi Lắc-ki là “con nhỏ bẩn thỉu”.
- Lắc-ki rụt rè, lễ phép hỏi lại: Tại sao ngài lại gọi cháu như thế, thưa ngài nhỉ?
- Đười ươi tiếp tục chế nhạo: “Chim chóc con nào chẳng thế. Ị bậy khắp mọi nơi…”
- Lắc-ki tìm cách thuyết phục đười ươi thay đổi suy nghĩ: “Ngài nhầm rồi. Cháu là một con mèo và rất biết giữ vệ sinh…”
- Đười ươi lại tìm cách réo rắt những ý nghĩ xấu về gia đình mèo vào đầu Lắc-ki: “Bọn khố rách áo ôm”, “Mày cũng dở hơi chẳng kém gì con mèo kia”, “Đồ chim đần độn”, “Chúng nó đợi mày béo rồi làm thịt bữa ăn ra trò”...
Cuộc nói chuyện của Lắc-ki và Gióc-ba
- Hoàn cảnh: Chiều hôm ấy, bọn mèo ngạc nhiên khi không thấy con hải âu xuất hiện để xơi món yêu thích. Bọn chúng cảm thấy lo lắng nên đã chạy đi tìm con. Gióc-ba tìm thấy nó nằm buồn giữa đám thú nhồi bông.
- Gióc-ba hỏi han ân cần: Con có đói không Lắc-ki?, Con thấy trong người khó chịu à?, Con có bị ốm không?
- Hỏi mà không ngẩng đầu "Má muốn con ăn để con béo tròn, ngon lành phải không?", Rồi khi con béo, ná sẽ mời bọn chuột tới chén thịt con phải không?; vừa kể lại vừa nước mắt lưng tròng.
- Gióc-ba giải thích:
- Khẳng định điểm đúng của con đười ươi: Con là một con hải âu.
- Phân tích điểm sai, khẳng định tình cảm: “Nhưng chúng ta yêu con...điều đó”.
- Giải thích tại sao cần phải học bay: “Con là chim hải âu… khác nhau”.
- Lắc-ki sợ hãi: Con sợ bay lắm, nhận được sự an ủi của Gióc-ba: “Khi con tập bay…”
=> Cho thấy tình yêu thương của Gióc-ba dành cho Lắc-ki.
Tổng kết:
- Nội dung: Đoạn trích “Lắc-ki thực sự may mắn” đã cho thấy tình yêu thương của gia đình mèo dành cho chú hải âu Lắc-ki.
- Nghệ thuật: Sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa, giọng điệu tự nhiên…
Bài soạn "Thực hành đọc: Lắc-ki thực sự may mắn trang 83 - 84" (Ngữ văn 6 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu 5
1. Tính chất gây tò mò của nhan đề “Chuyện con mèo dạy hải âu bay”:
- Nhan đề gợi ra sự phi lí khi mèo – loài vật không biết bay lại dạy một chú chim hải âu tập bay.-> Nhan đề kích thích sự tò mò, hứng thú cho người đọc.
2. Những sự kiện chính được kể lại trong chương VI. “Lắc-ki (Lucky) thực sự may mắn”:
- Lắc-ki sống trong tình yêu thương, bao bọc của bầy mèo tại tiệm tạp hóa.
- Lắc-ki nghe bác mèo Anh-xtanh giải thích về việc mình phải tập bay.
- Một buổi chiều, Lắc-ki có cuộc trò chuyện không mấy vui vẻ với con đười ươi Mét-thiu.
- Sau khi nghe những lời Mét-thiu nói, Lắc-ki trở nên buồn bã, không muốn ăn uống.
- “Má” Gióc-ba và những chú mèo khác đi khắp nơi tìm kiếm Lắc-ki.- Cuối cùng, “má” Gióc-ba giải thích cho Lắc-ki hiểu về mọi thứ.
3. Đặc điểm nhân vật Gióc-ba (Zorba) và Lắc-ki:
* Đặc điểm nhân vật Gióc-ba (Zorba):
- Ngoại hình: là một con mèo mun, thân hình mập ú.
- Tính cách:
+ Là một chú mèo biết giữ lời hứa “Khi con tập bay, ta sẽ ở đó với con”, “Ta đã hứa với mẹ con rồi”.
+ Luôn giàu tình yêu thương, tốt bụng, quan tâm tới Lắc-ki: bảo vệ Lắc- ki từ khi ra đời đến lúc khôn lớn, nhẹ nhàng hỏi thăm Lắc-ki có đói hay không,...
+ Tôn trọng sự khác biệt: vui với sự khác biệt ngoại hình của Lắc-ki, không hề nghĩ tới việc biến Lắc-ki trở thành mèo như mình, tha thiết mong muốn Lắc-ki biết bay.
* Đặc điểm nhân vật Lắc-ki:
- Ngoại hình: lớn nhanh như thổi, có lớp lông vũ mềm màu bạc, ra dáng như một con chim hải âu tuổi thiếu niên.
- Tính cách:
+ Ngoan ngoãn, nghe lời: nghe theo hướng dẫn của Đại Tá.
+ Thích tìm hiểu mọi thứ xung quanh: trầm trồ, thích thú trước những vật thể trong các căn phòng.
+ Gắn kết với mọi người: không muốn bay, muốn trở thành một con mèo.
+ Dễ xúc động: buồn bã trước những lời nói khó nghe của con đười ươi Mét-thiu; vui vẻ, hạnh phúc, tràn đầy yêu thương trước lời giải thích của “má” Gióc-ba.
4. Ý nghĩa những lời giảng giải của Gióc-ba với Lắc-ki ở đoạn kết:
- Tôn trọng sự khác biệt của người khác.
- Học cách yêu thương những người xung quanh, dù cho họ có khác biệt so với mình.
- Biết giữ lời hứa.
- Mỗi người cần phải sống cuộc đời của chính mình.
Bài soạn "Thực hành đọc: Lắc-ki thực sự may mắn trang 83 - 84" (Ngữ văn 6 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu 6
Trả lời câu hỏi Bài tập 6 trang 20 SBT Văn 6 Kết nối tri thức
Đọc lại văn bản Lắc-ki thực sự may mắn (từ Nước mắt lưng tròng đến vắt ngang lưng con mèo) trong SGK (tr. 80 - 87) và trả lời các câu hỏi
Câu 1
Xác định ngôi kể của người kể chuyện trong đoạn trích.
Phương pháp giải:
Đọc kĩ đoạn trích
Lời giải chi tiết:
Ngôi kể thứ ba – người kể giấu mình, không tham gia trực tiếp mà quan sát, chứng kiến và kể lại toàn bộ câu chuyện một cách khách quan.
Câu 2
Vì sao Gióc-ba chưa từng phủ nhận khi Lắc-ki nói Lắc-ki là một con mèo?
Phương pháp giải:
Đọc kĩ đoạn trích
Lời giải chi tiết:
Gióc-ba chưa từng phủ nhận khi hải âu (Lắc-ki) tự nhận mình là một con mèo. vì Gióc-ba cảm thấy vui sướng khi Lắc-ki muốn được giống như đàn mèo đã chăm sóc, nuôi nấng, che chở, yêu thương mình. Điều đó chứng tỏ con hải âu nhỏ đã gắn bó, yêu quý và tự hào về Gióc-ba và đàn mèo
Câu 3
Chỉ ra các chi tiết thể hiện sự quan tâm, tình yêu thương mà Gióc-ba và đàn mèo dành cho Lắc - ki
Phương pháp giải:
Đọc kĩ đoạn trích
Lời giải chi tiết:
Gióc-ba và đàn mèo đã bảo vệ Lắc-ki từ khi chào đời; chăm sóc, yêu thương Lắc-ki vô điều kiện; hết lòng vì "hạnh phúc” của Lắc-ki;....
Câu 4
Đọc đoạn trích, em có thấy Lắc-ki là con hải âu “thực sự may mắn” không? Vì sao?
Phương pháp giải:
Đọc kĩ đoạn trích
Lời giải chi tiết:
Lắc-ki là con hải âu "thực sự may mắn” vì đủ rất khác biệt nhưng vẫn được Gióc-ba và đàn mèo chấp nhận, bảo vệ, yêu thương.
Câu 5
Mèo Gióc-ba khẳng định rằng: "Thật dễ dàng để chấp nhận và yêu thương một kẻ nào đó giống mình, nhưng để yêu thương ai đó khác mình thực sự rất khó khăn”. Em có đồng tình với điều đó không? Vì sao?
Phương pháp giải:
Đọc kĩ đoạn trích và nêu ý kiến của bản thân
Lời giải chi tiết:
Em có thể lựa chọn đồng tình hoặc không đồng tình với suy nghĩ của Gióc-ba. Khi lí giải ý kiến của mình, em cần lưu ý sự khác nhau giữa việc yêu thương ai đó giống mình (dễ dàng) và yêu thương ai đó khác biệt với mình (khó khăn).
Câu 6
Chỉ ra hai cụm danh từ trong các câu sau và cho biết dụng ý của nhân vật Gióc-ba khi dùng hai cụm danh từ đó.
Và chúng ta yêu con bởi vì con là một con hải âu, Một con hải âu xinh đẹp.
Phương pháp giải:
Xác định và nêu tác dụng
Lời giải chi tiết:
- Hai cụm danh từ trong hai câu là: một con hỏi âu, một con hải âu xinh đẹp.
- Gợi ý: Gióc-ba muốn giảng giải, nhấn mạnh với Lắc-ki một sự thật Lắc-ki không phải là mèo như chú nghĩ. Lắc-ki là một con hải âu, hơn nữa là một con hải âu rất xinh đẹp. Điều đó thật đáng tự hào và Lắc-ki phải sống cuộc đời của một con hải âu.
Câu 7
Tìm cụm động từ trong những câu sau. Xác định trung tâm của cụm động từ và những ý nghĩa mà trung tâm đó được bổ sung.
Phương pháp giải:
Vận dụng kiến thức về động từ để làm bài
Lời giải chi tiết:
- Cụm động từ: đã bảo vệ con từ khoảnh khắc con mổ vỡ lớp vỏ trừng ra đời.
- Trung tâm của cụm động từ: bảo vệ.
- Phần phụ trước: đã, chỉ quan hệ về thời gian, biểu hiện sự nhấn mạnh.
- Phần phụ sau: con, từ khoảnh khác con mổ vỡ lớp vỏ trứng ra đời, chỉ đối tượng và thời gian của hành động bảo vệ.
- Cụm động từ: yêu con như yêu một con hải âu.
- Trung tâm của cụm động từ: yêu.
- Phần phụ sau: cơn, như yêu một con hỏi âu, chỉ đối tượng và sự so sánh của hành động yêu.
- Cụm động từ: cảm thấy con cũng yêu chúng ta như vậy.
- Trung tâm của cụm động từ: cảm thấy.
- Phần phụ sau: con cũng yêu chúng ta như vậy, chỉ nội dung của hành động cảm thấy.
Hãy đăng nhập để bình luận
Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .