Top 8 Bài văn thuyết minh về cây chè (lớp 9) hay nhất
Từ lâu, những ấm chè đã đi vào tiềm thức của con người Việt Nam. Chén chè mời nhau đầu câu chuyện, chén chè gắn kết mối lương duyên hai người, chén chè là thói...xem thêm ...
Bài văn thuyết minh về cây chè - mẫu 1
Trong ách loại cây lấy nước uống, chắc hẳn chúng ta ai cũng biết đến cây chè. Một loại cây trồng phổ biến ở Việt Nam, được rất nhiều người ưa chuộng và đã trở thành một trong những loài cây công nghiệp quan trọng.
Cây chè được trồng chủ yếu ở khu vực Đông Á, Nam Á, Đông Nam á vì thích hợp với khí hậu nhiệt đới, cận nhiệt đới và đất đai của những khu vực này. Ở Việt Nam ta, khu vực trồng chè phổ biến nhất là miền Bắc và miền Trung, thị trường chè nở rộ từ những năm đầu thế kỉ XX. Chè luộc loại cây lưu niên, thường mọc thành bụi. Mỗi cây chè thường được cắt tỉa, cao khoảng dưới hai mét để thuận tiện cho quá trình thu hoạch. Thân cây nhỏ, màu nâu sẫm, một thân chính rồi phân ra các cành nhỏ khác nhau, rễ cái dài và bám chắc, thuộc loại rễ cọc. Cây chè có hai loại mầm, mầm sinh dưỡng và mầm sinh thực. Nếu như mầm sinh dưỡng sẽ phát triển thành lá chè, thì mầm sinh thực sẽ phát triển thành hoa và quả. Lá cây chè có hình dáng khá phổ biến, lá non màu xanh nhạt, khi già thì màu xanh đậm hơn, dưới lá có những lông tơ ngắn, hai bên viền có những chiếc răng cưa nhỏ. Hoa cây chè mang một màu trắng ngà thuần khiết, mỗi hoa có chừng 8 cánh, bên trong nhụy màu vàng. Hoa chè có mùi đặc trưng, nhẹ nhàng. Quả chè hình tròn và bên trong có chứa hạt.
Cây chè có rất nhiều công dụng nên mới được ưa chuộng như vậy. Chủ yếu dùng để làm chè, chè tươi hoặc chè khô, hãm với nước sôi tạo thành nước chè vàng vàng xanh. Uống vào có vị đặc trưng, nồng và hơi đắng, khi uống xong sẽ thấy ngọt ở cổ họng. Chè được ưa chuộng chủ yếu bởi những người trung niên và lớn tuổi. Chè có tác dụng kích thích hệ thần kinh, chống buồn ngủ. Ngoài ra, chè còn là thứ nước giải khát, giúp mát tim, thải độc. Uống chè trong một mức độ vừa đủ rất tốt cho sức khỏe, chống ung thư, giảm stress, làm đẹp da. Lá chè được sử dụng nhiều nhất, ngoài ra cũng có sử dụng hạt chè để ép lấy tinh dầu. Với một đất nước thiên về trồng trọt như nước ta, việc phát triển trồng chè rất có lợi cho nền kinh tế bởi đây là mặt hàng xuất khẩu rất thu hút. Không những thế, chè còn là nét đẹp văn hóa của dân tộc, bát nước chè mỗi buổi làm đồng xua đi cái nắng. Mỗi gia đình ở quê miền Bắc thường vẫn có một ấm tích chè tươi được đặt trong cái giành tích, để cả ngày nước chè vẫn còn nóng. Đây là một nét đẹp văn hóa cần được giữ gìn.
Cây chè trồng thích hợp nhất ở vùng có khí hậu nhiệt đới như Đông Nam Á chúng ta, nơi đất chua thích hợp cho cây chè phát triển. Người ta thường đi hát chè lúc sáng sớm, khi sương đêm và mưa còn đọng lại trên lá chè tươi và xanh. Một số địa điểm trồng chè nổi tiếng ở Việt Nam có thể kể đến như Tân Cương (Thái Nguyên), Bảo Lộc (Lâm Đồng), Pleiku (Gia Lai),… mang lại nguồn kinh tế không nhỏ cho quốc gia và cũng là một địa điểm du lịch để, gần gũi với thiên nhiên thu hút nhiều du khách.
Cây chè từ lâu đã có ý nghĩa quan trọng với dân tộc ta, một loại cây gần gũi và có nhiều công dụng hết sức thiết thực. Cây chè sẽ luôn luôn là loại cây công nghiệp mũi nhọn của quốc gia và là một trong những loại cây mang đậm phong cách văn hóa dân tộc.
Bài văn thuyết minh về cây chè - mẫu 3
Nếu được chọn một loại nước gắn liền với người dân Việt Nam thì chẳng phải thứ nước cao sang, phức tạp gì mà chính là nước chè hay nước trà. Cây chè từ lâu đã đi vào đời sống của người dân, trở thành một loại cây quen thuộc.
Gốc gác của cây chè theo nghiên cứu là nằm ở vùng Đông Á, Nam Á và Đông Nam Á. Đây là loại cây thích hợp sống ở những vùng có khí hậu nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, tiêu biểu như là Việt Nam. Đất nước ta có những đồi chè bạt ngàn ở Thái Nguyên, Mộc Châu, Đà Lạt. Từng hàng chè này nối tiếp hàng chè kia với màu xanh tràn đầy sức sống nối tiếp tận chân trời. Hình ảnh thanh bình này đã khiến cho lòng người thêm khoan khoái, đã đi vào bao bức ảnh và là phông nền lý tưởng cho nhiều video ca nhạc hay giới thiệu vẻ đẹp của đất nước Việt Nam. Đặc tính của chè là được trồng trên vùng cao khoảng một nghìn năm trăm mét. Với độ cao lý tưởng này tuy chè phát triển chậm nhưng bù lại lại hấp thụ rất nhiều sinh dưỡng của đất trời, hương vị của nắng, gió, sương càng làm cho lá chè thơm tho.
Chè hay trà thuộc loại cây lưu niên, không mọc riêng lẻ mà mọc thành bụi. Người ta thường cắt tỉa cho chiều cao của cây chè chỉ còn hai mét để cây tập trung phát triển các phần trọng điểm khác, đặc biệt là lá. Chè chỉ gồm một thân chính, có thể coi là thuộc loại thân gỗ hoặc bán gỗ. Từ đây các cành nhỏ khác cũng đâm ra tạo thành một tán được che phủ bởi màu xanh của lá. Chè có hệ rễ cái dài đâm sâu vào lòng đất hút chất dinh dưỡng. Mầm sinh dưỡng của cây cho cành và lá còn mầm sinh thực thành nụ hoa và quả. Lá chè mang hình bầu dục, thuôn thuôn về hai đầu. Nhưng người ta sẽ thường thu hoạch phần búp trà, tức là khi lá trà vẫn còn non, xanh nõn rà. Mỗi búp chỉ vài ba lá.
Chè thường được dùng để pha nước uống. Có hai loại chè tươi và chè khô. Chè tươi được pha trực tiếp từ những lá chè hái ngoài vườn hay trên đồi về. Còn chè khô là loại đã thông qua cả một quy trình sản xuất. Một năm thường có ba vụ chè. Lá chè được hái, đặc biệt là nên hái vào lúc sáng sớm khi những giọt sương vẫn còn đọng trên lá, sau đó đem về phơi khô. Rồi chè được đem vào tôn quay, loại bỏ những phần vụn nát rồi bước vào công đoạn vò chè. Sau khi vò, chè được đưa ra phơi cho lên hương. Cuối cùng có thể đem đóng gói và xuất ra thị trường. Chè khô này cũng là nguyên liệu của chè sen, loại chè nhiều người mong muốn thưởng thức.
Trà cũng rất tốt cho sức khỏe. Trước tiên nó có tác dụng giải khát, là thức uống không thể thiếu của các quán nước, thậm chí còn hình thành nét văn hóa "trà đá vỉa hè". Ngoài ra trong trà xanh còn có các thành phần ngăn ngừa ung thư, diệt khuẩn. Trà còn được dùng làm nguyên liệu cho một số loại thuốc Đông Y. Trà cũng còn là sự lựa chọn của các chị em phụ nữ trong phương pháp làm đẹp. Lên du lịch ở các vùng trồng chè, có túi chè mang về làm quà biếu cho người thân, họ hàng thì quả là đáng quý mỗi dịp nhà có khách. Ngoài ra, chè cũng có giá trị kinh tế, là mặt hàng được xuất khẩu ra nhiều nước. Uống trà cũng được coi là cả một đạo, là phương thức thanh lọc tâm hồn để tận hưởng cuộc sống, là dư vị cho mỗi vị khách phương xa vấn vương mãi. Tuy nhiên, uống nhiều trà quá cũng không tốt cho cơ thể, dễ gây ra vàng răng hay chứng mất ngủ.
Cây chè đã cứ thế đi vào gắn bó với đời sống con người. Được thưởng thức một chén trà lòng chợt bình yên đến lạ.
Bài văn thuyết minh về cây chè - mẫu 2
“Chắt chiu vị ngọt cho đời
Từ hương của đất bao người say mê.
Chè xanh ngan ngát đồng quê
Bàn tay em hái đem về vò, sao.”
Màu lá xanh, mùi ngan ngát ấy là màu, là hương của chè xanh. Đi dọc địa hình đất nước, ta bắt gặp những cánh rừng bạt ngàn, những đồng lúa chín ngát, những vườn cây um tùm tốt tươi, và ta còn thấy những rừng chè phủ xanh đồi núi. Cây chè, hay cây trà là loài cây có xuất xứ từ Đông Á, Nam Á và Đông Nam Á. Cho đến ngày nay, cây chè đã trở nên phổ biến và được trồng trọt ở nhiều nơi, đặc biệt là ở các khu vực có khí hậu nhiệt đới hoặc cận nhiệt. Ở Việt Nam, Tân Cương Thái Nguyên, Mộc Châu Sơn La, Đà Lạt Lâm Đồng,… là những vùng trồng nhiều chè nổi tiếng và cho năng suất chè cao nhất trong cả nước.
Cây chè có một thân chính, có thể là thân gỗ, thân bán gỗ hoặc thân bụi. Từ thân, nhiều cành nhỏ khác mọc ra tạo thành tán chè. Mầm chè có hai loại là sinh dưỡng và sinh thực, mầm sinh dưỡng thì cho cành và lá, mầm sinh thực cho quả và hoa. Chè là cây có rễ cọc ăn sâu xuống lòng đất, hút nước và muối khoáng để nuôi lớn cây. Lá chè thuôn theo hình bầu dục nhọn hai đầu. Khi còn non, lá có màu xanh lục nhạt, đây là thời kì lá chè được thu hoạch để sản xuất. Khi về già, lá ngả sang màu xanh thẫm. Chè thường được trồng ở trên độ cao khoảng một nghìn năm trăm mét bởi ở độ cao này, chè phát triển chậm, tích được nhiều hương vị của nắng, gió và không khí của vùng núi cao mát lành. Vì vậy nên mới có những đồi chè xanh tốt, những rừng chè phủ xanh từng ngọn núi.
Chè có giá trị nhất là ở lá non. Quy trình chế biến ra chè khô thường có bảy bước. Đầu tiên là hái chè. Một năm có ba vụ chè, là vụ xuân vào tháng ba tháng bốn, vụ hè thu vào tháng năm đến tháng chín, vụ thu đông từ tháng mười đến tháng mười hai. Lá chè được hái sau đó được phơi mỏng để cho khô sương và thoát hết khí ẩm ở lá trong quá trình vận chuyển, giai đoạn này gọi là làm héo chè. Tiếp theo, chè sẽ được cho vào tôn quay, gọi là ốp chè-diệt men chè. Sau đó, chè được loại bỏ những phần bị nát vụn và rồi tiến hành vò chè. Bước tiếp là làm khô chè trong tôn quay, sau đó chè được đổ ra nong nia cho lên hương. Giai đoạn cuối cùng là đóng gói và đưa chè ra thị trường tiêu thụ. Chè thường được làm thủ công bởi bàn tay con người với sự hỗ trợ của các thiết bị máy móc hiện đại.
Chè xanh là loại cây quen thuộc và nó cũng là tên của thức uống vô cùng phổ biến tại Việt Nam. Trong các phiên chợ, nhiều khi ta cũng bắt gặp những người bán lá chè tươi, bán thành từng cành để người mua về tự hãm. Trong các gia đình của Việt Nam, cũng không khó để xin một cốc chè xanh. Thường thì người ta sử dụng chè khô thay cho chè tươi bởi dễ pha hơn và được bán rộng rãi hơn. Lá chè cũng là một loại thuốc Đông y hỗ trợ điều trị các bệnh như hen suyễn, bệnh tim mạch vành, nhiệt miệng,… Trà xanh là loại nước uống có rất nhiều công dụng, góp phần ngăn ngừa bệnh ung thư, diệt khuẩn và là loại nước được các chị em yêu thức là công dụng làm đẹp da và hỗ trợ giảm cân. Tuy nhiên, nếu uống quá nhiều chè thì có thể dẫn đến nhiều căn bệnh, gây ảnh hưởng xấu đến cơ thể người sử dụng như mất ngủ, khó tiêu, uống chè cùng với thuốc có thể gây rối loạn tiêu hóa,… Những đồi bạt ngàn cây chè xanh còn là điểm thăm quan của nhiều du khách từ mọi miền, là những điểm du lịch tự nhiên hút khách, được nhiều người chọn làm nơi chụp ảnh kỷ niệm. Cây chè cũng là cây đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho quốc gia bởi giá trị xuất khẩu và tiềm năng phát triển của chúng, đặc biệt là chè búp Tân Cương, Thái Nguyên rất nổi tiếng bởi hương vị độc đáo, đáp ứng nhu cầu thưởng trà của nhiều người.
Chè là loại cây rất phổ biến nhưng cũng rất độc đáo, là hình ảnh đặc trưng cho vùng núi đồi xa xôi Việt Nam. Không chỉ là thức uống mà chè còn có nhiều giá trị đời sống khác, là nét phác họa không thể thiếu trong bức tranh đất nước trời Nam.
Bài văn thuyết minh về cây chè - mẫu 4
Chè xanh là một loại cây rất gần gũi trong đời sống con người. Từ nhiều thế kỷ qua, trà được biết đến là thức uống có giá trị cho sức khỏe con người và được sử dụng phổ biến trên thế giới. Cây chè và các sản phẩm trà không chỉ có giá trị về mặt kinh tế mà còn mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Tại nhiều quốc gia, cách dùng trà đã được nâng lên thành nghệ thuật, văn hóa trà đã trở thành nét độc đáo làm phong phú thêm kho tàng ẩm thực trà thế giới.
Nhiều nhà khoa học cho rằng cây chè có nguồn gốc từ vùng Đông Á và Đông Nam Á. Còn theo truyền thuyết, người đầu tiên phát hiện ra cây trà là vua Thần Nông, vào khoảng năm 2730 trước Công Nguyên. Cây chè đã được khám phá và phát triển từ đó. Về sau, các tu sĩ Phật giáo trong quá trình truyền giáo đã đem cây chè sang Ấn Độ và Nhật Bản. Dần dần, các thương gia đã đưa trà sang châu Âu và hình thành “văn hóa trà” trên khắp thế giới, mang nét đặc thù của từng dân tộc. Chè là một loài cây sống ở nơi có nhiệt độ thấp. Chè thường được trồng ở vùng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Khí hậu ẩm ướt và nhiều nắng ấm là hai yếu tố chính. Chè đặc biệt phù hợp với loại đất tốt, sâu chua nên hay được trồng nhiều ở những vùng trung du hoặc miền núi. Một số nơi trồng chè nổi tiếng ở nước ta như: Tân Cương (Thái Nguyên), Mộc Châu (Sơn La), Đà Lạt (Lâm Đồng), Pleiku (Gia Lai),…
Cây chè là loài cây mà lá và chồi của chúng được sử dụng để sản xuất chè. Nó là loại cây xanh lưu niên mọc thành bụi hoặc các cây nhỏ, thông thường được xén tỉa để thấp hơn 2 mét khi được trồng để lấy lá. Rễ chè thuộc họ rễ cọc, có rễ cái dài. Cây chè chỉ có một thân chính, từ thân chính đó phân ra các cành nhánh. Người ta chia thân chè ra làm 3 loại: thân gỗ, thân nhỡ và thân bụi. Thân và cành chè tạo nên khung tán của cây chè. Trên cây chè có hai loại mầm: mầm sinh dưỡng và mầm sinh thực, mầm sinh dưỡng phát triển thành cành lá, mầm sinh thực phát triển thành nụ hoa và quả. Búp chè là đoạn non của một cành chè, gồm có tôm và hai hoặc ba lá non. Lá chè mọc cách trên cành, mỗi đốt có một lá, gân lá nổi lên rất rõ. Lá của chúng dài từ 4 – 15cm. Lá chè lúc mới mọc có màu xanh non, khi già hơn thì có màu xanh đậm. Hoa của nó nhỏ, có màu trắng ánh vàng, đường kính từ 2,5 – 4cm, với 7 – 8 cánh hoa. Hạt của nó có thể ép để lấy dầu.
Chè là loại cây có rất nhiều công dụng. Mùa hè là thời điểm tốt và thuận lợi để cây chè sinh trưởng và phát triển. Đây cũng là thời điểm cây chè ra búp nhiều nhất, vì vậy cần thu hái kịp thời cho đúng thời vụ, nếu không chè sẽ bị quá lứa dẫn đến giảm chất lượng. Chè thường được thu hoạch vào sáng sớm, lúc này, những tia nắng mặt trời mới bắt đầu ló rạng, những búp chè còn đọng nguyên sương đêm trong lành, tinh khiết của đất trời. Cả lá chè tươi hoặc xao khô đều có thể làm nước uống rất tốt. Uống chè giúp kích thích hệ thần kinh, giảm buồn ngủ, mát tim bổ phổi, giải nhiệt cơ thể nên được rất nhiều người ưa chuộng. Ngoài ra, chè còn rất hữu dụng trong việc làm giảm bệnh ung thư, huyết áp, làm đẹp da, giảm stress. Trà là thủ tục trong nhiều nghi lễ truyền thống, trà đạo là nét đẹp văn hóa ở nhiều quốc gia.
Chè cũng là một mặt hàng xuất khẩu rất có giá trị. Tuy nhiên, cũng có một số lưu ý khi uống trà. Người cao tuổi chỉ nên uống trà ở mức độ vừa phải. Người ăn chay và người gầy không nên thường xuyên uống trà. Đặc biệt, chúng ta không nên uống trà lúc đói. Với những người thần kinh nhạy cảm, khó ngủ thì không nên uống trà vào buổi tối, vì chất cafein trong chè xanh sẽ gây kích thích làm mất ngủ. Ngoài ra nó còn nguyên liệu cho các nhà máy sản xuất như phân bón, trà xanh và các mặt hàng xuất khẩu của nhiều nước. Ngày nay, đồi chè còn trở thành nơi du lịch của giới trẻ.
Với những công dụng trên, chè có giá trị và ý nghĩa vô cùng to lớn đối với đời sống con người. Chè là một loài cây có giá trị kinh tế cao, là mặt hàng xuất khẩu có giá trị trên toàn thế giới. Lá chè và hoa chè sau khi chế biến đều là thức uống của người dân Việt Nam. Những đồi chè trải dài bát ngát đến tận chân trời còn tạo cảm hứng cho rất nhiều nhà văn, nhà thơ, đi vào thơ ca nhạc họa.
Cây chè đã có nguồn gốc từ lâu đời và sẽ còn nguyên giá trị dù hôm nay hay mai sau. Chè sẽ mãi đóng một vị trí đặc biệt trong cuộc sống tinh thần của người Việt. Chè mang lại rất nhiều công dụng bổ ích cho con người, vì vậy, chúng ta nên lưu giữ và phát triển loài cây này.
Bài văn thuyết minh về cây chè - mẫu 5
Nền kinh tế Việt Nam nổi bật với nền nông nghiệp có đa dạng và phong phú các loại cây công nghiệp lâu năm như cà phê, tiêu, điều, cao su, ca cao,... và chè cũng là một trong số những loài cây có vai trò chủ đạo trong nền nông nghiệp nước nhà. Với những công dụng tốt đối với sức khỏe, chè là một trong số những thức uống được ưa chuộng, đặc biệt là với người dân miền Bắc- cái nôi của truyền thống văn hóa ngàn đời. Khách đến chơi nhà, sao có thể thiếu được ấm trà nóng, vị trước chát sau ngọt, thể hiện tấm lòng hiếu khách của gia chủ.
Chè còn có tên gọi khác là trà, có tên khoa học là Camellia sinensis Theaceae, thuộc họ Chè. Có xuất xứ từ các nước châu Á, có nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng chè có nguồn gốc từ tỉnh Vân Nam của Trung Quốc, sau được nhân giống rộng rãi trên nhiều nơi trên thế giới bởi nó có tính thích nghi và chống chịu tốt của các loài cây mọc hoang. Loài này phát triển mạnh mẽ ở các khu vực có khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt, nơi có độ ẩm cao và khí hậu ấm áp. Ở Việt Nam cây chè được canh tác một cách rộng rãi thành các đồn điền lớn bắt đầu từ năm 1992 dưới sự cai quản của thực dân Pháp. Hiện nay loài cây này được trồng trải dài khắp các tỉnh miền trung và miền Bắc nước ta như Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Nghệ An... trong đó tập trung với diện tích lớn nhất là ở hai tỉnh Quảng Nam và Phú Thọ. Ngoài ra chè cũng được trồng ở các tỉnh miền Nam, nhưng chủ yếu là dùng để phục vụ nhu cầu sử dụng trong gia đình, không thiên về mục đích sản xuất.
Về đặc điểm thực vật, chè là loại cây bụi, mọc hoang, thuộc loài cây thân gỗ nhỏ, sống lâu năm, có bộ rễ dài và ăn sâu vào lòng đất, tuổi thọ kéo dài từ 30 - 40 năm. Chiều cao được khống chế trong khoảng dưới 2m để tiện cho việc thu hoạch, tuy nhiên nếu không được cắt tỉa và bấm đọt cây có thể đạt độ cao đến 10m. Lá chè có màu xanh đậm, dày, hai mặt nhẵn, gân lá rõ ràng, phần rìa lá có hình răng cưa. Lá non và phần búp có màu xanh nõn ngọc, đây là bộ phận chính để thu hoạch nhằm sản xuất ra các loại chè khô thành phẩm khác nhau. Hoa chè có màu trắng, gồm bảy đến tám cánh mỏng, bên trong có nhiều nhị vàng, phát ra hương thơm nhẹ nhàng. Qủa chè là loại quả nang, có 3 nang chính chứa hạt chè cứng màu nâu hoặc đen bóng tùy độ già của quả.
Hiện nay chè phổ biến nhất với bốn loài chính bao gồm: Chè Trung Quốc lá nhỏ, chè Trung Quốc lá to, chè Shan, và chè Ấn Độ, trong đó chè Trung Quốc lá to được trồng phổ biến nhất ở nước ta. Thành phần hóa học chủ yếu trong lá chè có tác dụng dược lý bao gồm tanin và các alkaloid như cafein, theophyllin, theobromin,... và các enzym liên quan đến sự chuyển hóa của cơ thể con người như EGCG,... Về thời vụ thu hoạch, ở nước ta chè chủ yếu được thu vào ba vụ là vụ xuân (tháng 3 - 4), vụ hè thu (tháng 5 - 10) và vụ đông (tháng 11 - 12). Người nông dân thu hái chè bằng phương pháp thủ công là dùng tay ngắt các búp chè tươi trong nhiều tuần liền, cho đến khi hái hết một lượt. Búp chè tươi sau khi được thu hái về phải được bảo quản trong chỗ râm mát, không nén ép hay để héo, trong suốt quá trình thu hái, vận chuyển phải đảm bảo chè luôn sạch không lẫn tạp chất, rác rưởi, và chè phải được sơ chế trong vòng 10 tiếng kể từ khi hái.
Về công dụng của cây, chè là một loài cây phổ biến luôn được biết đến với công dụng chính là một thức uống quen thuộc trong nền văn hóa ẩm thực của người dân châu Á từ ngàn xưa, với công dụng làm thơm miệng, khử mùi của thức ăn còn dư lại trong khoang miệng sau mỗi bữa ăn, thể hiện sự thanh nhã, thậm chí còn trở thành một nghệ thuật thưởng thức có tên là trà đạo. Ngày nay thông qua nhiều nghiên cứu khoa học, người ta phát hiện ra chè có nhiều công dụng với sức khỏe của con người. Các chất dạng alkaloid trong chè có tác dụng giúp tinh thần minh mẫn, sảng khoái, kích thích sự hoạt động của trí óc, giúp tỉnh táo, thư thái trong người, lợi tiểu. Tanin có trong chè là một loại chất giúp cầm tiêu chảy, kiết lỵ, tuy nhiên không nên làm dụng vì dễ dẫn đến táo bón, kém hấp thu sắt, canxi. Một số các enzym có trong lá chè tươi có tác dụng chống oxy hóa, chống lại các gốc tự do, chống lại sự lão hóa của cơ thể do tuổi tác, đồng thời còn có tác dụng chống ung thư hiệu quả, cũng như làm tăng tuổi thọ của những người thường xuyên sử dụng nước trà làm thức uống hàng ngày. Bên cạnh đó nước chè cũng có những tác dụng tích cực với các bệnh ly tim mạch, tiểu đường, parkinson. Trong nền y học cổ truyền, chè có tính mát, vị đắng chát, có hiệu quả trong việc thanh nhiệt giải độc, chữa các bệnh tả lỵ, mụn nhọt, tinh thần kém, một số nhiễm khuẩn ngoài da, ...
Trong nền kinh tế, chè là một trong những loại nông sản có giá trị xuất khẩu, là nghề chính của một bộ phận lớn người dân các tỉnh miền Trung và miền Bắc, hàng năm đóng góp một phần không nhỏ vào sự tăng trưởng của quốc gia. Tuy nhiên vì chưa có sự đầu tư bài bản và cũng như các phương pháp canh tác sản xuất hiện đại, thế nên sản lượng chè còn thấp, cũng như chất lượng chỉ đạt khoảng 60 - 70% so với các nước trong khu vực.
Chè là một loài cây thân thuộc với đa số chúng ta, không chỉ đem lại giá trị kinh tế cao, mà còn là một loại thức uống có nhiều lợi ích cho sức khỏe. Hy vọng rằng trong tương lai nước ta có thể cải thiện về cả sản lượng và chất lượng để vươn lên là một trong những nước xuất khẩu chè hàng đầu thế giới. Đồng thời cũng trở thành một loại thức uống phổ biến, các bạn trẻ cũng dần hiểu được giá trị và ý nghĩa của loài cây này với sức khỏe.
Bài văn thuyết minh về cây chè - mẫu 6
Trên đường tôi đến trường mỗi ngày bao giờ tôi cũng đi qua đồi chè. Mới sáng sớm mà các cô chú, các bác đã đi hái chè rồi. Hương thơm từ những cây chè xanh bay đi khắp nơi. Hương thơm ấy như tiếp thêm động lực cho những người dân ở quê hương tôi để chúng tôi bắt đầu một ngày mới đầy hứng khởi.
Xuất xứ của cây chè đến từ vùng Đông Nam Á, Nam Á và Đông Á. Ở Việt Nam thì chè được trồng nhiều ở các vùng Lâm Đồng, Sơn La, Thái Nguyên,… Ngoài các nơi này ở những nơi khác cũng có trồng chè nhưng không nhiều và năng suất cũng không lớn bằng. Thân cây chè có thể là thân bụi, thân bán gỗ hoặc thân gỗ nhưng chỉ có một thân chính duy nhất. Thân cây chè không cao nhưng từ thân mọc ra nhiều cành nhỏ tạo thành tán chè. Có hai loại mầm chè là sinh thực và sinh dưỡng. Mầm sinh dưỡng thì cho cành và lá trong khi đó mầm sinh thực thì cho quả và hoa. Rễ của cây chè thuộc loại rễ cọc nên rễ ăn sâu xuống lòng đất. Rễ cây có nhiệm vụ hút nước cũng như các chất dinh dưỡng trong đất để nuôi cây. Lá cây chè có hình bầu dục, không quá to và có màu xanh lục. Càng về già thì màu của lá càng trở nên đậm hơn. Có thể thấy cây chè thường được trồng ở những vùng núi cao và khí hậu mát lành. Với địa hình núi cao như vậy cây chè dễ dàng tích được hương vị của nắng, gió, không khí nên cây chè luôn xanh tốt.
Lá là phần có giá trị nhất của cây chè, đặc biệt là lá non. Lá non thường được hái để làm thành chè khô. Quy trình chế biến chè khô bao gồm hái chè, phơi khô chè, dệt men chè, vò chè, làm khô chè trong tôn quay và đóng gói. Mỗi một năm có 3 vụ chè là vụ xuân, vụ hè thu và vụ thu đông. Gần như chè được thu hoạch quanh năm nên lúc nào chúng ta cũng có chè để thưởng thức. Việc chế biến chè được thực hiện hoàn toàn bằng đôi tay của con người.
Từ những búp chè xanh chúng ta có được chè khô để pha uống. Những lá chè tươi thì có thể dùng để hãm nước cũng rất ngon. Ở nhiều nơi người ta vẫn bán những cành lá chè xanh tươi để mọi người mua về hãm nước uống. Chế biến chè khô thì lâu nhưng cách pha thì lại rất đơn giản. Chỉ cần cho một ít chè khô vào ấm rồi đổ nước sôi vào hãm vài phút là có thể uống được. Trong đông y lá chè là một loại thuốc giúp điều trị nhiệt miệng, bệnh tim mạch vành, hen suyễn,… Nước trà xanh cũng có công dụng tuyệt vời trong việc diệt khuẩn, ngăn ngừa bệnh ung thư, hỗ trợ giảm cân, đẹp da,… Mặc dù chè xanh có nhiều công dụng nhưng chúng ta cũng không nên uống quá nhiều bởi uống nhiều có thể dẫn đến khó tiêu, mất ngủ và rối loạn tiêu hóa nếu uống cùng với thuốc. Nhờ có cây chè những người trồng chè cũng có thêm thu nhập nhờ xuất khẩu. Chè Tân Cương Thái Nguyên quê tôi đã được xuất khẩu đi nhiều nơi và đáp ứng được những thị trường khó tính nhất.
Cây chè được xem như hình ảnh của quê hương tôi và nhiều vùng núi khác. Với những giá trị mà cây chè mang lại thiết nghĩa chúng ta phải trân trọng hơn những người trồng chè. Là một người con của mảnh đất trồng chè tôi nghĩ tôi sẽ phải làm điều gì đó để mang cây chè đến với nhiều người hơn, nhiều vùng đất hơn.
Bài văn thuyết minh về cây chè - mẫu 7
Chè xanh là một loại cây rất gần gũi trong đời sống con người. Đã từ lâu lắm rồi, nước chè trở thành một phần không thể thiếu trong những cuộc trò chuyện của người Việt, trở thành một nét đẹp trong truyền thống văn hóa của dân tộc ta.
Nhiều nhà khoa học cho rằng cây chè có nguồn gốc từ vùng Đông Á và Đông Nam Á. Còn theo truyền thuyết, người đầu tiên phát hiện ra cây trà là vua Thần Nông, vào khoảng năm 2730 trước CN. Cây chè đã được khám phá và phát triển từ đó. Về sau, các tu sĩ Phật giáo trong quá trình truyền giáo đã đem cây chè sang An Độ và Nhật Bản. Dần dần, các thương gia đã đưa trà sang châu Âu và hình thành “văn hóa trà” trên khắp thế giới, mang nét đặc thù của từng dân tộc.
Cây chè chỉ có một thân chính, từ thân chính đó phân ra các cành nhánh. Người ta chia thân chè ra làm 3 loại: thân gỗ, thân nhỡ và thân bụi. Thân và cành chè tạo nên khung tán của cây chè. Trên cây chè có hai loại mầm: mầm sinh dưỡng và mầm sinh thực, mầm sinh dưỡng phát triển thành cành lá, mầm sinh thực phát triển thành nụ hoa và quả. Búp chè là đoạn non của một cành chè, gồm có tôm và hai hoặc ba lá non. Lá chè mọc cách trên cành, mỗi đốt có một lá, gân lá nổi lên rất rõ. Lá chè lúc mới mọc có màu xanh non, khi già hơn thì có màu xanh đậm. Rễ chè thuộc họ rễ cọc.
Chè là loại cây có rất nhiều công dụng. Chè thường được hái vào lúc sáng sớm, cả lá chè tươi hoặc xao khô đều có thể làm nước uống rất tốt. Uống chè giúp kích khích hệ thần kinh, giảm buồn ngủ, mát tim bổ phổi nên được rất nhiều người ưa chuộng. Ngoài ra, chè còn rất hữu dụng trong việc làm giảm bệnh ung thư, huyết áp, làm đẹp da, giảm stress. Trà là thủ tục trong nhiều nghi lễ truyền thống, trà đạo là nét đẹp văn hóa ở nhiều quốc gia. Chè cũng là một mặt hàng xuất khẩu rất có giá trị. Tuy nhiên, cũng có một số lưu ý khi uống trà. Người cao tuổi chỉ nên uống trà ở mức độ vừa phải. Người ăn chay và người gầy không nên thường xuyên uống trà. Đặc biệt, chúng ta không nên uống trà lúc đói. Với những người thần kinh nhạy cảm, khó ngủ thì không nên uống trà vào buổi tối, vì chất cafein trong chè xanh sẽ gây kích thích làm mất ngủ.
Chè thường được trồng ở vùng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Khí hậu ẩm ướt và nhiều nắng ấm là hai yếu tố chính. Chè đặc biệt phù hợp với loại đất tốt, sâu chua và thóa nước nên hay được trồng nhiều ở những vùng trung du hoặc miền núi. Một số nơi trồng chè nổi tiếng ở nước ta như: Tân Cương(Thái Nguyên), Mộc Châu(Sơn La), Đà Lạt(Lâm Đồng), Pleiku(Gia Lai)… Những vùng này là nơi trồng chè cho năng suất cao trong cả nước, không những thế, nó còn thu hút khách du lịch đến thăm quan, chụp ảnh vì cảnh thiên nhiên đẹp và hùng vĩ.
Mùa hè là thời điểm tốt và thuận lợi để cây chè sinh trưởng và phát triển. Đây cũng là thời điểm cây chè ra búp nhiều nhất, vì vậy cần thu hái kịp thời cho đúng thời vụ, nếu không chè sẽ bị quá lứa dẫn đến giảm chất lượng. Chè thường được thu hoạch vào sáng sớm, lúc này, những tia nắng mặt trời mới bắt đầu ló rạng, những búp chè còn đọng nguyên sương đêm trong lành, tinh khiết của đất trời. Những đồi chè trải dài bát ngát đến tận chân trời còn tạo cảm hứng cho rất nhiều nhà văn, nhà thơ, đi vào thơ ca nhạc họa.
Cây chè đã có nguồn gốc từ lâu đời và sẽ còn nguyên giá trị dù hôm nay hay mai sau. Chè sẽ mãi đóng một vị trí đặc biệt trong cuộc sống tinh thần của người Việt.
Bài văn thuyết minh về cây chè - mẫu 8
Trong các loại cây lấy nước uống, chắc hẳn chúng ta ai cũng biết đến cây chè. Một loại cây trồng phổ biến ở Việt Nam, được rất nhiều người ưa chuộng và đã trở thành một trong những loài cây công nghiệp quan trọng.
Cây chè được trồng chủ yếu ở khu vực Đông Á, Nam Á, Đông Nam á vì thích hợp với khí hậu nhiệt đới, cận nhiệt đới và đất đai của những khu vực này. Ở Việt Nam ta, khu vực trồng chè phổ biến nhất là miền Bắc và miền Trung, thị trường chè nở rộ từ những năm đầu thế kí XX. Chè luộc loại cây lưu niên, thường mọc thành bụi. Mỗi cây chè thường được cắt tỉa, cao khoảng dưới hai mét để thuận tiện cho quá trình thu hoạch. Thân cây nhỏ, màu nâu sẫm, một thân chính rồi phân ra các cành nhỏ khác nhau, rễ cái dài và bám chắc, thuộc loại rễ cọc. Cây chè có hai loại mầm, mầm sinh dưỡng và mầm sinh thực. Nếu như mầm sinh dưỡng sẽ phát triển thành lá chè, thì mầm sinh thực sẽ phát triển thành ho và quả. Lá cây chè có hình dáng khá phổ biến, lá non màu xanh nhạt, khi già thì màu xanh đậm hơn, dưới lá có những lông tơ ngắn, hai bên viền có những chiếc răng cưa nhỏ. Hoa cây chè mang một màu trắng ngà thuần khiết, mỗi hoa có chừng 8 cánh, bên trong nhụy màu vàng. Hoa chè có mùi đặc trưng, nhẹ nhàng. Quả chè hình tròn và bên trong có chứa hạt.
Cây chè có rất nhiều công dụng nên mới được ưa chuộng như vậy. Chủ yếu dùng để làm chè, chè tươi hoặc chè khô, hãm với nước sôi tạo thành nước chè vàng vàng xanh. Uống vào có vị đặc trưng, nồng và hơi đắng, khi uống xong sẽ thấy ngọt ở cổ họng. Chè được ưa chuộng chủ yếu bởi những người trung niên và lớn tuổi. Chè có tác dụng kích thích hệ thần kinh, chống buồn ngủ. Ngoài ra, chè còn là thứ nước giải khát, giúp mát tim, thải độc. Uống chè trong một mức độ vừa đủ rất tốt cho sức khỏe, chống ung thư, giảm stress, làm đẹp da. Lá chè được sử dụng nhiều nhất, ngoài ra cũng có sử dụng hạt chè để ép lấy tinh dầu. Với một đất nước thiên về trồng trọt như nước ta, việc phát triển trồng chè rất có lợi cho nền kinh tế bởi đây là mặt hàng xuất khẩu rất thu hút. Không những thế, chè còn là nét đẹp văn hóa của dân tộc, bát nước chè mỗi buổi làm đồng xua đi cái nắng. Mỗi gia đình ở quê miền Bắc thường vẫn có một ấm tích chè tươi được đặt trong cái giành tích, để cả ngày nước chè vẫn còn nóng. Đây là một nét đẹp văn hóa cần được giữ gìn.
Cây chè trồng thích hợp nhất ở vùng có khí hậu nhiệt đới như Đông Nam Á chúng ta, nơi đất chua thích hợp cho cây chè phát triển. Người ta thường đi hát chè lúc sáng sớm, khi sương đêm và mưa còn đọng lại trên lá chè tươi và xanh. Một số địa điểm trồng chè nổi tiếng ở Việt Nam có thể kể đến như Tân Cương (Thái Nguyên), Bảo Lộc (Lâm Đồng), Pleiku (Gia Lai),… mang lại nguồn kinh tế không nhỏ cho quốc gia và cũng là một địa điểm du lịch đẻ, gần gũi với thiên nhiên thu hút nhiều du khách.
Cây chè từ lâu đã có ý nghĩa quan trọng với dân tộc ta, một loại cây gần gũi và có nhiều công dụng hết sức thiết thực. Cây chè sẽ luôn luôn là loại cây công nghiệp mũi nhọn của quốc gia và là một trong những loại cây mang đậm phong cách văn hóa dân tộc.
Hãy đăng nhập để bình luận
Đăng nhập bằng facebook hoặc google để bình luận .