Top 6 Bài soạn "Thuý Kiều hầu rượu Hoạn Thư - Thúc Sinh" (Ngữ văn 11- SGK Chân trời sáng tạo) hay nhất
Mời các bạn tham khảo một số bài soạn "Thuý Kiều hầu rượu Hoạn Thư - Thúc Sinh" (Ngữ văn 11- SGK Chân trời sáng tạo) hay nhất mà Alltop.vn đã tổng hợp trong bài...xem thêm ...
Bài soạn "Thuý Kiều hầu rượu Hoạn Thư - Thúc Sinh" (Ngữ văn 11- SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 1
* Suy ngẫm và phản hồi:
Nội dung chính:
Bài thơ thể hiện nỗi niềm khó tả, những cảm xúc đa chiều của Thúy Kiều khi hầu rượu Thúc Sinh và Hoạn Thư.
Câu 1 (trang 50 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Liệt kê các sự kiện được kể trong văn bản.
Trả lời:
Các sự kiện được người kể chuyện kể lại:
- Thuý Kiều choáng váng, kinh sợ khi biết mình và Thúc Sinh bị mắc mưu, sa bẫy Hoạn Thư, đành phải nhẫn nhục hầu rượu Hoạn Thư – Thúc Sinh.
- Thúc Sinh cũng kinh ngạc, choáng váng, đau xót khi biết mình và Kiều mắc mưu, sa bẫy Hoạn Thư, đành phải giả vờ như không quen biết Thuý Kiều.
- Thuý Kiều mời rượu Hoạn Thư – Thúc Sinh; Hoạn Thư áp chế Thúc Sinh, ỷ vào địa vị chủ nhân để hăm doạ, nhiếc móc Thuý Kiều.
- Thuý Kiều hầu đàn Hoạn Thư – Thúc Sinh, lại bị Hoạn Thư dùng tư cách chủ nhân, lời lẽ, hành vi hạ nhục Thuý Kiều và đe nạt Thúc Sinh.
- Sự hả dạ của Hoạn Thư và nỗi ê chề, khiếp nhược của Thúc Sinh.
- Tâm sự chua xót, tủi nhục của Thuý Kiều.
Câu 2 (trang 50 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Phân tích diễn biến tâm trạng của Thuý Kiều được thể hiện trong đoạn trích (chú ý lời người kể chuyện và các đoạn độc thoại nội tâm của Thuý Kiều).
Trả lời:
- Độc thoại nội tâm: Thể hiện sự bất ngờ, choáng váng, thậm chí hoang mang khi nhận ra mưu kế đánh ghen lạ đời, cao tay, nham hiểm của Hoạn Thư và tình cảnh oái oăm, ngang trái của mình: “Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai”, “Thôi thôi đã mắc vào tay ai rồi”; nghệ thuật độc thoại nội tâm (12 dòng, vừa tự vấn, vừa tự khẳng định; bộc lộ niềm hoang mang, không phải lời nửa trực tiếp.
- Lời miêu tả của người kể chuyện: Thể hiện ở việc miêu tả tâm lí Thuý Kiểu của người kể chuyện, chẳng hạn ở các dòng: Bước ra một bước một dừng,/ Trông xa nàng đã tỏ chừng nẻo xa./ Càng trông mặt, càng ngẩn ngơ/ Ruột tầm đòi đoạn như tơ rối bời./ Sợ uy dám chẳng vâng lời,/ Cúi đầu nép xuống sân mai một chiều.
- Trong cuộc hầu rượu, hầu đàn: Cảm thấy ngượng ngùng, đau khổ, ê chề, nhục nhã. Hầu rượu: Vợ chồng chén tạc chén thù,/ Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi./ Bắt khoan bắt nhặt đến lời,/ Bắt quỳ tận mặt bắt mời tận tay.
Gián tiếp miêu tả Thuý Kiều qua sự tương phản giữa hành động bên ngoài và bên trong của vợ chồng Hoạn Thư – Thúc Sinh: Thuý Kiều lâm vào tình trạng mắc kẹt, tột cùng sợ hãi, choáng váng, đau đớn, nhục nhã.
Hầu đàn:
– Người kể chuyện tả tâm trạng: Nàng đà tán hoán tề mê,/ Vàng lời ra trước bình the vặn đàn.
- Người kể chuyện tả tiếng đàn và tác động não nùng của tiếng đàn: Bốn dây như khóc như than,/ Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng./ Cùng trong một tiếng tơ đồng/ Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm.
Sau cuộc hầu rượu, hầu đàn: Sự song song tương phản “tay ba”:
– Hoạn Thư: Tiểu thư trông mặt đường đà cam tâm/ Lòng riêng khấp khởi mừng thầm (2 dòng), độc thoại nội tâm: Vui này đã bỏ đau ngầm xưa nay.
- 'Thúc Sinh: Sinh thì gan héo ruột đầy,/ Nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng (2 dòng).
– Thuý Kiều: Sau lời dẫn là độc thoại nội tâm: "Bây giờ mới rõ tăm hơi ... Bể sâu sóng cả có tuyển được vayệ” (10 dòng) và cuối cuộc hầu rượu, hầu đàn: Một mình âm ỉ đêm cháy,/ Đĩa đầu vơi, nước mắt đầy năm canh (2 dòng).
Câu 3 (trang 50 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Kẻ bảng dưới đây vào vở, liệt kê một số chi tiết có tác dụng làm nổi bật sự khác biệt giữa hành động, vẻ bề ngoài với tâm trạng, cảm xúc bên trong của hai nhân vật Hoạn Thư và Thúc Sinh trước các tình huống khác nhau:
Tình huống
Nhân vật
Hành động/ vẻ bề ngoài
Tâm trạng, cảm xúc bên trong
Thuý Kiều
mời rượu
Hoạn Thư
Thúc Sinh
Thuý Kiều
hầu đàn
Hoạn Thư
Thúc Sinh
Trả lời:
Tình huống
Nhân vật
Hành động/ vẻ bề ngoài
Tâm trạng, cảm xúc bên trong
Thuý Kiều
mời rượu
Hoạn Thư
Buộc Kiều hầu đàn, “xem mặt hỏi trả” Thúc Sinh, “thơn thớt nói cười” khen ngợi vờ vịt, mỉa mai về lòng hiếu thảo của Thúc Sinh.
“Nham hiểu giết người không dao”; mưu toan “làm ra con ở chúa nhà đôi nơi”.
Thúc Sinh
“Chén tạc chén thù”, ngoảnh đi, chợt nói, chợt cười, cạn chén rượu mà Thúy Kiều mời như một con rối; nhất cử nhất động theo sự sai khiến của Hoạn Thư.
“Phách lạc hồn xiêu”, khi biết cả Kiều và bản thân “đã mắc vào tay” Hoạn Thư; tan nát lòng “nát ruột tan hồn”.
Thuý Kiều
hầu đàn
Hoạn Thư
“Cười nói tỉnh say, chưa xong cuộc rượu lại bày trò chơi”; ngợi khen, quát mắng Thúy Kiều.
“Dường đà cam tâm”; “khắp khởi mừng thầm”
Thúc Sinh
“Vội vàng gượng nói gượng cười”.
Càng “thảm thiết bồi hồi”, “gan héo ruột đầy”, “nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng”.
Nhà thơ đã tả sự đối lập, tương phản giữa hai con người bề ngoài, bên trong của Hoạn Thư và Thúc Sinh, như “đi guốc trong bụng” nhân vật:
- Hoạn Thư: Bề ngoài thơn thớt nói cười/ Mà trong nham hiểm giết người không dao.
- Thúc Sinh: Người ngoài cười nụ cười trong khóc thầm.
Câu 4 (trang 50 sgk Ngữ văn 11 Tập 2):Cảnh ngộ, tâm trạng của nhân vật Thuý Kiều qua hai dòng thơ độc thoại nội tâm Lỡ làng chút phận thuyền quyên/ Bể sâu sóng cả có tuyền được vay? Và cảnh ngộ, tâm trạng theo chủ thể trữ tình trong các câu ca dao dưới đây có điểm gì gần gũi nhau? Theo bạn, vì sao có sự gần gũi như vậy?
- Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu?
- Lênh đênh một chiếc thuyền tình
Mười hai bến nước biết gửi mình về đâu?
Trả lời:
- Cảnh ngộ, tâm trạng của nhân vật Thuý Kiều được ví với thân phận con thuyền nhỏ phiêu bạt giữa bể sâu sóng cả, không rõ có sống sót, tồn tại được không; lo lắng, bất an và hoang mang trước tương lai mù mịt; dạng câu nghi vấn có tác dụng gợi tả tâm trạng lo lắng của nhân vật, sự ái ngại của người kể.
- Cảnh ngộ, tâm trạng của chủ thể trữ tình nữ trong hai bài ca dao cũng được ví với sự trỗi nổi của trái bần trôi, chiếc thuyền tình lênh đênh mười hai bến nước, phiêu bạt giữa bể sâu sóng cả, không rõ có sống sót, tồn tại được không, không biết tấp mình/ gửi mình vào đầu. Ca dao cũng dùng lời nghi vấn để thể hiện sự lo lắng, bất an.
- Sự tương đồng trong cảnh ngộ (trôi nổi, bất định, phiêu bạt) và tâm trạng (lo lắng, bất an) tìm đến sự tương đồng trong cách sử dụng hình ảnh biểu tượng (chút phận thuyền quyên lỡ làng, phiêu bạt; trái bần trôi; chiếc thuyền tình lênh đênh) và hình thức biểu đạt (giọng tự vấn/ câu nghi vấn). Nguyễn Du cũng như tác giả dân gian đều thể hiện sự đồng cảm, xót thương sâu sắc đối với nàng Kiều và những người phụ nữ xưng “thân em” trong ca dao...
Bài soạn "Thuý Kiều hầu rượu Hoạn Thư - Thúc Sinh" (Ngữ văn 11- SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 2
Tác giả
Tác giả Nguyễn Du
Tiểu sử
- Nguyễn Du (1765 – 1820) tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên.
* Thời đại:
- Đầy biến động: giang sơn mấy lần đổi chủ.
- Chế độ phong kiến suy tàn, phong trào khởi nghĩa nông dân nổi lên khắp nơi.
→ Suy ngẫm về cuộc đời và thế thái nhân sinh.
* Quê hương – gia đình:
- Quê hương:
+ Quê cha: Hà Tĩnh → giàu truyền thống văn hóa, hiếu học.
+ Quê mẹ : Bắc Ninh – cái nôi của dân ca quan họ.
+ Nguyễn Du sống chủ yếu ở Thăng Long → Mảnh đất nghìn năm văn hiến.
+ Quê vợ : Thái Bình, nhiều truyền thống văn hóa.
→ Tiếp nhận văn hóa nhiều vùng miền tạo tiền đề cho sự tổng hợp tài năng nghệ thuật.
- Gia đình:
+ Sinh ra và trưởng thành trong gia đình quý tộc phong kiến quyền quý:
> Cha: Nguyễn Nghiễm, từng làm Tể Tướng trong triều Lê.
> Anh là Nguyễn Khản, làm chức Tham tụng (ngang Thừa tướng) trong phủ chúa Trịnh.
→ Có điều kiện dùi mài kinh sử và am hiểu vốn văn hóa văn học bác học.
+ Mẹ: Trần Thị Tần: quê ở Bắc Ninh, thông minh xinh đẹp, nết na.
→ Hiểu biết về văn hóa dân gian.
→ Gia đình nhiều đời làm quan, có truyền thống văn học, thích hát xướng.
* Bản thân:
- Thời thơ ấu và thanh niên (1765 – 1789): Sống sung túc, hào hoa ở kinh thành Thăng Long trong gia đình quyền quý → Là điều kiện để có những hiểu biết về cuộc sống ông phong lưu của giới quý tộc phong kiến.
- Mười năm gió bụi (1789 – 1802): Sống cuộc đời nghèo khổ, phong trần, gió bụi → Đem lại cho Nguyễn Du vốn sống thực tế gần gũi với quần chúng, học tập ngôn ngữ dân tộc và thôi thúc ông suy ngẫm về cuộc đời con người.
- Từ khi ra làm quan triều Nguyễn (1802 – 1820): Giữ nhiều chức vụ cao, được đi nhiều nơi, được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc.
→ Giúp ông mở mang, nâng tầm khái quát về xã hội, con người.
Tác phẩm
Tác phẩm Thúy Kiều hầu rượu Hoạn Thư - Thúc Sinh
- Vị trí đoạn trích: Từ câu 1799 đến câu 1884 trong Truyện Kiều, là cảnh Thúy Kiều bị bắt hầu rượu vợ chồng Hoạn Thư.
- Thể loại: Truyện thơ Nôm.
- Thể thơ: Lục bát.
- Phương thức biểu đạt: Tự sự, miêu tả.
Bài soạn "Thuý Kiều hầu rượu Hoạn Thư - Thúc Sinh" (Ngữ văn 11- SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 3
Câu 1 (trang 50, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Liệt kê các sự kiện được kể trong văn bản.
Phương pháp giải:
Đọc nội dung đoạn trích “Thúy Kiều hầu rượu Hoạn Thư - Thúc Sinh”, chú ý những hình ảnh, chi tiết nổi bật từ đó tìm và chỉ ra được những sự kiện trong văn bản.
Lời giải chi tiết:
- Các sự kiện được kể trong văn bản:
+ Thúc Sinh trở về thăm nhà, Hoạn Thư đon đả, vui vẻ ra đón chàng.
+ Hoạn Thư và Thúc Sinh cùng nhau bày tiệc rượu hàn huyên, tâm tình.
+ Hoạn Thư gọi Thúy Kiều được gọi ra hầu rượu vợ chồng mình để hạ nhục Kiều và răn đe Thúc Sinh.
+ Thúc Sinh khi chứng kiến Thúy Kiều hầu rượu đã ngờ ngợ nhận ra đó là nàng, tâm trạng từ đó cũng thay đổi, trở lại tâm trạng buồn bã, gan héo ruột đầy, nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng.
Câu 2 (trang 50, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều được thể hiện trong đoạn trích (chú ý lời người kể chuyện và các đoạn độc thoại nội tâm của Thúy Kiều)
Phương pháp giải:
Thông qua nội dung đoạn trích, chú ý vào những chi tiết nổi bật, lời người kể chuyện và các đoạn độc thoại nội tâm của Thúy Kiều để phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều.
Lời giải chi tiết:
- Khi vừa bước ra, cảm xúc của Thúy Kiều hết sức bất ngờ, ngạc nhiên tiếp theo sau là sự vỡ lẽ của nhiều điều, Kiều chỉ biết thốt lên “Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai”.
- Khi đã vỡ lẽ ra những hành động của Hoạn Thư, Thúy Kiều cảm thấy chán ghét, căm hận với những gì Hoạn Thư thể hiện bên ngoài và bên trong “Bề ngoài thơn thớt nói cười, Mà trong nham hiểm giết người không dao”
- Tâm trạng Kiều rối như tơ vò, muốn chống lại cũng chẳng thể phản kháng vì sợ Hoạn Thư sẽ làm hại mình “Ruột tằm đòi đoạn như tơ rối bời/ Sợ uy dám chẳng vâng lời”
- Kiều của bây giờ như đã chết trong lòng, tan nát, ngây dại, làm việc chỉ trong vô thức, “tán hoán tê mê”, bản đàn Kiều gảy lên cũng “tan nát lòng”, giờ đây khung cảnh tưởng chừng rất bình thường nhưng lại có những mâu thuẫn sâu sắc “người ngoài cười nụ người trong khóc thầm”.
- Tâm trạng Kiều theo thời gian càng trở nên nặng nề, đau đớn, càng nghĩ càng cay đắng, Kiều đã khóc, khóc than cho phận mình đầy oan trái, nghiệt ngã.
Câu 3 (trang 50, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Kẻ bảng dưới đây vào vở, chỉ ra một số chi tiết có tác dụng làm nổi bật sự khác biệt giữa hành động, vẻ bề ngoài với tâm trạng, cảm xúc bên trong của hai nhân vật Hoạn Thư và Thúc Sinh trước các tình huống khác nhau:
Tình huống
Nhân vật
Hành động/ vẻ bề ngoài
Nội tâm
Thúy Kiều mời rượu
Hoạn Thư
Thúc Sinh
Thúy Kiều hầu đàn
Hoạn Thư
Thúc Sinh
Phương pháp giải:
Khai thác nội dung đoạn trích, dựa vào những chi tiết làm nổi bật sự khác biệt, vẻ bề ngoài với tâm trạng, cảm xúc bên trong của hai nhân vật Hoạn Thư và Thúc Sinh, từ đó hoàn thiện bảng đề bài đưa ra.
Lời giải chi tiết:
Tình huống
Nhân vật
Hành động/ vẻ bề ngoài
Nội tâm
Thúy Kiều mời rượu
Hoạn Thư
- Vui vẻ, đon đả, nói cười
- Hoạn Thư ra vẻ ân cần, hỏi han, an ủi Thúc Sinh khi chứng kiến chàng đổ lệ
- Mưu mô, dùng nhiều thủ đoạn để hại Kiều, bắt Thúy Kiều ra hầu rượu cho mình và Thúc Sinh
- Chứng kiến Thúc Sinh khóc, Hoạn Thư sinh lòng ghen, mượn cớ thét mắng, sai Thúy Kiều ra gảy đàn cho Thúc Sinh vui.
Thúc Sinh
- Bàng hoàng, ngỡ ngàng.
- Buồn bã, muộn phiền, khóc lóc với lý do mới mãn tang mẹ.
Khóc vì xót thương cho Thúy Kiều khi nhận ra Kiều và nghe khúc đàn Kiểu đánh.
Thúy Kiều hầu đàn
Hoạn Thư
Hoạn Thư ra vẻ ân cần, hỏi han, an ủi Thúc Sinh; sai người làm gảy khúc đàn khác cho tâm trạng chàng vui.
- Chứng kiến Thúc Sinh khóc, Hoạn Thư sinh lòng ghen, mượn cớ thét mắng, sai khiến Thúy Kiều.
- Hả hê khi chứng kiến cảnh Thúy Kiều buồn bã, đau thương gảy khúc đoạn trường.
Thúc Sinh
Thảm thiết, bồi hồi, gượng nói gượng cười cho qua chuyện
Buồn bã, xót xa, càng nghĩ càng cay đắng nhưng vẫn “gạt thầm giọt thương” để cho qua chuyện, để Hoạn Thư không làm khó Thúy Kiều nữa.
Câu 4 (trang 51, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Cảnh ngộ, tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều qua hai dòng thơ độc thoại nội tâm Lỡ làng chút phận thuyền quyên/ Bể sâu sóng cả có tuyền được vay? và cảnh ngộ, tâm trạng của chủ thể trữ tình trong các câu ca dao dưới đây có điểm gì gần gũi với nhau? Theo bạn, vì sao có sự gần gũi như vậy?
- Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu?
- Lênh đênh một chiếc thuyền tình
Mười hai bến nước biết gửi mình về đâu?
Phương pháp giải:
Dựa vào vốn hiểu biết của bản thân và tham khảo những tài liệu, từ điển để giải nghĩa những câu ca dao. Từ đó nhận xét về những điểm gần gũi giữa cảnh ngộ, tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều và các chủ thể trữ tình trong các câu ca dao. Đồng thời, lý giải sự gần gũi.
Lời giải chi tiết:
- Thúy Kiều và nhân vật trữ tình đều đại diện cho người phụ nữ thời kì phong kiến với số phận bị vùi dập, dẫm đạp, hành hạ bởi những hủ tục. Họ cảm thấy mình lạc lối trong con sóng đời, không biết điều gì sẽ đến và không biết phải làm sao để vượt qua những khó khăn này.
- Họ đều là những thân phận đánh thương, bị xã hội dồn tới đường cùng, bị mắc kẹt trong cuộc sống đầy khổ đau và bất hạnh, không thể phản kháng, chỉ biết lặng lẽ chấp nhận một mình, mặc cho dòng đời xô ngã, quyết định vận mệnh thay họ. Nghĩ về tương lai, họ chỉ đầy tâm trạng bất an, mơ hồ, không rõ ràng.
- Theo em, xuất hiện sự gần gũi ấy bởi sự bế tắc, lạc lối và không biết điều gì sẽ đến với mình của những người phụ nữ thời phong kiến. Cả hai đều đang tìm kiếm lối thoát và hy vọng sẽ tìm được đường đi đúng đắn.
Bài soạn "Thuý Kiều hầu rượu Hoạn Thư - Thúc Sinh" (Ngữ văn 11- SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 4
Câu 1. Liệt kê các sự kiện được kể trong văn bản.
- Thúy Kiều choáng váng, kinh sợ khi biết mình và Thúc Sinh bị mắc mưu, sa bẫy Hoạn Thư, đành phải nhẫn nhục hầu rượu Hoạn Thư - Thúc Sinh.
- Thúc Sinh cũng kinh ngạc, choáng váng, đau xót khi biết mình và Kiều mắc mưu, sa bẫy Hoạn Thư, đành phải giả vờ như không quen biết Thúy Kiều.
Thúy Kiều mời rượu Hoạn Thư - Thúc Sinh, lại bị Hoạn Thư dùng tư cách chủ nhân để hạ nhục Thúy Kiều, đe nạt Thúc Sinh.
- Sự hả dạ của Hoạn Thư, nỗi ê chề khiếp nhược của Thúc Sinh.
- Tâm sự chua xót, tủi nhục của Thúy Kiều.
Câu 2. Phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều được thể hiện trong đoạn trích (chú ý lời người kể chuyện và các đoạn độc thoại nội tâm của Thúy Kiều.
- Trước cuộc hầu rượu, hầu đàn:
- Độc thoại nội tâm: thể hiện sự bất ngờ, choáng váng, thậm chí hoang mang khi nhận ra mưu hèn kế bẩn của Hoạn Thư và tình cảnh oái oăm, ngang trái của mình “Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai”, “Thôi thôi đã mắc vào tay ai rồi”
- Lời miêu tả của người kể chuyện: thể hiện ở việc miêu tả tâm lí Thúy Kiều của người kể chuyện, chẳng hạn ở các dòng “Bước ra một bước một dừng/Trông xa nàng đã tỏ chừng nẻo xa/Càng trông mặt, càng ngẩn ngơ/Ruột tằm đòi đoạn như tơ rối bời/Sợ uy chẳng dám vâng lời/Cúi đầu nép xuống sân mai một chiều.
- Trong cuộc hầu rượu, hầu đàn: cảm thấy ngượng ngùng, đau khổ, ê chề, nhục nhã
- Hầu rượu “Vợ chồng chén tạc chén thù/Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi/Bắt khoan bắt nhặt đến lời/Bắt quỳ tận mặt, bắt mời tận tay.”:
- Hầu đàn: “Bốn dây như khóc như than/Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng/Cùng trong một tiếng tơ đồng/Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm.
- Sau cuộc hầu rượu, hầu đàn: “Bây giờ mới rõ tăm hơi… Bể sâu sóng cả có tuyền được vay”; cuối cuộc hầu rượu, hầu đàn “Một mình âm ỉ đêm chầy/Đĩa dầu vơi, nước mắt đầy năm canh”.
Câu 3. Kẻ bảng dưới đây vào vở, chỉ ra một số chi tiết có tác dụng làm nổi bật sự khác biệt giữa hành động, vẻ bề ngoài với tâm trạng, cảm xúc bên trong của hai nhân vật Hoạn Thư và Thúc Sinh trước các tình huống khác nhau:
Tình huống
Nhân vật
Hành động/ vẻ bề ngoài
Nội tâm
Thúy Kiều mời rượu
Hoạn Thư
Buộc Kiều hầu đàn, “xem mặt hỏi tra” Thúc Sinh, “thơn thớt nói cười” khen ngợi vờ vịt, mỉa mai về lòng hiếu của Thúc Sinh.
“Nham hiểm giết người không dao”, mưu toan “làm ra con ở chúa nhà đôi nơi”
Thúc Sinh
“Chén tạc chén thù” ngoảnh đi, chợt nói chợt cười, cạn chén mà Thúy Kiều mời như một con rối, nhất cử nhất động theo sự sai khiến của Hoạn Thư
“Phách lạc hồn xiêu” khi biết cả Kiều và bản thân “đã mặc vào tay” Hoạn Thư, tan nát lòng “nát ruột tan hồn”.
Thúy Kiều hầu đàn
Hoạn Thư
“Cười nói tỉnh say, chưa xong cuộc rượu lại bày trò chơi”; ngợi khen, quát mắng Thúy Kiều
“Dường đà tâm can”, “khấp khởi mừng thầm”
Thúc Sinh
“Vội vàng gượng nói gượng cười”
Càng “thảm thiết bồi hồi”, “gan héo ruột đầy”, “nỗng lòng càng nghĩ càng đắng lòng”
Câu 4. Cảnh ngộ, tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều qua hai dòng thơ độc thoại nội tâm Lỡ làng chút phận thuyền quyên/ Bể sâu sóng cả có tuyền được vay? và cảnh ngộ, tâm trạng của chủ thể trữ tình trong các câu ca dao dưới đây có điểm gì gần gũi với nhau? Theo bạn, vì sao có sự gần gũi như vậy?
- Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu?
- Lênh đênh một chiếc thuyền tình
Mười hai bến nước biết gửi mình về đâu?
Cùng được ví với con thuyền nhỏ, phiêu bạt giữa bể sâu sóng cả, không rõ có sống sót, tồn tại được không; lo lắng, bất an trước tương lai mù mịt, dạng câu nghi vấn có tác dụng diễn tả tâm trạng
Bài soạn "Thuý Kiều hầu rượu Hoạn Thư - Thúc Sinh" (Ngữ văn 11- SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 5
HƯỚNG DẪN ĐỌC
Câu 1: Liệt kê các sự kiện được kể trong văn bản.
Trả lời
- Các sự kiện được kể trong văn bản:
+ Thúc Sinh trở về thăm nhà, Hoạn Thư đon đả, vui vẻ ra đón chàng.
+ Hoạn Thư và Thúc Sinh cùng nhau bày tiệc rượu hàn huyên, tâm tình.
+ Hoạn Thư gọi Thúy Kiều được gọi ra hầu rượu vợ chồng mình để hạ nhục Kiều và răn đe Thúc Sinh.
+ Thúc Sinh khi chứng kiến Thúy Kiều hầu rượu đã ngờ ngợ nhận ra đó là nàng, tâm trạng từ đó cũng thay đổi, trở lại tâm trạng buồn bã, gan héo ruột đầy, nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng.
Câu 2: Phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều được thể hiện trong đoạn trích (chú ý lời người kể chuyện và các đoạn độc thoại nội tâm của Thúy Kiều.
Trả lời
Diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều khi hầu rượu Thúc Sinh và Hoạn Thư là một loạt những cảm xúc, tâm trạng phức tạp và đa chiều, đầy những cảm xúc khó tả.
- Khi vừa bước ra, cảm xúc của Thúy Kiều hết sức bất ngờ, ngạc nhiên tiếp theo sau là sự vỡ lẽ của nhiều điều, Kiều chỉ biết thốt lên “Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai”.
- Khi đã vỡ lẽ ra những hành động của Hoạn Thư, Thúy Kiều cảm thấy chán ghét, căm hận với những gì Hoạn Thư thể hiện bên ngoài và bên trong “Bề ngoài thơn thớt nói cười, Mà trong nham hiểm giết người không dao”
- Tâm trạng Kiều rối như tơ vò, muốn chống lại cũng chẳng thể phản kháng vì sợ Hoạn Thư sẽ làm hại mình “Ruột tằm đòi đoạn như tơ rối bời/ Sợ uy dám chẳng vâng lời”
- Kiều của bây giờ như đã chết trong lòng, tan nát, ngây dại, làm việc chỉ trong vô thức, “tán hoán tê mê”, bản đàn Kiều gảy lên cũng “tan nát lòng”, giờ đây khung cảnh tưởng chừng rất bình thường nhưng lại có những mâu thuẫn sâu sắc “người ngoài cười nụ người trong khóc thầm”.
- Tâm trạng Kiều theo thời gian càng trở nên nặng nề, đau đớn, càng nghĩ càng cay đắng, Kiều đã khóc, khóc than cho phận mình đầy oan trái, nghiệt ngã.
Câu 3: Kẻ bảng dưới đây vào vở, chỉ ra một số chi tiết có tác dụng làm nổi bật sự khác biệt giữa hành động, vẻ bề ngoài với tâm trạng, cảm xúc bên trong của hai nhân vật Hoạn Thư và Thúc Sinh trước các tình huống khác nhau:
Tình huống
Nhân vật
Hành động/ vẻ bề ngoài
Nội tâm
Thúy Kiều mời rượu
Hoạn Thư
Thúc Sinh
Thúy Kiều hầu đàn
Hoạn Thư
Thúc Sinh
Trả lời
Tình huống
Nhân vật
Hành động/ vẻ bề ngoài
Nội tâm
Thúy Kiều mời rượu
Hoạn Thư
- Vui vẻ, đon đả, nói cười
- Hoạn Thư ra vẻ ân cần, hỏi han, an ủi Thúc Sinh khi chứng kiến chàng đổ lệ
- Mưu mô, dùng nhiều thủ đoạn để hại Kiều, bắt Thúy Kiều ra hầu rượu cho mình và Thúc Sinh
- Chứng kiến Thúc Sinh khóc, Hoạn Thư sinh lòng ghen, mượn cớ thét mắng, sai Thúy Kiều ra gảy đàn cho Thúc Sinh vui.
Thúc Sinh
- Bàng hoàng, ngỡ ngàng.
- Buồn bã, muộn phiền, khóc lóc với lý do mới mãn tang mẹ.
Khóc vì xót thương cho Thúy Kiều khi nhận ra Kiều và nghe khúc đàn Kiểu đánh.
Thúy Kiều hầu đàn
Hoạn Thư
Hoạn Thư ra vẻ ân cần, hỏi han, an ủi Thúc Sinh; sai người làm gảy khúc đàn khác cho tâm trạng chàng vui.
- Chứng kiến Thúc Sinh khóc, Hoạn Thư sinh lòng ghen, mượn cớ thét mắng, sai khiến Thúy Kiều.
- Hả hê khi chứng kiến cảnh Thúy Kiều buồn bã, đau thương gảy khúc đoạn trường.
Thúc Sinh
Thảm thiết, bồi hồi, gượng nói gượng cười cho qua chuyện
Buồn bã, xót xa, càng nghĩ càng cay đắng nhưng vẫn “gạt thầm giọt thương” để cho qua chuyện, để Hoạn Thư không làm khó Thúy Kiều nữa.
Câu 4: Cảnh ngộ, tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều qua hai dòng thơ độc thoại nội tâm Lỡ làng chút phận thuyền quyên/ Bể sâu sóng cả có tuyền được vay? và cảnh ngộ, tâm trạng của chủ thể trữ tình trong các câu ca dao dưới đây có điểm gì gần gũi với nhau? Theo bạn, vì sao có sự gần gũi như vậy?
- Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu?
- Lênh đênh một chiếc thuyền tình
Mười hai bến nước biết gửi mình về đâu?
Trả lời
- Thúy Kiều và nhân vật trữ tình đều đại diện cho người phụ nữ thời kì phong kiến với số phận bị vùi dập, dẫm đạp, hành hạ bởi những hủ tục. Họ cảm thấy mình lạc lối trong con sóng đời, không biết điều gì sẽ đến và không biết phải làm sao để vượt qua những khó khăn này.
- Họ đều là những thân phận đánh thương, bị xã hội dồn tới đường cùng, bị mắc kẹt trong cuộc sống đầy khổ đau và bất hạnh, không thể phản kháng, chỉ biết lặng lẽ chấp nhận một mình, mặc cho dòng đời xô ngã, quyết định vận mệnh thay họ. Nghĩ về tương lai, họ chỉ đầy tâm trạng bất an, mơ hồ, không rõ ràng.
- Theo em, xuất hiện sự gần gũi ấy bởi sự bế tắc, lạc lối và không biết điều gì sẽ đến với mình của những người phụ nữ thời phong kiến. Cả hai đều đang tìm kiếm lối thoát và hy vọng sẽ tìm được đường đi đúng đắn.
PHẦN THAM KHẢO MỞ RỘNG
Câu 1. Em hãy nêu giá trị nội dung, nghệ thuật của bài Thúy Kiều hầu rượu Hoạn Thư - Thúc Sinh
Trả lời
- Giá trị nội dung:
Đoạn trích kể lại truyện Thúy Kiều bị bắt hầu rượu vợ chồng Hoạn Thư. Đọc đoạn trích ta cảm nhận được những cảm xúc, tâm trạng phức tạp khó tả của các nhân vật. Qua đoạn trích, ta thấy xót thương cho người con gái "tài hoa bạc mệnh". Họ đều là những thân phận đánh thương, bị xã hội dồn tới đường cùng, bị mắc kẹt trong cuộc sống đầy khổ đau và bất hạnh, không thể phản kháng, chỉ biết lặng lẽ chấp nhận một mình, mặc cho dòng đời xô ngã, quyết định vận mệnh thay họ. Nghĩ về tương lai, họ chỉ đầy tâm trạng bất an, mơ hồ, không rõ ràng.
- Giá trị nghệ thuật:
- Nhân vật phản diện được khắc họa theo lối hiện thực hóa bằng những biện pháp cu thể, hiện thực.
- Ngôn ngữ: tác phẩm là nơi tập trung những cái hay, cái đẹp, cái hoàn thiện của ngôn ngữ văn học dân tộc.
Câu 2. Em hãy nêu nội dung chính của văn bản Thúy Kiều hầu rượu Hoạn Thư - Thúc Sinh.
Trả lời
Đoạn trích kể lại cảnh Thúy Kiều bị bắt hầu rượu vợ chồng Hoạn Thư.
Bài soạn "Thuý Kiều hầu rượu Hoạn Thư - Thúc Sinh" (Ngữ văn 11- SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 6
Cái ghen của Hoạn Thư
Không một người Việt Nam nào mà không biết tên Hoạn Thư và cái “đức” ghen của nàng. Nhưng có lẽ ít người tìm hiểu sâu xa về cái “đức” ghen đó. Ai cũng cho rằng Hoạn Thư là con người thâm độc, nham hiểm, tàn nhẫn khi hành hạ Thúy Kiều. Vì thế, tên Hoạn Thư đồng nghĩa với sự ghen tuông độc ác của một người đàn bà.
Trong thập niên 50, đầu 60, ở miền Nam Việt Nam, báo chí đã tường thuật nhiều vụ đánh ghen rất khủng khiếp. Có người thì đốt cho chồng cháy như cây đuốc (mà danh ca Trần Văn Trạch đã có bài hát “Đốt hay không đốt”), và có kẻ thì tạt át xít vào mặt tình địch, hủy hoại nhan sắc xinh đẹp của một cô vũ nữ… Như vậy, so với cái ghen của Hoạn Thư còn độc ác gấp ngàn lần. Thế mà không ai “nổi tiếng” bằng Hoạn Thư. Và người đời vẫn chỉ nhớ đến Hoạn Thư mỗi khi nói tới ghen tuông.
Thật ra, nếu tìm hiểu kỹ hơn về cách đánh ghen của Hoạn tiểu thư trong Đoạn Trường Tân Thanh, chúng ta sẽ thay đổi thái độ với nàng, chứ không khắc nghiệt như hiện nay. Điều mà những người đọc Kiều ít quan tâm tới là tâm trạng giận chồng của Hoạn Thư. Thoạt tiên, nàng không hề thù ghét Kiều :
Từ nghe vườn mới thêm hoa,
Miệng người đã lắm, tin nhà thì không.
Lửa tâm càng dập càng nồng,
Giận người đen bạc ra lòng trăng hoa.
Ví bằng thú thật cùng ta,
Cũng dong kẻ dưới mới là lượng trên.
Dại chi chẳng giữ lấy nền,
Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình.
Sở dĩ Hoạn Thư không muốn “rước lấy tiếng ghen” vì lễ giáo của nhà Nho không phản đối việc người đàn ông có thể đèo bòng tới “năm thê, bảy thiếp” miễn phải thông báo cho bà chính thất biết. Bà chính thất là “vợ cái con cột” nắm quyền “nội tướng” (tương đương với bộ trưởng Nội vụ) trong gia đình. Ngoài ra, Hoạn Thư không dám ghen vì nàng còn có một nhược điểm quan trọng là chưa có con để nối dõi tông đường.
Khi Thúc Sinh đang đắm đuối trong tình yêu mới được chính quan phủ sở tại ở Lâm truy se duyên, Kiều sáng suốt nhận ra rằng chàng Thúc phải qua thủ tục “thông báo” cho đúng lễ nghi :
Xin chàng liệu kíp lại nhà,
Trước người đẹp ý, sau ta biết tình.
Đêm ngày giữ mực giấu quanh,
Rày lần mai lữa như hình chưa thông!
Dù không muốn xa Kiều, nhưng thấy lời khuyên của nàng rất hợp lý, chàng Thúc “đành lòng Sinh mới quyết lòng hồi trang”. Rồi khi tiễn biệt, Kiều còn nhắc nhở :
Nàng rằng: Non nước xa khơi,
Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm.
Dễ lòa yếm thắm trôn kim,
Làm chi bưng mắt bắt chim khó lòng.
Đôi ta chút nghĩa đèo bòng,
Đến nhà trước hãy nói sòng cho minh.
Dù khi sóng gió bất tình,
Lớn ra uy lớn, tôi đành phận tôi.
Hơn điều giấu ngược giấu xuôi,
Lại mang những việc tày trời đến sau.
Nhưng khi về đến nhà, Thúc Sinh lại quên hết lời dặn dò của Kiều, chỉ vì Hoạn Thư chẳng đả động gì tới chuyện “vợ lẽ” :
Mấy phen cười nói tỉnh say,
Tóc tơ bất động mảy may sự tình.
Có lẽ nàng Hoạn muốn chồng phải lên tiếng trước. Nhưng Thúc lại không hiểu như vậy, nên :
Nghĩ đà bưng kín miệng bình,
Nào ai có khảo mà mình lại xưng?
Những là e ấp dùng dằng,
Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi.
Phải chăng vì chờ mãi không thấy chồng đề cập tới chuyện có vợ nhỏ ở Lâm Truy, Hoạn Thư đã khéo léo mở hé một cánh cửa cho chồng bước vào :
Rằng: Trong ngọc đá vàng thau,
Mười phần ta đã tin nhau cả mười.
Khen cho những miệng dông dài,
Bướm ong lại đạt những lời nọ kia.
Thiếp dù vụng, chẳng hay suy,
Đã dơ bụng nghĩ lại bia miệng cười.
Nếu nhân dịp này, Thúc mạnh dạn cho biết chàng mới có vợ nhỏ, chắc chắn Hoạn phải đành lòng chấp thuận. Nhưng, tiếc thay, Thúc lại ngu xuẩn nghĩ :
Thấy lời thủng thẳng như chơi,
Thuận lời chàng cũng nói xuôi đỡ đòn.
Thế rồi chàng ở nhà cả năm trời mà không nói được gì. Khi chàng nhấp nhỏm muốn ra đi, nhưng lại nhút nhát không dám ngỏ lời. Hoạn Thư biết ý, khôn khéo lên tiếng trước:
Tình riêng chưa dám rỉ răng,
Tiểu thư trước đã liệu chừng nhủ qua:
Cách năm, mây bạc xa xa,
Lâm Truy cũng phải tính mà thần hôn.
Bất ngờ được vợ cho phép, Thúc mừng quá, bèn :
Vó câu thẳng ruổi nước non quê người.
Thế là bao nhiêu lời dặn dò, cảnh cáo của Thúy Kiều thành vô ích hết. Cái mục đích về để “thông báo” không được thực hiện.
Vì không được chính thức thông báo, Hoạn Thư bây giờ có quyền thi hành kế hoạch riêng của mình với sự tính toán chu đáo.
Kế hoạch của Hoạn Thư là cho một đội “biệt kích” chớp nhoáng vượt biển sang Lâm Truy bắt cóc Thúy Kiều đem về Vô Tích để hành hạ anh chồng phản bội cho bõ ghét. Bọn Khuyển, Ưng, tay sai của họ Hoạn, đã thành công mỹ mãn trong vụ bắt cóc này. Chúng còn khôn khéo đánh tráo một cái xác vô thừa nhận ở bên sông để làm lạc hướng nhà họ Thúc. Chúng không đưa Thúy Kiều thẳng về nhà Hoạn Thư mà đưa về cho phu nhân, mẹ Hoạn Thư, đánh phủ đầu và dạy nghề làm tôi tớ. Khi Kiều đã trở thành một thị tì quen việc, Hoạn Thư mới đưa tình địch về nhà mình. Nhưng nàng ghen thì ít mà giận chồng thì nhiều nên đối với Kiều cũng không khắc nghiệt quá đáng. Một hôm, nàng hỏi đến tài đánh đàn của Kiều :
Phải đêm êm ả chiều trời,
Trúc tơ hỏi đến nghề chơi mọi ngày.
Lĩnh lời nàng mới lựa dây,
Nỉ non thánh thót dễ say lòng người !
Tiểu thư xem cũng thương tài,
Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân.
Như vậy, rõ ràng Hoạn Thư không giống những người đàn bà đánh ghen khác. Nàng đã có lòng khoan nhân với tình địch. Những người (cả đàn ông lẫn đàn bà) đang trong cơn ghen, thấy tình địch là muốn băm vằm, đâm chém cho hả cơn ghen. Thế mà Hoạn Thư lại “thương tài” tình địch và còn bớt nghiêm khắc đi vài phần. Như vậy không phải là cái ghen bình thường của những phụ nữ khác. Có thể nói nàng là một người đàn bà hiếm có trên cõi đời này.
Trong khi đó, Thúc Sinh đi đường bộ về đến Lâm truy thì Thúc ông đã lo xong việc tang lễ cho Kiều (thực ra là cái thây vô chủ) :
Lễ thường đã đủ một hai,
Lục trình chàng cũng đến nơi bấy giờ.
Bước vào chốn cũ lầu thơ,
Tro than một đống, nắng mưa bốn tường.
Sang nhà cha, đến trung đường,.
Linh sàng bài vị thờ nàng ở trên.
Thúc vật vã khóc than, rồi nhờ thầy phù thủy đánh đồng thiếp xuống âm phủ tìm Kiều. Thầy pháp xuất thần một lát rồi trở về cho biết Kiều còn sống và phải đợi một năm nữa hai người mới được gặp nhau, nhưng :
Hai bên giáp mặt chiền chiền,
Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn lạ thay.
Nửa tin nửa ngờ, chàng khắc khoải sống trong nỗi thương nhớ Kiều khoảng một năm trời thì nguôi ngoai. Nhớ nhà, chàng trở về Vô Tích với Hoạn Thư. Sau khi hai vợ chồng hàn huyên, Hoạn cho gọi Kiều ra. Lúc đó hai người mới “tá hỏa tam tinh” .
Nhà hương cao cuốn bức là,
Phòng trong truyền gọi nàng ra lạy mừng.
Bước ra một bước một dừng,
Trông xa nàng đã tỏ chừng nẻo xa.
Phải rằng nắng quáng đèn lòa,
Rõ ràng ngồi đó chẳng là Thúc sinh ?
Bây giờ tình mới tỏ tình,
Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai!
Còn Thúc thì hoảng sợ vô cùng :
Sinh đà phách lạc hồn xiêu,
Thương ôi! Chẳng phải nàng Kiều ở đây?
Nhân làm sao đến thế này?
Thôi thôi, ta đã mắc tay ai rồi!
Cả hai đều không dám trái lời Hoạn Thư, nên kẻ thì :
Sợ uy dám chẳng vâng lời,
Cúi đầu nép xuống sân mai một chiều.
người thì :
Sợ quen dám hở ra lời,
Khôn ngăn giọt ngọc sụt sùi nhỏ sa.
Bây giờ đến màn đánh ghen của Hoạn Thư. Nàng sai bày tiệc rượu, gọi là tiệc “tẩy trần” và bắt Kiều hầu rượu :
Vợ chồng chén tạc chén thù,
Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi.
Bắt khoan bắt nhặt đến lời,
Bắt quì tận mặt, bắt mời tận tay.
Thương người yêu bị hành hạ, Thúc cáo say, từ chối. Hoạn Thư dọa đánh Kiều, chàng đành “chén mời phải ngậm bồ hòn ráo ngay.” Sau đó, Hoạn Thư còn bắt Kiều đàn cho Thúc nghe :
Bốn dây như khóc như than,
Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng.
Cùng trong một tiếng tơ đồng,
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm.
Giọt châu lã chã khôn cầm,
Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt sương.
Nhưng khi Kiều bị Hoạn Thư thét mắng về tội làm Thúc buồn, Thúc lại phải
Vội vàng gượng nói gượng cười cho qua.
Màn đánh ghen của Hoạn Thư đến đây là hết :
Giọt rồng canh đã điểm ba,
Tiểu thư nhìn mặt dường đà cam tâm.
Lòng riêng khấp khởi mừng thầm,
Vui này đã bõ đau ngầm xưa nay.
Như vậy cuộc đánh ghen quá nhẹ so với bất cứ cuộc đánh ghen nào khác trên cõi đời này. Sau trận đánh ghen nhân từ, rất trí tuệ và độc đáo của Hoạn Thư, Kiều tiếp tục làm bổn phận của một thị tì, nhưng lúc nào cũng tỏ vẻ buồn rầu. Hoạn Thư động lòng mới hỏi nguyên do. Kiều thưa:
Lựa lời nàng mới thưa qua,
Phải khi mình lại xót xa nỗi mình.
Hoạn Thư bèn nhờ chồng hỏi lại cho rõ chuyện. Kiều dâng lên một lá đơn :
Cúi đầu quì trước sân hoa,
Thân cung nàng mới dâng qua một tờ.
Diện tiền trình với tiểu thư,
Thoắt xem dường có ngẩn ngơ chút tình.
Liền tay trao lại Thúc sinh,
Rằng: Tài nên trọng mà tình nên thương!
Ví chăng có số giầu sang,
Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên !
Bể trần chìm nổi thuyền quyên,
Hữu tài thương nỗi vô duyên lạ đời.
Sau đó, Hoạn chiều theo ý Kiều mà cho nàng được đi tu :
Tiểu thư rằng: Ý trong tờ,
Rắp đem mệnh bạc xin nhờ cửa không.
Thôi thì thôi cũng chiều lòng,
Cũng cho khỏi lụy trong vòng bước ra.
Điều này chứng tỏ Hoạn Thư rất rộng lượng với Kiều. Ngoài ra, Hoạn Thư làm như vậy cũng là để giữ thể diện cho bản thân và cho gia đình vì Kiều không phải là một loại con hầu thông thường. Vì hoàn cảnh éo le, nàng đã trở thành một loại nô lệ cho nhà họ Hoạn. Ngay lúc đầu, Hoạn bà đã nói rõ :
Đã đem mình bán cửa tao,
Lại còn khủng khỉnh làm cao thế này!
Rồi chính Hoạn Thư cũng xác nhận như vậy :
Rằng: Hoa nô đủ mọi tài…
Bây giờ Hoạn cho Kiều đi tu, tình trạng nô lệ vẫn còn nhưng được nhẹ bớt đi rất nhiều. Vì thế, nhân lúc vợ vắng nhà, Thúc sinh lẻn ra “Quan Âm các” thăm Kiều, nàng đã cầu khẩn xin Thúc:
Liệu bài mở cửa cho ra,
Ấy là tình nặng, ấy là ân sâu.
Trong khi hai người đang kể lể, than khóc thì Hoạn Thư trở về. Nhưng nàng không xuất hiện ngay :
Hoa rằng: Bà đến đã lâu,
Dón chân đứng núp độ đâu nửa giờ.
Rành rành kẽ tóc chân tơ,
Mấy lời nghe hết đã dư tỏ tường.
Bao nhiêu đoạn khổ tình thương,
Nỗi ông vật vã, nỗi nàng thở than.
Ngăn tôi đứng lại một bên,
Chán tai rồi mới bước lên trên lầu.
Vụ “nghe lén” này đã làm Hoạn Thư an tâm, không còn sợ mất chồng nữa, vì Thúc đã dứt khoát cho Kiều biết dù còn thương nàng, chàng cũng không thể “lên thác xuống ghềnh” với nàng được :
Đã cam tệ bạc với tình,
Chúa xuân để tội một mình cho hoa.
Thấp cơ thua trí đàn bà,
Trông vào đau ruột, nói ra ngại lời.
Vì ta cho lụy đến người,
Cát lầm ngọc trắng, thiệt đời xuân xanh.
Quản chi lên thác xuống ghềnh,
Cũng toan sống thác với tình cho xong.
Tông đường chút chửa cam lòng,
Cắn răng bẻ một chữ đồng làm hai.
Thẹn mình đá nát vàng phai,
Trăm thân dễ chuộc một lời được sao?
và chàng còn khuyên Kiều trốn đi :
Liệu mà xa chạy cao bay,
Ái ân ta có ngần này mà thôi.
Bây giờ kẻ ngược người xuôi,
Biết bao giờ lại nối lời nước non?
Hoạn Thư thấy cuộc đánh ghen của mình đã đạt kết quả tốt đẹp, nên khi xem Kiều viết Kinh thì tỏ ra vui vẻ :
Khen rằng: Bút pháp đã tinh,
So vào với thiếp Lan đình nào thua !
Tiếc thay lưu lạc giang hồ,
Nghìn vàng thực cũng nên mua lấy tài.
Phải nói rằng chưa có một người đàn bà nào lại khen ngợi tình địch đến như vậy. Vì thế, khi Kiều báo ân, trả oán, không thể trừng phạt nổi Hoạn Thư mà phải tha kẻ thù của mình. Trong cuộc báo ân, trả oán của Kiều, Hoạn Thư là tội phạm đứng đầu sổ :
Dưới cờ gươm tuốt nắp ra,
Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư.
Ai cũng tưởng Hoạn nương sẽ phải lãnh một hình phạt rất nặng nề, không bị băm vằm thì cũng bị đánh nhừ xương. Nhưng, sau khi nghe Hoạn trình bày, Kiều phải tha cho nàng :
Rằng: Tôi chút dạ đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.
Nghĩ cho khi các viết kinh,
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
Lòng riêng, riêng cũng kính yêu,
Chồng chung chưa dễ ai chiều được ai.
Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng?
Trước những lý lẽ vững chắc đó, Kiều đành nói :
Tha ra thì cũng may đời,
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen
Đã long tri quá thì nên,
Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay.
Hai chữ “nhỏ nhen” chứng tỏ rằng Thúy Kiều cũng biết Hoạn Thư đã dễ dãi và rất rộng lương với mình, nên không có lý do gì mà hành hạ kẻ thù. Hay nói một cách khác Kiều hiểu Hoạn Thư không thực sự đánh ghen mà chỉ muốn “dằn mặt” Thúc Sinh vì cái tội có vợ nhỏ mà không “thông báo” cho đúng phép tắc. Hoạn đã nói rõ điều đó khi về bàn tính với mẹ :
Thưa nhà huyên hết mọi tình,
Nỗi chàng ở bạc, nỗi mình chịu đen.
Nghĩ rằng: ngứa ghẻ hờn ghen,
Xấu chàng mà có ai khen chi mình.
Đến đây chúng ta có thể nói rằng nếu Hoạn Thư đánh ghen (như người ta vẫn gán cho nàng) thì cuộc đánh ghen đã rất nhân từ, độ lượng, không giống những vụ đánh ghen độc ác, tàn nhẫn khác. Riêng chúng tôi nghĩ rằng Hoạn Thư muốn hành hạ Thúc Sinh, nhưng luân lý ngày xưa không cho phép vợ được hỗn láo, lăng loàn với chồng. Hoạn phải chọn Kiều để hành hạ vì biết rằng Thúc sẽ đau khổ hơn chính chàng bị hành hạ. Và Hoạn Thư đã đạt mục đích: Thúc không những đau khổ vô cùng mà còn đành phải “cắn răng bẻ một chữ đồng làm hai”. Hoạn Thư còn mong gì hơn nữa khi đã dành được chồng khỏi tay tình địch. Nàng đã mãn nguyện nên khi Kiều lấy trộm chuông vàng khánh bạc lẻn trốn đi, không sai người đuổi bắt lại.
Tạ Quang Khôi
4/2001
Theo truyenkimvankieu.blogspot.com
Hãy đăng nhập để bình luận
Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .