Top 6 Bài soạn "Vĩnh biệt cửu trùng đài" (Ngữ văn 11 - SGK Chân trời sáng tạo) hay nhất

618

Mời các bạn tham khảo một số bài soạn "Vĩnh biệt cửu trùng đài" (Ngữ văn 11 - SGK Chân trời sáng tạo) hay nhất mà Alltop.vn đã tổng hợp trong bài viết dưới đây....xem thêm ...

Top 0
(có 0 lượt vote)

Bài soạn "Vĩnh biệt cửu trùng đài" (Ngữ văn 11 - SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 1

* Chuẩn bị đọc

Câu hỏi (trang 112 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Đã bao giờ bạn tự hỏi: “Tôi là ai? Ước mơ lớn nhất của tôi là gì? Tôi có thể làm gì để đạt được ước mơ ấy?” Hãy chia sẻ với các bạn những suy nghĩ đó của mình.

Trả lời:

- Tôi đã từng tự hỏi: Tôi là ai? Ước mơ lớn nhất của tôi là gì? Tôi có thể làm gì để đạt được ước mơ ấy?”

- Khi bắt đầu lên cấp 3, tôi đã bắt đầu suy nghĩ về ước mơ của mình, tôi nghĩ về bản thân của sau này, bản thân sẽ làm gì, sẽ trở thành một người như thế nào? Tôi bắt đầu tìm kiếm những môn học mà mình yêu thích, rèn luyện những kĩ năng mà bản thân nổi bật. Song song với nó tôi tìm hiểu những điều cơ bản về công việc bản thân thấy phù hợp.


* Trải nghiệm cùng văn bản

Theo dõi: Lời thoại của Vũ Như Tô và Đan Thiềm cho thấy họ có quan điểm như thế nào về hành động và cảm xúc của quần chúng nhân dân?

- Lời thoại của Vũ Như Tô và Đan Thiềm cho thấy họ có quan điểm về hành động và cảm xúc của quần chúng nhân dân là: họ cảm thấy ngạc nhiên, khó hiểu và ấm ức với hành động và cảm xúc của quần chúng nhân dân.  

Suy luận: Vì sao Đan Thiềm luôn tỏ ra lo lắng còn Vũ Như Tô lại không?

- Vì Đan Thiềm thấy được sự phẫn nộ và sự oán giận của nhân dân, hiểu được tình thế hiện tại, còn Vũ Như Tô lại nghĩ rằng mình vô tội, bản thân làm điều quang minh chính đại và làm vì lợi ích chung.

Dự đoán: Từ lời của Nguyễn Vũ, bạn dự đoán điều gì sẽ xảy ra với các nhân vật trong đoạn trích? 

- Từ lời của Nguyễn Vũ, em dự đoán các nhân vật trong đoạn trích:

+ Hoàng Thượng là người nóng nẩy, trước việc bất bình đã tát Duy Sản giữa chợ, dẫn đến sự tình loạn lạc.

+ Duy Sản là kẻ tiểu nhân, sĩ diện nên khi bị Hoàng Thượng tát đã thẹn quá hóa giận và sinh thù.

Theo dõi: Chú ý giọng điệu các lời thoại của Đan Thiềm trong đoạn này.  

- Trong đoạn này giọng của Đan Thiềm mạnh mẽ, dứt khoát khi bị vu oan, nhưng cũng cầu khẩn, vội vã và sợ hãi khi xin tha chết cho Vũ Như Tô.

Suy luận: So sánh biểu cảm của Vũ Như Tô và quân sĩ trước sự sụp đổ của Cửu Trùng Đài. 

- Vũ Như Tô: cảm thấy buồn bã, tuyệt vọng trước sự sụp đổ của Cửu Trùng Đài.

- Quân sĩ thì vui vẻ, hò reo “Cửu Trùng Đài đã cháy”.


* Suy ngẫm và phản hồi

Nội dung chính: 

      Văn bản đề cập đến những xung đột, tích cách, diễn biến tâm trạng và bị kịch của Vũ Như Tô cùng Đan Thiềm trong đoạn trích. Đồng thời thông qua văn bản tác giả muốn thể hiện mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc sống, giữa lí tưởng nghệ thuật thuần túy cao siêu muôn đời với lợi ích thiết thân và trực tiếp của nhân dân.


Câu 1 (trang 119 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Tóm tắt diễn biến sự kiện và hành động của các nhân vật từ Lớp I đến Lớp IX.

Trả lời:

Tham khảo:

    Nhân vật chính của vở kịch là Vũ Như Tô, là một nhà kiến trúc tài giỏi, một nghệ sĩ có chí lớn, tính tình cương trực, trọng nghĩa kinh tài. Lê Tương Dực, một hôn quân bạo chúa, sai Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng đài để làm nơi ăn chơi với đám cung nữ. Vũ đã từ chối dù bị đe doạ kết tội tử hình. Song Đan Thiềm, một cung nữ tài sắc nhưng đã bị ruồng bỏ, đã khuyên Vũ nên nhận lời xây dựng Cửu Tràng đài vì đây là cơ hội để Vũ đem tài ra phục vụ đất nước, “Ông cứ xây lấy một toà đài cao cả. Vua Hồng Thuận và lũ cung nữ kia rồi mất đi, nhưng sự nghiệp của ông còn lại về muôn đời. Dân ta nghìn thu được hãnh diện…”. Vũ đã nhận lời và dồn hết sức xây Cửu Trùng đài. Nhưng Cửu Trùng đài đã làm cho dân chúng thêm cực khổ. Họ đã nổi dậy. Vũ Như Tô bị giết, Cửu trùng đài bị thiêu trụi.


Câu 2 (trang 119 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Qua hệ thống nhân vật ở các lớp kịch, hãy xác định những xung đột cơ bản của văn bản Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài.

Trả lời:

Những xung đột cơ bản của văn bản Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài là:

- Mâu thuẫn: giữa phe nổi loạn với phe Lê Tương Dực:

+ Phe nổi loạn: dân chúng, thợ xây Cửu Trùng Đài

+ Phe đối lập trong triều đứng đầu là Trịnh Duy Sản

= > Đây chính là mâu thuẫn giữa quan niệm nghệ thuật cao siêu, thuần túy muôn đời và lợi ích trực tiếp, thiết thực của nhân dân.


Câu 3 (trang 119 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Bạn hình dung thế nào về công trình “Cửu Trùng Đài” mà Vũ Như Tô đang xây dựng dở dang? Việc xây dựng công trình ấy có phải là nguyên nhân chính gây nên bạo loạn và kết cuộc bi thảm ở cuối Hồi V hay không? Vì sao?

Trả lời:

- Cửu Trùng Đài là một tòa đài hùng vĩ, tráng lệ, mang tầm vóc to lớn, vĩ đại.

- Việc xây dựng công trình này là nguyên nhân chính gây nên bạo loạn và kết cục bi thảm ở cuối Hồi V vì: nó khiến nhân dân lao động cực nhọc, vất vả nên đứng dậy nổi loạn; đồng thời khiến Vũ Như Tô, Đàn Thiếm, Hoàng thượng bị giết chết.


Câu 4 (trang 119 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Nhận xét về ngôn ngữ đối thoại, độc thoại của hai nhân vật Vũ Như Tô và Đan Thiềm qua các lớp kịch.

Trả lời:

- Ngôn ngữ độc thoại:

+ Ngôn ngữ độc thoại của hai người chỉ âm thầm diễn ra trong suy nghĩ và tình cảm của Vũ Như Tô và Đan Thiềm.

+ Nó diễn tả tâm trạng lo lắng, sợ hãi của Đan Thiềm khi thấy dân gian đói kém, nổi loạn và khi Vũ Như Tô không chịu chạy trốn.

+ Ngược lại nó lại diễn tả tâm trạng ngạc nhiên, đau đớn của Vũ Như Tô khi thấy dân gian bạo loạn, tìm hắn để giết và hơn hết là Cửu Trùng Đài bị phá hủy.

+ …

- Ngôn ngữ đối thoại:

+ Có sự chủ động và sự thụ động được chuyển đổi luân phiên từ Vũ Như Tô với Đan Thiềm và ngược lại.

+ Mỗi phát ngôn đối thoại đều được kích thích bởi hoàn cảnh và phản xạ của Vũ Như Tô và Đan Thiềm. 

+ Ngôn ngữ đối thoại tự nhiên, rõ ràng.

+ …


Câu 5 (trang 119 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Chỉ ra điểm tương đồng, khác biệt trong tính cách của hai nhân vật Đan Thiềm, Vũ Như Tô trước tình huống bạo loạn nguy hiểm đối với sinh mệnh của Cửu Trùng Đài và đối với bản thân họ. Cho biết Vũ Như Tô mang những đặc điểm nào của nhân vật chính của bi kịch.

Trả lời:

* Điểm tương đồng và khác biệt trong tính cách của hai nhân vật Đan Thiềm và Vũ Như Tô trước tình huống bạo loạn nguy hiểm đối với sinh mệnh của Cửu Trùng Đài và đối với bản thân là:

- Điểm tương đồng: Cả hai đều bất ngờ, ngạc nhiên và băn khoăn lý do vì sao việc xây Cửu Trùng Đài của Vũ Như Tô lại là việc làm sai khiến dân chúng căm hận, nảy sinh mâu thuẫn, sinh ra nổi loạn, đứng lên đuổi đánh Vũ Như Tô.

- Điểm khác biệt:

+ Đan Thiềm: vội vàng, khẩn trương giục Vũ Như Tô bỏ chạy vì nàng lo lắng cho tính mạng của người tài.

+ Vũ Như Tô: bình tĩnh, khẳng định bản thân mình quang minh chính đại, không làm gì sai để phải bỏ chạy.

* Vũ Như Tô mang đặc điểm của nhân vật chính là:

- Có khát vọng vươn lên, yêu cái đẹp, muốn xây dựng Cửu Trùng Đài để làm nên một vẻ đẹp cao quý cho dân tộc.

- Có quyết định sai lầm khi đồng ý xây dựng Cửu Trùng Đài khiến nhân dân rơi vào cực khổ, lầm than.

-  Sai lầm của Vũ Như Tô phải trả giá đắt bằng chính sự sống của bản thân.


Câu 6 (trang 119 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Thể loại bi kịch thường kết thúc với cái chết hoặc sự mất mát khủng khiếp của nhân vật. Từ đoạn kết của bi kịch Vũ Như Tô, hãy chỉ ra những mất mát mà nhân vật chính phải gánh chịu.

Trả lời:

Từ đoạn kết chúng ta thấy những mất mát mà nhân vật chính phải gánh chịu là:

- Kiệt tác, niềm khao khát và sự tự hào của Vũ Như Tô khi xây dựng Cửu Trùng Đài bị phá vỡ.

- Người bạn luôn ủng hộ, nhận định về tài năng, hiểu được về cái đẹp là Đan Thiềm cũng bị giết.

- Đau thương hơn cả là tính mạng của chính bản thân Vũ Như Tô cũng không giữ nổi.

- …


Câu 7 (trang 119 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Theo bạn, bi kịch Vũ Như Tô là tác phẩm có một chủ đề hay nhiều chủ đề? Điều đó đã được thể hiện trong Hồi V (Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài) như thế nào?

Trả lời:

- Theo em, bi kịch Vũ Như Tô là tác phẩm có nhiều chủ đề.  

- Điều này được thể hiện trong Hồi V, có thể thấy, lẽ phải thuộc về Vũ Như Tô hay những kẻ giết Vũ Như Tô vẫn không được tác giả làm rõ thỏa đáng. 

→ Từ đó, thể hiện chân lý không hoàn toàn thuộc về phía nào: việc mất Cửu Trùng Đài vừa nên mừng vừa nên tiếc


Câu 8 (trang 119 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Qua văn bản trên, tác giả muốn thể hiện tư tưởng và thông điệp gì? Tư tưởng và thông điệp đó có còn ý nghĩa đối với đời sống đương đại không?

Trả lời:

- Thông qua tấn bi kịch của Vũ Như Tô, tác giả đặt ra những vấn đề sâu sắc, có ý nghĩa muôn thuở về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc sống, giữa người nghệ sĩ với nhân dân: đồng thời bày tỏ niềm cảm thông, trân trọng của tác giả đối với người nghệ sĩ tài năng, giàu khát vọng nhưng phải chịu số phận bi thương. 

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 1
(có 0 lượt vote)

Bài soạn "Vĩnh biệt cửu trùng đài" (Ngữ văn 11 - SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 2

I. Tác giả văn bản Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài

- Nguyễn Huy Tưởng (1912 – 1960), ông sinh ra trong một gia đình nhà nho có tinh thần yêu nước ở làng Dục Tú, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay là xã Dục Tú, huyện đông Anh, Hà Nội).

- Bao trùm lên sáng tác của nhà văn là nguồn cảm hứng lớn về lịch sử. Viết văn để tỏ lòng yêu nước, đó là triết lí sống và là quan điểm sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng: “Phận sự một người tầm thường như tôi muốn tỏ lòng yêu nước thì chỉ có việc viết văn quốc ngữ thôi.”

- Trong văn của ông luôn đầy chất thơ của cuộc sống và chất chứa những bài ca hy vọng, những bài học về tình thương yêu những người thân, xóm giềng, cộng đồng và đồng loại. Có thiên hướng khai hác các đề tài lịch sử.  Đóng góp lớn nhất ở hai thể loại: tiểu thuyết, kịch. Văn phong giản dị, trong sáng, đôn hậu, thâm trầm, sâu sắc.  

- Tác phẩm chính: Vũ Như Tô (kịch, 1941), Bắc Sơn (kịch, 1946), Những người ở lại (kịch, 1948), Đêm hội Long Trì (tiểu thuyết, 1942), An Tư (tiểu thuyết, 1945), Sống mãi với thủ đô (tiểu thuyết, 1961), Kí sự Cao Lạng (kí, 1951)...


II. Tìm hiểu tác phẩm Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài

Thể loại: Bi kịch   

Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác

- Vở kịch Vũ Như Tô gồm 5 hồi viết về một sự kiện xảy ra ở Thăng Long khoảng năm 1516 – 1517.

- Tác phẩm được viết xong vào mùa hè năm 1941, tựa đề vào tháng 6 năm 1942.

Đoạn trích: thuộc hồi thứ V (Một cung cấm) của vở kịch.

Phương thức biểu đạt

Văn bản Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài có phương thức biểu đạt là tự sự & biểu cảm 

Bố cục bài Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài

Gồm: 2 phần

+ Phần 1 (từ lớp I đến lớp VI): Cuộc trò chuyện giữa Vũ Như Tô với Đan Thiềm, cung nữ và nội giám, Vũ Như Tô bàng hoàng nhận ra bi kịch đang cận kề.

+ Phần 2 (từ lớp VII đến lớp IX): Quân phản loạn đốt Cửu Trùng Đài và kết án Vũ Như Tô.

Tóm tắt bài Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài

- Nhân vật chính của vở kịch là Vũ Như Tô, là một nhà kiến trúc tài giỏi, một nghệ sĩ có chí lớn, tính tình cương trực, trọng nghĩa khinh tài. Lê Tương Dực, một hôn quân bạo chúa, sai Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài để làm nơi ăn chơi với đám cung nữ. Vũ đã từ chối dù bị đe dọa kết tội tử hình. Song Đan Thiềm, một cung nữ tài sắc nhưng đã bị ruồng bỏ, đã khuyên Vũ nên nhận lời xây dựng Cửu Trùng Đài vì đây là cơ hội để Vũ đem tài ra phục vụ đất nước. Vũ đã nhận lời và dồn hết sức xây Cửu Trùng Đài. Nhưng Cửu Trùng Đài đã làm cho dân chúng thêm cực khổ. Họ đã nổi dậy. Vũ Như Tô bị giết, Cửu trùng Đài bị thiêu trụi.

Giá trị nội dung

-  Qua tấn bi kịch của Vũ Như Tô, tác giả đã đặt ra vấn đề sâu sắc, có ý nghĩa muôn thủa về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc sống, giữa lí tưởng nghệ thuật thuần túy cao siêu muôn đời với lợi ích thiết thân và trực tiếp của nhân dân.

Giá trị nghệ thuật 

-  Mâu thuẫn kịch tập trung dẫn đến cao trào, phát triển thành đỉnh điểm với những hành động kịch dồn dập đầy kịch tính.

- Ngôn ngữ kịch điêu luyện, có tính tổng hợp cao.

- Xây dựng nhân vật kịch đặc sắc, khắc họa rõ tính cách, miêu tả đúng tâm trạng qua ngôn ngữ và hành động.

- Lớp kịch trong hồi V được chuyển một cách linh hoạt, tự nhiên, logic, liền mạch tạo nên sự hấp dẫn và lôi cuốn người đọc.


III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài

Những mâu thuẫn xung đột cơ bản của vỡ kịch

Mâu thuẫn thứ nhất: mâu thuẫn giữa nhân dân lao động khốn khổ làm than và bọn hôn quân bạo chúa cùng các phe cánh của chúng.

Nguồn gốc: có từ hồi trước do chúa Lê Tương Dực nghe lời bọn tham quan gian thần xây Cữu Trùng Đài để phục vụ việc ăn chơi hưởng thụ, nhà vua đã đánh sưu cao thuế nặng bóc lột dân chúng, ra sức bắt thuế, tróc thợ từ dân lành, làm cho nhân dân vất vả, đói khát, chết vì bệnh dịch, tai nạn → Tương Dực không phải là một ông vua yêu nước, thương dân. Điều này tất yếu dẫn đến “loạn” và “biến”.

Hồi V: mâu thuẫn trở thành cao trào và được giải quyết.

+ Bạo chúa Lê Tương Dực bị Trịnh Sản giết.

+ Đại thần Nguyễn Vũ tự sát.

+ Thứ phi Kim Phượng và bọn cung nữ điều bị giết.

+ Cữu Trùng Đài bị thiêu hủy tan tành.

+ Giang sơn rơi vào tay bọn phản loạn

+ Mâu thuẫn được giải quyết dức khoát theo quan điểm của nhân dân.

Mâu thuẫn thứ hai: giữa quan niệm nghệ thuật cao siêu, thuần túy cảu muôn đời và lợi ích trực tiếp, thiết thực của nhân dân.

Vũ Như Tô là một kiến trúc sư thiên tài, đày hoài bảo và tâm huyết, khát khao được thể hiện tài năng tô điểm cho đời → Vũ Như Tô mượn uy quyền và tiền bạc cảu Lê Tương Dực để thực hiện hoài bão đó, vô tình gây nỗi khốn khổ cho dân.

Khát vọng quá lớn đưa Vũ Như Tô đắm chìm trong ảo mộng: xây dựng cho đất nước một công trình nguy nga vĩ đại mà không nhìn thấy cần phải chăm lo cho đời sống thiết thực của nhân dân → mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm vì lý tưởng nghệ thuật của Vũ Như Tô không xuất phát từ lợi ích thiết thực của nhân dân.

Vũ Như Tô rơi vào bi kịch: trở thành kẻ thù của nhân dân dù đang muốn cống hiến tài năng để đem lại niềm tự hào cho nhân dân. Nhưng Vũ Như Tô vẫn không nhận ra sai lầm của mình, vẫn đinh ninh là mình vô tội → Cữu Trùng Đìa bị đốt, Vũ Như Tô bị giết.


Nhân vật Vũ Như Tô và Đan Thiềm

Nhân vật Vũ Như Tô:

Là một kiến trúc sư tài ba “ngàn năm chưa dễ có một”, say mê sáng tạo cái đẹp. Vũ Như Tô có nhân cách cao cả, hoài bão lớn lao, nghệ sĩ chân chính, gắn bó với nhân dân, không khuất phục trước uy quyền, kiên quyết không chịu nhận xây Cữu Trùng Đài cho vua Lê Tương Dực. Đan Thiềm thuyết phục ông nhận lời xây một tòa lâu đài nguy nga tráng lệ, bền vững muôn đời để nhân dân ta nghìn thu hãnh diện.

Lí tưởng chân chính, cao đẹp nhưng cao siêu xa rời đời sống của nhân dân lao động. Ông không nhận ra một thực tế: Cữu Trùng Đài xây bằng mồ hôi, nước mắt, xương máu cảu nhân dân. Ông nhất mực cho rằng mình không có tội mà chỉ có công, luôn tin vào việc làm chính đại quang minh của mình.

Sự thật phơi bày: Vũ Như Tô và Đan Thiềm bị bắt, Cữu Trùng Đài bị đập phá thiêu hủy, ông bừng tỉnh kêu lên: “ôi mộng lớn! Ôi Đan Thềm! Ôi Cữu Trùng Đài” → vỡ mộng, đau đớn, não nùng. Tiếng kêu dồn dập vang lên, nỗi đau mất mát hòa nhập vào nhau tạo thành nỗi đau bi tráng.

Khát vọng, đam mê sáng tạo nghệ thuật của ông xuất phát từ thiên chức của nghệ sĩ chân chính, nhưng chưa đúng vì đặt nhầm chỗ, vì xa rời thực tiễn, vì lợi dụng giai cấp cầm quyền tàn bạo để thực hiện mục đích chân chính của mình → ông thất bại phải trả giá bằng chính sinh mạng của mình.

=> Qua nhân vật này, nhà văn đã đặt vấn đề về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống; giữa khát vọng nghệ thuật muôn đời với lợi ích của nhân dân.


Nhân vật Đan Thiềm:

Là người đam mê cái tài hoa siêu việt của người sáng tạo ra cái đẹp. Đam Thiềm luôn khích lệ Vũ Như Tô xây dựng Cữu Trùng Đài như một công trình nghệ thuật đồ sộ để lại cho đất nước.

Là người luôn tinh táo, sáng suốt, thức thời, biết thích ứng với hoàn cảnh. Đan Thiềm biết chắc Cữu Trùng Đài không thành, tìm cách bảo vệ an dương vương toàn tính mạng cho Vũ Như Tô, khuyên Vũ Như Tô bỏ trốn. Đan Thềm đau đớn buông lời vĩnh biệt: “ông cả! đài lớn tan tành! Ông Cả ơi! Xin cùng ông vĩnh biệt”. Bi kịch của Đan Thiềm là nỗi đau không cứu được người tài, không bảo vệ được cái đẹp.

Ở hồi cuối: Cả Vũ Như Tô và Đan Thiềm đều lâm vào trạng thái khủng hoàng với nỗi đau: sự vỡ mộng thê thảm. Vở kịch kết thúc bằng tiếng kêu bi thiết, não nùng, đau đớn, khắc khoải của Vũ Như Tô gợi sự xúc động cho người đọc.

Bệnh Đan Thềm: bệnh mê đắm cái đẹp, cái tài. Có tấm lòng biệt nhỡn liên tài → thuyết phục Vũ Như Tô mượn tay Lê Tương Dực để xây Cữu Trùng Đài => sống chết hết mình cái tài cái đẹp.

Bi kịch của Vũ Như Tô thức tỉnh ý thức của chúng ta về vấn đề muôn thuở: mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống – nghệ thuật phải vị nhân sinh thì nghệ thuật mới tồn tại và được nhân dân tôn thờ, nâng niu, bảo vệ.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 2
(có 0 lượt vote)

Bài soạn "Vĩnh biệt cửu trùng đài" (Ngữ văn 11 - SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 3

Trước khi đọc

Đã bao giờ bạn tự hỏi: “Tôi là ai? Ước mơ lớn nhất của tôi là gì? Tôi có thể làm gì để đạt được ước mơ ấy?”. Hãy chia sẻ với các bạn những suy nghĩ đó của mình.

Gợi ý:

Học sinh tự chia sẻ suy nghĩ của bản thân: Đã/Chưa từng tự đặt ra câu hỏi như vậy.


Đọc văn bản

Câu 1. Lời thoại của Vũ Như Tô và Đan Thiềm cho thấy họ có quan điểm như thế nào về hành động và cảm xúc của quần chúng nhân dân.

Đan Thiềm: tỉnh táo, khuyên Vũ Như Tô đi trốn

Vũ Như Tô: tin rằng bản thân không có tội

Câu 2. Vì sao Đan Thiềm luôn tỏ ra lo lắng còn Vũ Như Tô lại không?

Đan Thiềm hiểu được hoàn cảnh của Vũ Như Tô. Còn Vũ Như Tô không nghĩ mình có tội.

Câu 3. Từ lời của Nguyễn Vũ, bạn dự đoán điều gì sẽ xảy ra với các nhân vật trong đoạn trích?

Dự đoán: Vũ Như Tô sẽ bị làm hại.

Câu 4. So sánh biểu cảm của Vũ Như Tô và quân sĩ trước sự sụp đổ của Cửu Trùng Đài.

  • Vũ Như Tôi: đau đớn, xót xa
  • Quân sĩ: sung sướng, vui vẻ

Sau khi đọc

Câu 1. Tóm tắt diễn biến sự kiện và hành động của các nhân vật từ Lớp I đến Lớp IX.

Cửu Trùng Đài càng xây cao, càng tốn kém thêm tiền của và nhiều tai nạn. Mâu thuẫn giữa thợ xây đài và nhân dân, với hôn quân Lê Tương Dực và Vũ Như Tô ngày càng sâu sắc. Lợi dụng tình hình đó, phe phản dịch trong triều đình do Trịnh Duy Sản cầm đầu dấy binh làm loạn. Biết có biến, Đan Thiềm tìm gặp Vũ Như Tô, nhiều lần khuyên ông chạy trốn nhưng Vũ Như Tô không nghe. Sau khi giết vua, phe phản loạn lập triều đình mới, thợ xây đài và đám đông dân chúng hùa theo phe phản loạn, chống lại Vũ Như Tô. Những ai thân cận với Lê Tương Dực đều bị truy đuổi, chém giết. Đan Thiềm hiểu rằng Vũ Như Tô đã hết cơ hội bỏ trốn. Đan Thiềm bị giải đi, từ biệt Vũ Như Tô trong đau đớn, tuyệt vọng. Còn Vũ Như Tô một mực không tin mình có tội, vẫn nuôi hi vọng rằng: An Hoài Hầu - một trong những kẻ cầm đầu phe phản loạn sẽ giúp ông xây dựng Cửu Trùng Đài xong. Nhưng sau đó, Cửu Trùng Đài bị chính An Hoài Hầu đốt thành tro bụi. Vũ Như Tô hiểu ra mọi chuyện, chấp nhận bị giải ra pháp trường, đón nhận cái chết.


Câu 2. Qua hệ thống nhân vật ở các lớp kịch, hãy xác định những xung đột cơ bản của văn bản Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài.

  • Triều đình Lê Tương Dực và phe phản loạn
  • Nhân dân và hôn quân bạo chúa, giữa dân chúng, thợ xây và Vũ Như Tô
  • Thực tế đời sống và sáng tạo nghệ thuật
  • Quan niệm và cách ứng xử của Đan Thiềm và Vũ Như Tô

Câu 3. Bạn hình dung thế nào về công trình “Cửu Trùng Đài” mà Vũ Như Tô đang xây dựng dở dang? Việc xây dựng công trình ấy có phải là nguyên nhân chính gây nên bạo loạn và kết cuộc bi thảm ở cuối Hồi V hay không? Vì sao?

Mọi mâu thuẫn trong vở kịch đều xoay quanh công trình kiến trúc vĩ đại này.

là một công trình kiến trúc mà tầm vóc không chỉ tính đếm bằng lượng gỗ cây đại khối, cho dù là những con số nghe qua cũng đủ kinh hoàng:  200 vạn cây gỗ chất đống cao như núi, 20 vạn phiến đá lớn, 40 vạn phiến đá nhỏ đều từ Chân Lạp tải ra. Đặc biệt công trình này lúc nào cũng cần tới 15 vạn thợ - con số kinh hoàng ngang tầm với một cuộc chiến tranh.

Tầm vóc của nó phải hình dung bằng tầm vóc ý tưởng, khát vọng ngạo nghễ của người tạo ra nó: một công trình độc nhất vô nhị vượt qua được tất cả các kì quan của Ấn Độ, Trung Quốc, Chiêm Thành… mà người đời thường truyền tụng. Một kì quan bền vững, bất diệt. Đặc biệt, tác giả của nó không thèm tranh tinh xảo với người mà “tranh tinh xảo với hóa công”.

Đó là hiện thân của cái ĐẸP, không phải cái ĐẸP thông thường mà là cái ĐẸP siêu đẳng. Nó còn là hiện thân cho cái đẹp của sự xa hoa, lãng phí.

Ý nghĩa biểu tượng thâm trầm của Cửu Trùng Đài được cắt nghĩa từ nhiều mối quan hệ.

  • Với Vũ Như Tô, Cửu Trùng Đài hiện thân cho mộng lớn.
  • Với Đan Thiềm, Cửu Trùng Đài hiện thân cho niềm kiêu hãnh nước nhà.
  • Với Lê Tương Dực, Cửu Trùng Đài là quyền lực và ăn chơi.
  • Với dân chúng, Cửu Trùng Đài là món nợ mồ hôi, xương máu, nước mắt.

Cuối vở kịch, Cửu Trùng Đài bị đốt, Vũ Như Tô và Đan Thiềm tột cùng đau đớn vĩnh biệt Cửu Trùng Đài và vĩnh biệt nhau (- Đan Thiềm: Đài lớn tan tành, ông Cả ơi! Xin cùng ông vĩnh biệt.

-Vũ Như Tô: Đan Thiềm! Xin cùng bà vĩnh biệt!) thì cái tên Cửu Trùng Đài còn có ý nghĩa là biểu tượng cho “giấc mộng lớn”, cho sự bền vững, trường tồn. Nhưng cái đẹp và sự tồn tại của nó hóa ra chỉ ngắn ngủi, mong manh như một giấc chiêm bao.

-> Việc xây dựng công trình ấy là nguyên nhân chính gây nên bạo loạn và kết cuộc bi thảm ở cuối Hồi V vì nó khiến cho Vũ Như Tô phải trả giá bằng mạng sống.


Câu 4. Nhận xét về ngôn ngữ đối thoại, độc thoại của hai nhân vật Vũ Như Tô và Đan Thiềm qua các lớp kịch.

- Ngôn ngữ độc thoại:

+ Ngôn ngữ độc thoại của hai người chỉ âm thầm diễn ra trong suy nghĩ và tình cảm của Vũ Như Tô và Đan Thiềm.

+ Nó diễn tả tâm trạng lo lắng, sợ hãi của Đan Thiềm khi thấy dân gian đói kém, nổi loạn và khi Vũ Như Tô không chịu chạy trốn.

+ Ngược lại nó lại diễn tả tâm trạng ngạc nhiên, đau đớn của Vũ Như Tô khi thấy dân gian bạo loạn, tìm hắn để giết và hơn hết là Cửu Trùng Đài bị phá hủy.

+ …

- Ngôn ngữ đối thoại:

+ Có sự chủ động và sự thụ động được chuyển đổi luân phiên từ Vũ Như Tô với Đan Thiềm và ngược lại.

+ Mỗi phát ngôn đối thoại đều được kích thích bởi hoàn cảnh và phản xạ của Vũ Như Tô và Đan Thiềm. 

+ Ngôn ngữ đối thoại tự nhiên, rõ ràng.

+ …

Câu 5. Chỉ ra điểm tương đồng, khác biệt trong tính cách của hai nhân vật Đan Thiềm, Vũ Như Tô trước tình huống bạo loạn, nguy hiểm đối với sinh mệnh của Cửu Trùng Đài và với bản thân họ. Cho biết Vũ Như Tô mang những đặc điểm nào của nhân vật chính của bi kịch?

* Điểm tương đồng và khác biệt trong tính cách của hai nhân vật Đan Thiềm và Vũ Như Tô trước tình huống bạo loạn nguy hiểm đối với sinh mệnh của Cửu Trùng Đài và đối với bản thân là:

- Điểm tương đồng: Cả hai đều bất ngờ, ngạc nhiên và băn khoăn lý do vì sao việc xây Cửu Trùng Đài của Vũ Như Tô lại là việc làm sai khiến dân chúng căm hận, nảy sinh mâu thuẫn, sinh ra nổi loạn, đứng lên đuổi đánh Vũ Như Tô.

- Điểm khác biệt:

+ Đan Thiềm: vội vàng, khẩn trương giục Vũ Như Tô bỏ chạy vì nàng lo lắng cho tính mạng của người tài.

+ Vũ Như Tô: bình tĩnh, khẳng định bản thân mình quang minh chính đại, không làm gì sai để phải bỏ chạy.

* Vũ Như Tô mang đặc điểm của nhân vật chính là:

- Có khát vọng vươn lên, yêu cái đẹp, muốn xây dựng Cửu Trùng Đài để làm nên một vẻ đẹp cao quý cho dân tộc.

- Có quyết định sai lầm khi đồng ý xây dựng Cửu Trùng Đài khiến nhân dân rơi vào cực khổ, lầm than.

-  Sai lầm của Vũ Như Tô phải trả giá đắt bằng chính sự sống của bản thân.


Câu 6. Thể loại bi kịch thường kết thúc với cái chết hoặc sự mất mát khủng khiếp của nhân vật. Từ đoạn kết của bi kịch Vũ Như Tô, hãy chỉ ra những mất mát mà nhân vật chính phải gánh chịu.

Ở hồi cuối, mâu thuẫn giữa nghệ thuật cao siêu, vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh vẫn chưa được giải quyết dứt khoát. Vũ Như Tô đến tận lúc chết vẫn không nhận ra được bi kịch, mâu thuẫn mà mình mắc phải, vẫn đinh ninh mình vô tội, thà chết chứ không nhận sai.


Câu 7. Theo bạn, bi kịch Vũ Như Tô là tác phẩm có một chủ đề hay nhiều chủ đề? Điều đó đã được thể hiện trong Hồi V (Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài) như thế nào?

Theo em, bi kịch Vũ Như Tô là tác phẩm có nhiều chủ đề. Điều đó đã được thể hiện trong Hồi V ( Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài) như qua lời tựa đề và các tình huống. Lẽ phải thuộc về Vũ Như Tô hay những kẻ giết Vũ Như Tô? Tác giả không thể đưa ra một lời giải đáp thỏa đáng. Qua đó có thể thấy chân lí không hoàn toàn thuộc về phía nào: việc mất Cửu Trùng Đài vừa nên mừng vừa nên tiếc....


Câu 8. Qua văn bản trên, tác giả muốn thể hiện thông điệp và tư tưởng gì? Tư tưởng và thông điệp đó còn có ý nghĩa gì đối với đời sống đương đại không?

Qua tấn bi kịch của Vũ Như Tô, tác giả đã đặt ra những vấn đề sâu sắc, có ý nghĩa muôn thuở về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc sống, giữa lí tưởng nghệ thuật cao siêu, thuần túy với lợi ích thiết thân và trực tiếp của nhân dân,...

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 3
(có 0 lượt vote)

Bài soạn "Vĩnh biệt cửu trùng đài" (Ngữ văn 11 - SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 4

Câu hỏi (trang 112, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Đã bao giờ bạn tự hỏi: ” Tôi là ai? Ước mơ lớn nhất của tôi là gì? Tôi có thể làm gì để đạt được ước mơ ấy?”. Hãy chia sẻ với các bạn những suy nghĩ đó của mình.

Bạn đang xem: Soạn bài Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài SGK Ngữ văn 11 Chân trời sáng tạo –

Hướng dẫn giải:

Liên hệ bản thân, chia sẻ với các bạn cùng lớp những suy nghĩ của mình.

Lời giải:

Chắc hẳn, trong mỗi chúng ta ai cũng từng băn khoăn “Tôi là ai? Ước mơ lớn nhất của tôi là gì? Tôi có thể làm gì để đạt được ước mơ ấy?”; và bản thân em cũng vậy. Ước mơ lớn nhất của em là được trở thành một nhà giáo. Bởi lẽ, cô giáo đối với em là một nghề vô cùng cao quý, là người mang tri thức tới cho biết bao thế hệ trẻ. Khi em chập chững bước vào lớp 1 còn rụt rè, bỡ ngỡ, sợ sệt thì cô giáo chủ nhiệm lại gần, ân cần, nhẹ nhàng dắt tay em vào lớp. Trong suốt buổi học đầu, cô luôn làm cho không khí lớp học sôi nổi, tổ chức nhiều trò chơi để các bạn vừa làm quen với nhau vừa giảm cảm giác căng thẳng, sợ sệt. Trong suốt 5 năm cấp 1, cô luôn theo sát, ân cần chỉ bảo em, trở thành người bạn của chúng em, luôn lắng nghe và thấu hiểu mọi tâm tư của chúng em. Từ sau buổi đầu ấy cho tới tận bây giờ, cô vẫn luôn là thần tượng và hình tượng mà em muốn trở thành. Bản thân em tự ý thức rằng, để trở thành một nhà giáo như cô không phải điều đơn giản. Vì vậy, bản thân em luôn cố gắng chăm chỉ học tập, hoàn thiện bản thân để đạt được ước mơ. Để đạt được ước mơ đó, bản thân em mỗi ngày đều nỗ lực không ngừng nghỉ, dù đôi lúc khó khăn, nản lòng nhưng khi còn có ước mơ thì em sẽ cố gắng chạm đến ước mơ tới cùng, phấn đấu trở thành một nhà giáo giống cô giáo chủ nhiệm cấp 1 của em.


Trong khi đọc 1

Câu 1 (trang 113, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Lời thoại của Vũ Như Tô và Đan Thiềm cho thấy họ có quan điểm như thế nào về hành động và cảm xúc của quần chúng nhân dân.

Hướng dẫn giải:

Dựa vào đoạn hội thoại thuộc Hồi V: Một cung cấm – Lớp I: Vũ Như Tô – Đan Thiềm, xác định quan điểm của 2 nhân vật về hành động và cảm xúc của quần chúng nhân dân.

Lời giải:

Lời thoại của Vũ Như Tô và Đan Thiềm cho thấy họ cảm thấy ngạc nhiên và ấm ức với hành động và cảm xúc của quần chúng nhân dân. Vũ Như Tô cảm thấy bất ngờ vì tại sao việc mình xây Đài Cửu Trùng lại là sai. Khi Đan Thiềm bảo ông trốn đi, Vũ Như Tô vẫn khẳng định bản thân mình quang minh chính đại, không làm gì nên tội để phải chạy trốn.


Trong khi đọc 2

Câu 2 ( trang 113, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Vì sao Đan Thiềm luôn cố tỏ ra lo lắng còn Vũ Như Tô lại không

Hướng dẫn giải:

Đọc nội dung văn bản, tìm và khai thác chi tiết để trả lời vì sao Đan Thiềm luôn cố tỏ ra lo lắng còn Vũ Như Tô lại không. 

Lời giải:

Đan Thiềm luôn cố tỏ ra lo lắng còn Vũ Như Tô lại không vì: Trong tình thế lúc này, Vũ Như Tô vẫn tin bản thân mình không làm gì sai, bản thân luôn quang minh chính đại, làm việc gì cũng nghĩ tới lợi ích chung, không lý gì lại phải chạy trốn. Còn Đan Thiềm, nàng biết rõ tình thế hiện tại ra sao, vì lo cho Vũ Như Tô nên khuyên ông hãy chạy đi, nàng khuyên ông hãy chạy đi để bảo toàn tính mạng.

→ Đan Thiềm có thể sẵn sàng hy sinh tính mạng để bảo vệ người tài.


Trong khi đọc 3

Câu 3 (trang 114, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Từ lời của Nguyễn Vũ, bạn dự đoán điều gì sẽ xảy ra với các nhân vật trong đoạn trích?

Hướng dẫn giải:

Từ nội dung văn bản, đặc biệt là lời của Nguyễn Vũ, đưa ra dự đoán điều gì sẽ xảy ra với các nhân vật trong đoạn trích.

Lời giải:

Từ lời của Nguyễn Vũ, có thể đưa ra những dự đoán với các nhân vật trong đoạn trích: 

– Hoàng Thượng là người nóng tính, trước việc bất bình đã tát Duy Sản ở giữa chợ. Vì vậy mới dẫn tới sự tình loạn lạc.

– Duy Sản là một kẻ tiểu nhân, sĩ diện cao cho nên khi bị Hoàng Thượng tát giữa chợ đã thẹn quá hóa giận, sinh thù với Nguyễn Vũ và Hoàng thượng.


Trong khi đọc 4

Câu 4 (trang 117, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Chú ý giọng điệu các lời thoại của Đan Thiềm trong đoạn này.

Hướng dẫn giải:

Khai thác thông tin trong văn bản, chú ý tới giọng điệu lời thoại của Đan Thiềm, đưa ra nhận xét.

Lời giải:

Giọng điệu các lời thoại của Đan Thiềm trong đoạn này cho thấy nàng đang sợ hãi, lo lắng cho Vũ Như Tô sẽ bị giết. Nàng sẵn sàng hạ mình để xin Vũ Như Tô được sống, vì ông Đan Thiềm sẵn sàng đánh đổi cả tính mạng mình.


Trong khi đọc 5

Câu 5 (trang 118, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

So sánh biểu cảm của Vũ Như Tô và quân sĩ trước sự sụp đổ của Cửu Trùng Đài.

Hướng dẫn giải:

Khai thác nội dung văn bản, tìm ra những chi tiết thể hiện biểu cảm của Vũ Như Tô và quân sĩ trước sự sụp đổ của Cửu Trùng Đài, sau đó so sánh.

Lời giải:

Biểu cảm của Vũ Như Tô và quân sĩ trước sự sụp đổ của Cửu Trùng Đài: 

– Vũ Như Tô: đau đớn, tiếc nuối, xót xa vì nhìn thấy Cửu Trùng Đài đang cháy rụi trước mắt.

– Quân sĩ: hả hê, vui mừng trước biểu cảm của Vũ Như Tô và hình ảnh cháy rụi của Cửu Trùng Đài.

→ Biểu cảm của Vũ Như Tô >< biểu cảm của quân sĩ. Cửu Trùng Đài bị đốt, Vũ Như Tô chết, nhân dân trước sau không hiểu gì về sự sáng tạo của người nghệ sĩ cũng như việc làm của quần chúng và bè phái nổi loạn, nếu ông trốn đi thì mâu thuẫn vẫn không thể giải quyết.


Sau khi đọc 1

Câu 1 (trang 119, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Tóm tắt diễn biến sự kiện và hành động của các nhân vật từ Lớp I đến Lớp IX.

Hướng dẫn giải:

Dựa vào nội dung văn bản, tóm tắt diễn biến sự kiện và hành động của các nhân vật từ Lớp I đến Lớp IX

Lời giải:

Diễn biến sự kiện và hành độngcủa các nhân vật từ Lớp I đến Lớp IX: mâu thuẫn giữa dân chính, những người thợ xây đài và tầng lớp vua chúa phong kiến ngày càng gay gắt. Lợi dụng tình hình đó, phe phản nghịch, đứng đầu là Quận công Trịnh Duy Sản đã nổi loạn giết vua Lê Tương Dực, Vũ Như Tô, Đan Thiềm…Còn lôi kéo cả binh lính, dân chứng và chính người thợ xây đài nổi dậy đốt Đài Cửu Trùng đang xây dở.


Sau khi đọc 2

Câu 2 (trang 119, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Qua hệ thống nhân vật ở các lớp kịch, hãy xác định những xung đột cơ bản của văn bản Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài.

Hướng dẫn giải:

Thông qua hệ thống nhân vật ở các lớp kịch để xác định những xung đột cơ bản của văn bản.

Lời giải:

Qua hệ thống nhân vật ở các lớp kịch đã bộc lộ một số xung đột cơ bản của văn bản Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài: Nhân dân, những người thợ xây đài >< tầng lớp vua chúa phong kiến, Vũ Như Tô >< những người thợ phu phen bị bắt bớ, phu dịch để xây Cửu Trùng Đài.

→ Đó là sự mâu thuẫn giữa nghệ thuật thuần túy, cao siêu với đời sống hiện thực của con người.


Sau khi đọc 3

Câu 3 (trang 119, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Bạn hình dung thế nào về công trình ” Cửu Trùng Đài” mà Vũ Như Tô đang xây dựng dở dang? Việc xây dựng công trình ấy có phải là nguyên nhân chính gây nên bạo loạn và kết cuộc bi thảm ở cuối Hồi V hay không? Vì sao?

Hướng dẫn giải:

 Dựa vào nội dung văn bản, đưa ra những hình dung về công trình “Cửu Trùng Đài” đang xây dựng dở dang. Nhận định việc xây dựng công trình có phải nguyên nhân chính gây nên bạo loạn và kết cuộc bi thảm ở cuối Hồi V không.

Lời giải:

Công trình ” Cửu Trùng Đài” mà Vũ Như Tô đang xây dựng dở dang trong tưởng tượng của em: là một công trình kiến trúc mang tầm vóc to lớn, vĩ đại nhưng lại chỉ “để cho vua chơi”. Có thể thấy, công trình này tiêu tốn vô cùng nhiều của cải, công sức tới mức triều đình phải tăng sưu thuế, săn đòi thợ giỏi, cưỡng bức nhân công… gây nên bao cảnh bi thương, oán thán trong dân chúng.

    Tầm vóc của “Cửu Trùng Đài” phải được hình dung bằng tầm vóc ý tưởng, khát vọng ngạo nghễ của người tạo ra nó; đây là công trình độc nhất vô nhị vượt qua mọi kỳ quan mà người đời truyền tụng. Vẻ đẹp của nó không thèm tranh tinh xảo với người mà “tranh tinh xảo với hóa công”.

→ Việc xây dựng công trình chính là nguyên nhân chính gây nên bạo loạn và kết cuộc bi thảm ở cuối Hồi V vì nó khiến nhân dân lao động cực nhọc, vất vả nên đứng dậy nổi loạn; đồng thời khiến Vũ Như Tô, Đàn Thiếm, Hoàng thượng bị giết chết.


Sau khi đọc 4

Câu 4 (trang 119, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Nhận xét về ngôn ngữ đối thoại, độc thoại của hai nhân vật Vũ Như Tô và Đan Thiềm qua các lớp kịch.

Hướng dẫn giải:

Từ nội dung của văn bản, đưa ra những nhận xét về ngôn ngữ đối thoại, độc thoại của hai nhân vật Vũ Như Tô và Đan Thiềm.

Lời giải:

Ngôn ngữ đối thoại, độc thoại của hai nhân vật Vũ Như Tô và Đan Thiềm qua các lớp kịch có sự đối lập với nhau. Giọng điệu, lời nói của Đan Thiềm bộc lộ rõ sự khẩn trương, vội vã, lo lắng cho tính mạng của Vũ Như Tô. Ngược lại, Vũ Như Tô lại bình thản, bình tĩnh, ngạc nhiên không hiểu việc làm của mình có gì sai để phải chạy trốn, ông vẫn nghĩ những việc ông làm ra là quang minh chính đại.


Sau khi đọc 5

Câu 5 (trang 119, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Chỉ ra điểm tương đồng, khác biệt trong tính cách của hai nhân vật Đan Thiềm, Vũ Như Tô trước tình huống bạo loạn nguy hiểm đối với sinh mệnh của Cửu Trùng Đài và đối với bản thân họ. Cho biết Vũ Như Tô mang những đặc điểm nào của nhân vật chính của bi kịch.

Hướng dẫn giải:

Phân tích các đoạn hội thoại giữa hai nhân vật Đan Thiềm và Vũ Như Tô trước tình huống bạo loạn nguy hiểm đối với sinh mệnh của Cửu Trùng Đài và đối với bản thân họ, chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt. Từ đó chỉ ra những đặc điểm nhân vật chính bi kịch ở Vũ Như Tô 

Lời giải:

Trước tình huống bạo loạn nguy hiểm đối với sinh mệnh của Cửu Trùng Đài và đối với bản thân Đan Thiềm và Vũ Như Tô, cả hai có những điểm tương đồng, khác biệt trong tính cách.

– Tương đồng: Cả hai đều bất ngờ, ngạc nhiên và băn khoăn lý do vì sao việc xây Cửu Trùng Đài của Vũ Như Tô lại là việc làm sai khiến dân chúng căm hận, nảy sinh mâu thuẫn, sinh ra nổi loạn, đứng lên đuổi đánh Vũ Như Tô.

– Khác biệt:

+ Trước tình thế nguy cấp ấy, Đan Thiềm thì vội vàng, khẩn trương giục Vũ Như Tô bỏ chạy vì nàng lo lắng cho tính mạng của người tài.

+ Ngược lại Đan Thiềm, Vũ Như Tô lại bình tĩnh, khẳng định bản thân mình quang minh chính đại, không làm gì sai để phải bỏ chạy.

→ Qua cách bộc lộ tính cách trên, có thể thấy Đan Thiềm mang những nét đặc điểm của nhân vật chính của bi kịch. Nàng là người có bản chất tốt đẹp, sẵn sàng hi sinh cả mạng sống mình để bảo vệ người tài. Nhưng lại mắc sai lầm trong việc đánh giá, Đan Thiềm đã sai khi khuyên Vũ Như Tô mượn tay vua Lê Tương Dực để thực thi hoài bão của mình: xây một tòa lâu đài vĩ đại và trường tồn. Chính những sai lầm đó đã khiến cho Đan Thiềm, Vũ Như Tô phải nhận kết cục bi thảm, đánh đổi cả mạng sống của mình; còn Cửu Trùng Đài thì bị thiêu rụi trong sự tung hô của đám phản nghịch.


Sau khi đọc 6

Câu 6 (trang 119, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Thể loại bi kịch thường kết thúc với cái chết hoặc sự mất mát khủng khiếp của nhân vật. Từ đoạn kết của bi kịch Vũ Như Tô, hãy chỉ ra những mất mát mà nhân vật chính phải gánh chịu.

Hướng dẫn giải:

Từ đoạn kết của bi kịch Vũ Như Tô, chỉ ra những mất mát của nhân vật chính thể loại bi kịch phải gánh chịu.

Lời giải:

Thể loại bi kịch thường kết thúc với cái chết hoặc sự mất mát khủng khiếp của nhân vật. Từ đoạn kết của bi kịch Vũ Như Tô, nhân vật đã phải gánh chịu nhiều mất mát. Kết thúc hồi, mâu thuẫn giữa nghệ thuật cao siêu, vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh vẫn chưa được giải quyết triệt để. Vũ Như Tô tới tận lúc chết vẫn không nhận ra bi kịch, mâu thuẫn mà mình đã mắc phải, vẫn khẳng định mình vô tội.


Sau khi đọc 7

Câu 7 (trang 119, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Theo bạn, bi kịch Vũ Như Tô là tác phẩm có một chủ đề hay nhiều chủ đề? Điều đó đã được thể hiện trong Hồi V ( Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài) như thế nào?

Hướng dẫn giải:

Đưa ra những nhận định của bản thân về bi kịch của Vũ Như Tô là tác phẩm có một chủ đề hay nhiều chủ đề, chỉ ra chi tiết thể hiện điều đó trong Hồi V.

Lời giải:

Theo em, bi kịch Vũ Như Tô là tác phẩm có nhiều chủ đề.

Trong Hồi V, có thể thấy, lẽ phải thuộc về Vũ Như Tô hay những kẻ giết Vũ Như Tô vẫn không được tác giả làm rõ thỏa đáng. 

→ Từ đó, thể hiện chân lý không hoàn toàn thuộc về phía nào: việc mất Cửu Trùng Đài vừa nên mừng vừa nên tiếc.


Sau khi đọc 8

Câu 8 (trang 119, SGK Ngữ Văn 11, tập một):

Qua văn bản trên, tác giả muốn thể hiện thông điệp và tư tưởng gì? Tư tưởng và thông điệp đó còn có ý nghĩa gì đối với đời sống đương đại không?

Hướng dẫn giải:

Từ nội dung văn bản. rút ra thông điệp và tư tưởng mà tác giả muốn thể hiện. Sau đó nêu ý nghĩa của chúng đối với đời sống đương đại.

Lời giải:

Qua văn bản trên, tác giả muốn thể hiện thông điệp và tư tưởng về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, giữa lí tưởng nghệ thuật cao siêu và lợi ích của nhân dân.

Tư tưởng và thông điệp có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với đời sống đương đại. Tác giả muốn khuyên người đọc cần quan sát thật kỹ để có những sáng tác nghệ thuật phù hợp về mọi mặt. Đừng nên quá u mê, mê muội mà quên mất giá trị thực tế của cuộc sống. Không thể vì theo đuổi những nghệ thuật vĩ đại, cao siêu mà quên đi dẫm đạp lên lợi ích của người khác.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 4
(có 0 lượt vote)

Bài soạn "Vĩnh biệt cửu trùng đài" (Ngữ văn 11 - SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 5

Câu 1. Tóm tắt diễn biến sự kiện và hành động của các nhân vật từ Lớp I đến Lớp IX.

Tóm tắt mẫu 1

Lớp I đến Lớp IX kể về những mâu thuẫn giữa dân chúng và tầng lớp phong kiến, vua chúa. Lớp I đến Lớp VI của văn bản là những lời khuyên nhủ chạy trốn của Đan Thiềm với Vũ Như Tô khi tầng lớp dân chúng nổi điên và bọn quan sai đang kéo đến bắt ông nhưng ông vẫn thể hiện ý chí kiên quyết, không làm sai không sợ. Từ lớp VII đến lớp VIII là cuộc đối thoại giữa Ngô Hạch hống hách và Vũ Như Tô không sợ chết cùng lời van xin của Đan Thiểm xin giữ lại mạng cho ông Cả. Lớp IX cuối cùng là sự hy sinh không hối tiếc của Vũ Như Tô và Đan Thiềm cùng sự lụi tàn của Đài Cửu Trùng.

Tóm tắt mẫu 2

Trong một thời kỳ này, mâu thuẫn giữa dân chúng và tầng lớp phong kiến, vua chúa ngày càng trầm trọng. Quận công Trịnh Duy Sản, một trong những kẻ cầm đầu phe đối lập trong triều đình, đã lợi dụng tình hình để dấy binh nổi loạn, giết chết các quan văn và quân sự. Đài Cửu Trùng - một trong những cung điện lớn nhất ở thời đại đó - đã bị đập phá, thiêu hủy. Sự kiện này đã góp phần vào việc khép lại triều đại Lê sớm hơn dự kiến.

Tóm tắt mẫu 3

Trong truyện ngắn "Đài Cửu Trùng", tác giả Trần Nhân Tông đã khắc họa cuộc đấu tranh giữa dân chúng và tầng lớp phong kiến, vua chúa. Trong đó, Đan Thiềm và Vũ Như Tô - những người đại diện cho dân chúng - đã kiên quyết đấu tranh để bảo vệ quyền lợi của mình. Dù đối diện với nguy hiểm, họ vẫn không chùn bước, sẵn sàng hy sinh vì tương lai của đất nước. Cuối cùng, Đài Cửu Trùng cũng đã lụi tàn, nhưng tinh thần của những người dân đấu tranh vẫn mãi được truyền lại và kế thừa qua thời gian.


Câu 2. Qua hệ thống nhân vật ở các lớp kịch, hãy xác định những xung đột cơ bản của tác phẩm.

Trả lời:

Các xung đột cơ bản của tác phẩm: 

- Mâu thuẫn giữa nhân dân lao động khổ sai với tầng lớp phong kiến, vua chúa.

- Mâu thuẫn giữa Vũ Như Tô và những người bị bắt đi xây Cửu Trùng Đài. Mâu thuẫn xảu ra khi có nhiều người bị chết khi xây dựng Cửu Trùng Đài, dẫn đến nhiều trường hợp mẹ mất con, vợ mất chồng.


Câu 3. Bạn hình dung thế nào về công trình “Cửu Trùng Đài” mà Vũ Như Tô đang xây dụng dở dang? Việc xây dựng công trình ấy có phải là nguyên nhân chính gây nên bạo loạn và kết cuộc bi thảm ở cuối Hồi V hay không? Vì sao?

Trả lời:

- Công trình “Cửu Trùng Đài” mà Vũ Như Tô đang xây dụng dở dang có lẽ là một công trình kiến trúc mang tầm vóc vĩ đại. Vì để xây dựng nó cần khoảng 200 vạn cây gỗ chất đống cao như núi, 20 vạn phiến đá lớn, 40 vạn phiến đá nhỏ. Đặc biệt, để xây dựng nên nó cần khoảng 15 vạn công nhân. Cũng do đó mà Vũ Như Tô luôn nhất quyết bảo vệ Cửu Trùng Đài và đặt niềm tin vào nó. Với Vũ Như Tô, Cửu Trùng Đài là ước mơ, hoài bão của mình. Với Lê Tương Dực, Cửu Trùng Đài là quyền lực và ăn chơi. Còn với dân chúng, Cửu Trùng Đài là món nợ mồ hôi, xương máu, nước mắt.

- Việc xây dựng công trình ấy chính là nguyên nhân chính gây nên bạo loạn và kết cuộc bi thảm ở cuối Hồi V. Vì do xây dựng Cửu Trùng Đài mà đời sống nhân dân cực khổ, biết bao người phải hy sinh chỉ vì thỏa mãn nguyện vọng của hai người. Dù mỗi người lại dùng Cửu Trùng Đài với mục đích khác nhau nhưng chúng đều gây nên sự oán hận trong lòng dân chúng. Việc Cửu Trùng Đài bị đốt và cái chết của Vũ Như Tô cùng Đan Thiềm đã kết thúc hồi V.


Câu 4. Nhận xét về ngôn ngữ đối thoại, độc thoại của hai nhân vật Vũ Như Tô và Đan Thiềm qua các lớp kịch.

Trả lời:

Qua các lớp kịch, ta có thể thấy rất nhiều đoạn đối thoại, độc thoại của hai nhân vật Vũ Như Tô và Đan Thiềm. Có thể nói xuyên suốt từ đầu đến cuối, Vũ Như Tô vẫn luôn giữ thái độ cứng rắn, cương trực, quyết không sợ vì luôn tin mình không làm gì sai. Còn Đan Thiềm thì vẫn luôn khuyên ông trốn chạy và khi bọn quan sai đến cửa bắt thì vẫn luôn cầu xin giữ lại mạng sống cho Vũ Như Tô. Do đó, có thể thấy ngôn ngữ đối thoại, độc thoại của hai nhân vật là ngôn ngữ chủ yếu của văn bản, qua cuộc đối thoại đó, ta có thể thấy Vũ Như Tô là một người nghệ sĩ chỉ chú ý đến nghệ thuật, coi việc xây Cửu Trùng Đài là một tác phẩm nghệ thuật mà không biết rằng nó gây ra lầm than cho dân chúng. Vì thế những lời nói cùng hành động khuyên ngăn của Đan Thiềm ông không thể hiểu nổi. Đây cũng chính là chi tiết mang tính nút thắt của đoạn kịch.


Câu 5. Chỉ ra điểm tương đồng, khác biệt trong tính cách của hai nhân vật Đan Thiềm, Vũ Như Tô trước tình huống bạo loạn nguy hiểm đối với sinh mệnh của Cửu Trùng Đài và đối với bản thân họ. Cho biết Vũ Như Tô mang những đặc điểm nào của nhân vật chính của bi kịch.

Trả lời:

Điểm tương đồng, khác biệt trong tính cách của hai nhân vật Đan Thiềm, Vũ Như Tô trước tình huống bạo loạn nguy hiểm đối với sinh mệnh của Cửu Trùng Đài và đối với bản thân họ:

- Tương đồng: Là hai con người đều coi trọng cái tài hơn, yêu quý cái đẹp, yêu lẽ phải.

- Điểm khác biệt:

Đan Thiềm:

+ Là người tỉnh táo, nhận thức được trước tình huống bạo loạn nguy hiểm, khuyên ngăn Vũ Như Tô đi trốn.

+ Dù hy sinh bản thân mình cũng phải bảo vệ Vũ Như Tô để đất nước không mất đi một người tài.

Vũ Như Tô

+ Coi việc xây dựng Cửu Trùng Đài là một tác phẩm nghệ thuật mà không biết rằng nó gây ra lầm than cho dân chúng, làm cho bao nhiều người phải hy sinh nên luôn coi việc mình làm là đúng đắn.

+ Quyết không chạy trốn và sẵn sàng hy sinh khi biết tin Cửu Trùng Đài bị đốt.


Câu 6. Thể loại bi kịch thường kết thúc với cái chết hoặc sự mất mát khủng khiếp của nhân vật. Từ đoạn kết của bi kịch Vũ Như Tô, hãy chỉ ra những mất mát mà nhân vật chính phải gánh chịu.

Trả lời:

Từ đoạn kết của bi kịch Vũ Như Tô, ta có thể thấy những mất mát mà nhân vật chính phải gánh chịu:

+ Hy sinh trên chính ước mơ, nghệ thuật của mình.

+ Đến tận lúc chết vẫn không nhận ra được bi kịch, lỗi mà mình mắc phải, vẫn luôn nghĩ rằng mình vô tội, thà chết chứ không nhận sai.


Câu 7. Theo bạn, bi kịch Vũ Như Tô là tác phẩm có một chủ đề hay nhiều chủ đề? Điều đó đã được thể hiện trong Hồi V (Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài) như thế nào?

Trả lời:

Theo em, bi kịch Vũ Như Tô là tác phẩm có nhiều chủ đề. Điều đó đã được thể hiện trong Hồi V. Khi Cửu Trùng Đài bị đốt không biết nên mừng hay nên tiếc, không biết lẽ phải thuộc về Vũ Như Tô hay những kẻ giết ông. Tác giả đã chưa đưa ra được lời giải đáp thỏa đáng.


Câu 8. Qua văn bản trên, tác giả muốn thể hiện tư tưởng và thông điệp gì? Tư tưởng và thông điệp đó có còn ý nghĩa đối với đời sống đương đại không?

Trả lời:

Qua văn bản trên, tác giả muốn thể hiện tư tưởng và thông điệp về mối quan hệ giữa nghệ thuật và với cuộc sống, giữa lí tưởng cao siêu với lợi ích trực tiếp của nhân dân. Theo em, tư tưởng và thông điệp đó vẫn còn ý nghĩa đối với đời sống đương đại. 

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Top 5
(có 0 lượt vote)

Bài soạn "Vĩnh biệt cửu trùng đài" (Ngữ văn 11 - SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 6

Phân tích đoạn kịch “Vĩnh biệt Cửu trùng Đài” (trích vở kịch “Vũ như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng)

  • Mở bài:

Nguyễn Huy Tưởng (1912 – 1960) là một nhà văn, nhà viết kịch Việt Nam nổi tiếng. Ông là tác giả của những tiểu thuyết lịch sử, vở kịch lớn như: “Vũ Như Tô”, “Đêm hội Long Trì”, “Bắc Sơn”, “Sống mãi với thủ đô”…. Đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu trùng Đài” thuộc hồi thứ V của vở bi kịch Vũ Như Tô. Nhân vật chính là một người nghệ sĩ đầy tài năng và tâm huyết với khát vọng sáng tạo nghệ thuật rất lớn và chân chính. Tác phẩm đã đặt ra vấn đề lớn, đó là mâu thuẫn giữa quan niệm nghệ thuật thuần tuý của muôn đời và lợi ích thiết thực của nhân dân. Vũ Như Tô là một tài năng nhưng chính vì không giải quyết được mâu thuẫn giữa nghệ thuật và cuộc sống mà ông đã thất bại. “Vĩnh biệt Cửu trùng Đài” thể hiện sâu sắc nội dung này.

  • Thân bài:

Chương kịch “Vĩnh biệt Cửu trùng Đài”  tái hiện cuộc nổi dậy của binh lính và dân chúng dưới sự cầm đầu của Lê Duy Sản. Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài theo lời khuyên của Đan Thiềm với mục đích xây dựng cho đất nước một công trình nghệ thuật. Đó là mục đích nghệ thuật của người nghệ sĩ. Còn điều mà nhân dân và binh lính trông thấy ngay trước mắt là Vũ Như Tô đang dùng công sức và xương máu của nhân dân để phục vụ mục đích ăn chơi sa đoạ của tên hôn quân Lê Tương Dực.


Chỉ là một trích đoạn nhưng đoạn kịch này cũng có kết cấu như một vở kịch : có thắt nút (mâu thuẫn), xung đột, cao trào và mở nút. Với cả vở kịch, đoạn trích này là phần cao trào, rồi giải quyết mâu thuẫn lớn nhất của cả vở kịch.


Cuộc đối thoại giữa Đan Thiềm và Vũ Như Tô ở lớp I của hồi kịch cho thấy Vũ Như Tô là một người nghệ sĩ chỉ chú ý đến nghệ thuật. Trông coi việc xây Cửu Trùng Đài mà ông không biết rằng tác phẩm nghệ thuật của ông đã gây ra bao nhiêu lầm than cực khổ cho dân chúng. Mục đích nghệ thuật của ông mâu thuẫn với quyền lợi thiết thực của dân chúng mà ông lại không nhận ra. Ông là người nghệ sĩ quá quan tâm đến nghệ thuật mà quên đi quan hệ của nghệ thuật với đời sống. Vì thế ông không thể hiểu điều Đan Thiểm nói. Vũ Như Tô thà chết với Cửu Trùng Đài chứ không chịu chạy trốn. Đây cũng chính là phần thắt nút của đoạn kịch.


Cuộc nổi loạn của binh lính, thợ thuyền là tất yếu. Với họ, Cửu Trùng Đài đơn giản là nguyên nhân gây nên lầm than cực khổ, là biểu hiện của sự ăn chơi sa đoạ của tên hôn quân. Giữa Vũ Như Tô, người nghệ sĩ có mục đích nghệ thuật tốt đẹp và nhân dân lao động đã không có tiếng nói chung bởi người nghệ sĩ như ông Vũ không hiểu và không giải quyết được mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống.


Cao trào của hồi kịch được tập trung ở ba lớp kịch cuối cùng, đó là cuộc đối đầu giữa Vũ Như Tô và những người nổi dậy. Đan Thiềm và Như Tô là hai người tri âm, tri kỉ, cùng có một mục đích nghệ thuật tốt đẹp nhưng cuối cùng đều thất bại. Và cả Cửu Trùng Đài, tâm huyết của hai người cũng bị phá huỷ.


Đoạn đối thoại giữa Vũ và Ngô Hạch cùng đám quân sĩ thể hiện cao trào của mâu thuẫn. Giữa họ không có tiếng nói chung. Sự thất bại của Vũ Như Tô đã nói lên một điều rằng, khi nghệ thuật .mâu thuẫn với cuộc sống, nghệ thuật khó tồn tại. Đồng thời, thái độ của binh lính đối với Cửu Trùng Đài còn thể hiện những trăn trở của chính Nguyễn Huy Tưởng về nghệ thuật, về văn hoá dân tộc. Không thể trách những người nổi dậy bởi hành động đập phá của họ. Hành động đó là tất yếu. Nhưng nó vẫn gợi sự xót xa, tiếc nuối cho người đọc. Việc đốt Cửu Trùng Đài với đám binh sĩ chỉ là một hành động trả thù bởi với họ, Cửu Trùng Đài là nguyên nhân của mọi nỗi khổ Gực. Họ không hiểu gì về ý nghĩa lớn lao của công trình kiến trúc này. Với Vũ Như Tô, Cửu Trùng Đài là tất cả.


Đoạn trích có đủ các yếu tố của một vở kịch : biến cố, xung đột và giải quyết xung đột. Không khí, nhịp điệu của sự việc được diễn tả theo chiều tăng tiến mức độ dồn dập đã thể hiện được tính chất gay gắt của mâu thuẫn và dần đẩy xung đột kịch lên cao trào. Cửu Trùng Đài và Vũ Như Tô là cái nút của mâu thuẫn. Xung đột đã được giải quyết bằng sự ra đi vĩnh viễn của cả hai.


Đan Thiềm và Vũ Như Tô vừa đáng khen vừa đáng trách. Đáng khen bởi họ là những người nghệ sĩ biết tôn trọng tài năng và yêu nghệ thuật. Họ là những người có khát vọng cao quý, đó là xây dựng cho đất nước một công trình nghệ thuật lớn. Nhưng họ cũng đáng trách bởi vì khi quan tâm đến nghệ thuật họ đã quên trách nhiệm đối với nhân dân. Nghệ thuật là kết quả của lao động nghệ thuật nhưng nghệ thuật không thể là nguyên nhân của lầm than, không thể được xây dựng bởi máu và nước mắt của người lao động.


Với đoạn trích này, Nguyễn Huy Tưởng đã giải quyết mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Nghệ thuật đích thực phải thống nhất với quyền lợi của con người. Nghệ thuật chân chính là nghệ thuật vì con người. Người nghệ sĩ khi làm nghệ thuật phải chú ý đến điều đó. Nam Cao từng nói : “Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than” để khẳng định nghệ thuật phải xuất phát từ cuộc sống và vì cuộc sống. Về một phương diện nào đó, với kịch Vũ NhưTô, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã thể hiện sự nhất trí với quan niệm của Nam Cao.


Qua tấn bi kịch của Vũ Như Tô, tác giả đặt ra những vấn đề sâu sắc, có ý nghĩa muôn thuở về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc sống, giữa lí tưởng nghệ thuật cao siêu, thuần túy của muôn đời với lợi ích thiết thân và trực tiếp của nhân dân. Vũ Như Tô – một kiến trúc sư thiên tài bị vua Lê Tương Dực bắt xây dựng Cửu Trùng Đài để làm nơi hưởng lạc, vui chơi với các cung nữ. vốn là một nghệ sĩ chân chính gắn bó với nhân dân, cho nên mặc dù bị Lê Tương Dực dọa giết, Vũ Như Tô vẫn ngang nhiên chửi mắng tên hôn quân ấy và kiên quyết từ chối xây Cửu Trùng Đài (hồi I).


Đan Thiềm, một cung nữ đã thuyết phục Vũ Như Tô chấp nhận yêu Cầu của Lê Tương Dực, lợi dụng quyền thế và tiền bạc của hắn, trổ hết tài năng để xây dựng cho đất nước một tòa lâu đài vĩ đại bền như trăng sao, có thể tranh tinh xảo với hóa công để cho dân ta nghìn thu còn hãnh diện.


Theo lời khuyên, Vũ Như Tô đã thay đổi thái độ, chấp nhận xây cửu Trùng Đài. Từ đó, ông dồn hết tâm trí và bằng mọi giá xây dựng tòa đài sao cho thật hùng vĩ, tráng lệ. Tuy nhiên, ông đã vô tình gây biết bao tai hoa cho nhân dân. Để xây dựng Cửu Trùng Đài, triều đình ra lệnh tăng thêm sưu thuế, bắt thêm thợ giỏi, tróc nã, hành hạ những người chống đối. Dân căm phẫn vua vì vua làm cho dân cùng, nước kiệt; thợ oán Vũ Như Tô bởi nhiều người đã chết vì tai nạn, vì ông cho chém đầu những kẻ chạy trốn. Công cuộc xây dựng càng gần thành công thì mâu thuẫn giữa tập đoàn thống trị xa hoa trụy lạc với dân chúng nghèo khổ, giữa Vũ Như Tô với những người thợ lành nghề và người lao động mà ông hằng yêu mến càng căng thẳng, gay gắt (hồi II, III, IV).


Lợi dụng tình hình rối ren và mâu thuẫn ấy, Quận công Trịnh Duy Sản – kẻ cầm đầu phe đối lập trong triều đình đã dấy binh nổi loạn, lôi kéo thợ làm phản, giết vua Lê Tương Dực, Vũ Như Tô, Đan Thiềm. Cửu Trùng Đài bị chính những người thợ đập phá và thiêu hủy (hồi V). Đoạn Vĩnh biệt Cữu Trùng Đài là hồi V của vở kịch, thể hiện hiểu biết sâu sắc về nghệ thuật kịch của Nguyễn Huy Tưởng: ngôn ngữ kịch điêu luyện, có tính tổng hợp cao; dùng ngôn ngữ, hành động của nhân vật để khắc họa tính cách, miêu tả tâm trạng, dẫn dắt và đẩy xung đột kịch đến cao trào.


Trong cung cấm, Đan Thiềm đột ngột hớt hơ hớt hải chạy vào, mặt cắt không còn hột máu, giục giã Vũ Như Tô hãy trốn mau bởi loạn đến nơi rồi. Dân gian đói kém nổi lên, quận công Trịnh Duy Sản mượn tiếng đi dẹp giặc rồi quay binh về làm loạn. Nhưng Vũ Như Tô kiên quyết không chịu rời CửuTrùng Đài một bước. Vừa lúc đó, Nguyễn Vũ lật đật chạy vào hỏi tình hình lo lắng cho tính mạng của nhà vua. Lê Trung Mại xuất hiện thông báo Duy Sản đã đốt lửa hiệu giả báo có giặc, nhà vua lẻn ra cửa Bảo Khánh chạy giặc thì bị Ngô Hạch võ sĩ của Duy Sản đâm chết. Khâm Đức hoàng hậu hay tin cũng nhảy vào lửa tự thiêu. Nguyễn Vũ khóc lóc và rút dao tự tử. Một bọn nội gián khác thông báo thêm sau khi giết vua Lê Tương Dực, triều đình đã lập vua khác lên ngôi. Võ Tả Hầu là Phùng Mai đứng lên mắng quân phản nghịch đã bị chém đầu ngay lập tức. An Hòa Hầu ở bến Bồ Đề kéo quân về đốt phá kinh thành. Thợ xậy Cửu Trùng Đài quá nửa theo về quân phản nghịch. Đan Thiềm tiếp tục giục Vũ Như Tô đi trốn nhưng ông vẫn kiên quyết ở lại. Quân khởi loạn kéo vào. Đan Thiềm không thể xin tha được cho Vũ Như Tô, nàng bị chúng kéo đi nên chi còn biết Xin cùng ông vĩnh biệt Cửu Trùng Đài. Vũ Như Tô khăng khăng cho là mình không có tội, xin vào thưa với chủ tướng ý nguyện tốt đẹp khi xây Cửu Trùng Đài nhưng quân lính không nghe và cho biết chính An Hòa Hầu đã ra lệnh đốt sạch Cửu Trùng Đài. Vũ Như Tô đau đớn, vỡ mộng, chua chát chấp nhận cái chết bi thảm.


Vũ Như Tô và Đan Thiềm coi Cửu Trùng Đài là cả phần xác lẫn phần hồn của cuộc đời mình. Vì nó mà Vũ Như Tô chấp nhận làm việc cho hôn quân bạo chúa. Vì nó mà dù bị thương trên công trường, ông vẫn tiếp tục chỉ đạo công việc. Cũng vì nó, để giữ gìn kỉ luật, ông buộc phải trị tội những người thợ bỏ trốn. Cũng lại vì nó mà ông quyết ở lại trong cung cấm, giữa cơn biến loạn để bảo vệ không phải mạng sống của mình mà là bảo vệ Cửu Trùng Đài – sinh mạng nghệ thuật của cả đời ông.


Tính cách nổi bật nhất ở Vũ Như Tô là tính cách của người nghệ sĩ tài hoa hiện thân cho niềm khao khát và đam mê sáng tạo Cái Đẹp. Nhưng trong mội hoàn cảnh lịch sử cụ thể, thì Cái Đẹp ấy thành ra phù phiếm. Nó sang trọng, siêu đẳng, thậm chí cao cả và đẫm máu như một bông hoa ác. Vì thế, đi đến tận cùng niềm đam mê, khao khát ấy, Vũ Như Tô tất phải đối mặt với bi kịch đau đớn của đời mình: ông trở thành kẻ thù của dân chúng, thợ thuyền mà không hay biết.


Tài ba của Vũ Như Tô được nói đến chủ yếu ở các hồi kịch trước, thông qua hành động của ông và nhất là qua lời của các nhân vật khác nói về ông. Tài nghệ của ông đạt đến mức siêu phàm, được Đan Thiềm ca ngợi là một thiên tài ngàn năm chưa dễ có một, có thể sai khiến gạch đá như viên tưởng cầm quân. Trong hồi thứ V, những lo lắng, toan tính và thái độ của Đan Thiềm khi nói về Vũ Như Tô đủ cho thấy cái tài ấy quả là hiếm hoi: tài kia không nên để uổng..; Ông mà có mệnh hệ nào thì nước ta không còn ai điểm tô nữa… Đừng để phi tài trời. Hồi V không nói nhiều đến tài năng của nhân vật (chỉ có Đan Thiềm nhắc đến) mà đặt Vũ Như Tô vào việc tìm kiếm một câu trả lời: Việc mình nhận xây Cửu Trùng Đài là đúng hay sai? Có công hay có tội? Nhưng Vũ Như Tô không trả tời được thỏa đáng câu hỏi đó bởi ông chỉ đứng trên lập trường của người nghệ sĩ mà không đứng trên lập trường của nhân dân, đứng trên lập trường Cái Đẹp mà không đứng trên lập trường Cái Thiện. Hành động của ông không hướng đến sự hòa giải mà thách thức và chấp nhận sự hủy diệt. Vũ Như Tô đã từng tranh tinh xảo vôi hóa công, giờ lại bướng bỉnh tranh phải – trái với số phận và với cuộc đời. Hành động kịch hướng vào cuộc đua tranh này và thể hiện tập trung qua diễn biến tâm trạng của Vũ Như Tô.


Vũ Nhự Tô vì chìm đắm trong khao khát, đam mê Cái Đẹp mà trở nên mơ mộng và ảo tưởng. Giấc mộng ấy bắt đầu từ khi ông quyết định nhận lời xây Cửu Trùng Đài cho Lê Tương Dực, mượn tay bạo chúa để xây một công trình tô điểm cho đời. Càng sáng suốt trong sáng tạo thiết kế, thi công Cửu Trùng Đài bao nhiêu, Vũ Như Tô càng xa rời thực tế bấy nhiêu. Ngay cả khi sự thật phũ phàng của Cơn biến loạn dội đến, Đan Thiềm cố gắng kéo ông ra khỏi giấc mộng bằng thông tin kinh hoàng là loạn đến nơi rồi và bằng phản ứng dữ dội của dân chúng đối với ông: Ai ai cũng cho ông là thủ phạm. Vua xa xỉ là vì ông, công khố hao hụt là vì ông, dân gian lầm than là vì ông, man di oán giận là vì ông, thần nhân trách móc là vì ông:., mà Vũ Như Tô vẫn không tỉnh, vẫn cho là họ hiểu nhầm.


Tận mắt chứng kiến Nguyễn Vũ tự sát, nghe tên nội giám thông báo kẻ phá, người đốt cửu Trùng Đài, Vũ Như Tô vẫn cho là điều vô Ií. Nghe tiếng quân lính reo hò truy tìm mình để phanh thây, Vũ Như Tô vẫn cố đấu lí với số phận và cuộc đời: Có lí gì để họ giết tôi ? Đứng trước quân khởi loạn gươm giáo sáng lòe, Vũ Như Tô tự trấn an: Đời ta chưa tận, mệnh ta chưa cùng. Ta sẽ xây một tòa đài vĩ đại để tạ lòng tri kỉ. Bị ra lệnh dẫn về trình chủ tướng, Vũ Như Tô vẫn hi vọng sẽ có thể phân trần giảng giải cho người đời biết rõ nguyện vọng của ta. Ông dường như không hề nghe thấy tiếng cười ầm ĩ và lời quát tháo của quân lính: – “Mày không biết mấy nghìn người chết vì Cửu Trùng Đài, mẹ mất con, vợ mất chồng vì mày đó ư? Người ta oán mày còn hơn oán quỷ. Ông vẫn say sưa trong giấc mộng Cửu Trùng Đài: Vài năm nữa, đài Cửu Trùng hoàn thành, cao cả, huy hoàng, giữa cõi trần lao lực, có một cảnh Bồng Lai…”


Chỉ đến khi kinh thành phát hỏa, quân lính cho hay đó là lệnh của An Hòa Hầu và tận mắt chứng kiến ánh lửa sáng rực, cả tàn than, bụi khói bay vào, Vũ Như Tô mới rú lên kinh hoàng, tuyệt vọng : Đốt thực rồi! Đốt thực rồi Ị ôi đảng ác ! Ôi muôn phần căm giận! Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm gì ? ôi mộng lớn ! Ôi Đan Thiềm ! Ôi Cửu Trùng Đài! Rơi xuống từ một cửu Trùng Đài vời vợi độ cao của mơ màng và ảo vọng, nỗi đau vỡ mộng trong Vũ Như Tô hoá thành tiếng kêu bi thiết, não nùng, khắc khoải. Cửu Trùng Đài đã biến thành một đài lửa rừng rực trong kinh thành Thăng Long đầy biến động, Vũ Như Tô đã chết trước khi ra pháp trường. Mộng lớn, Đan Thiềm, Cửu Trùng Đài Tất cả nối tiếp nhau dội xuống những âm thanh của đau thương tang tóc. Nỗi đau mất mát đã hòa vào làm một, trở nên tột cùng. Âm thanh ấy trở thành âm thánh chủ đạo dội ngược lên toàn bộ các hồi trước của vở kịch.


Khắc khoải trong lòng người đọc vẫn là những dấu chấm hỏi, những câu cảm thán thốt ra từ đỉnh điểm của cảm xúc, từ cao trào của xung đột trong Vũ Như Tô: Ta tội gì? Ta không có tội! ôi mộng lớn Ị ôi Đan Thiềm Ị Ôi Cửu Trùng Đài! Cảm giác ngột ngạt, bức bối tưởng như còn nguyên vẹn khi Nguyễn Huy Tưởng viết lời đề tựa: ôi khô khan! ôi gay gắt! Bi kịch Vũ Như Tô đã thức tỉnh ý thức của chúng ta về vấn đề muôn thuở: mối quan hệ hữu cơ giữa nghệ thuật và cuộc sống.

Ngược lại với nhận thức của Vũ Như Tô, trong mắt dân chúng, Cửu Trùng Đài là hiện thân của thói ăn chơi xa xỉ, hiện thân của tội ác. Cửu Trùng Đài và cha đẻ của nó – Vũ Như Tô – chính là kẻ thù của họ. Vũ Như Tô, Cửu Trùng Đài, lũ cung nữ… bị quân phản nghịch xếp chung vào một hạng cần phải trị tội. Bởi vậy Cửu Trùng Đài bị thiêu cháy, Vũ Như Tô bị giải ra pháp trường và dân chúng reo hò, ăn mừng như ăn mừng chiến thẳng lớn.


Điều gì đã tạo nên sự khác biệt đến đối lập khi nhìn nhận và đánh giá về công trình cửu Trùng Đài mà kiến trúc sư Vũ Như Tô từng kì vọng: móng phải đào sâu xuống dưới âm ti, nóc phải vờn mây?Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài với ao ước điểm tô cho đất nước, để lại cho dân tộc một công trình là hiện thân của cái đẹp cao cả, huy hoàng, đem hết tài ra xây cho nòi giống một tòa đài hoa lệ, thách thức cả những công trình sau trước, tranh tinh xảo với Hóa công. Ao ước, khao khát ấy là cao cả, là chân chính, bởi xuất phát điểm của nó là từ một cái Tâm tha thiết với dân tộc. Cho nên ngay từ đầu, nhiều người đã hiểu và ủng hộ Vũ Như Tô. Nhưng đài càng xây cao, mạng người càng rẻ mạt, dân chúng càng điêu đứng, bọn hôn quân bạo chúa càng ra tay vơ vét. Cửu Trùng Đài đã trở thành đại hoạ, gây ra bao khốn khổ điêu linh, thành một đóa hoa ác, thành hiện thân cho thói xa hoa hưởng lạc trên xương máu của nhân dân. Và tất nhiên, trong mắt nhân dân, Vũ Như Tô trở thành kẻ thù phải đền tội.


Trái lại, Vũ Nhự Tô vẫn không thể thoát ra khỏi trạng thái mơ màng, ảo vọng. Ông không tin rằng công việc cao cả mình đang làm lại có thể bị xem là tội ác, cũng không thể tin sự quang minh chính đại của mình lại bị người đời rẻ rúng, nghi ngờ đến thế. Sự vỡ mộng của Vũ Như Tô vì vậy mà đau đớn, kinh hoàng gấp bội so vớt Đan Thiềm. Những tiếng kêu thống thiết cuối cùng của Vũ Như Tô khi ngọn lửa oan nghiệt đang bùng bùng thiêu trụi Cửu Trùng Đài, trước khi tác giả của nó bị dẫn ra pháp trường dường như còn vang vọng đến bây giờ. Trong tiếng kêu ấy, mộng lớn, Đan Thiềm, Cửu Trùng Đài đã được Vũ Như Tô đặt kế tiếp nhau, nhiều nỗi đau mất mát hòa nhập làm một, thành nỗi đau tột cùng của người nghệ sỉ tài ba.


Nguyễn Huy Tưởng đã viết trong lời đề tựa: cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiền). Bệnh Đan Thiềm chính là bệnh đam mê, trân trọng, nâng niu Cái Đẹp, Cái Tài, bệnh của những kẻ biệt nhơn liên tài. Cái Tài mà Đan Thiềm mê đắm, không quản ngại những điều thị phi, quên cả sự nguy hiểm của bản thân để bảo vệ không phải là cái Tài bình thường mà là cái Tài siêu việt. Cầm bút chẳng qua cùng với bệnh Đan mềm, lời đề tựa đó đã cho chúng ta thấy tấm lòng trân trọng, cảm phục của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng trước hoài bão, khát vọng to lớn của Vũ Như Tô.


Đan Thiềm có thể quên mình để khích lệ, bảo vệ tài năng đặc biệt của Vũ Như Tô, nhưng nàng luôn tỉnh táo, sáng suốt trong mọi trường hợp vì nàng hiểu người, hiểu đời, thức thời, mềm mại và dễ thích ứng với hoàn cảnh hơn Vũ Như Tô. Hai lần Đan Thiềm khuyên nhủ Vũ Như Tô đều hết sức sáng suốt, nhưng lần thứ nhất lời khuyên có hiệu lực; lần thứ hai thì không và bi kịch,của nàng chủ yếu gắn với thất bại này. Tất nhiên, nàng chỉ đau xót và tiếc thay cho Vũ Như Tô chứ không oán trách ông. Giữa nàng và người đồng bệnh Vũ Như Tô vẫn có một khoảng cách không thể vượt qua.


Đan Thiềm là người đã khuyên Vũ Như Tô ở lại nhận lời xây dựng Cửu Trùng Đài trong hồi I, giờ đây lại thuyết phục Vũ Như tô hãy trốn đi. Cả hai lần khuyên đó đều có ý nghĩa bảo vệ Cái Tài, Cái Đẹp: Khi trước trốn đi thì ông nguy, bây giờ trốn đi thì ông thoát chết. Khuyên Vũ Như Tô trốn đi bởi Đan Thiềm đã đau đớn nhận ra thất bại của giấc mộng lớn Cửu Trùng Đài. Mối quan tâm của nàng bây giờ không phải là Cửu Trùng Đài mà là sự sống chết của Vũ Như Tô. Trong hồi thứ V, có đến gần hai chục lần nàng thúc giục Vũ Như Tô trốn đi, lánh đi, đi đi, chạy đi. Trong cơn nguy biến, những điệp khúc đó được nhắc đi nhắc lại một cách gấp gáp, hối thúc. Cùng với ngôn ngữ là cử chỉ, nét mặt, ánh mắt hốt hoảng, lo lắng. Đan Thiềm đã hớt hơ hớt hải, mặt cắt không còn giọt máu. Lời giục giã Vũ Như Tô trốn chạy nàng nổi gấp gáp đứt quãng trong hơi thở hổn hển. Có những câu như là lời van xin khẩn thiết và quyết liệt: Ông nghe tôi! Ông trốn đi ! Ông nghe tôi! Ông phải trốn đi mới được Ị Tránh đi Ị Trốn đi Ị Đợi thời là thượng sách! Đừng để phí tài trời! Trốn đi! Đến khi có trốn cũng không được nữa, Đan Thiềm tìm mọi cách van xin tha tội cho Vũ Như Tô. Có đến bốn lần nàng nhắc lại yêu cầu khẩn thiết đó, nàng đem cả tính mạng mình ra đánh đổi: Tướng quân hãy nghe lời tôi, đừng phạm vào tội ác. Đừng giết ông Cả. Kẻo tướng quân mang hận về muôn đời! Tha cho ông Cả. Tôi xin chịu chết!


Kết thúc lớp kịch thứ V, chỉ còn tiếng kêu thảng thốt, đau đớn, nghẹn ngào, nức nở của Đan Thiềm: ông Cả ! Đài lớn tan tành! ông cả ơi Ị Xin cùng ông vĩnh biệt! Giấc mộng lớn giờ đấy mới thực sự tan tành. Cái Đẹp, Cái Tài, tất cả đều thành tro bụi trong cơn biến loạn mới cố gắng gìn giữ, bảo vệ đều không thành, Xin cùng ông vĩnh biệt!Câu nói cuối cùng của Đan Thiềm nói lời vĩnh biệt mãi mãi với Như Tô và Cửu Trùng Đài, vĩnh biệt một giấc mộng nghệ thuật lớn lao, đẹp đẽ trong máu và nước mắt.


Qua diễn biến của vở kịch, ta thấy thể hiện hai mâu thuẫn. Mâu thuẫn thứ nhất là mâu thuẫn giữa đời sống xa hoa, trụy lạc của bọn tham quan bạo chúa với đời sống cơ cực, thống khổ của nhân dân lao động (nói gọn lại là mâu thuẫn giữa lợi ích của bậc chúa với quyền sống của dân chúng, tất yếu sẽ dẫn đến việc dân chúng nổi dậy diệt trừ tên bạo chúa và tất cả những kẻ bị xem là cùng phe cánh của hắn ở hồi cuối của vở kịch). Mâu thuẫn này chủ yếu thể hiện ở những hồi trước của vở kịch và đã được đẩy thành cao trào trong hồi cuối. Quá trình phát triển của mâu thuẫn đã chỉ ra tính chất tất yếu của hồi thứ


Tóm tắt vở kịch cho thấy Lê Tương Dực vốn không phải là một ông vua thương dân, thương nước. Vua cho xây Cửu Trùng Đài tráng lệ là để mình cùng người đẹp Kim Phượng và lũ cung nữ ăn chơi hưởng lạc. Để xây Cửu Trùng Đài, vua ra lệnh bắt thuế, tróc thợ. Dân đói khát, điêu đứng vì mất mùa, càng khổ thêm vì vua đòi thuế một thì quan bổ gấp đôi. Thợ thuyền làm việc vất vả, nguy hiểm, lại bị ăn chặn nên đói khát, chết vì bệnh dịch và vì tai nạn.


Trong những hồi trước, giữa tiếng đá đổ ghê người trên công trường xây dựng, nhiều người chết không thể lấy được xác, mùi xú uế bốc lên đến ngạt thở, thế mà vẳng từ xa lại là tiếng đàn địch, tiếng reo hò của vua quan và lũ cung nữ đang đánh trận giả bên Hồ Tây. Như vậy hỏi làm sao xã hôi lại không loạn, không biến ? Đây là lúc tức nước vỡ bờ, dân nổi can qua, các phe cánh nổi lên tranh giành quyền lực. Trong triều, ngoài nội, đâu đâu cũng loạn. Mâu thuẫn đã phát triển thành xung đột, thành cao trào. Kết quả là hôn quân Lê Tương Dực bị Trịnh Duy sản giết chết. Nguyễn Vũ tự sát trong trò hề ngu trung, hoàng hậu nhảy vào lửa tự thiêu, Kim Phượng và đám cung nữ bị bắt bớ, nhục mạ cửu Trùng Đài, hiện thân cho tham vọng ăn chơi của Lê Tương Đực bị đốt thành tro bụi. Tiếc rằng cuộc nổi dậy ấy không mang lại điếu gì tốt đẹp hơn cho dân chúng bởi giang sơn sẽ rơi vào tay những kẻ cầm đầu cuộc phản loạn (tức phe cánh của Trịnh Duy Sản) mà bản chất cũng chẳng có gì đáng tin cậy.


Mâu thuẫn thứ hai là mâu thuẫn giữa niềm khao khát hiến dâng tất cả cho nghệ thuật của người nghệ sĩ với lợi ích trực tiếp và thiết thực của nhân dân. Mâu thuẫn này xuất phát từ nguyên nhân sâu xa của bi kịch: trong xã hội cũ, người nghệ sĩ thiên tài không có điều kiện sáng tạo, không thể thi thố tài năng. Trên thực tế, anh ta vẫn chỉ là một gã thợ thủ công vô danh tiểu tốt. Vì thế khi biết rằng có thể mượn tay bạo chúa Lê Tương Dực để thực hiện được hoài bão của mình thì Vũ Như Tô sẵn sàng chấp nhận tất cả, kể cả khi phải trả bằng cồng sức, tiền bạc của nhân dân, bằng mồ hôi, xương máu của những người thợ. Chính niềm khao khát vô biên đã khiến người nghệ sĩ đắm chìm trong mơ mộng, đẩy Vũ Như Tô đến vị thế đối nghịch với dân chúng. Dù muốn hay không, Vũ Như Tô đã bất đắc dĩ trở thành kẻ thù của nhân dân.


Cuối vở Kịch, dân chúng không chỉ nguyền rủa tác giả cửu Trùng Đồi mà còn nghe theo lời của những kẻ cầm đầu cuộc nổi loạn đốt phá tan tành Cửu Trùng Đài và trừng phạt tác giả của nó. Đây là lúc mâu thuẫn, xung đột kịch đã lên đến đỉnh điểm. Nếu như trong những hồi đầu, nó chi là mâu thuẫn tiềm ẩn, có vẻ mờ nhạt, thấp thoáng đằng sau mâu thuẫn thứ nhất, thì giờ đây, nó hầu như đã nhập vào làm một với mâu thuẫn thứ nhất. Thậm chí người dân hầu như không mấy quan tâm đến việc trả thù bạo chúa Lê Tương Dực vì việc này đã có phe cánh của Trịnh Duy Sản đảm nhiệm, mà chỉ chăm chăm truy diệt (phanh thây) Vũ Như Tô và người cung nữ “đồng bệnh” với ông là Đan Thiềm.


Các mâu thuẫn nói chung thường chi có thể giải quyết bằng hai cách: hoặc triệt tiêu (phủ định dứt khoát hẳn một phía, để thắng lợi cho phía kia), hoặc hoà giải (điều hòa, cải biến cả hai phía). Chẳng hạn, với mâu thuẫn thứ nhất, nhân dân nổi dậy giết bạo chúa là xong, nhưng mâu thuẫn thứ hai, chỉ có thể giải quyết theo cách hoà giải. Thế mà xem ra đã không có một cuộc hòa giải nào. Cơ hội duy nhất để chờ hoà giải là Vũ Như Tô phải tạm trốn đi, chờ thời. Nhưng Vũ Như Tô vừa mù quáng vừa cố chấp nên cơ hội này bị bỏ qua. Ở đây, dân chúng còn hồ đồ, mù quáng hơn cả Vũ Như Tô. Họ những tưởng đốt Cửu Trùng Đài là xong xuôi mọi sự. Cửu Trùng Đài bị đốt, nhưng Vũ Như Tô vẫn không hiểu gì và không hề quan tâm đến lợi ích thiết thực của dân chúng. Ông đi ra pháp trường, bình thản nhận cái chết. Hai giá trị: Cái Đẹp và Cái Thiện đã không thể hoà hợp, chung sống với nhau. Cái Đẹp bị tiêu diệt thì Cái Thiện cũng không còn đất sống.


Mâu thuẫn và tính khồng dứt khoát trong cách giải quyết mâu thuẫn của tác giả được thể hiện tập trung trong hồi cuối của vở kịch. Cửu Trùng Đài bị đốt cháy, dân chúng trước sau vẫn không hiểu gì về việc sáng tạo của nghệ sĩ. Lúc trước, họ nguyền rủa việc xây Cửu Trùng Đài, giờ đây, họ hả hê đốt phá. Họ càng không hiểu nổi Đan Thiềm, Vũ Như Tô cũng như mộng lớn của hai nhân vật – hiện thân cho Tài – sắc này. Về phía khác, Đan Thiềm không cứu được Vũ Như Tô bằng lời khuyên của nàng, mặc dù trong mắt Vũ Như Tô, nàng là người tri kỉ, lại là viên ngọc quý, trí sáng như vầng nhật nguyệt Vũ Như Tô không thể và không bao giờ hiểu được việc làm của dân chúng và phe cánh nổi loạn, Nếu Vũ Như Tô nghe lời Đan Thiềm, trốn đi thì có thể mâu thuẫn sẽ được giải quyết theo một hướng khác chăng?


Thực ra, đây là mâu thuẫn có lẽ không bao giờ và không ai giải quyết cho thật dứt khoát, ổn thỏa được. Bởi vì nó mang tính phổ quát và mang tầm nhân loại: thực chất là biểu hiện của mâu thuẫn giữa nghệ sĩ và nhân dân, giữa Cái Đẹp (thuần tuý, siêu đẳng) và Cái Thiện trong một số hoàn cảnh, trường hợp đặc biệt. Mâu thuẫn này chỉ có thể giải quyết ổn thoả khi đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân cùng nhu cầu về Cái Đẹp được nâng cao.


Ngôn ngữ kịch trong đoạn trích hàm súc và giàu ý nghĩa. Tác giả đã dẫn dắt thành công các xung đột kịch, thể hiện tính cách, tâm trạng nhân vật thông qua ngôn ngữ và hành động. Diễn biến kịch xảy ra rất nhanh trong nhịp điệu bão tố. Các lớp kịch ngắn, thay đổi liên tục, lời thoại gấp gáp. Tiếng reo, tiếng thét liên tục vang ra từ hậu trường góp phần tạo nên một không gian đầy bạo lực kinh hoàng, một bức tranh bi tráng. Việc đặt nhân vật trong không gian một cung cấm với các tên đất, tên người cụ thể ít nhiều có yếu tố lịch sử làm cho vở kịch mang đậm không khí của hiện thực thời đại.


Trong lời đề tựa viết một năm sau khi vở kịch ra đời, Nguyễn Huy Tưởng đã công khai bày tỏ nỗi băn khoăn của mình: Đài Cửu Trùng không thành, nên mừng hay nên tiếc? Chẳng biết Vũ Như Tô phải hay những kẻ giết Vũ Như Tô phải… Ta chẳng biết, cầm bụt chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm.

  • Kết bài:

Có thể hiểu thái độ, cách đánh giá của Nguyễn Huy Tưởng về Vũ Như Tô qua thái độ và cách đánh giá của Đan Thiềm đối với nhân vật này. Đan Thiềm cảm phục, trân trọng Vũ Như Tô nồng nhiệt đến quên mình, nhưng Nguyễn Huy Tưởng lại thận trọng tỉnh táo nhận ra Vũ Như Tô mới chỉ là nhân tài, chứ chưa phải là bậc hiền tài. Cái Đẹp mà Vũ Như Tô có thể tạo ra chỉ là tuyệt mĩ mà không tuyệt thiện. Chân lí chi thuộc về Vũ Như Tô một nửa, còn nửa kia thuộc về đời sống dân chúng. Thái độ nhà văn chủ yếu là trân trọng Cái Tài, khâm phục hoài bão nghệ thuật to lớn và thông cảm với bi kịch của Vũ Như Tô, chứ không phải là thái độ ca ngợi một chiều. Trong vở kịch có những chỗ Nguyễn Huy Tưởng đã không đồng tình đối với nhân vật của mình, mặc dù Vũ Như Tô được khẳng định là thiên tài ngàn năm có một.

Ảnh minh họa (Nguồn internet) ảnh 1
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Hi vọng bài viết trên mang lại nhiều giá trị cho bạn. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài văn hay trên Alltop.vn

Hãy đăng nhập để bình luận

Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .

0/
Top 5
Bài soạn "Vĩnh biệt cửu trùng đài" (Ngữ văn 11 - SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 6